Thất sát luận đàm!

Xem, hỏi đáp, luận giải về tử vi
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tử vi. Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
nhutnbq
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1377
Tham gia: 20:24, 21/12/16
Đến từ: Tả Hữu đồng lâm

TL: Thất sát luận đàm!

Gửi bài gửi bởi nhutnbq »

vio đã viết:
nhutnbq đã viết:
nhaque1123 đã viết: Chết yểu thế nào được. Một đời tước lộc ving xương đấy
Vậy là Thân cư Mệnh Thất sát thì ko yểu mệnh hả anh?
Phú thì nó luôn ngắn ngọn, thâm thuý, vậy nên mới cần các nhà huyền chú giải.
Bộ câu này như sau:
" thất sát thủ thân chung thị yểu
Tham lang nhập mệnh tất vi xương"

Không lẽ cứ cung an thân có thất sát là yểu mệnh, chết non! Mệnh tham lang là vi xương, kiếp kỹ nữ! Đương nhiên là không phải vậy rồi. Vì muốn thị yểu, vi xương phải có điều kiện của nó.
Vế thất sát có phú như sau:
" thất sát dần thân tý ngọ cung
Tứ di củng thủ phục anh hùng
Khôi việt xương khúc phụ bật hội
Quyền lộc danh cao thực vạn chung

Hay như:
Sát cư hãm địa bất kham ngôn
Hung hoạ do như bảo hổ miên
Nhược thị sát cường vô chế phục
Thiếu niên ác tử đáo hoàng tuyền"

Tất cả các phú trên đều nói về thất sát tại mệnh thân, như vậy đoạn phú sau " sát cư hãm địa ..." chính là giải thích cho câu " thất sát thủ thân chung thị yểu"; như vậy là câu phú này là hàm ý cung an thân có thất sát hãm địa, nhưng như vậy đã đủ điều kiện yểu mệnh chưa. Đương nhiên là chưa, nếu như cung thân này tuy thát sát hãm nhưng hội về bộ khôi việt, tả hữu, khoa quyền lộc, thì đương nhiên là được cứu giải rồi, có khi còn tốt. Trong thực tế rất nhiều ls thất sát cư thìn hội cát tinh lại là các bác sỹ ngoại danh tiếng, sống thọ. Nhưng khi thất sát hãm mà gặp kình đà linh hoả thì khỏi cần bản, câu phú đó sẽ ứng ngay.
Vậy nên, khi đọc phú đòi hỏi phải đọc tất cả các câu phú trong Tử vi cốt tuỷ phú, Thái vi phú, Phú tử vi của Ma Thị để hiểu câu phú đó thực hư thế nào.
Ví dụ như "liêm trinh thất sát" có đến 3 câu phú ( liêm trinh thất sát lộ thượng thi mai; liêm trinh thất sát phản vi tích phú ....) vậy khi nào thì sử dụng câu phú nào mới là vấn đề.
Cứ học tử vi theo kiểu google nhiều khi sẽ rất khiếm khuyết.
Hân hạnh thọ giáo!
Được cảm ơn bởi: Thanthatsattuvi
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
nhaque1123
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2909
Tham gia: 23:07, 28/10/14

TL: Thất sát luận đàm!

Gửi bài gửi bởi nhaque1123 »

