NỬA ĐẠO NỬA ĐỜI, NỬA ĐỜI NỬA ĐẠO, HAY NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CÁC MÔN TỬ VI, TỨ TRỤ

Xem, hỏi đáp, luận giải về tử vi
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tử vi. Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
hoctutru
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 125
Tham gia: 17:23, 18/01/09

NỬA ĐẠO NỬA ĐỜI, NỬA ĐỜI NỬA ĐẠO, HAY NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CÁC MÔN TỬ VI, TỨ TRỤ

Gửi bài gửi bởi hoctutru »

Bài viết mang tính chất trao đổi, mong các bạn chia sẻ ý kiến giúp nhau tiến bộ.
Trải nghiệm và kiến thức Phật giáo của mình hạn hẹp và có thể sai, mong các bạn tìm đọc quyển sách “Nhận thức Phật giáo” của Tịnh Không pháp sư để có hiểu biết đúng đắn về Đạo Phật. Đây là cuốn sách Phật giáo đã từng được chùa Đình Quán chọn để in tặng các Phật tử tham dự các khóa tu trong chùa.
Người thày đang dạy tiếng Anh của mình là một con-người-đặc-biệt, mình nể phục về sự học giỏi, đã gợi cảm hứng viết bài này. Thày hơn mình 1 tuổi, từng học chuyên Toán Đại học KHTN, xin được học bổng toàn phần du học Hoa Kỳ, và kết quả tốt nghiệp đại học (GPA) trong Top 20 students của Hoa Kỳ. Nhưng có thể anh nhìn thấy điều gì đó giống như Phật hoàng Trần Nhân Tông ngày xưa quyết tâm buông bỏ tất cả tìm đến chốn núi rừng yên tĩnh tìm con đường giải thoát. Vì tôn trọng sự riêng tư nên mình không hỏi, nhưng qua quan sát đoán anh đang trong giai đoạn thử thách, và muốn tu tập trong Thiền viện Trúc Lâm Lâm Đồng.
Đời có lẽ theo quy luật chọn lọc tự nhiên + đấu tranh sinh tồn mà Charles Robert Darwin chỉ ra. Trong Đời áp dụng Đạo có lẽ có mặt trái là ru ngủ con người, bởi nếu không có lòng tham và dục vọng con người mất động lực để chiến đấu. Mặt tốt của tôn giáo tâm linh chính thống từ Phật giáo, Hồi giáo, Kito giáo ... đều có điểm chung hướng con người tới Chân – Thiện – Mỹ, khi có đức tin con người có thể nhìn ra lối thoát trong những hoàn cảnh bế tắc nhất của cuộc đời, do luôn hướng đến những điều tốt đẹp, tích cực.

Thông thường con người không có ai vừa giỏi trong Đời và Đạo. Tỷ lệ những con người xuất chúng vừa giỏi Đời, vừa giỏi Đạo như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Nguyễn Bỉnh Khiêm (“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn, người đến chỗ lao xao.”), Trần Nhân Tông (sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử), etc. chỉ là 1/1.000.000 dân số thế giới.
Là con người, thường làm cái gì nửa vời sẽ chẳng đi đến đâu: yêu nửa vời, chân lý nửa vời, hành động nửa vời, niềm tin nửa vời, ý chí nửa vời, quyết tâm nửa vời, etc. Tu hành tôn giáo & tâm linh nửa vời cũng chẳng giác ngộ được đạo quả, chỉ là ru ngủ bản thân & ru ngủ người khác.
Hãy đặt câu hỏi tại sao Trần Nhân Tông không tìm chùa nào gần kinh đô tu hành cho tiện, mà kiên quyết đoạn tuyệt Đời lên núi Yên Tử tu hành khổ hạnh. Bởi Đạo Phật nguyên thủy là con đường giải thoát, phải nghiêm ngặt giữ giới luật, và càng tu hành gần đến sự giải thoát, số lượng giới luật càng cao. Ví dụ Phật tử tu tập tại gia (cư sĩ) có thể phải giữ vài giới luật; nhưng đến hàng Bật sô tăng, Bật sô ni, A la hán phải giữ mười mấy, mấy chục, đến trăm giới luật. Chúng ta đang sống trong thời Mạt Pháp này, số lượng chùa “thương mại” và Tăng Ni nửa Đạo nửa Đời cũng không ít, tu hành về hình thức chứ không có chiều sâu, vẫn còn nhiều Tham - Sân - Si, không giữ nghiêm ngặt các giới luật tu hành, không nỡ từ chối vật chất Đời thường như đặt hòm Công Đức, etc. Thân mời các bạn đến viếng thăm ngôi chùa Tiêu Sơn, ở thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh - ngôi chùa hiếm hoi ở Việt Nam nổi tiếng “Ba không”: Không đặt hòm công đức quyên tiền của khách thập phương. Không cho phép đốt vàng mả, giấy tiền. Không cúng đồ chay hay đồ mặn. Bạn mình dân địa phương kể chuyện: Sư bà chủ trì Thích Đàm Chính mừng tuổi từ chối; rồi gian Tam Bảo ở chùa rất ít khi mở cửa cho khách thập phương vào thắp hương, cỡ Chủ tịch thị xã Từ Sơn đến cũng không mở cửa (mình rất may mắn đến vãn cảnh chùa vào hôm mở cửa gian Tam Bảo); rồi nếu chùa cần tu sửa gì mới đề ra số tiền kêu gọi Phật tử đóng góp, đủ tiền dừng lại, minh bạch tài chính.
Link giới thiệu: Chùa Tiêu Sơn
http://laodong.com.vn/lao-dong-cuoi-tua ... 403286.bld
http://khaiphong.org/showthread.php?760 ... 5%3Bc-Ninh

Đọc xong sách “Nhận thức Phật giáo” và bài báo về chùa Tiêu Sơn sẽ hiểu ra những điều đơn giản như:
- Tại sao đến những ngôi chùa “thương mại” cúng bái hương khói, dâng tiền Công Đức hầu như phí công vô ích, đừng mong cầu hối lộ tiền bạc đổi lấy sự phù hộ của Chư Phật, Bồ Tát, Thánh Tăng có những thứ học giỏi, giàu sang, quyền lực, etc. Đến chùa chiền ngoài vãn cảnh, phù hợp nhất là mong cầu bản thân tinh tấn trên con đường tu tập, sớm mở lòng Từ Bi Hỷ Xả (quan trọng nhất hiếu thảo với cha mẹ).
- Tại sao những ngôi chùa thanh tịnh nhất, tu hành thật sự nhất thường trên núi, xa chốn xô bồ đông đúc.
- ,etc.

