Mặc dù biết đại ca "Tên" không ưa gì tôi, suốt ngày chửi, thấy tôi ở đâu là chê ở đó. Nhưng thôi tôi cũng bỏ thời gian vài lời để giải tỏa suy nghĩ của bạn.
Cãi nhau suông vô ích, đành dựa tạm vào Phú đoán để dùng.
1. Với cách cục Nhật Nguyệt tại Sửu Mùi, đồng cung. Phú của toàn thư có để lại mấy câu sau:
- MẤY NGƯỜI BẤT HIỂN CÔNG DANH BỞI VÌ NHẬT NGUYỆT ĐỒNG TRANH SỬU MÙI
Diễn giải: Cung Mệnh, Thân, hay Quan Lộc an tại Sửu Mùi có Nhật, Nguyệt tọa thủ đồng cung nếu không được Tuần án ngữ và Khoa, Quyền, Lộc hội hợp tất công danh khó hiển đạt.
- NHẬT NGUYỆT SỬU MÙI ÁI NGỘ TUẦN KHÔNG QUÍ ÂN XƯƠNG KHÚC NGOẠI TRIỀU: VĂN TẤT THƯỢNG CÁCH ĐƯỜNG QUAN XUẤT CHÍNH.
Diễn giải: Cung Mệnh an tại Sửu, Mùi có Nhật, Nguyệt tọa thủ đồng cung rất cần Tuần án ngữ để Nhật, Nguyệt được đều hòa nếu thêm Quang, Quý, Xương, Khúc hội chiếu tất có văn tài xuất chúng quyền cao chức trọng.
- NHẬT NGUYỆT SỬU MÙI ÂM DƯƠNG HỖN HỢP TỰ GIẢM QUANG HUY KỴ PHÙNG KIẾP TRIỆT NHƯỢC LAI VĂN DIỆU DIỆC KIẾN QUÝ ÂN, KHÔNG LINH THAI TỌA KHÔI HỒNG VĂN TÀI NGỤY LÝ XUẤT XỬ ĐẠT CÔNG
Diễn giải: Cung Mệnh an tại Sửu, Mùi có Nhật, Nguyệt tọa thủ đồng cung nên giảm mất ánh sáng vị. Âm, Dương hỗn hợp trường hợp này rất kỵ Kiếp, Triệt án ngữ nhưng nếu được Xương, Khúc, Quang, Quý, Thai, tọa, Khôi, Hồng hội hợp là người có văn tài lỗi lạc suy luận sắc bén biết xử sự đúng lúc dĩ nhiên làm nên vinh hiển công danh toại mãn.
Đọc kỹ nhé. Nhật Nguyệt đồng cung Sửu Mùi là cảnh sáng tối nhập nhòe. Cần Tuần nhưng không cần Triệt, gặp Triệt là dở.
2. Về thiếu dương, thiếu âm.
Vòng thái tuế đã quy định ra 12 sao: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm .....
12 sao nằm ở 12 cung, 12 vị trí, 12 tính chất khác nhau, chia ra 4 tam hợp. Mỗi vị có 1 ý nghĩa riêng của nó, không lẫn với vị khác.
Xung chiếu Thái Tuế thì đã có tuế phá.
Xung chiếu Thiếu Âm thì đã có Phúc Đức.
Xung chiếu Thiếu Dương thì đã có Long Đức.
Vậy nếu muốn xét cung mệnh trong lá số này, ta chỉ xét sao Phúc Đức, đi kèm nó là Thiên Đức, thể hiện vị trí vòng thái tuế ở cung này, thế là đủ. Ôm đồm thêm Thiếu Dương tam hợp và Thiếu Âm xung chiếu, lại còn cho rằng Thiếu Dương hợp Thái Dương, Thiếu Âm hợp Thái Âm thì thật là không nên.
3. Thiên Không ở Tỵ, tuổi Mậu Thìn. Thuộc nhóm Thìn Tuất Sửu Mùi.
Với nhóm Thìn Tuất Sửu Mùi: ta có Thiên Không/Thiếu Dương ở Dần Thân Tỵ Hợi, cùng cung Kiếp Sát Cô Thần; tuổi dương thêm Hỉ chính cung Hồng chiếu; tuổi Âm ngược lại. Đặc biệt Thiên Không/Thiếu Dương cũng chính là vị trí hội họp đủ tam Minh, tam Đức; Đào Hoa (tam hợp Thiên Không) thì cùng cung với Nguyệt Đức, ứng với dục vọng đã được hóa giải. Sao lạc lõng (hồng năm dương, hỉ năm âm) thì cùng cung với Long Đức, nên việc tu tâm dưỡng tính dễ thành.
Đây là hoàn cảnh mà các sao dính líu đến duyên nghiệp (Đào Hồng Hỷ Sát) chế hóa lẫn nhau; tạo cơ hội cho Tứ Đức tiếp tay với Thiếu Dương, lấn át Thiên Không. Nhờ vậy vị trí Thiên Không (lẽ ra trong trường hợp này phải gọi là Thiếu Dương) ứng với sự bao dung, hòa nhã. Đây ví như khung cảnh 1 nhà chùa, rất thích hợp cho sự tu tâm dưỡng tĩnh. Còn người tu có thành tựu hay không thì còn lệ thuộc nhiều yếu tố khác.
Một bên duyên, còn một bên nghiệp cho nên gọi là duyên nghiệp. Trên cùng một trục có cả duyên cả nghiệp. Còn Đào Hoa một mình một trục. Thiên Hỷ khi đó đồng cung với Thiên Không Kiếp Sát. Thế đứng này thể hiện sự thử thách nghiêm ngặt. Liên quan đến việc tu đạo nhiều hơn là thành công làm giàu.
Tạm thế thôi. LS này có 1 số điểm dở nữa không muốn viết thêm cho dài dòng. Viết nhiều vẫn cứ bị chửi thôi mà