Luận Đàm về Thất Sát
Phương Vị: Nam Đẩu Tinh
Tính: Dương
Hành: Kim
Loại: Quyền Tinh, Dũng Tinh
Đặc Tính: Uy quyền, sát phạt
Tên gọi tắt thường gặp: Sát
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 7 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Vị Trí Ở Các Cung
Miếu địa ở các cung Dần, Thân, Tý, Ngọ.
Vượng địa ở các cung Tỵ, Hợi.
Đắc địa ở các cung Sửu, Mùi.
Hãm địa ở các cung Mão, Dậu, Thìn, Tuất.
Ý Nghĩa Thất Sát Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Sao Thất Sát dù đắc địa hay hãm địa thì thân hình nở nang, hơi cao nhưng thô xấu, da xám hay đen, mặt thường có vết, mắt to và lồi.
Người mà sao Thất sát tọa thủ cung mệnh, thường mắt to, dung mạo uy nghi, ánh mắt sắc bén, cơ thể hơi đẫy đà, động tác nhanh nhẹn, giọng nói to. Nữ nhi thì gò xương lông mày hơi nhô lên, vành tai nổi, ngũ quan đoan chính, dung mạo đáng yêu.
Sao Thất sát thủ mệnh, chủ về tính cách nóng vội, vui buồn thất thường, hành sự hay nghi ngờ sợ sệt, mọi tình cảm vui buồn đều biểu hiện ra ngoài, sau khi tức giận thì ngay lập tức lại vui vẻ, giống như bầu trời sau cơn mưa.
Thất sát thủ mệnh là người độc lập mạo hiểm, có ý chí phấn đấu, có khí khái anh hùng, thích cạnh tranh, không thích bị người khác ràng buộc và can thiệp vào. Nghị lực kiên cường, chí dũng quyết đoán, có hoài bão và tầm nhìn xa, cũng như có tầm quan sát bao quát đến đại cục và khí khái làm việc lớn không câu nệ tiểu tiết.
Thích ra lệnh, tâm tư tình cảm không ổn định, lời nói và cách nói dễ phát sinh xung đột, thường thích làm việc một mình lại thích là việc làm phải lớn, hành động thuận theo tình cảm của mình mà không lường đến hậu quả, có lúc thì lại lập dị khác người.
Nữ giới mà có sao Thất sát tọa thủ cung mệnh, tính cách chủ về hướng ngoại, hành sự rộng lượng, độc lập có cá tính. Sau khi kết hôn thường nên xuất ngoại làm việc, nếu không, thì thường không tha thứ cho những chỗ khiếm khuyết của chồng, khiến cho chồng chống đỡ không nổi, sự hài hòa trong hôn nhân do đó mà bị ảnh hưởng. Khi Thất sát rơi vào thế miếu hay vượng, gặp sao Hóa Quyền, Hóa Lộc (hoặc Lộc tồn) chủ về người phụ nữtài quyền hơn người, chí vượt chồng, sinh vượng cho chồng, tốt cho con. Sao Thất sát rơi rụng xuống, hoặc có tứ sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh xung phá, thường chủ về cô độc hà khắc
Tính Tình
Sao Thất Sát ở cung miếu địa, vượng địa, đắc địa, vì là sao võ nên người can đảm, uy dũng, có oai phong, tánh nóng nảy, đôi khi hiếu thắng, nên hay bất mãn, phá ngang. Tánh mạnh bạo, cố chấp, ít chịu thua ai, nên dễ cô độc, thích quyền lực, ưa được người trọng vọng, có tài chỉ huy, dứt khoát, biết quyền biến.
Sao Thất Sát ở cung hãm địa cũng là người can đảm có oai phong, tánh nóng nhưng rất thâm, đôi khi độc ác, tàn nhẫn, mưu sâu, có óc độc tài, nhiều thủ đoạn, cô độc.
Tài Lộc Phúc Thọ
Sao Thất Sát đắc địa: Được hưởng phú quý. Nhất là đối với bốn tuổi Giáp, Canh, Đinh, Kỷ gặp Thất Sát thủ mệnh ở Dần, Thân thì rất phú quý. Các tuổi khác thường gặp nhiều khó khăn, thăng trầm.
Người nữ thì tài giỏi, can trường đảm lược, được phú quý. Nhưng sao Thất Sát không mấy tương hợp với phụ nữ, cho nên dù đắc địa thì cũng gặp nhiều bất hạnh trong gia đạo như: muộn đường hôn phối, hay hình khắc, chia ly...
Sao Thất Sát nếu gặp sao xấu và nhất là Sát tinh, dù đắc địa cũng đưa đến nhiều nghịch cảnh như:
Có nhiều bệnh tật.
Thường bị tai nạn khủng khiếp vì súng đạn.
Thường bị bắt bớ, hình tù.
Giàu sang cũng không bền.
Có giàu sang cũng giảm thọ.
Tóm lại, sao Thất Sát dù đắc địa cũng không đảm bảo công danh, tài lộc hay phúc thọ dồi dào hoặc lâu dài hoặc vẹn toàn nếu gặp phải hung Sát tinh khác. Đặc tính của sao này là uy dũng, nhưng cũng hàm chứa nhiều bất lợi, hiểm nguy ẩn tàng.
Tai nạn và bệnh tật xảy ra đối với các trường hợp Thất Sát hãm địa, hoặc Thất Sát gặp sao xấu và nhất là Sát tinh. Thường gây bất lợi về công danh, tài lộc, phúc thọ như:
- Cô độc, khốn khó, phiêu bạt nơi xa quê hương, bệnh nan y, bị ngục tù, bị tai nạn khủng khiếp, yểu tử.
Thất Sát đồng cung với Tử Vi hay đối nhau với Tử Vi, đều hoá làm sao quyền. Nếu gặp Tử Vi Hoá Quyền, thì quyền quá nặng, chưa chắc có lợi. Đến các đại hạn hay lưu niên này ắt không cát tường, cần đề phòng xảy ra thất bại. Rất ghét gặp cung hạn Vũ Khúc Hoá Kị.
Thiên Lương chủ về “phong tục, luật pháp”, Thất Sát cũng chủ về “phong tục, luật pháp”, nên cũng chủ về “hình pháp, kỉ luật”. Có điều, Thiên Lươngthuộc văn, Thất Sát thuộc võ; Thiên Lương có thể lui về hậu trường, Thất Sát thì bước lên phía trước. Cho nên Thiên Lương có thể nhuyễn hoá thành “giám sát”, Thất Sát thì nhuyễn hoá thành “quản lý”.
Cổ nhân nói: “Hai cung mà gặp nó, định phải trải qua gian khổ”. (Nhị cung phùng chi, định lịch gian tân.), tức là hai cung mệnh và thân mà gặp Thất Sát, đời người ắt sẽ có một thời kỳ gian khổ. Đại khái là, Thất Sát rất kỵ đến hai cung hạn Thiên Cơ, Cự Môn toạ thủ; cần phải có hành động thiết thực để qua giai đoạn này, mới có thể hởi lòng hởi dạ.
Thất Sát ắt sẽ đối nhau với Thiên Phủ, Thất Sát chủ về công, Thiên Phủchủ về thủ, hai sao kềm chế lẫn nhau, cần phải xem ảnh hưởng của hai bên như thế nào. Ví dụ như Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân có Lộc Tồn đồng độ, đối cung là “Tử Vi, Thiên Phủ”, mà Thiên Phủ được Lộc Tồn vây chiếu, cho nên lợi về thủ, mà bất lợi về công. Lúc này Thất Sát tuy chịu ảnh hưởng của Tử Vi ở đối cung, quyền lực của nó cũng nên có khuynh hướng bảo thủ, rất nên phát triển trong cục diện hiện có, mà không nên lập ra cục diện mới, cũng không nên có nhiều thay đổi.
Thất Sát kỵ Hoả Tinh, Linh Tinh, kỵ nhất là tổ hợp “Kình Dương, Hoả Tinh”, hay “Kình Dương, Linh Tinh”. Trong hai nhóm, “Kình Dương, Linh Tinh” là rất xấu; nếu có Thiên Hình đồng độ, gặp các sao Âm Sát, Đại Hao, Thiên Hư, sẽ chủ về phạm pháp hình sự.
Thất Sát ở cung miếu vượng, gặp “Kình Dương, Hoả Tinh” thì còn được, chỉ chủ về lực kích phát, đời người không ngừng trắc trở nhưng có thể nhờ đó mà tiến bộ. Nếu gặp “Kình Dương, Linh Tinh”, thì có ý vị lụn bại dần dần, ở hãm địa thì càng nặng, còn chủ về không có duyên với lục thân, cuộc đời ít được trợ lực.
Thất Sát không nên chỉ hội Văn Xương, Văn Khúc, mà không hội các sao phú, tá cát khác. Nếu không, thì càng thông minh càng độc đoán, không chịu nghe ý kiến của người khác, thường là do mệnh tạo gây ra trắc trở.
Thất Sát rất ưa gặp Thiên Khôi, Thiên Việt; thậm chí đến các cung hạn có Lưu Khôi, Lưu Việt vây chiếu hay hội hợp, thường thường đây cũng là cơ hội chuyển biến theo hướng tốt.
Thất Sát cũng ưa gặp sao lộc, ưa nhất là gặp Phá Quân Hoá Lộc, chủ về đời người trải qua một lần chuyển biến quan trọng mà được phú quý; kế đến là Tham Lang Hoá Lộc, cũng có thể được vinh hoa, nhưng đề phòng phú quý không lâu dài; Vũ Khúc Hoá Lộc cũng tốt, nhưng cách cục kém hơn.
Thất Sát đối nhau với Thiên Phủ, là đã có hàm nghĩa gây trở ngại lẫn nhau, là mâu thuẫn về tính chất. Cho nên lúc Thất sát có các sao sát, hình, không, hao đồng độ, thường dễ vì gặp trắc trở mà cảm thấy đời người là hư ảo, phần nhiều vì vậy mà có khuynh hướng tôn giáo, bước vào cửa Phật, Đạo. Có điều, nếu Thiên Phủ gặp sao lộc, thì trước sau vẫn tham luyến duyên trần.
Thất Sát ở hai cung Tí hoặc Ngọ, có “Vũ Khúc, Thiên Phủ” vây chiếu, gặp sao lộc thì “tài tinh” Vũ Khúc có gốc rễ, có thể điều hoà khí chất của Thất Sát. Cho nên có thể nhuyễn hoá thành người trong giới làm ăn kinh doanh. Nếu là người nắm quyền về kinh tế tài chính mà không có sao lộc, chỉ cần không có các sao sát, kị, hình, cũng chủ về được bậc trưởng thượng dùng tài lực giúp đở, đây là được dư khí che chở.
Bởi vì liên quan đến “sự che chở”, cho nên Thất Sát ở hai cung Tí hoặc Ngọ đặc biệt ưa gặp Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật. Nếu đến đại vận hoặc lưu niên có Lưu Khôi, Lưu Việt xung khởi Thiên Khôi, Thiên Việt của nguyên cục, thì vận hạn hay niên hạn này, đại khái có thể xem là cát lợi, chủ về được người tri ngộ; nhưng nếu có các sao sát, kị, hình hội hợp thì thuộc ngoại lệ.
Nếu Thất sát ở cung Ngọ, thành cách “Hùng tú kiền nguyên”, thì đại kỵ có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ. Cách cục này là hoả luyện âm kim, gặp Hoả Tinh, Linh Tinh thì hoả hầu quá lớn, không những đời người gian khổ, mà e rằng còn bị tàn tật. Trường hợp thành cách, cũng ưa đến các đại vận hoặc lưu niên có Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt.
Thất Sát ở cung Tí không thành cách “Hùng tú kiền nguyên”, vì Tí là phương Bắc thuộc thuỷ, thuỷ có thể khắc hoả. Dù có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ, cũng chỉ chủ về bôn ba vất vả, nhưng không đến nỗi phá cách.
Trường hợp thành cách “Hùng tú kiền nguyên”, rất ưa Liêm Trinh Hoá Lộc, là thượng cách. Chủ về sức sống mạnh, mà còn kiên nghị trác tuyệt, trải qua phấn đấu mà thành đại nghiệp. Vận phát đạt ắt sẽ ở cung hạn Phá Quân toạ thủ. Năm phát đạt ắt sẽ ở cung hạn Liêm Trinh hoặc Tham Langtoạ thủ.
Thất Sát ở hai cung Tí hoặc Ngọ, không thành cách hoặc phá cách, lại không nên đến cung hạn Liêm Trinh, chủ về hôn nhân gặp nhiều sóng gió, trắc trở; cũng không nên đến cung hạn “Thiên Cơ, Cự Môn” toạ thủ, thường thường là giai đoạn thất bại.
Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân, đối nhau với “Tử Vi, Thiên Phủ”, không ưa Tử Vi Hoá Quyền, mà rất ưa Tử Vi Hoá Khoa, Thiên Phủ Hoá Khoa. Tử Vi Hoá Khoa chủ về công, Thiên Phủ Hoá Khoa chủ về thủ.
Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân, là người độc đoán; gặp Văn Xương, Văn Khúc thì vì thông minh mà phạm sai lầm; gặp Lộc Tồn đồng độ, khí mà hoà hoãn thì thành cách cục tốt, nhưng tính độc đoán càng nặng. Lúc luận đoán phải chú ý điểm này, cần phải xem xét kỹ cung phúc đức và cung phu thê, để xác định phẩm tính của mệnh cục. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hậu vận.
Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân, gặp Hoả Tinh, Linh Tinh thì nóng nảy, bộp chộp.
Đối với Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân, các cung hạn “Liêm Trinh,Thiên Tướng”, Cự Môn, Phá Quân, Thái Dương là những đại hạn hoặc lưu niên có tính then chốt.
Thất sát ở cung Thân, “Liêm Trinh, Thiên Tướng” ở cung Ngọ dù không thành cách “Hùng tú kiền nguyên” (vì Thất sát thuộc kim, cung Thân cũng thuộc kim; Liêm Trinh thuộc hoả, cung Ngọ cũng thuộc hoả, hai khí kim hoả về gốc, thành mỗi bên một khí, không có tác dụng hổ tương), nhưng vẫn ưa hai cung hạn Liêm Trinh Hoá Lộc và Phá Quân Hoá Lộc, đây là giai đoạn phát đạt.
Thất sát ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có “Liêm Trinh, Thiên Phủ” vây chiếu, thì nặng lý trí hơn “Liêm Trinh, Thất Sát” đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, nhưng phần nhiều đều có tư tưởng đặc biệt. Cho nên rất kị có Địa Không, Địa Kiếp hội hợp, nếu không, người ta sẽ khó mà hiểu được họ, vì cảm thấy đời người thiếu tri kỷ, nên thành người cô độc, thậm chí nhiều không tưởng, thiếu thực tế.
Thất sát ở hai cung Thìn hoặc Tuất, gặp Văn Xương, Văn Khúc còn được, nhưng cần phải gặp Thiên Khôi, Thiên Việt hoặc Tả Phụ, Hữu Bật, mới có thể phú quý. Nhưng nếu Tham Lang Hoá Lộc đến hội hợp (chú ý, Tham Lang cũng ảnh hưởng cung phúc đức), e rằng dục vọng khó thoả mãn, thế là, tuy phú quý nhưng cũng nhiều vất vả.
Đối với Thất sát ở hai cung Thìn hoặc Tuất, các cung hạn “Vũ Khúc, Thiên Tướng”, “Thiên Đồng, Cự Môn”, Tham Lang, hoặc cung hạn có tinh hệ vây chiếu thuật ở trên, là những đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt.
Thất Sát ở hai cung Thìn hoặc Tuất, nếu cung phúc đức là Tử Vi Hoá Quyền, ắt sẽ bất lợi trong hôn nhân, nhất là nữ mệnh, thường chủ về không có sinh hoạt hôn nhân, hay thiếu lạc thú vợ chồng (vì bận rộn, hoặc vì người bạn đời bệnh tật, cần phải xem tổ hợp sao thực tế mà định).
Đại khái là, Thất Sát ở hai cung Tí hoặc Ngọ thiết thực hơn Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân, hay Thất Sát ở hai cung Thìn hoặc Tuất. Phân biệt các tính chất nhiều dục vọng hay giữ nguyên tắc của các nhóm tinh hệ liên quan đến Thất Sát thủ mệnh, cũng giúp ích cho việc luận đoán. Cho nên, ảnh hưởng của tổ hợp tinh hệ Tham Lang đối với Thất Sát như thế nào, thường thường có quan hệ rất lớn, gặp “Hoả Tham”, “Linh Tham”, càng chủ về dễ phát dễ phá.
Những Bộ Sao Tốt
Thất Sát, Tử Vi ở Tỵ: Phú quý, uy quyền. (Thất Sát ở đây được ví như gươm báu của nhà vua).
Thất Sát, Liêm Trinh đồng cung ở Sửu Mùi, Mệnh Ất, Kỷ, Âm: về nam là anh hùng quán thế, can đảm, thao lược.
Thất Sát, Thiên Hình đồng cung hay hội chiếu: Liêm chính, ngay thẳng, chính trực, vô tư, hiển đạt về nghiệp võ, rất uy nghi lẫm liệt, nhưng tính nóng nảy khiến thiên hạ phải khiếp sợ.
Những Bộ Sao Xấu
Thất Sát, LiêmTrinh ở Sửu, Mùi: Chết ở ngoài đường vì tai nạn xe cộ hay vì dao súng.
Thất Sát hãm địa (hay Phá Quân hãm địa): Tha phương lập nghiệp, làm nghề nhưng không tinh thục.
Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, nữ ở cung Mệnh tuổi Tân, Đinh gặp Văn Xương: Góa bụa, nghịch cảnh vì gia đạo, làm lẽ, sát phu, muộn chồng.
Thất Sát gặp Tứ Sát (Kình, Đà, Linh, Hỏa): Bị tật, chết trận.
Thất Sát, Kình ở Ngọ: Chết vì đao súng, không toàn thây nhất là đối với tuổi Bính, Mậu. Ngoại lệ đối với hai tuổi Giáp, Kỷ.
Thất Sát ở cung Thân: Yểu.
Thất Sát hãm gặp Hỏa Kình: Nghèo, làm nghề sát sinh.
Thất Sát Khi Vào Các Hạn
Nhập hạn ở vị trí Triều đẩu (Dần, Thân), Thất Sát rất hưng vượng về nhiều mặt tài, quan, gia đạo.
Gặp sát hay hung tinh hoặc khi hãm địa thì hay bị tai nạn, hình tù, súng đạn.
Thất Sát, Liêm Trinh, Hỏa Tinh: Cháy nhà (nếu Hạn ở Điền càng chắc chắn).
Thất Sát Kình Hình ở Ngọ: Ở tù, chết.
Thất Sát Hình Phù Hổ: Ở tù, âu sầu.
Thất Sát Phá Liêm Tham, Không Kiếp Tuế Đà: Bị kiện tù, chết (nếu đại hạn xấu).
Thất Sát, Hao: Đau nặng.
Thất Sát, Hóa Kỵ: Bị bệnh, hay mang tiếng xấu.
Thất Sát được coi là hung Sát tinh. Bất luận số đẹp hay xấu, hễ đã có Thất Sát vào mệnh/thân thế tất phải trải qua những chuyện hung hiểm hoặc có một thời gian bị lắm chướng ngại. Sách viết “Nhị cung phùng chi địch lịch giai tân”.
Một khi có Thất Sát thủ mệnh, phải xem kỹ những vận hạn, nếu vận tốt đến càng sớm để thành công sớm thì hậu vận lại càng tối tăm với thất bại. Thiếu niên đắc chí ắt lúc bị thất ý ảnh hưởng đến hết đời. Nếu tuổi trẻ bôn ba chìm nôi đến trung niên mới phát đạt, thì nhờ kinh lịch đã thâu lượm như thanh gương tôi luyện kỹ rồi, sự phát đạt ấy mới hay.
Thất Sát thủ mệnh, cuộc đời nhiều hối tiếc, đặc biệt là những mối quan hệ thân thuộc có rất nhiều khuyết điểm. Nhưng về phương diện sự nghiệp thì thường lại có thể thành tựu. Nguyên nhân không có gì lạ, vì cuộc sống cô độc, sự nghiệp trở thành nơi duy nhất để gửi gắm tinh thần, cho nên đặc biệt rất nỗ lực, thời gian bỏ ra cũng hơn người bình thường.
Thất Sát là sao phấn đấu vươn tới, cuộc đời cát cũng vậy, hung cũng vậy, đều bước tới. Cho nên thấy hay không thấy cát tinh đều chẳng có vấn đề, họ cũng không khác biệt gì. Nếu như các cát tinh mà xuất hiện ở cung Phúc thì tinh thần họ khá yên ổn, đối với mệnh tạo lại có lợi. Nếu không ở cung Phúc thì cũng nên phân bố đều ở các cung độ khác, như vậy cuộc đời sẽ khá quân bình, tâm tư cũng an lành. Nhưng đương nhiên, nếu Thất Sát ở mệnh gặp cát tinh, cát hóa thì sự nghiệp tất nhiên có biểu hiện nổi bật.
Thất Sát cung mệnh thích hợp ngành công thương nghiệp, hoặc quân nhân cảnh sát (đặc biệt có Kình Dương).
Thất Sát cung mệnh là mệnh số đã định cuộc đời tất có một phen bị phá tán nặng nề. Vì vậy rất ưa Lộc Tồn đồng độ, hoặc gặp Hóa Lộc, được thế thì sau khi phá tán thất bại, vẫn có thể thu dọn tàn cụ, tái tạo cơ đồ.
Thất Sát không thấy Xương Khúc cũng chủ về “giàu mưu kế, giỏi vạch sách lược”, trên thực tế, Thất Sát không thích gặp Xương Khúc, bởi vì Thất Sát là võ tướng, sống trong rừng thương mưa đạn, ánh đao bóng kiếm, không thể lo nghĩ nhiều, không thể do dự không quyết đoán. Văn Xương Văn Khúc chủ về thanh nhã, suy nghĩ tìm tòi. Thất Sát mà gặp Xương Khúc thường thường sẽ đả kích năng lực quyết đoán của nó, biến thành do dự không quyết đoán, tiến lui không chỗ dựa, dũng khí không đủ.
Thất Sát gặp cát tinh, cát hóa có thể phân biệt chi tiết hơn. Thất Sát thấy Hóa Lộc, Lộc Tồn thì lợi về kinh doanh thương mại, làm ăn buôn bán, nhất là công nghiệp sản xuất. Thấy Phụ Bật thì chủ có nhiều thủ hạ, cục diện sự nghiệp lớ, nếu thêm Hóa Quyền thì càng lợi về việc quản lý nhân sự, thống lĩnh thiên binh vạn mã. Có Hóa Khoa, Xương Khúc tương hội thì chỉ lợi về các công việc chuyên nghiệp như công nghiệp kĩ thuật. Thấy Khôi Việt thì chủ về sự nghiệp gặp được cơ hội.
Ở trong đám cát diệu, Thất Sát rất ưa Lộc Tồn và Hóa Lộc, có mấy chỗ tốt. Thứ nhất, Thất Sát cương cường, được sao lộc thì tính cách nhu hòa hơn, hoặc ngoài cương trong nhu. Thứ hai, Thất Sát khi phát triển sự nghiệp mà được sao lộc thì phát triển thuậ lợi, nguồ tiền tài cung túc. Thứ ba, mệnh tạo Thất Sát tọa mệnh thì trong mệnh đã định một đời phải trải qua một lần phá tán thất bại lớn, nếu được đủ sao lộc thì sau khi phá tán thất bại, nguồn tiền tài có thể sẽ đến lại, không có sao lộc thì việc tái dựng lại cơ nghiệp càng cực kì khó khăn.
Thất Sát gặp các sao Hình Kị Không Kiếp chủ về tính chất bất lợi. Đại khái mà nói, tính cách thì cố chấp, làm việc thủ đoạn kịch liệt, kết quả là quan hệ giao tế xấu, gây nhiều ác nghiệp, dẫn đến quả báo, tai họa xuống đầu.
Thất Sát thủ mệnh ở cung độ miếu vượng Dần Thân Ngọ Mùi là rất tốt. Bốn cung này dù thấy Sát tinh mà không thấy cát diệu thì sự nghiệp cũng có biểu hiện, có điều, như Lục Bân Triệu nói, nếu chỉ có Sát tinh mà không có cát diệu thì sẽ “phá tán thất bại, tai họa, nan tai bệnh tật”, sau khi thất bại lớn, không đủ sức gây dựng lại. (Lưu ý trường hợp có sao lộc trên).
Thất Sát ở cung mệnh thấy Không Kiếp Hao, tất nhiên theo nghề công nghiệp sản xuất là tốt, hoặc ít nhất có một nghề sở trường. Nếu làm công việc đầu tư, thương nghiệp, không nói đến đầu cơ, cũng chủ về khuynh gia, phá tán thất bại. Có thêm sát diệu Hóa Kị thì phá tán thất bại càng nặng?
Thất Sát đi với Hỏa Linh Kình Đà Không Kiếp thì cuộc đời gặp trắc trở càng lớn, hoặc thân mang trọng bệnh, hoặc bị thương tật, cuộc đời cũng cô độc. Vì vậy thông thường nảy sinh tâm lí thiên mạnh về tín ngưỡng tôn giáo, để cầu mong cho cuộc đời có chỗ tựa.
Tại Đẩu số, Thất Sát thuộc về sao “cương mãnh” thẳng tắp một mạch, vì thế phối hợp “Sát Phá Tham” đặc biệt có nhiều thâm ý. Khả năng biến đổi cục diện của Tham Lang khá tròn trĩnh, có thể từ chuyện mà chuyển hóa một cách vô thanh vô sắc (không hình không tiếng), lực biến đổi cục diện của Phá Quân dứt khoát nhất thiết không để sót lại gì, nhưng Thất Sát biến đổi thường thường thuộc trường hợp lập mưu mà dẫn đến động. Nên “Sát Phá Tham” hội hợp, hết sức đầy đủ sắc thái “cương nhu tương tế” (kết hợp cứng rắn với mềm dẻo).