Trong những người tìm học những huyền môn mang triết lý của tôn giáo & tâm linh như Tử vi, Tứ trụ (Đạo); có thể không ít đắm đuối đọc đủ các loại lý thuyết, tôn thờ các môn học này đến mức mê tín, sử dụng theo kiểu phụ thuộc vào chúng trong các quyết định cuộc sống, để các môn này giật dây mình; chứ chưa vượt qua được chúng, hoặc chưa lật ngược lại được vấn đề lý thuyết trong các sách đưa ra. Có đang nửa Đời nửa Đạo??? Tử vi, Tứ trụ (Đạo) không là chìa khóa vạn năng mở khóa và giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống (Đời). Sự thực 10 người học huyền môn mới có 1 người kết luận được kết quả chính xác với tỷ lệ cao; và chỉ có 1/10 những người xem được số phận có thể sửa đổi bản thân nhằm sửa mệnh, cải mệnh. Nếu do nắm vững lý thuyết, giàu kinh nghiệm sống, dùng trực giác phán đoán đúng về đương số, phần lớn có lẽ vẫn chỉ là phàm nhân đi phán xét & khuyên nhủ phàm nhân. Còn ít người có thể đạt đến trình độ “vượt qua được chúng, hoặc lật ngược lại được vấn đề lý thuyết trong các sách đưa ra”, chẳng hạn như cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là 1/1.000.000 người. Nhắc lại: thông thường con người không có ai vừa giỏi trong Đời và Đạo. Nên không tỉnh táo biết trình độ tâm linh của mình đến mức độ nào, hoặc luẩn quẩn mê muội lý số, đa số sẽ rơi vào: Đời không giỏi mà học Đạo cũng không xong.

Những môn Tử vi, Tứ trụ này không là đúng tuyệt đối, có nhiều hạn chế. Đó là thứ nhất, đánh giá 1 con người đề cao yếu tố số phận (Thiên trong thuyết Thiên – Địa - Nhân), mà bỏ qua các yếu tố môi trường sinh sống, học tập, làm việc (Địa) và sự nỗ lực cố gắng của cá nhân (Nhân). Đúng là có số phận (Thiên), nhưng chính mình không nỗ lực (Nhân) thì “cạp đất mà ăn” ah, và không có môi trường phù hợp giúp học hỏi hoàn thiện bản thân và phát huy hết năng lực cá nhân (Địa) thì sao thành công. Thứ hai, xem số (Thiên) mà không được gặp đương số xem tướng quý tiện, thần thái, hồn đôi mắt ,etc. (Nhân), sẽ khó biết đương số (Nhân) ứng nghiệm bao nhiêu % lá số (Thiên), thông số đầu vào ít tin cậy, khó kết quả đầu ra xem số chính xác.
Bù lại những hạn chế của môn Tử vi, Tứ trụ, các môn Quẻ dịch dựa trên nguyên lý “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, phần Địa & Nhân như thế nào sẽ ứng nghiệm trên quẻ dịch, nhưng chúng cũng không là đúng tuyệt đối.
May mắn quen một Cao nhân nổi tiếng trên các diễn đàn và LSHQ, chia sẻ: Học các môn huyền môn ít người sửa được mệnh nhằm cải mệnh. Và để xem đúng tứ trụ cho những vĩ nhân & con người đã tiến hóa hơn đa số đồng loại như tâm linh, trí tuệ, ý chí nghị lực (chỉ số AQ - Adversity Quotient), etc. phải xem linh hồn (the Soul) của họ nữa.
Link tham khảo: Trí Tuệ trong Đạo Phật (Thích Minh Châu)
http://hoasentrenda.com/TapTin/TT3/tt3-1to40/2.htm

Trích dẫn lời của sư phụ làm lời kết: “đừng cố gắng tìm hiểu số phận mình là gì, mà hãy luôn cố gắng hết mình để trước lúc nhắm mắt biết số phận mình thế nào."
Đầu trang

dangquocha
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 11:07, 06/02/10

TL: NỬA ĐẠO NỬA ĐỜI, NỬA ĐỜI NỬA ĐẠO, HAY NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CÁC MÔN TỬ VI, TỨ TRỤ

Gửi bài gửi bởi dangquocha »

Bao giờ hiểu được Tam không thì sẽ thành " chánh quả "
Thiên không
Địa không
Kiếp không
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
pizza_ngon
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 3075
Tham gia: 20:33, 29/08/11

TL: NỬA ĐẠO NỬA ĐỜI, NỬA ĐỜI NỬA ĐẠO, HAY NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CÁC MÔN TỬ VI, TỨ TRỤ

Gửi bài gửi bởi pizza_ngon »

đã ngộ ra từ 3 năm trước
Đầu trang

Locmagiaotri
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 181
Tham gia: 17:12, 08/08/14

TL: NỬA ĐẠO NỬA ĐỜI, NỬA ĐỜI NỬA ĐẠO, HAY NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CÁC MÔN TỬ VI, TỨ TRỤ

Gửi bài gửi bởi Locmagiaotri »

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Vua Trần Nhân Tông và Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ có một mà dân số thế giới bây giờ bao nhiêu tỉ người mà bạn lại tuyên bố là 1/1.000.000 người có một, nếu như 1.000.000 người có một Đức Phật hoặc một Vua Trần Nhân Tông, hoặc một Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thì thế giới này có còn như thế này không, hay thế giới này thành cõi Bồng lai tiên cảnh rồi.
Đầu trang

cumapu
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 56
Tham gia: 20:27, 19/02/10

TL: NỬA ĐẠO NỬA ĐỜI, NỬA ĐỜI NỬA ĐẠO, HAY NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CÁC MÔN TỬ VI, TỨ TRỤ

Gửi bài gửi bởi cumapu »