Cử một thí dụ, Phá Quân giống như xây một cái nhà mới, không quan tâm điều gì cứ đem nhà cũ dời đến nơi đất bằng phẳng, sau đó bắt đầu xây dựng từ đầu, có thể ví như làm việc nghĩa, việc quan trọng không cho phép chùn bước; Tham Lang không như vậy, nó không nhất định phải xây một cái nhà mới hoàn toàn, khả năng chỉ là trang hoàng, che đậy cái khuyết điểm của mình, không theo đường lối sách vở, rồi căn nhà tự nhiên rực rỡ hẳn lên như mới; còn Thất Sát thấy nứt thì đập bỏ, thấy khuyết điểm thì trang hoàng che đậy lại, không biến đổi một cách vô nghĩa cũng không tốn công hành sự vô ích, hời hợt bề ngoài.
Cho nên người có Thất Sát thủ mệnh, có đặc điểm là thực tế, bám sát thực tiễn, không siểm nịnh cũng không rụt rè cẩu thả; song chính yếu vẫn phải phối hợp cả kết cấu tinh hệ lại mà định, ví như Thất Sát hội hợp các tinh diệu quá mãnh liệt như kiến Hỏa Tinh Linh Tinh, người có loại mệnh tạo này dễ dàng chiêu oán; nếu hội hợp Địa Không Địa Kiếp, tắc tâm linh dễ giác ngộ hư không, hơn nữa việc xã giao trong cuộc sống cũng lẻ loi lập dị, ít hợp với ai.
Ở thời xưa, mỗi người vốn có một nghề đặc thù, mới có cảnh ngộ ở ẩn hay bôn ba vào đời, nếu không ắt là cao nhân ẩn sĩ, cho nên cổ quyết nói: “Thiên Hình hãm địa, xảo nghệ mưu sinh” lại nói: “Kỳ tính nhược thanh lương chi trạng, kỳ sổ tắc nghi vu tăng đạo” (Số tốt thì như Trạng Nguyên, số xấu thì đi theo đường tu hành) hay như: “Thất Sát cư hãm địa, trầm ngâm phúc bất sanh”.
Thật ra người có Thất Sát thủ mệnh, cũng không phú quý “cả đời tước lộc vinh xương” theo như lời cổ thư, cũng không thê lương như lời câu phú ghi bên trên. Vương Đình Chi đặc biệt thích thú tính cách Thất Sát, hiểu được xã hội hiện đại, khắc họa được một ít người “làm ra làm chơi ra chơi”. Cổ thư nói: “Thất Sát nhập mệnh thân cung kiến cát, diệc tất lịch thụ gian tân” (Sát thủ mệnh thân dù gặp được cát tinh cũng trải qua gian khổ), câu phú này đánh giá quá phù hợp và đúng đắn, không giống Tham Lang dễ rơi vào thủ xảo, lại không giống Phá Quân là biến đổi hết thảy, hành động không chút chần chừ, hoặc sống hoặc chết. Vì vậy mới cho là Thất Sát “lịch thụ gian tân” rồi sau đó thành tựu là thế.
Người có Thất Sát thủ mệnh bộ phổi phần nhiều không đủ khả năng chống cự thiên nhiên, mà trình độ y dược thời xưa lạc hậu, bởi vậy dễ cho rằng Thất Sát gia hung tinh dễ yểu chiết, dễ chết về bệnh phổi hoặc bệnh suyễn, xã hội hiện đại văn minh, điểm này thấy không ứng nghiệm.
Trong Tử Vi Khoa Thất Sát đựơc coi là hung Sát tinh. Bất luận số đẹp hay số xấu, hễ đã có Thất Sát vào Mệnh hay Thân thế tất phải trải qua những chuyện hung hiểmhoặc có một thời gian bị lắm chướng ngại. Sách viết:”Nhị cung phùng chi định lịch gian tân” (Mệnh Thân có Thất Sát phải nếm trải gian nan tân khổ)
Một khi có Thất Sát thủ Mệnh phải xem kỹ những vận hạn, nếu vận tốt đến càng sớm để thành công sớm thì hậu vận lại càng tối tăm với thất bại. Thiếu niên đắc chí ắt lúc bị thất ý ảnh hưởng đến hết đời. Nếu tuổi trẻ bôn ba chìm nổi đến trung niên mới phát đạt thì nhờ kinh lịch đã thâu lượm như thanh gươm tôi luyện kỹ rồi sự phát đạt ấy mới hay.
Thất Sát có những thế đứng sau đây: đơn thủ ở Dần Thân Tí Ngọ và Thìn Tuất, với Liêm Trinh nơi Sửu Mùi, với Tử Vi ở Tỵ Hợi, với Vũ Khúc ở Mão Dậu.
Sách viết:”Thất Sát cư hãm địa trầm ngâm phúc bất vinh”. Hãm cung cho Thất Sát là Mão Dậu và Thìn Tuất, nhưng đáng ngại là Mão Dậu gọi bằng cách “Sát hãm Chấn Đoài” (Chấn là Mão, Đoài là Dậu)
Lý luận cho rằng Thất Sát không có hãm địa là sai. Vũ Khúc Thất Sát ở Mão Dậu mà đứng cùng với các hung Sát tinh rồi lại gặp vận có lưu hungSát tinh thì tai họa không nhỏ, phần lớn do sự lầm lỡ của chính mình mà ra.Vũ Khúc Thất Sát chỉ nên dựa vào nghề nghiệp mưu sinh an thân, tham vọng lắm thêm phiền. Thất Sát vốn ưa vẫy vùng nhưng ở Dậu Mão hãm chẳng khác gì con cá trong chậu quậy cựa lắm cũng thế thôi, đôi khi còn sinh nguy hiểm. Nếu như có được Hỏa Tinh Tham Lang thì sự đắc ý không bền, nay được mai mất.
Thất Sát hợp nhất với Tử Vi (đã nói ít nhiều trên phần luận về Tử Vi). Sách viết:”Tử Vi Thất Sát hóa Sát vi quyền”.
Thất Sát đóng Dần cung xung chiếu trên cao là Tử Vi Thiên Phủ. Thất Sát đóng Thân cung xung chiếu ở dưới có Tử Vi Thiên Phủ gọi bằng cách “Thất Sát ngưỡng đẩu” hay “Thất Sát triều đẩu”.
Thất Sát khi đã biến thành Quyền rồi không nên hội tụ với Văn Xương Văn Khúc Long Trì, Phượng Các. Vì đã xung sát thì xung sát luôn, đứng luẩn quẩn văn vẻ làm gì nửa văn nửa vũ thành nửa mùa tất hành động mâu thuẫn và thành công kém ác liệt.
Thất Sát đã gặp sao Tử Vi để hóa vi Quyền rồi thì không nên thấy Hóa Quyền nữa sẽ vì thế mà quyền lực quá nặng thành ra con người cô khắc, quan hệt giao tế sinh lắm kẻ thù, càng không nên thấy Hỏa Tinh quyền lực khốc liệt khiến cho kiêu căng mà lâm nguy hiểm, thân phận lưu ly, lục thân ghẻ lạnh, không ai muốn khuông phù. Dù có sự nghiệp thật đấy nhưng đầy gian nan và lúc về già cô quạnh.
Thất Sát một khi hóa thành Quyền lại rất cần gặp Hóa Lộc, Lộc Tồn, Tả Hữu, Khôi Việt, có Tham Lang đứng với Hóa Lộc càng tốt, còn như Tham Lang đứng với Linh Tinh thì phải trải thiênma bách triết mới thành công.
Cổ nhân luận Thất Sát thủ Mệnh cho rằng sao này đóng ở bốn cung: Dần Thân Tí Ngọ kể làm thượng cách. Ở Dần với Thân là “Ngưỡng đẩu” với “triều đẩu”, ở Tí Ngọ thì gọi bằng “Hùng tú càn nguyên cách”
Hai ông Ngô Cảnh Loan và Vương Đình Chi đưa ra luận cứ đáng chú ý rằng:”Thất Sát Ngọ mới đúng “hùng tú càn gnuyên” Thất Sát ở thủy cung Tí là phá cách” vì Thất Sát vốn thuộc Hỏa Kim và nói thêm:”Liêm Trinh Thất Sát đóng Mùi cũng kể là “hùng tú càn nguyên”. Như vậy thay vì Dần Thân Tí Ngọ nay theo hai ông là Dần Thân Ngọ Mùi.
Thất Sát tại Ngọ, cung Phúc Đức có Liêm Trinh, Liêm Trinh là âm hỏa nung nấu rèn đúc âm kim của Thất Sát.
Hai ông còn cho rằng Thất Sát không nên gần văn tinh tại Mệnh hay tam hợp chiếu, nhưng lại rât cần có văn tinh ở Phúc Đức. Nhờ những văn tinh Xương Khúc Long Phượng Hóa Khoa đóng Phúc Đức làm che giảm ngọn lửa Liêm Trinh thì cuộc đời ít gian nan.
Trên đây là những lời bàn đáng cho ta suy gẫm thêm. Riêng tôi cũng thấy điều Thất Sát đóng Tí không bằng đóng Ngọ.
Thất Sát âm kim âm hỏa, kim bị hỏa luyện tính tình dũng mãnh cương cường, là con người của hành động chủ động làm việc tích cực bởi vậy Thất Sát mới được coi làm tướng tinh.
So với Thiên Cơ Thiên Lương thì Cơ Lương mang khuynh hướng tư tưởng lý thuyết trong khi Thất Sát xông pha chấp hành. Thất Sát chỉ huy lãnh đạo, Cơ Lương điều hành. Thất Sát điều khiển, Cơ Lương vẽ kế hoạch. Bởi vậy cuộc đời Thất Sát thường có những nút chuyển biến dữ dội triệt để, lên thật cao và xuống thật thấp tùy theo vận hay hay dở.
Đời trước cổ nhân sợ người đàn bà sắc sảo, tháo vát, xông xáo, tự lập nên mới đưa ra những câu phú trên. Thời nay không câu nệ vào những câu phú cổ hũ ấy nữa. Nữ mệnh Thất Sát bây giờ đều là những người đàn bà thành công làm việc giỏi, chỉ cái chuyện khắc phu thì vẫn vậy thôi.
Có một điều khá chính xác là: Thất Sát tại mệnh nữ đi cùng Đào Hoa Hỏa Tinh không ai không bạc tình. Thất Sát vào cung Phúc Đức của số nữ tình duyên không ai không lận đận nhỡ nhàng. Bởi vậy mới có câu phú:”Thất Sát đan cư Phúc Đức nữ nhân thiết kị tiện vô nghi” (Thất Sát một mình ở cung Phúc Đức số nữ lao đao vất vả dễ rơi vào tình trạng lẽ mọn)
Bàn về câu:”Thất Sát Liêm Trinh đồng vi lộ thượng mai thi” (Thất Sát đồng cung với Liêm Trinh thủ mệnh lúc chết chôn bên đường). Thất Sát Liêm Trinh chỉ đóng cùng ở hai chỗ Sửu và Mùi. Trong khi Thất Sát Mùi cung đã được coi làm cách tốt “hùng tú càn nguyên” thì tại sao còn có câu này?
Các nhà số học Trung Quốc lập luận:”Liêm Sát đồng vị chỉ gặp hung nguy khi đóng tại Sửu thôi, còn Mùi cung thì không và phải có những Sát tinhnhư Kình Đà Hỏa, Hóa Kị thì mới đi tới chỗ lộ thượng mai thi, mà lộ thượng mai thi không hoàn toàn là cứ phải vùi thây bên đường, ý bóng của nó là cái chết bất chợt, cái chết không ở trên giường bệnh hay ở trong nhà. Hoặc là chết như một nhà chính trị bị ám sát, hoặc chết như một tên ăn cướp bị bắn giữa đường. Vấn đề là cân đo những hung sát kị tinh nặng nhẹ mức nào?
Số Liêm Sát không bị hung sát kị tinh tất nhiên không “lộ thượng mai thi”. Một điều chắc chắn hễ đã số Liêm Sát dù ở Sửu hay Mùi thì cũng không (?) bốn mươi năm đi làm thầy giáo hay nói khác đi là phải có cuộc sống của kẻ phiêu lưu hoặc có một chút khác thường.
Nếu đem hai câu viết ở mục Trú giải Thái vi phú: “Thất Sát Liêm Trinh lưu đãng thiên nhai (Mệnh có Liêm Sát sống nơi chân trời góc biển) và Thất Sát Liêm Trinh đồng vị lộ thượng mai thi” thì cái lý nó gần gần nhau, đã chân trời góc biển làm sao còn chết ở quê nhà?
Ngoài ra Thất Sát Liêm Trinh mà đóng Thiên di, (tất nhiên thủ Mệnh làThiên Phủ Mùi hay Sửu) nếu Thiên Phủ bị Tuần Triệt hay gặp hung Sát tinhcũng gặp cái chết của đồng vị Liêm Sát đã nói trên.
Sau hết là Thất Sát ở hai cung Thìn Tuất. Thìn Thiên La, Tuất Địa Võng. Thất Sát sao của hành động không dễ thích ứng không dễ thuận tòng như Liêm Phủ vào hai cung ấy. Vì Thiên Phủ Liêm Trinh mềm dẻo, biết theo thời thế, biết đứng vào hang lối. Do đó Thất Sát Thìn Tuất kể như hãm địa, do sức ép của Thiên La Địa Võng và do sức tranh thoát dữ dội của Thất Sát.
Thất Sát Thìn Tuất ý chí kiên cường, có chủ kiến và độc lập tính nhưng phải trăm cay ngàn đắng mới thành tựu nếu được cát tinh phò trợ. Còn như quá nhiều hung Sát tinh vây bọc chỉ nên học một sảo nghệ mà an thân. Vì đối cung là Liêm Phủ cho nên hung tinh đáng ngại nhất cho Thất Sát Thìn Tuất là sao Hóa Kị đứng đối cung đó là giảm hẳn khả năng thích ứng thuận tòng, chỉ còn bất mãn phẫn nộ, tất nhiên sẽ cực hơn.
Sửa lần cuối bởi nhaque1123 vào lúc 21:54, 18/01/17 với 1 lần sửa.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
nhaque1123
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2909
Tham gia: 23:07, 28/10/14

TL: Thất sát luận đàm!

Gửi bài gửi bởi nhaque1123 »

LUẬN ĐOÁN CÁC CHI TIẾT SAU:
Các điểm chính để luận đoán.
* Được và Mất. Lợi và Hại. Lời và lỗ. Thắng hay Thua. Thành hay Bại.
* Đập Phá.
* Kẻ đánh, người xoa.
* Thấy hay Không. Quan sát thấy gì không?
* Sai lầm.
* Săn Bắt Giết.
* Thăm Dò. Tìm kiếm. Khám phá. Khám phá bí mật. Phanh phui, vạch lá tìm sâu.
* Giết hay Tha. Giết hay bị giết.
* Ép Buộc. Áp lực. Đè nén
* Khủng Hoảng, Thất Kinh, Hoảng Hốt
* Số 7
* Đơn chiếc.
* Bỏ Phí và Đánh Mất
* Động tác
* Vị trí đắc địa, đắc ý của THẤT SÁT.
ĐƯỢC và MẤT. LỢI hay HẠI. LỜI và LỖ, THẮNG hay THUA, THÀNH hay BẠI, ĐOẠT, ĐẠT…:
THẤT SÁT chủ mất hay được. Tốt là được, xấu là mất. Ba cái mất và được thường gặp: Địa vị, thanh danh và tiền của. Tuỳ thuộc các cung có liên quan mà đoán, kết hợp với sao ta gặp vô số tình huống như mất nhà, mất người thân, mất bạn bè, mát một phần thân thể và đỉnh cao là mất mạng. THẤT SÁT là sao chủ đoạt cho nên ưa lấy của người làm của mình, trái với sao THIÊN LƯƠNG lấy của mình đem cho người. Được là từ Việt, từ Hán là Đoạt và người ta thường hay dùng từ cướp đoạt, đã đoạt thì phải có cướp, như cướp đoạt được huy chương. Vì thế THẤT SÁT khoái ngôi sao trời sợ là ĐỊA KIẾP coi ĐỊA KIẾP như một phương tiện.
Ta hãy hình dung có một ông Cảnh Sát ở vùng nọ, bắt được một tên cướp, sau khi tịch thu tài sản của tên cướp, ông ấy lơ lơ là là… tạo điều kiện cho tên cướp chạy. Thế là tài sản đó thuộc về của ông. THẤT SÁT ưa đoạt, bởi lòng ham muốn của Tham Lang luôn luôn tam hợp kích thích.
Vậy thì đây là câu phú mới.
“Hy vọng tại Tham Lang. Thành công ở THẤT SÁT”
Đã là người thì ai cũng có niềm hy vọng (mơ ước, ham muốn, tham vọng…). Thành công được hay không hãy nhìn vào ngôi sao THẤT SÁT. Người có ngôi THẤT SÁT tọa thủ tại MỆNH mang nghiệp chướng với chữ Đoạt và chữ Mất. Dĩ nhiên khối cái đoạt hay như huy chương, đồn bót địch, học vị, đoạt đất đai của địch… Đoạt xấu là đoạt cái tư hữu của người, đoạt công lao của người, đoạt vợ con của người… làm cái của mình. Khi ngôi THẤT SÁT xấu là mất đi chẳng đoạt được gì. Nói chung ta dễ gặp tình huống khi mất khi được rất phức tạp, trong mất có được, trong được có mất. Khi bạn dùng các từ tô đậm kể trên vô tình bạn đã đề cập đến ngôi THẤT SÁT và chính bạn đang ở hạn THẤT SÁT. (Chỉ nghe thôi cũng biết bạn đang ở hạn nào. Đâu phải thần thánh gì đâu. Khi đạt (đoạt) thâm sâu là thế đó. Thần thánh cũng học trối chết).
Do THẤT SÁT là kẻ ưa đoạt, làm cho đối cung là THIÊN PHỦ phải che đậy. Lộ ra là dễ bị đoạt. Vậy cái THẤT SÁT đoạt là cái THẤT SÁT thấy ở cung xung chiếu. Đó là lý do mà sau nầy người viết chứng minh ở vị trí đắc ý, đắc lợi.
ÉP BUỘC, LẠM DUNG, LỢI DỤNG. Trong Ép Ngoài Nhận:
ÉP là THẤT SÁT, BUỘC là PHÁ QUÂN. Tốt là ép buộc được người, khi xấu là bị ép buộc bằng lời nói và bằng hành động. Quân ta ép quân địch phải rút lui. Buộc nó phải lấy vợ, lấy chồng, học hành…X bị cấp trên lạm dụng hết chổ nói.
Có những cái buộc đáng sợ là: cáo buộc, ép buộc nhận tội… Có những cái lạm dụng như lạm dụng tình dục, lợi dụng sức khỏe, công sức của người khác. THẤT SÁT xấu là nạn nhân của sự lạm dụng. THẤT SÁT tốt là kẻ lợi dụng. Nạn nhân của THẤT SÁT tốt là ai? Là THIÊN PHỦ. Và câu chuyện PHỦ SÁT dài ra, bởi THẤT SÁT xấu là nạn nhân của chính THIÊN PHỦ bên trong bị ép buộc nhận tội, do bên ngoài phủ nhận những cáo buộc.
Tuy nhiên đừng lẫn lộn ép buộc (của SÁT PHÁ) và cưỡng bức, ức hiếp. Đó là sao ĐỊA KIẾP, vừa ép buộc áp đặt và ức hiếp là sao KIẾP SÁT. Và đừng hiểu lầm PHÁ QUÂN gặp ĐỊA KIẾP là vừa bị ép buộc vừa cưỡng bức, tốt là Phá Vỡ mọi tai kiếp, Phá vỡ mọi ức hiếp, có thể hiểu ta ép được, ta ức hiếp được.
Và cũng đừng hiểu lầm rằng: Cách SÁT PHÁ KIẾP là hay. Chỉ có SÁT PHÁ đi ngang hạn KHÔNG KIẾP là hay. Còn hạn SÁT PHÁ ngộ KIẾP chưa phân thắng bại, chưa biết tên ĐỊA KIẾP chết hay tên PHÁ QUÂN chết, tùy thuộc Hung Cát để luận đoán. Lúc đó mới biết Phá Vỡ mọi tai kiếp. Hay Phá Không Vỡ tai kiếp.
ĐÈ, ÁP LƯC:
Đè và ép thực chất là một. Ví du: khi ép bánh chưng trong ngày tết, ta thấy áp lực chưa đủ ta gia tăng vật nặng.
Tốt là đè được đối phương, đối thủ xuống dưới. Gây áp lực với kẻ khác.
Xấu là bị đối phương, đối thủ đè xuống. Ta luôn luôn có cảm giác sống trong áp bức của kẻ khác. Sống trong môi trường áp bức là đây.
Xấu theo tai nạn là bị trọng vật đè lên cơ thể như bị xe đè, đá đè, nhà cửa sập đổ đè xuống. Cho nên có câu phú: “VŨ SÁT PHÁ LIÊM phòng áp mộc, lôi kinh” tức là cây đè sét đánh. Trong bệnh lý dễ liên quan đến bệnh tăng, giảm áp. Một ví dụ về áp lực:
“Hoàng hậu có một ảnh hưởng mỗi ngày một lớn mạnh đối với Hoàng thượng. Áp lực đó rất tốt đã trừ khử được sự giao du với bọn hoạn quan lôi cuốn hoàng thượng vào con đường hắc ám”.
Căn cứ vào sự đè ta đoán được công việc, ta chọn được công việc. Ta đoán được tai nạn, ta đoán được hậu quả hay kết quả công việc. THẤT SÁT ta xấu mà cứ vào ra những nơi có nguy cơ sụp đổ là dễ thấy họa đến, chẳng khác gì đi tìm tai họa cho đúng số. Để rồi ta dễ thấy cái cảnh “Thất Kinh, Hoảng Hốt…” Xem tiếp sẽ rõ.
THẤT KINH, KHỦNG HOẢNG, HOẢNG HỐT:
Nói đến thất kinh ta thường nghĩ đến chuyện xấu. Nhưng thất kinh còn là chuyện vui mừng làm thất kinh người người khác, bản thân ta cũng thất kinh vì không ngờ ta làm được. Không ngờ mà được của, không ngờ mà thắng, không ngờ mà được tha chết…THẤT SÁT tốt gặp cái không ngờ tốt, THẤT SÁT xấu gặp cái không ngờ xấu làm ta thất vọng rụng rời chân tay nhất là đi với LINH TINH lạc hãm. Tiện so sánh sắp xếp ta còn có cái chẳng ngờ của CỰ MÔN, cái không ngờ của THIÊN KHÔNG, không biết từ đâu mà đến của PHI LIÊM, hà cớ vì sao của LƯU HÀ. Đó là những sao khi tụ tập quá nhiều dù bậc thánh TỬ VI cũng không lường trước được.
Khủng hoảng về kinh tế, tài chánh cáchlà cách VŨ SÁT.
Khủng hoảng về địa vị là cách TỬ SÁT,
Khủng hoảng về thanh danh là cách LIÊM SÁT.
Cái gì mà hoảng hốt thế? Thất thủ kinh đô chăng? Cái gì mà hoảng loạn vậy? Chu yện gì thất kinh rụng rời chân tay… Tất cả những cái đó liên quan đến THẤT SÁT hãm.
QUAN SÁT. THẤY VÀ KHÔNG THẤY, KHẢO SÁT:
THẤT SÁT chủ quan sát vì luôn luôn đối cung có THIÊN PHỦ luôn che đậy. THẤT SÁT tốt thì thấy tất cả, xấu thì thấy cũng bằng không. Có thấy cũng bằng không, có thấy cũng như không thấy vậy. Cho nên hàng triệu người đang quan sát có mấy ai thấy cái cần thấy. Nhà thiên văn đang quan sát bầu trời, nhà nghiên cứu cặm cụi với kính hiển vi, người lính, người cảnh sát đang canh gác… Có mấy ai phát hiện ra đối tượng cần thấy.
Căn cứ vào sự quan sát đó, ta tìm thấy một số nghề nghiệp liên quan đến sao THẤT SÁT. Nghề quan sát, nghề liên quan khảo sát, giám sát…
Kẻ may mắn đó là KẺ KHÁM PHÁ .