Hay, thích các bài bạn đăng
Đầu trang

hoctutru
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 125
Tham gia: 17:23, 18/01/09

TL: NỬA ĐẠO NỬA ĐỜI, NỬA ĐỜI NỬA ĐẠO, HAY NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CÁC MÔN TỬ VI, TỨ TRỤ

Gửi bài gửi bởi hoctutru »

[img]
2c87ffec0f08764dbafafd713a73c77512675522704b8d500e01e37.538x778.w.b.jpg
2c87ffec0f08764dbafafd713a73c77512675522704b8d500e01e37.538x778.w.b.jpg (270.35 KiB) Đã xem 1947 lần
[/img]
Đầu trang

Locmagiaotri
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 181
Tham gia: 17:12, 08/08/14

TL: NỬA ĐẠO NỬA ĐỜI, NỬA ĐỜI NỬA ĐẠO, HAY NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CÁC MÔN TỬ VI, TỨ TRỤ

Gửi bài gửi bởi Locmagiaotri »

Cuối cùng cũng chỉ là muốn bán sách?
Đầu trang

chjcatoj
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 206
Tham gia: 18:05, 09/06/14

TL: NỬA ĐẠO NỬA ĐỜI, NỬA ĐỜI NỬA ĐẠO, HAY NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CÁC MÔN TỬ VI, TỨ TRỤ

Gửi bài gửi bởi chjcatoj »

Cuốn " Nhận thức Phật giáo" năm kia em đã có duyên đc 1 cụ Thượng toạ cho, thực sự cũng rất đáng đọc đó ạ. :3
Bài viết hay đấy chứ ạ!
Đầu trang

vio
Thất đẳng
Thất đẳng
Bài viết: 6264
Tham gia: 09:52, 14/11/14

TL: NỬA ĐẠO NỬA ĐỜI, NỬA ĐỜI NỬA ĐẠO, HAY NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CÁC MÔN TỬ VI, TỨ TRỤ

Gửi bài gửi bởi vio »

Đọc bài này hay hơn này.

TẠI SAO BẠN NGHÈO?
Ngày: 12 / 05 / 2016 Trong: Feature Slider, Khu Vườn Của Alan

“Những người nghèo thường thích “nói” nhiều. Họ luôn luôn có những kế hoạch thần sầu để trở thành một đại gia “top ten” của quốc gia hay thế giới. Kế hoạch luôn thay đổi vì chưa làm gì thì đã có một ý tưởng mới hay hơn, tốt hơn. Hoặc có làm thì thường bỏ cuộc sau 5 phút vào trận đấu vì thực tế thị trường không tươi đẹp như trên giấy tờ hay các khẩu hiệu.”

+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++

Một bạn để ý là tôi có nhiều sách về những câu châm ngôn phát đi từ các danh nhân và triết gia trong tủ sách. Được hỏi câu nào mang nhiều ý nghĩa nhất, tôi buột miệng theo tiềm thức, “Nghèo là một cái tội.” Trước khi ném đá và giương cao ngọn cờ “đấu tranh giai cấp”, xin các bạn cho ông già này giải thích.

Tôi đã nhiều lần rỗng túi, chạy quanh đường phố để suy nghĩ mà không biết ngày mai tiền sẽ từ đâu đến để trả cho cả trăm cái bills (hóa đơn). Tôi cũng đã từng có rất nhiều tiền mà suốt ngày phải họp với các chuyên gia thuế vụ để tìm cách làm “giảm hay hoãn” thuế. Nhìn lại, dù có tiền hay không, hạnh phúc hay đau khổ của tôi trong những hoàn cảnh này đều không liên quan đến tiền. Tuy nhiên, dù khóc hay cười, tôi nghiệm ra một điều là “có tiền” thì vẫn thú vị hơn. Mặt khác, tôi cũng có thể chắc chắn một điều: dù “không tiền”, tôi vẫn chưa bao giờ “nghèo”.

“Nghèo” không đơn thuần chỉ là “không tiền”. Dưới góc nhìn chủ quan của tôi, một con người toàn diện phải hội đủ 6 thành tố: sức khỏe, trí tuệ, tinh thần, tâm linh, xã hội và tài chánh.Một người có nhiều tiền nhưng nghèo sức khỏe vẫn hoang phí tháng ngày. Nghèo kiến thức thì dù là một đại gia vẫn được xếp vào hạng ngu. Cha mẹ cho rất nhiều tiền nhưng tinh thần và tâm linh kém cỏi, yếu đuối thì trước sau gì cũng đi vào khổ lụy. Thêm nữa, dù có một gia đình bền chặt và một kết nối xã hội tốt, bạn vẫn không làm gì được cho ai nếu không có tài chánh.

“Nghèo” là người không có gì để “cho”. Dĩ nhiên, ta không thể cho những gì ta không có.

Ngoài những người bất hạnh với tật nguyền bẩm sinh, sứ mệnh của con người theo nhiều tôn giáo, triết thuyết… là để đóng góp một “cái gì đó” cho tha nhân. “Nghèo” hay không có gì để đóng góp có phải là một tội lỗi?

Tôi nhận xét một điều là ở Việt Nam, người dân không thiếu cơ sở hay dữ kiện để truy cập và phát triển về những yếu tố quan trọng như trí tuệ, tinh thần, tâm linh, xã hội, gia đình hay sức khỏe. Trong khi đó, vì chuyện chính trị là một vùng nhậy cảm cho nhà cầm quyền, nên kiến thức về kinh tế tài chánh lại thiếu hụt, kém chính xác và luôn bị những định hướng chính trị bẻ cong.

Do đó, trong bài viết này, tôi sẽ giới hạn suy nghĩ của mình về yếu tố tài chánh. Tôi cố gắng phân tích ra những lý do cốt lõi đã gây nên cái nghèo “tiền” cho gần 90% dân số. Dĩ nhiên, tiền không phải là hiện thân của tất cả giá trị con người, nhưng từ ngàn xưa, văn hóa Đông Phương đã hiểu rằng, “dân có giàu, nước mới mạnh”. Giàu phải là một nghĩa vụ quốc gia, mà tôi cho rằng cũng quan trọng không kém nghĩa vụ quân sự hay văn hóa.