THẤT SÁT quan sát nhưng chắc gì đã thấy. Cũng đọc chắc gì đã hiểu, đã xem nhưng nào có biết. Thấy chữ nhưng là chữ… nước ngoài. Từ đó THẤT SÁT là ngôi sao dễ lầm lẫn. SÁT là thấy, mà THẤT là mất. Có nghĩa tui có thấy chi đâu. Đánh mất sự quan sát. Cũng giống như bạn mới làm quen với lá số nhìn vào thấy chữ thôi. Khi giỏi rồi bạn sẽ thấy vô cùng thú vị những cảnh nước chảy hoa trôi, những đêm êm đềm hay những ngày khói lửa mịt mù, biển lớn, sông dài, đồi núi… Mới nghe qua tưởng chừng như bịa. Nhưng bạn ơi đó là sự thật đấy.
Điều bạn không ngờ trong lá số có tới 3 sao chủ sự nhìn thấy. Đó là LIÊM TRINH chủ sự theo dõi. THẤT SÁT chủ quan sát. THÁI DƯƠNG chủ trông thấy. Nghe thấy là THÁI ÂM. Trước đây người viết đã từng ởm ờ khi viết những điều trông thấy mà đau đớn lòng, đến những điều nghe thấy… và bây giờ là cơ hội giải thích. THẤT SÁT chủ quan sát nhưng mấy ai quan sát mà thấy. Có thấy chắc gì đã hiểu. Có thấy chắc gì dám nói…
SAI LẦM, LẦM LẨN, BẤT CẨN:
Cần phân biệt Sai Lầm là sao THẤT SÁT. Sai trái là sao PHI LIÊM, lỗi lầm là sao LƯU HÀ. Cố ý là sao CÔ THẦN. Khi các sao này tụ tập với nhau tính lỗi lầm sai trái càng nặng nề. Trong KIỀU có 1 câu sau đây mô tả 2 tác động của THẤT SÁT.
Hoặc là " Cũng là lỡ một lầm hai. Đá vàng sao nỡ ép nài mây mưa"
Như vậy THẤT SÁT đứng đầu nhóm sao ‘Sai lầm tội lỗi’. Xem thêm nhóm sao kể trên để tiện so sánh.
Sự sai lầm của THẤT SÁT có thể đưa đến mất địa vị, thanh danh, tiền của thậm chí mất mạng như trong chiến tranh hoặc khi di chuyển trên đường...Sai Lầm của THẤT SÁT do quan sát, do chiếm đoạt những cái đáng ra không nên chiếm đoạt, do đáng giết lại tha và ngược lại, đưa đến giết lầm hoặc ngộ sát, do khám xét, lục soát, khám phá không cẩn thận...Nói chung do bất cẩn, không cố ý. Như đã biết THẤT SÁT là sao chủ quan sát nó thấy rất rõ trong trường hợp đắc địa không bị phá cách, nếu bị hoặc lạc hãm có thấy cũng bằng không. Buồn cười một ông bất cẩn là THẤT SÁT đối diện một quá cẩn thận là THIÊN PHỦ, có lẽ THIÊN PHỦ học được bài học của THẤT SÁT.
Có câu:
“TỬ VI, THẤT SÁT, HÓA QUYỀN phản tác tinh tường”
Tức là trong trường hợp nầy THẤT SÁT lại tinh tường. Vì sao? Vì có uy tín của HÓA QUYỀN. Tức là cách được quyền định (TỬ VI) đoạt (THẤT SÁT). Dĩ nhiên THẤT SÁT tốt, con mắt tốt, tinh tường, có uy tín mới được tin cậy.
GIẾT HAY BỊ GIẾT:
THẤT SÁT cực tốt có quyền giết người, xấu thì bị kẻ khác giết. Kẻ giết người và kẻ bị giết đa phần có chung một ngôi sao THẤT SÁT. Khi đoán giỏi ta dễ dàng phân biệt kẻ được quyền ra lịnh giết hay tha, kẻ can tội giết người, kẻ bị người giết, kẻ luôn luôn nói cấm sát sanh… Tình huống phức tạp là hôm nay giết người, ngày mai bị người khác giết. Hôm nay suýt bị giết ngày mai giết lại trả thù.
Do tính chất chủ giết mà có câu: “THẤT SÁT lâm thân chung thị yểu’”. THẤT SÁT đóng tại cung an Thân số rất dễ bị người ta giết dù vô tình hay cố ý.
Do tính chất Giết mà ta tìm thấy một số người hành nghề có liên quan đến chữ giết.
Mẫu người mà ta thường gặp là giết mổ gia súc, gia cầm, sát trùng, sát khuẩn, kẻ săn bắn, kẻ săn bắt cướp, kẻ chiến binh...
SỐ 7:
Là con số không may mắn. Từ vị trí sao THẤT SÁT mà ta quan sát thấy đủ 7 chính tinh tất thị dễ trừ đi ít ra là 1 còn lại 6 . Đó là số người trong một gia đình hay một tập thể. Cũng có thể là con số may mắn như trường hợp THẤT SÁT đóng tại Tí Ngọ Dần thân không gặp phá cách. Trên lá số TỬ VI ta còn có số 0 sao THIÊN KHÔNG, số lẽ sao THIÊN CƠ, lẻ mấy của sao LINH TINH, số chẳn sao THIÊN ĐỒNG, dấu cộng là sao TUẦN, dấu trừ là sao TRIỆT, dấu chia là sao PHI LIÊM
ĐƠN CHIẾC:
Nếu ta có VŨ KHÚC chủ goá bụa, chủ ít, chủ cuộc tình ngắn ngủi. THẤT SÁT chủ đơn chiếc vì người thân, người tình bị chết, bị kẻ khác đoạt, bị bỏ rơi. Ngoài ra ta còn có LINH TINH chủ một mình, CÔ THẦN sớm mồ côi, QUẢ TÚ sớm goá bụa… Nếu thấy quá nhiều cô độc tinh hội họp tại MỆNH tại Phối khó xây dựng gia đình. Tại MỆNH và tại các cung liên quan như Huynh Đệ, tất ít anh em nếu có nhiều đi nữa là dấu hiệu không gần nhau, không thuận thảo với nhau.
BỎ PHÍ, ĐÁNH MẤT… HAO CÔNG TỐN SỨC…
*Bỏ phí thời gian, bỏ phí tuổi xuân, bỏ phí cuộc đời... Là sao PHÁ QUÂN
*Đánh mất thời gian, đánh mất tuổi xuân, tuổi thơ ngây, đánh mất chính mình... Là sao THẤT SÁT. Đánh mất danh vọng, đánh mất sự trong sáng, đánh mất địa vị… khi xấu là đánh mất luôn nhà cửa, vợ con… thành kẻ thất nghiệp, thất vọng, thất bại là tên ăn mày. Có câu:
“PHÁ HAO LINH NHẪN Quan Lộc vị đáo xứ khất cầu”. Câu nầy được diễn nôm là: “PHÁ HAO LINH NHẪN cung Quan , Gặp THAM hãm địa tính đành ăn xin”. Tức khi Quan Lộc có bộ sao kể trên, đương nhiên ông THẤT SÁT là dễ bị nhất khi MỆNH có THẤT SÁT thì QUAN LỘC cung có PHÁ QUÂN. Câu nầy còn áp dụng cho cả trường hợp PHÁ QUÂN hội họp tại QUAN LỘC cung như trường hợp MỆNH có THIÊN PHỦ. Bởi thế cho nên người ta mới bàn đến cung Quan, nếu không cứ lôi THẤT SÁT ra mà nói.
Khi hình thành bộ SÁT PHÁ có ĐÀO HOA tức hình thành bộ SÁT PHÁ THAM có ĐÀO HOA là có cách THAM ĐÀO một cách ham vui mà ham vui tức bỏ phí, đánh mất thời gian qua cuộc vui suốt sáng trận cười thâu đêm, hoặc công việc vô bổ như bài bạc…
THẤT THƯỜNG:
Khi THẤT SÁT lạc hãm chủ: Sự sinh hoạt thất thường như ăn ngủ thất thường đến công việc cũng thất thường khi có khi không, khi làm khi nghỉ. Đau ốm thất thường. Tình cảm cũng thất thường… Đúng là có 7 sắc mặt “ chợt vui, chợt giận làm tê tái lòng”. Ngay cả THẤT SÁT đắc cũng có tính thất thường.
KHÁM PHÁ, PHANH PHUI, VẠCH LÁ TÌM SÂU, KHÁM XÉT, LỤC SOÁT. THĂM DÒ KHÁM PHÁ…
Trên là các từ tuỳ trường hợp để xử dụng. Quan trọng là bị hay là được, có quan trọng không? Khám phá cái gì? Ví dụ: Khám phá một đường dây buôn lậu. Khám phá bí mật trên lá số TỬ VI, khám phá bí mật trong cơ thể… Tùy theo tình cảm và mục đích: “Phanh phui”, “Vạch lá tìm sâu”… Tốt là vạch lá tìm hoa. Là nhà khám phá nghiên cứu với con mắt tinh đời. Ủa ! tại sao trái táo rơi xuống mà không rơi ngang, rơi lên… bao nhiêu người thấy lá rơi, bao nhiêu năm trôi qua mà nào ai có thấy. Phải đến Newton cơ, chỉ cho mới thấy. Lúc ấy mới hiểu nhưng hiện giờ có khối người sợ đến Nam cực sợ rơi… xuống trời.
Cũng như TỬ VI vậy. Mật ngữ để lại rõ ràng nhưng mấy ai hiểu được.
Nhưng SÁT PHÁ THAM nhóm sao của thăm dò khám phá nhưng không phải cái gì của nhóm nầy khám phá ra là đúng. Biết bao khám phá sai lầm chết người như quả đất là định tinh. Đau bao tử… do lo nghĩ… Điều bạn cần biết khám phá và sáng tạo khác nhau. Ai sáng tạo ra các sao THIÊN KHÔNG… đứng trước THÁI TUẾ, tức một THIÊN ĐỒNG nào đó. Nhóm SÁT PHÁ THAM ùa vào nghiên cứu khám phá, chia nhóm chia sao, phân loại vô cùng tai hại làm cản trở bước đường nghiên cứu. Rất công bình chia làm 4 nhóm, 3 nhóm có 4 sao cứ như chia bánh vậy. Kiếm cho đủ lục Sát tinh, lục bại tinh chỉ nghe tên thôi là phát bịnh. Từ đó nhìn KÌNH ĐÀ với con mắt hãi hùng. Nhìn Song Hao thấy cảnh thất bại chứ không thấy cảnh tiêu tiền sướng tay.
SÁT PHÁ THAM là nhóm thăm dò khám phá nhưng kẻ thành công thì ít mà thất bại, hoang tưởng, trông gà hóa cuốc lại quá nhiều. Rồi lại hướng ngoại, không dám đụng đến những tên tuổi lớn. Bốc thơm, bốc thối rối tung cả lên. Như trường hợp Kinh Dương Vương bước ra từ Kinh Phật. Tại sao lại bước ra, bước vào mới có lý. Đức Phật có viết kinh sách đâu. Đồ đệ , đồ tôn sau nầy viết, đem chuyện Kinh Dương Vương dẫn chứng. Như vậy là bước vào nghe thuận tai. Bước ra nghe chướng tai vô cùng. Bỗng nhiên phát hiện 1 cuốn Kinh Phật, đọc chưa chắc đã hiểu, đem xóa bỏ lý lịch ông bà cho là huyền thoại.
Đó là những khám phá tào lao. Vậy thì khám phá chắc gì đã hay. Nhưng dầu sao thì nhờ có nhóm sao nầy khoa học tiến bộ. Từ Khám Phá Thăm Dò ta thấy ngay nhiều người lấy đó làm nghề nghiệp, lấy đó để thành sự nghiệp. Cũng có người vì nó mà sạt nghiệp với những mỏ vàng hoang đường.
Thăm dò, tìm hiểu...là Tham Lang. Khám phá, khám bệnh, lục soát, khám xét là SÁT PHÁ.
Tốt là khám phá ra, khám xét tìm ra...thăm dò phát hiện ra, tìm hiểu ra điều gì đó. Được quyền thăm dò khám phá, được quyền ra lịnh thăm dò khám phá. Như vậy có cả một đống Lương Y, BÁC SỸ có SÁT PHÁ.
Xấu là bị khám phá, lục soát...hoặc đau ốm bị thăm khám.
Phức tạp là hôm nay khám phá lục soát người ta, mai đây trở thành nạn nhân. Hoặc hôm nay bị nhưng ngày mai lại được.
SĂN LÙNG, SĂN BẮT, TÌM KIẾM, HUỶ DIỆT…
Săn lùng là Tham Lang. Bắt và thả là PHÁ QUÂN. Giết hoặc không là THẤT SÁT.
Tham Lang chủ săn lùng như săn thú, săn bắt cá, săn bắt kẻ cướp...cho đến săn gái, săn trai. Kẻ săn lùng nhiều khi trở thành là kẻ bị săn nhất là có LIÊM TRINH dò xét ngầm đâu đó.
Bắt người có khi sau này thành kẻ bị bắt.
Giết người có ngày dễ bị người khác giết.
Điều quan trọng là săn lùng cái gì? săn tin, săn gái, săn tìm cổ vật, tìm vàng
Săn bắt cái gì? Côn trùng, động vật quí hiếm, kẻ cướp, quân địch, dân chúng chống đối, thiên thể lạ, vi trùng lạ...
Giết cái gì? Côn trùng, thú vật, vi trùng...kẻ cướp, quân thù… giết các vật nuôi làm thức ăn hằng ngày.
Căn cứ vào hung Sát tinh, cát tinh để luận đoán cũng như phá cách .
ĐẬP PHÁ, ĐẬP BỎ:
Đập cái gì vậy? Đập vỡ cây đàn. Đập đá côn lôn. Đập phá đồ đạc… Đập là THẤT SÁT, phá là PHÁ QUÂN 2 sao nầy nầy luôn luôn đi với nhau, cần thiết thì có thêm thằng em Tham Lang hùa theo đập phá, trong các cuộc biểu tình trên đường phố, trong nhà cảnh cha, hoặc con đập phá tan tành đồ đạc mua sắm bằng mồ hôi, công sức… Từ được đập phá. Đến bị đập phá, từ cần thiết phải đập phá đến cưỡng bức đập phá… Đều là SÁT PHÁ.
ĐỘNG TÁC: ĐẬP PHÁ, THOA, THOA BÓP, ÉP ĐÈ, ẤN, CHÀ SÁT, CỌ SÁT, KHÁM
Ấn như ấn xuống, ấn huyệt đạo, nhấn xuống… Tốt là ấn khuôn dấu
Thoa như thoa son điểm phấn, thoa dầu. Thoa bóp
Đè như đè xuống, đè bánh chưng… Xấu là bị vật nặng đè chết luôn.
Ép như ép bột. Như cái ê- tô
Khám như khám bệnh, khám xét…
Khảo như khảo tra, khảo cứu, giám khảo, khảo sát.
Tấn trong chữ tra tấn từ Việt là đập đánh
Lục như lục soát, kiểm soát, lục soạn đồ đạt, sao lục, trích lục
Quan sát thấy hay không, Giết hay không như đã bàn ở trên….
Từ những động tác tức ấy suy ra nghề, suy ra nghiệp chướng.
THẤT SÁT chủ đánh đập, PHÁ QUÂN chủ phá. Quan trọng là đập phá hay bị đập phá. ĐẬP PHÁ cái gì? Đập phá đồn bót giặc? Đập phá cái cũ để tạo ra cái mới.
Đập phá ai? Ai đập phá? Rất kị gặp HOẢ HAO…
Va chạm… như 2 xe va chạm, cuộc sống có những va chạm ngoài ý muốn….
Vị trí đắc địa, đắc ý của THẤT SÁT.
Ở 4 cung Tý Ngọ Dân Thân. Ở Dần Thân chủ đoạt được địa vị. Ở Tý Ngọ chủ đoạt được tiền của. Dĩ nhiên cần có cát tinh mới thành.
Ở các vị trí khác cho dù cách TỬ SÁT Tỵ Hợi vẫn bị xem là kẻ thua thiệt, thất vọng. Nếu có cát tinh vẫn tốt như thường, thậm chí còn hay hơn ở nơi gọi là đắc địa mà chẳng có cát tinh hỗ trợ.
THẤT SÁT khi tốt và khi xấu
KHI TỐT:
Được nhiều hơn mất, thậm chí chỉ có được mà không có mất. Như trường hợp THẤT SÁT tại cung Thân một giọt máu cũng không mất Hoặc may ra là mất ít được nhiều. Nói chung ta cần có Lá Số cụ thể.
Là sao chủ đoạt được, đánh được, thắng được, quan sát được. Khi tốt là người chiến thắng ngoài mặt trận, đoạt được đất địch, thành giặc, đoạt được mạng sống của địch. Thắng trong thi đấu, đoạt được huy chương, thắng trong thi cử, đoạt được bằng cấp, học vị. Thắng lợi trên thương trường, trên văn đàn… Cực tốt định đoạt mạng sống chết của nhiều người. THẤT SÁT là kẻ chiến thắng. Nhà vô địch.
KHI XẤU:
Khi xấu ta có 2 dạng. Dạng thiệt thòi của kẻ mất mát và dạng kẻ gây ác.
Dạng thiệt thòi:
Mất nhiều hơn được, thậm chí mất phụng thờ không có con cái nối giỏi cái gi cũng mất. Mất sức khoẻ, dễ bị đui mù. Mất địa vị, mất tài sản đáng lý ra mình được thụ hưởng, hoặc bị mất do sai lầm, bị mất do soán đoạt. Bị mất vợ, mất chồng thậm chí bị mất con cháu, chúng nó bỏ ta mà đi theo kẻ khác, hoặc về nơi vĩnh hằng. Dễ lâm vào hoàn cảnh thất điên bát đảo.
Bản thân dễ bị áp bức, áp lực, bị ép buộc có thấy cũng như đui, có thấy cũng bằng không, thấy điều chướng tai gai mắt nhưng ta có thể nói được đâu, vì ta là kẻ bị áp lực, bị áp bức kia mà. Thậm chí thân ta còn có thể dễ bị người khác giết. Mạng sống của ta bị người khác định đoạt. Là kẻ Thất Vọng, Thất Bại, Thất Tình, kẻ thua cuộc, tên bại trận…
Dạng gây ác:
Là kẻ soán đoạt như soán ngôi, đoạt chúa. Đoạt vợ, đoạt chồng của kẻ khác, đoạt của cải của kẻ khác làm của mình. Là tên giết người để đoạt cái gì đó... thậm chí giết người làm thú vui, giết người trả thù đời, giết người không ngoài mục đích vui trong nỗi đau của kẻ khác. Vô cùng man rợ, thậm chí thích nhìn cảnh máu chảy đầu rơi, vui với những hình ảnh quái dị.
Là đánh mất cuộc đời, đánh mất chính mình làm những điều xấu xa bỉ ổi, độc ác, gieo rắc tai hoạ lên đầu những người khác, lấy đau khổ của kẻ khác làm thú vui. Là sài lang, là tên khủng bố mất thú tính. Lấy vũ khí, hung khí, lấy sự liều mạng ra thách đố. Lấy hỏa tiển, nguyên tử gây áp lực mà không thấy chính mình tự gây áp lực cho mình.
Cung HẠN:
Vận dụng phần Luận đoán các chi tiết để áp dụng lên cung Hạn. Sau đây là một số câu phú nhận xét về Hạn THẤT SÁT.
THẤT SÁT cần gặp và kị gặp
THẤT SÁT CẦN GẶP:
HOÁ KHOA nhất là có thêm QUYỀN, hay LỘC. Nếu có QUYỀN, LỘC cũng không hay bằng KHOA QUYỀN, hay KHOA LỘC. Cần biết nhóm SÁT PHÁ THAM khó mà hội đủ TAM HOÁ
THÁI TUẾ được phê là “trí dũng có thừa”
HÌNH có thể gặp, tuyệt đối kị gặp thêm KỊ thành bộ KỊ HÌNH chủ bị giết, yểu
THẤT SÁT KỊ GẶP CÁC SAO:
LINH TINH dễ tù tội. Có thêm KÌNH cực kỳ táo bạo. Sát Phá chuyên ỷ DƯƠNG LINH chi ngược.
HOẢ KÌNH: đồ tể, kẻ dễ nổi nóng.
BẠCH HỔ nhất là HỔ, KÌNH, ĐẠI.
HOẢ TINH, HAO TINH nhất là có thêm VIỆT HÌNH nhất là người cao tuổi
TRIỆT thì bớt hung hăng, nếu đồng cung thì hiền đến ngẫn ngơ
KÌNH DƯƠNG nhất là KÌNH tại Ngọ cung.
Kị cung an Thân có THẤT SÁT chủ yểu, chủ bị giết.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
nhaque1123
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2909
Tham gia: 23:07, 28/10/14