1. Tư duy nghèo

Từ nhỏ và ngay cả khi bắt đầu biết đọc sách, suy nghĩ, tâm trí của tôi chịu ảnh hưởng nhiều từ một văn hóa và môi trường “ghét người giàu, và đồng hóa cái nghèo với trong sạch”. Dù chế độ VNCH cũ được coi như là một tiền đồn của chủ nghĩa tư bản, chánh phủ vẫn giáo dục người dân về các “tội lỗi” của người giàu.

Từ chánh phủ với chính sách “người cầy có ruộng” hay “xây nhà bình dân” đến trong lớp học, ngoài đời, văn hóa “thanh bần và trọc phú” là những biểu hiện thường trực. Những câu chuyện khổ nạn của Oliver Twist, Les Miserables, Grapes of Wrath… rất phổ biến, tạo một tư duy “nửa xã hội nửa tiểu tư sản”. Nếu sinh ra thời đó, Bill Gates, Warren Buffett… có lẽ là những tên tuổi xấu thay vì được ngưỡng mộ như gần đây.

Descartes nói, “Je pense, donc je suis” (tôi trở thành người tôi nghĩ). Mỹ có thành ngữ, ”Tư duy tạo nên hành động, hành động tạo thói quen, thói quen tạo cá tính và cá tính tạo định mệnh.” Một tư duy “nghèo” chắc chắn phải đem đến một định mệnh “nghèo”.

2. Kiến thức nghèo:

Trong những người giàu có mà tôi hân hạnh được quen biết, họ đều chia sẻ một cá tính chung “rất chịu khó học hỏi tìm tòi và sẵn sàng chấp nhận những mới lạ thay đổi”. Ngoài các quan chức và đại gia làm giàu nhờ quan hệ dựa trên quyền lực, ngay cả những người giàu từ các chế độ XHCN đều thể hiện tinh thần và phong thái cởi mở nói trên.

Người Do Thái suy nghĩ rất nhiều về tiền bạc, nhưng họ cũng chịu khó bỏ ra một số lượng thời gian khá lớn để học hỏi các phương cách làm giàu, từ gia đình bạn bè hay sách vở kinh giảng. Trong trường đại học của tôi, có nhiều social clubs (câu lạc bộ) cho các sinh viên có chung sở thích từ thể thao, từ thiện, chính trị… đến toán học, kịch nghệ hay tranh luận (debate). Nhiều bạn Do Thái chỉ gia nhập how-to-get-rich clubs (làm giàu).

Người Trung Quốc cũng đam mê giàu có từ bản chất. Họ rất bén nhậy với cơ hội, cần cù, nâng đỡ nhau trong các bang hội…để cùng làm giàu. Họ thực tế, không hoang tưởng và mặc cho sự giáo huấn của đảng cộng sản 70 năm qua, bản sắc làm giàu vẫn tiềm tàng mạnh trong mỗi gia đình và cá nhân.

Làm giàu là một hành trình lâu bền và khổ cực. Kiến thức là phương tiện quan trọng để thâu ngắn chặng đường. Nghèo kiến thức thì nghèo kết quả.

3. Môi trường nghèo:

Một đặc điểm của tôn giáo Do Thái là việc đề cao sự giàu có vật chất. Trong khi Ki Tô Giáo và Phật Giáo khuyến thị tín đồ phải “ép xác” hay “tránh tham” để tự giải thoát tinh thần và tâm linh khỏi vòng khổ nạn, lãnh tụ các tôn giáo này thường nâng cấp góc cạnh “nghèo” qua các bài giảng. Kết quả là một đa số quần chúng coi giàu là một tội lỗi, người giàu là một địch thủ. Sự thù hận, đố kỵ này được các chính trị gia Mác Lê lợi dụng triệt để để thâu tóm quyền lực, tạo nên một môi trường “của người nghèo, do người nghèo và vì người nghèo”. Dĩ nhiên, đó chỉ là thủ đoạn, họ và các phe nhóm hay con cháu… thì không bao giờ nghèo.

Ngay cả trong những nước tư bản tự do làm giàu, một đứa trẻ sinh ra trong một môi trường nghèo như tại các khu ổ chuột thành phố, hay các vùng quê xa xôi hẻo lánh, thường bị ảnh hưởng nặng nề bởi con người và hoàn cảnh bao quanh. Trừ một thiểu số có ý chí và tư duy mạnh mẽ, đa số âm thầm chịu đựng rồi đổ thừa cho số mệnh. Câu “cái số mình nó thế” nghe rất quen thuộc ở những môi trường nghèo.

Con người có đặc tính “bầy đàn”. Khi đám đông nghèo thì ta cũng “hạnh phúc” với cái nghèo, biện luận là phải “chia sẻ” với láng giềng. Nhiều người lại còn tự hào về cái hạnh phúc trong nghèo đói của mình.

4. Nghèo hành động:

Tôi quan sát (hoàn toàn chủ quan, không kiểm chứng được) là những người nghèo thường thích “nói” nhiều. Họ luôn luôn có những kế hoạch thần sầu để trở thành một đại gia “top ten” của quốc gia hay thế giới. Kế hoạch luôn thay đổi vì chưa làm gì thì đã có một ý tưởng mới hay hơn, tốt hơn. Hoặc có làm thì thường bỏ cuộc sau 5 phút vào trận đấu vì thực tế thị trường không tươi đẹp như trên giấy tờ hay các khẩu hiệu.

Nói chung, họ thích nhàn (không muốn nhận là lười biếng) và coi đây là một triết lý sống khôn ngoan. Nếu nhờ chút mánh mun mà kiếm được tiền hay quyền, họ sẽ coi họ là đỉnh cao của xã hội. Nói phét, nổ bậy… trong các bàn tiệc nhậu nhẹt be bét là một thói quen rất dễ nhận ra.

Nhiều người nghèo khác thì lười nhưng thích ra dáng trầm uất, bất cần đời… hay khơi động lòng thương hại của người khác. “Xin-cho”, “ăn mày quá khứ”… là những hành xử phổ thông của các nhóm nghèo này.

5. Chọn bạn nghèo:

Một châm ngôn thông dụng của Âu Mỹ là “bạn cho tôi biết thu nhập của 5 người thân thiết nhất trong đời bạn, và tôi sẽ tính ra con số thu nhập trung bình của bạn”. Á Đông thì rõ ràng hơn, “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.

Tôi nhớ những ngày còn trẻ, tôi hay la cà cùng bạn bè ở quán cà phê, quán rượu, garage nhà hàng xóm. Chúng tôi miên man mơ mộng và nói về những tương lai khi chúng tôi giúp nhau giàu có để trả hận đời. Một ngày, tôi chợt nhận ra là tất cả bạn này đều nghèo rớt mồng tơi như tôi. Tụ họp ngày ngày với nhau, tôi chắc chắn tương lai duy nhất của chúng tôi là sẽ trở thành những ông già nghèo rớt mồng tơi. Sau khi nhận ra chân lý, tôi dứt khoát rời bỏ đám đông “tình nghĩa” này đề đi tìm cho mình một tương lai khác.

Qua những trải nghiệm và suy nghĩ của mình, tôi đúc kết 5 nguyên nhân cốt lõi trên mà tôi cho rằng đang cột chặt bạn với cái nghèo. Tôi có thể sai, tôi còn nhiều thiếu sót, tôi có nhiều định kiến chủ quan… Có lẽ vậy. Nhưng đây là kết luận của một người đã từng rất nghèo, rất ngu và biết thay đổi kịp thời.

Quốc gia nghèo

Một điều nữa. Khi chia sẻ với nhau, nhiều bạn có gởi tôi những cuốn sách, những bài khảo luận về đề tài “lý do khiến một quốc gia nghèo”. Có những lý thuyết rất cao siêu từ tháp ngà hàn lâm (vì chúng làm tôi ngủ thật ngon sau vài trang), có những khôn ngoan rất dễ hiểu (như các bài viết hay phát ngôn của Warren Buffett). Tuy nhiên, tôi cho rằng 5 lý do khiến một cá nhân nghèo như tôi đã trình bày, cũng rất giống 5 lý do cốt lõi khiến một quốc gia nghèo.

Nói về lý do chọn bạn chẳng hạn. Nhìn qua lịch sử, bạn của anh nhà giàu Hoa Kỳ thường giàu theo như Tây Âu, Nhật, Úc, Singapore… Còn bạn của các anh Liên Xô, Trung Quốc, Cuba…vẫn nghèo rớt mồng tơi (ngôn ngữ Việt phong phú nhỉ).

Văn hóa Á Đông thường chê trách về chuyện “giàu đổi bạn, sang đổi vợ”. Tôi không dám nói về chuyện vợ chồng vì sẽ bị ném đá, ngay tại nhà. Nhưng nếu có những ông bạn suốt ngày cứ ca tụng chuyện nghèo, tôi sẽ không ngần ngại tránh xa. Họ độc hại hơn các hóa chất trong thực phẩm của Trung Quốc. Lỡ ăn nhầm, vẫn có thể vào bệnh viện bơm ruột. Nhưng nếu tư duy nghèo đã ăn vào trí não và xương tủy, thì cả cuộc đời trở thành lãng phí.

Tôi nhớ một câu message (tin nhắn) thú vị, nhiều người thâu vào hộp thư thoại (voice mail box) của họ, ”Xin để lại tên và điện thoại của bạn. Tôi đang tìm cách thay đổi đời mình. Nếu tôi không gọi lại bạn, thì bạn nên hiểu bạn là một trong những thay đổi đó”.

Không biết bao giờ các lãnh đạo mới can đảm nói với “xứ lạ” điều này?

-TS Alan Phan-
Đầu trang

vio
Thất đẳng
Thất đẳng
Bài viết: 6264
Tham gia: 09:52, 14/11/14

TL: NỬA ĐẠO NỬA ĐỜI, NỬA ĐỜI NỬA ĐẠO, HAY NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CÁC MÔN TỬ VI, TỨ TRỤ

Gửi bài gửi bởi vio »

Đọc thêm bài này: Bí mật nhé kẻo người Do Thái học được tử vi là dân tộc này xuống hố đấy!

VÌ SAO NGƯỜI DO THÁI GIỎI LÀM KINH TẾ? HỌC GÌ TỪ HỌ?

“Nếu muốn giàu có thì đừng đọc những thứ…người nghèo đọc” – Khuyết danh

+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++

Cộng đồng Do Thái ở Mỹ có 5,7 triệu người, chiếm 40% tổng số người Do Thái trên toàn thế giới, là quần thể dân tộc thiểu số thành công nhất, có mức sống bình quân cao hơn mức trung bình của dân Mỹ. Dù chỉ chiếm khoảng 1,7~2,6% số dân nước Mỹ (số liệu 2012; tùy định nghĩa thế nào là người Do Thái) nhưng người Do Thái chiếm khoảng một nửa số doanh nhân giàu nhất Mỹ. Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính nước này, tới mức người Mỹ có câu nói “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”



15 đời chủ tịch FED – Cục dự trữ Liên Bang Mỹ thì có tới…11 chủ tịch người gốc Do Thái

“Người Do Thái luôn nghĩ rằng Thượng Đế giao cho họ nghĩa vụ và quyền làm giàu. Đây là động lực chủ yếu khiến họ ở đâu cũng lo làm giàu, không bao giờ chịu nghèo khổ. Hai nghìn năm qua, dù sống lưu vong ăn nhờ ở đợ các quốc gia khác và ở đâu cũng bị cấm sở hữu mọi tài sản cố định nhưng dân tộc này vẫn nghĩ ra nhiều cách kinh doanh hữu hiệu bằng các dịch vụ như buôn bán, dành dụm tiền để cho vay lãi …”

++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++

Giỏi thực hành và giỏi cả lý thuyết kinh tế

Ai cũng biết người Do Thái từ xưa đến nay đều rất giỏi làm kinh tế. Nếu không thì họ không thể nào tồn tại nổi trong suốt 2.000 năm bị trục xuất ra khỏi tổ quốc mình, phải sống lưu vong khắp thế giới, phần lớn đi tới đâu cũng bị hắt hủi, xua đuổi thậm chí hãm hại, tàn sát, bị cấm sở hữu bất cứ tài sản cố định nào như nhà đất, tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, nguyên vật liệu …). Cho tới năm 1948 dân tộc lưu vong này mới được Liên Hợp Quốc chỉ định cho một “mảnh đất cắm dùi” rộng 20.770 km2 – tức nước Israel hiện nay, nơi tập trung khoảng 43% trong tổng số 13,9 triệu người Do Thái trên toàn thế giới.

Israel nghèo tài nguyên, thiếu cả nước ngọt, lại luôn luôn sống trong tình trạng bất ổn do bị các nước A Rập xung quanh đe dọa chiến tranh, nhưng người dân nước này đã vượt qua mọi khó khăn xây dựng được một nền kinh tế phát triển. GDP bình quân đầu người năm 2014 đạt 32.700 USD, cao thứ 50 trên thế giới, là nước có mức sống cao ở vùng Trung Đông và châu Á.

Cộng đồng Do Thái ở Mỹ có 5,7 triệu người, chiếm 40% tổng số người Do Thái trên toàn thế giới, là quần thể dân tộc thiểu số thành công nhất, có mức sống bình quân cao hơn mức trung bình của dân Mỹ. Dù chỉ chiếm khoảng 1,7~2,6% số dân nước Mỹ (số liệu 2012; tùy định nghĩa thế nào là người Do Thái) nhưng người Do Thái chiếm khoảng một nửa số doanh nhân giàu nhất Mỹ. Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính nước này, tới mức người Mỹ có câu nói “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Nhờ thế trên vấn đề Trung Đông chính phủ Mỹ xưa nay luôn bênh vực và viện trợ Israel những khoản tiền khổng lồ.

Trong 50 người giàu nhất thế giới hiện nay do tạp chí Forbes đưa ra (3/2015) có tới 10 người Do Thái.[3] Đó là :

Larry Ellison, tài sản 54,2 tỷ USD, nhà sáng lập và CEO Oracle Corp., giàu thứ 3 nước Mỹ

Michael Bloomberg, 35,5 tỷ USD

Mark Zuckerberg, 33,4 tỷ USD, tỷ phú trẻ nhất thế giới (sinh 1984)

Sheldon Adelson, 32,4 tỷ USD, vua casino

Sergey Brin và Larry Page (29,2 và 29,7 tỷ USD), đồng sáng lập Google

George Soros, 24,2 tỷ USD, nhà đầu tư và từ thiện

Carl Icahn, 23,5 tỷ USD, nhà đầu tư và từ thiện

Len Blavatnik, 20,2 tỷ USD, người giàu nhất nước Anh (sinh tại Liên Xô cũ),

Michael Dell, nhà sáng lập Dell Computer Founder.

Rất nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do Thái, các lý thuyết họ xây dựng nên đã ảnh hưởng to lớn nếu không nói là quyết định tới tiến trình tiến hóa của nhân loại:

Karl Marx người xây dựng học thuyết kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản, được gọi là một trong hai người Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);

Trong tổng số 74 chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1969-2014, có 22 là người Do Thái, chiếm tỷ lệ gần 30%, dù người Do Thái chỉ chiếm 0,19 % số dân toàn cầu. Chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton Friedman (1976) và Paul Krugman (2008)… là những tên tuổi quen thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện nay, các lý thuyết của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng…

Từ năm 1987 tới nay có ba người Do Thái kế tiếp nhau làm Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed, tức Ngân hàng Trung ương Mỹ), cơ quan nắm quyền sinh sát trong giới tài chính Mỹ và thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ toàn cầu. Đó là ông Alan Greenspan 19 năm liền (2/1987-2/2006) được 4 đời Tổng thống Mỹ tín nhiệm cử vào chức vụ này. Tiếp sau là ông Ben Bernanke (nhiệm kỳ 2/2006-2/2014) và bà Janet Yellen (từ 2/2014 tới nay).

Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James D. Wolfensohn, hai cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới, tổ chức tài chính có tác dụng rất lớn đối với các nước đang phát triển, đều là người Do Thái.

Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế nước Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người:

Jacob Schiff (1847-1920), chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư; năm 1904 do căm ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã cho chính phủ Nhật vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm 1905. Nhớ ơn này, trong Thế chiến II phát xít Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở Trung Quốc, tuy đồng minh số một của Nhật là phát xít Đức có nhờ Nhật “làm hộ” chuyện ấy. Schiff là người nước ngoài đầu tiên được Nhật Hoàng Minh Trị tiếp kiến tại Hoàng cung Nhật.

George Soros, nổi tiếng về ý tưởng đầu tư và làm từ thiện quy mô lớn, từng làm chao đảo thị trường tài chính toàn cầu.

Michael Blooomberg, sáng lập và sở hữu 88% Bloomberg L.P., một công ty truyền thông về tin tức tài chính và dịch vụ thông tin. Blooomberg từng trúng cử liền 3 khóa thị trưởng thành phố New York (2002-2013) với mức lương tượng trưng mỗi năm 1 USD và là chủ kênh truyền hình Bloomberg nổi tiếng trong giới kinh tế thế giới.

Nguyên nhân sâu xa

Vì sao người Do Thái lại giỏi làm kinh tế, tài chính trên cả hai mặt lý thuyết và thực hành như vậy?

Lịch sử cho thấy yếu tố quyết định thành công của một dân tộc bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của họ.

Để tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này có lẽ ta cần tìm hiểu các nguyên tắc chính của đạo Do Thái (Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại tới ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ gìn được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống phân tán, lưu vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man trong suốt 2.000 năm qua. Có thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân tộc Do Thái đã bị tiêu diệt hoặc đồng hóa và biến mất khỏi lịch sử. Đạo Do Thái là tôn giáo duy nhất thành công trên cả hai mặt: giữ được sự tồn tại của dân tộc và hơn nữa đưa họ vươn lên hàng đầu thế giới trên hầu hết các lĩnh vực trí tuệ.

Muốn vậy, ta thử điểm qua vài nét về Kinh thánh của người Do Thái (Hebrew Bible) – hơn 10 thế kỷ sau kinh điển này được đạo Ki-tô lấy nguyên văn làm phần đầu Kinh Thánh của họ và gọi là Cựu Ước, nhằm phân biệt với Tân Ước do các nhà sáng lập Ki-tô giáo viết. Cũng cần xem xét một kinh điển nữa của đạo Do Thái là Kinh Talmud, quan trọng hơn cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc cụ thể cho tới nay vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán.

Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất của con người. Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải, tiền bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc ta thì không ai có thể cướp nổi. Với phương châm đó, họ đặc biệt coi trọng việc giáo dục, dù khó khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành. Ngoài ra họ chú trọng truyền cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề. Người Do Thái có trình độ giáo dục tốt nhất trong các cộng đồng thiểu số ở Mỹ.

Thứ hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc. Đây là một điểm độc đáo khác hẳn quan điểm của đạo Ki-tô, đạo Phật, đạo Khổng, ta cần phân tích thêm.

Có lẽ sở hữu tài sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống loài người, là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con người với nhau và chiến tranh giữa các quốc gia. Hegel, đại diện nổi tiếng nhất của triết học cổ điển Đức từng nói: “Nhân quyền nói cho tới cùng là quyền về tài sản.” Rõ ràng, chỉ khi nào mọi người đều có tài sản, đều giàu có thì khi ấy mới có sự bình đẳng đích thực, toàn dân mới có nhân quyền. Một xã hội có phân hóa giàu nghèo thì chưa thể có bình đẳng thực sự. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên tắc làm cho mọi người cùng có tài sản, tiền bạc, cùng giàu có, tức cùng có nhân quyền và thực sự bình đẳng với nhau.

Triết gia Max Weber viết: “Đạo Ki-tô không làm tốt bằng đạo Do Thái, vì họ kết tội sự giàu có.” Quả vậy, Chúa Jesus từng nói: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Chúa” (Tân Ước, Mathew 19:24), ý nói ai giàu thì khó lên thiên đường, ai nghèo thì dễ lên thiên đường hơn – qua đó có thể suy ra đạo Ki-tô thân cận với người nghèo khổ, là tôn giáo của người nghèo. Khổng giáo và đạo Phật lại càng khinh thường tài sản, tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là bẩn thỉu.

Ngược lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: “Vàng ở xứ này rất quý” (Genesis 2:12). Ý tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn tới người Do Thái, họ đều muốn giàu có.

Khái niệm tài sản xuất hiện ngay từ cách đây hơn 3.000 năm khi vua Ai Cập bồi thường cho Abraham vị tổ phụ của bộ lạc Do Thái, khiến ông này “có rất nhiều súc vật, vàng bạc” (Genesis 13:2). Thượng Đế yêu cầu Abraham phải giàu để có cái mà thờ cúng Ngài.

Thượng Đế Jehovah cho rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt nạn chém giết nhau. Khi Moses dẫn dân Do Thái đi khỏi Ai Cập cũng mang theo rất nhiều súc vật. Những người xuất thân gia đình giàu có hồi ấy như Jacob, Saul, David … đều được Cựu Ước ca ngợi là có nhiều phẩm chất tốt, lắm tài năng, lập được công trạng lớn cho cộng đồng dân tộc và đều trở thành lãnh đạo, vua chúa.

Ngược lại, văn hóa phương Đông thường ca ngợi phẩm chất của những người nghèo.

Trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái. Họ coi đó là phương tiện tốt nhất để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy, không có tiền thì họ làm sao tồn tại nổi ở những quốc gia và địa phương họ sống nhờ ở đợ, nơi chính quyền và dân bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn. Hoàn cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều biện pháp làm giàu rất khôn ngoan. Thí dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ đại – về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Buôn bán cũng là một biện pháp tồn tại khi trong tay không có tài sản cố định nào.

Người ta nói dân Do Thái có hai bản năng: thứ nhất là bản năng kiếm tiền; thứ hai là bản năng làm cho tiền đẻ ra tiền – họ là cha đẻ của thuyết lưu thông tiền tệ ngày nay mà chúng ta đều áp dụng với quy mô lớn.

Tuy vậy, sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do khiến người Do Thái bị chê bai. Ai từng đọc tiểu thuyết Ai-van-hô (Ivanhoe) của Walter Scott chắc còn nhớ mãi hình ảnh ông lão Do Thái Isaac (I-sắc) đáng thương, bố của nàng Rebecca xinh đẹp và thánh thiện, lúc nào cũng khư khư giữ túi tiền và bị hiệp sĩ Đầu Bò nhạo báng khinh bỉ thậm tệ. Các vở kịch của Shakespear đưa ra nhiều hình ảnh khiến người ta có cảm giác người Do Thái bần tiện, ích kỷ, xảo trá. Tập quán cho vay lãi của người Do Thái bị nhiều nơi lên án. Hệ thống cửa hiệu của người Do Thái ở Đức là đối tượng bị bọn Quốc Xã Hitler đập phá đầu tiên hồi thập niên 1930. Người Đức có câu ngạn ngữ “Chẳng con dê nào không có râu, chẳng người Do Thái nào không có tiền để dành.”

Karl Marx xuất thân gia đình khá giả, vợ ông cũng là con nhà quý tộc, nhưng ông không coi trọng đồng tiền. Marx từng nói: Đồng tiền là con đĩ của loài người. Trong bài viết “Về vấn đề Do Thái” công bố năm 1843, ông mạnh mẽ công kích dân tộc Do Thái: “Sự sùng bái cá nhân của người Do Thái là gì? Lừa đảo. Đức Chúa Trời của họ là gì? Tiền!”. Ông cho rằng tiền bạc là vị thần gắn bó với người Do Thái; xóa bỏ chủ nghĩa tư bản sẽ kéo theo sự xóa bỏ chủ nghĩa Do Thái. Như vậy nghĩa là Marx đã thừa nhận người Do Thái tham dự sáng lập ra chủ nghĩa tư bản, một chế độ xã hội mới thay thế chế độ phong kiến và làm nên phần chủ yếu trong cộng đồng quốc tế hiện nay. Quả thật, người Do Thái có đóng góp rất lớn về lý thuyết và thực hành trong việc xây dựng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Kinh Talmud viết: Mọi người phải yêu Thượng Đế với toàn bộ trái tim, cuộc đời và của cải của mình; mỗi người đều phải quan tâm tới tài sản; không ai được phép dùng tài sản của mình để làm hại kẻ khác và không ai được trộm cắp tài sản người khác; tài sản của một người nhưng không phải chỉ là của người đó mà phải dùng nó để giúp kẻ khác … Có thể hiểu “Yêu Thượng Đế với toàn bộ tài sản của mình” nghĩa là phải sử dụng tài sản riêng của mình theo lệnh Thượng Đế, nghĩa là phải chia bớt cho người nghèo. Quy ước này đã đặt nền móng cho tư tưởng nhân ái, bình đẳng của văn minh phương Tây. Từ đó ta dễ hiểu vì sao cộng đồng Do Thái ở đâu cũng giúp đỡ nhau để tất cả cùng giàu lên, không có ai nghèo khổ.

Đạo Do Thái coi làm giàu là bổn phận nặng nề của con người; nói “nặng nề” vì người giàu có trách nhiệm to lớn đối với xã hội: họ không được bóc lột người nghèo mà phải chia một phần tài sản của mình để làm từ thiện. Những người Do Thái giàu có luôn sống rất giản dị, tiết kiệm và năng làm từ thiện. Soros từng góp 4 tỷ USD (trong tổng tài sản 7 tỷ khi ấy) cho công tác từ thiện. Không một nhà giàu Do Thái nào không có quỹ từ thiện của mình. Từ đây có thể hiểu được tại sao cộng đồng Do Thái lại cùng giàu có như thế.

Người Do Thái luôn nghĩ rằng Thượng Đế giao cho họ nghĩa vụ và quyền làm giàu. Đây là động lực chủ yếu khiến họ ở đâu cũng lo làm giàu, không bao giờ chịu nghèo khổ. Hai nghìn năm qua, dù sống lưu vong ăn nhờ ở đợ các quốc gia khác và ở đâu cũng bị cấm sở hữu mọi tài sản cố định nhưng dân tộc này vẫn nghĩ ra nhiều cách kinh doanh hữu hiệu bằng các dịch vụ như buôn bán, dành dụm tiền để cho vay lãi …

Muốn làm giàu, điều cơ bản là xã hội phải thừa nhận quyền tư hữu tài sản.

Kinh Talmud viết: Ai nói “Của tôi là của tôi, của anh là của anh” (mine is mine and yours is yours) thì là người bình thường (average); nói “Của tôi là của anh, của anh là của tôi” thì là kẻ ngu ngốc; nói “Của tôi là của anh và của anh là của anh” thì là ngoan đạo (godly); ai nói “Của anh là của tôi và của tôi là của tôi” là kẻ xấu (evil). Nghĩa là họ thừa nhận quyền tư hữu tài sản là chính đáng, không ai được xâm phạm tài sản của người khác.

Tuy thừa nhận quyền sở hữu tài sản và luật pháp bảo vệ quyền đó, nhưng đạo Do Thái không thừa nhận quyền sở hữu tài sản tuyệt đối và vô hạn, cho rằng tất cả của cải đều không thuộc về cá nhân mà thuộc về Thượng Đế, mọi người đều chỉ là kẻ quản lý hoặc kẻ được ủy thác của cải đó. Tài nguyên thiên nhiên do Thượng Đế tạo ra là để ban cho tất cả mọi người, không ai có quyền coi là của riêng mình. Đây là một quan niệm cực kỳ tiến bộ và có giá trị hiện thực cho tới ngày nay: tài nguyên thiên nhiên, sự giàu có của đất nước là tài sản của toàn dân, tuyệt đối không được coi là của một số nhóm lợi ích hoặc cá nhân.

Kinh Talmud viết nhiều quy tắc hữu dụng về kinh doanh. Chẳng hạn: – Vay một quả trứng, biến thành một trại ấp gà; – Mất tiền chỉ là mất nửa đời người, mất lòng tin (tín dụng) là mất tất cả; – Nghèo thì đáng sợ hơn 50 loại tai nạn; – Giúp người thì sẽ làm tăng tài sản; ki bo chỉ làm nghèo đi; – Chỉ lấy đi thứ gì đã trả đủ tiền cho người ta; – Biết kiếm tiền thì phải biết tiêu tiền; v.v…

So sánh Cựu Ước và Talmud với Tân Ước, có thể thấy đạo Do Thái là tôn giáo của người muốn làm giàu, còn đạo Ki-tô là tôn giáo của người nghèo. Khác biệt căn bản ấy là một trong các lý do khiến Giáo hội Ki-tô ngày xưa khinh ghét người Do Thái (hy vọng trong một dịp khác chúng tôi sẽ trình bày về vấn đề này).

Từ sự phân tích sơ qua về quan điểm đối với tài sản và tiền bạc nói trên, có thể thấy hệ thống tư tưởng của đạo Do Thái rất phù hợp với quy luật tiến hóa của nhân loại và chính vì thế nó tạo dựng nên truyền thống văn hóa bất hủ của dân tộc Do Thái – nền móng vững chắc làm cho dân tộc này dù phải sống lưu vong không tổ quốc hàng nghìn năm nhưng cuối cùng vẫn là dân tộc thành công nhất trên hầu hết các hoạt động của loài người.

Đồng thời các nguyên lý chính của đạo Do Thái đã tác động không nhỏ tới giáo lý đạo Ki-tô và đạo Islam; hai tôn giáo lớn này đều có nguồn gốc từ đạo Do Thái.

Cuối cùng, nhờ có những điểm độc đáo nói trên, văn minh Do Thái của phương Đông trong quá trình giao lưu kết hợp với văn minh Hy-lạp của phương Tây đã sinh ra một nền văn minh mới – văn minh Ki-tô giáo, cuối cùng trở thành nền văn minh phương Tây rực rỡ mấy nghìn năm nay. Có lẽ đây là thành tựu đáng kể nhất mà nền văn minh Hebrew đã đóng góp cho nhân loại. Điều đáng nói là, do các nguyên nhân lịch sử phức tạp, lâu nay người ta đã coi nhẹ nền văn minh ấy, và bây giờ đã đến lúc loài người nên xem lại quan điểm này./.
Đầu trang

Trả lời bài viết