TL: Thất sát luận đàm!

Gửi bài gửi bởi nhaque1123 »

Ba sao Thất sát, Tham lang và Phá Quân luôn nằm tại cung vị tam phương hội hợp trong lá số để hội chiếu lẫn nhau, nên được gọi là tổ hợp "Sát Phá Lang", hay "Trúc la tam hạn". Đại hạn, tiểu hạn hoặc lưu niên gặp phải tổ hợp này, chủ về vận mệnh có nhiều biến động, nhiều bước ngoặt lớn. Nếu như bản cung và cung vị tam phương tứ chính đều Cát, đại hạn, tiểu hạn và lưu niên tiếp theo cũng tốt, thì vận mệnh cũng có chuyển biến tốt đẹp. Nếu ngược lại, bản cung và cung vị tam phương tứ chính đều Hung, đại hạn, tiểu hạn hoặc lưu niên tiếp sau cũng hung, thì vận mệnh sẽ chyển biến theo chiều hướng xấu.
Mức độ biến động của sao Thất sát có phần nhỏ hơn so với sao Phá Quân, thế nhưng lại mang cùng một tính cách, là ưa mạo hiểm, dũng cảm đi đầu, nhưng sao Phá Quânthích được Tử vi, Lộc tồn, Hóa Lộc trợ giúp, nên vẫn có thể gặp được kẻ tri âm. Trong khi đó sao Thất sát do quá độc lập tự chủ, nên thành ra cô độc ít bạn bè.
Sao Thất sát có tài hoạch định, mưu lược, sắp xếp kế hoạch, bởi vậy rất ly trí và độc lập. Nên, sao Thất sát tốt nhất là đứng một mình, để phát huy tốt đa ưu điểm độc lập của mình, các cát tinh đều không mang lại trợ giúp gì đáng kể cho Thất sát, cùng lắm là tăng thêm ít nhiều khí thế cho Thất sát mà thôi. Sát tinh cũng không thể uy hiếp được Thất sát. Thất sát nhập miếu có thể khắc chế tinh hung của sáu Sát tinh Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp. Sao Hóa Kị cũng bị Thất sát thuần phục, thế nhưng do sao Thất sát đã sử dụng toàn lực để khống chế Sát tinh, nên trong vận mệnh vẫn phải nếm trải nhiều gian khổ mới có thể đạt đến thành công.
Sao Thất sát nhập miếu tại Tý Dần Ngọ, nếu tại cung vị tam phương tứ chính không có Sát tinh, hoặc không gặp sao Hóa Kị, là cách "Thất sát triều Đẩu", chủ về cuộc đời nhiều biến động, nhưng về sau sẽ được vinh hiển.
Hỏa tinh nhập miếu trấn mệnh tại Dần Ngọ Tuất, tam phương hội chiếu với các sao Thất sát, Hóa Lộc, Hóa Quyền, là cách "Quyền Sát hóa Lộc", chủ về anh hùng khí khái, uy phong lẫm liệt.
Sao Liêm Trinh trấn mệnh, sao Thất sát nằm cùng cung, hoặc tại cung tam phương tứ chính hội chiếu, lại có thêm Hóa Kị, bốn Sát tinh và Phá Quân, là cách "Sát củng Liêm Trinh", chủ về phiêu bạt, bất ổn, tai họa triền miên.
Sao Thất sát và sao Phá Quân đại là đại tướng dưới chòm sao Tử vi, nhưng sao Phá Quân thì thuộc chòm sao Bắc Đẩu, là đại tướng trước điện của Đế tinh dũng mãnh vô song, phải nghe theo mệnh lệnh của sao Tử vi. Sao Thất sát thuộc chòm sao Nam Đẩu, là chủ soái biên cương bày mưu lập kế, mang đặc tính mệnh cách "tướng ở biên thùy, đôi khi không nghe theo quân mệnh", nên hành động độc đoán.
Sao Thất sát, với năng lực bày mưu tính kế và đặc tính hành động độc đoán, thích hợp nhất là ngồi một mình mà phát huy năng lực lý trí và tính cách độc đoán của mình. Bất kỳ cát tinh nào cũng không có tác dụng trợ giúp đối với sao Thất sát, có chăng, chỉ là ít nhiều tăng thêm chút khí thế mà thôi. Bất kỳ Sát tinh nào cũng không thể uy hiếp được sao Thất sát, nếu có chỉ làm cho nó gian lao vất vả thêm một chút mà thôi. Do đó, về mặt quan hệ với mọi người và về mặt tình cảm, thì rất khó có thể tiếp cận, thường nội tâm mang suy nghĩ "tri âm khó tìm", về mặt tình cảm cũng rất khó có thể cùng người tìm được tiếng nói chung, nên dễ bị người khác hiểu nhầm, rằng tự cho mình là thanh cao. Vì vậy, người mà sao Thất sát thủ mệnh mặc dù có mưu lược, cũng như một mình có thể đảm đương một phương diện, sự nghiệp thành công, nếu theo nghiệp Võ hoặc công chức nhà nước, thì sẽ đạt được mục đích mong muốn, ở được ngôi vị cao, nhưng khó có thể tự đứng ra lập nghiệp một cách độc lập. Về mặt tình cảm cũng khó tránh khỏi việc tự cho mình là thanh cao mà dẫn đến cô độc không chỗ dựa. Do đó nên kết hôn muộn, để tránh vì đối phương mà phải trả giá quá nhiều.
Sao Thất sát chủ cô độc, nếu nhập vào cung mệnh, đều chủ về lục thân duyên bạc, khi nhỏ thì bôn ba vất vả nhưng từ đó mà có thể tự lập, trí dũng, quyết đoán, khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng.
Nữ mệnh có sao Thất sát độc thủ trấn cung mệnh, chủ về yểu mệnh. Sao Thất sát một mình chiếm cứ cung Phúc đức, chủ về đa tình.
Sao Thất sát mặc dù thích độc tọa, nhưng khi gặp Tử vi đế tinh, thì "hóa Sát thành Quyền", có thể giảm khí "tiêu điều xơ xác", còn có thể nắm quyền của chủ soái, đồng thời hưởng phúc ấm của sao Tử vi.
Sao Tử vi, Thiên Phủ, và Thất sát, đều có đặc tính cô độc. Sao Tử vi là hoàng đế của vạn vua, thống lĩnh tất cả mọi ngôi sao. Ở phía trên, tất cả mọi quần thần đều tôn kính sợ hãi, cẩn thận ứng đối, khó tránh được sự cô độc vì địa vị cao không có người bạn tri âm. Nhưng, nếu được các saoThiên Phủ, Thiên Tướng, Tả phụ, Hữu bật phò tá, thì chỉ cần phát hiệu lệnh là được, đồng thời còn có thể tránh được sự ưu phiền vì cô độc.
Sao Thiên Phủ là quân vương ở biên cương, chủ quản 7 ngôi sao của chòm Thiên Phủ, đứng dưới một người mà đứng trên muôn người, cố định là cô độc trên thế giới, đồng thời do tính cách ngoan cố bảo thủ của Thiên Phủ, nên chỉ có thể có được sự trợ giúp của sao Thiên Tướng.
Sao Thất sát là chủ soái nơi chiến trường biên cương "tướng ở biên thùy, đôi khi không nghe theo quân lệnh", phàm là có việc thì sẽ làm ngay, trí dũng song toàn, nhưng không có cách nào để hoàng đế biết được hoàn cảnh thực sự của mình, để trợ giúp cho mình trong bất kỳ hoàn cảnh nào, mà vẫn phải tự bản thân mình chịu trách nhiệm về thắng - thua được - mất của chiến trận. Những điều sao Thất sát suy nghĩ trằn trọc ấp ủ trong lòng, cũng không có cách nào thể hiện cho binh sĩ hiểu được, cho nên tự nhiên thành cô độc, gian nan, hiu quạnh, khiến người khác có cảm giác xa cách.
Sự cô độc của sao Thất sát, thường là một người ở một mình, nội tâm lại tự cảm thấy cô độc, thậm chí khi ở cùng đông đảo mọi người mà trong lòng vẫn cảm thấy cô độc. Vì vậy, mặc dù sau khi trải qua một khoảng thời gian, hoặc sau khi huyên náo vui vẻ, thì lại muốn cô độc một mình để điều chỉnh tâm tình, đối diện và nhận thức bản thân mình, dễ chìm vào trong sự cô độc, lâu ngày thì sẽ cảm thấy cô độc chính là một phương pháp hưởng thụ.
Sao Thất sát, ngoài việc phải tự chịu trách nhiệm đối với bản thân mình ra, thì phải chịu trách nhiệm đối với mọi người, loại trách nhiệm tự mình cáng đáng này, thì người bên cạnh không thể cảm nhận được. Đây, có lẽ cũng chính là nguyên nhân mà sao Thất sát thực sự cảm thấy cô độc.
Thất sát, Phá Quân, Tham Lang, là ba sao ở trạng thái động, vĩnh viễn hội chiếu lẫn nhau ở cung vị tam phương tương hội trong mệnh bàn, hình thành mệnh cách Sát Phá Lang (hoặc còn gọi là tổ hợp của: Trúc La tam hạn). Đại hạn, tiểu hạn, hoặc lưu niên nhập vào trong một cung bất kỳ mà ba cung này trấn giữ, thì vận mệnh tất sẽ có biến động.
Cả ba sao Sát Phá Lang cùng biểu hiện ra tính biến hóa, tính sáng tạo, và tính cạnh tranh. Thủ lĩnh của nhóm biến hóa này chính là sao Thất sát. Sao Thất sát là chúa tể của sự thành bại, cần phải ra quyết sách và lãnh đạo một cách cụ thể đối mặt trực tiếp với hoàn cảnh, đồng thời phải đối diện với kết quả thành bại, được mất. Cần dũng cảm, mạo hiểm, không sợ gian nan, đôi khi rõ ràng biết là không thể làm được nhưng vẫn quyết tâm thực thi, quyết làm bằng được, do đó nuôi dưỡng được gan dạ sáng suốt và ý trí kiên định, khiến người khác kinh ngạc, đồng thời lòng dạ rộng mở thản nhiên đối diện với sự thành bại được mất.
Sự biến đổi của ba sao Sát Phá Lang không giống nhau. Sự biến đổi của sao Thất sát mang tính kéo dài có tính phát triển liên đới mở rộng, tính chất thiên về sự cô độc và hiu quạnh, mức độ biến động trung bình.
Sự biến động của sao Phá Quân thì có tính sửa đổi và tính khai sáng, tính chất thiên về tiền tài và tình cảm, mức độ biến động là lớn nhất.
Sự biến động của sao Tham Lang thì có tính danh lợi và dục vọng, tính chất thiên về tửu, sắc, tài, khí, mức độ biến động là nhỏ nhất khi so với Thất sát và Phá Quân. Cho nên cổ nhân mới gọi theo thứ tự Sát rồi tới Phá rồi tới Lang.
Người mà sao Thất sát thủ mệnh, thường có cơ hội rời bỏ quê hương, theo đuổi công việc liên quan ở nước ngoài hoặc ở nơi xa quê, nên có tín ngưỡng tôn giáo, đồng thời vận động có định kỳ. Khi gặp lục Sát tinh trong thế tam phương tương hội thì bị xung động, tâm tư tình cảm không ổn định nên ảnh hưởng tới tính cô độc khó thay đổi, cuộc đời có thể bị biến đổi thăng trầm lớn. Nên thích hợp tới những việc mang nội dung văn hóa văn nghệ, để tu dưỡng và thích nghi giải tỏa tâm lý, khi ở tình cảnh bị lục sát gây ảnh hưởng trở ngại.
Sao Thất sát không thích ở cùng cung với các sao đào hoa, như Tham Lang, Liêm Trinh, Văn khúc, Hữu bật, Hồng loan, Thiên hỷ, Thiên diêu, Hàm trì, Mộc dục, nếu gặp, thì dẽ bị tranh chấp đào hoa.
Mệnh nữ sao Thất sát nhập vào cung Mệnh, Phu thê, hoặc Phúc đức thì nên tăng cường tu thân dưỡng tính, cần điều chỉnh tính cách bưởng bỉnh, thì sẽ có được sự trợ giúp nhất định đối với bản mệnh và vận thế.
Phàm, Thất sát thủ mệnh, nếu gặp Sát tinh, đời người ắt sẽ có chỗ thiếu sót, hoặc không thể phú quý, hoặc phú quý mà vợ chồng hình khắc phân ly, hoặc hôn nhân hạnh phúc mà lại không có con, hoặc có con mà lại không có con trai, hoặc có con trai mà bản thân nhiều bệnh tật. Nếu Lục thân không có khuyết khuyết, cơ thể khỏe mạnh thì lại không được phú quý. Cho nên cần phải xem xét toàn diện 12 cung để nhận thức những khiếm khuyết đáng tiếc của nó.
Nữ mệnh có Thất sát nhập miếu, gặp các sao Cát như Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Ân quang, Thiên vu, Thiên thọ, chủ về phú quý sống thọ, nhưng có chí hướng hơn chồng. Nếu Thất sát ở hãm địa, gặp Hóa Kị, hội hợp với Hung tinh, Sát tinh như Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Thiên hình, Thiên hư, Âm sát, Thiên nguyệt, thì nửa đời cô độc, hoặc nạn tai tật bệnh đeo đẳng theo người, chủ về làm kế thất, hoặc ở hai nơi, như vậy cũng làm giảm hình khắc đối với chồng và con cái.
Đại hạn và lưu niên, có Thất sát nhập cung mệnh, nếu Thất sát nhập miếu, gặp các cát tinh, chủ về sự nghiệp gặp cơ hội chuyển biến tốt, làm công ăn lương thì chủ về được thăng chức hoặc chuyển đổi công tác tốt hơn. Nếu lạc hãm, gặp Sát tinh và Hung tinh, chủ về hình khắc phá tán, thất bại, xem 12 cung để luận giải nguyên nhân ? nội dung ? Nếu gặp Hung tinh mà được cát hóa, bất kể Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, đều chủ về trước nguy sau an. Nếu lạc hãm mà có tứ Sát cùng chiếu, lại gặp thêm Địa không, Địa kiếp, Thiên hình, chủ về có nguy cơ đến tính mạng.
Thất sát là sao của Nam Đẩu, thuộc âm Kim, Thất sát được coi là “tướng tinh”. Trong Đẩu Số có hai “tướng tinh” là Thất sát và Phá Quân, hai sao này luôn luôn tương hội ở tam phương, hai bên làm mạnh thanh thế cho nhau.
Hai “tướng tinh” Thất sát và Phá Quân có đặc tính khác nhau, cổ nhân víPhá Quân là tướng tiên phong trong quân, còn Thất sát là chủ soái trong quân, khi so sánh, Thất sát chủ về “lao tâm”, Phá Quân chủ về “lao lực”. Thất sát chủ về hành động một mình, đơn phương độc mã. Phá Quân chủ về phải đợi hiệu lệnh, mệnh lệnh ở chủ soái, phải đợi sự lựa chọn ở trên và chịu thâm ý mờ ám.
Khi tình hình Tử vi đồng độ cùng với Phá Quân, trở thành tinh hệ “Tử viPhá Quân” lại có xung đột quyền lực. Tử vi lấy tư cách tôn quý của hoàng Đế để xung trận, còn Phá Quân chịu sự điều khiển của Tử vi, nhưng lại đảm đương trọng trách tiên phong, nhiều lúc khó tránh tình huống công thủ tiến thoái bị mâu thuẫn. Thất sát thì không như vậy, lúc Tử vi và Thất sát đồng độ, thành tinh hệ “Tử vi Thất sát”, lúc này, Thất sát nhận lệnh trực tiếp từ quân vương, quyền lực càng lớn, “hóa sát làm quyền” liêm khiết chuyên chính, nên không xảy ra tình huống xung đột quyền lực.
Thất sát có tính “cứng rắn và hình khắc”, là sắc thái đặc biệt của Thất sát. Do tính “cứng rắn và hình khắc”, nên không ưa Văn xương, Văn khúc, khí chất hai bên không hợp, để tương hợp văn tinh và võ tinh, cần có điều kiện, đó là khi có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng thời hội hợp. Đặc biệt là khi “Tử vi Thất sát” đồng cung, có các Phụ diệu và Tá diệu “triều củng” sao Tử vi, sẽ trở thành đại cách.
Cổ nhân có thuyết “Thất sát thủ mệnh, thừa vượng nhập miếu, chủ về có mưu lược. Gặp Tử vi lại thêm sao Cát, ắt là đại tướng”(Thất sát thủ mệnh miếu vượng hữu mưu lược. Kiến Tử vi gia kiến chư cát, tất vi đại tướng). Còn có thuyết “Thất sát thủ mệnh, thừa vượng nhập miếu, được Tả phụ Hữu bật Văn xương Văn khúc vây chiếu, chủ về nắm quyền sinh sát, phú quý hơn người”(Thất sát thủ mệnh miếu vượng đắc Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, chưởng sinh sát chi quyền, phú quý xuất chúng).
Thất sát gặp các sao Sát Kị Hình, càng làm mạnh thêm tính “cứng rắn và hình khắc” của nó, do đó cũng làm mệnh thêm cảnh ngộ gian nan của đời người. Cổ nhân nói “Thất sát và Phá Quân, chuyên theo tai vạ của Kình dương và Linh tinh” (Thất sát Phá Quân, chuyên y, Dương Linh chi ngược), “Thất sát mà gặp bốn sao sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về chết ở trận tiền”(Thất sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong).
Lúc đại hạn và lưu niên gặp lưu Sát tinh, cũng chủ về không cát tường, cổ nhân nói “Thất sát và lưu Kình dương gặp Quan phù, chủ về xa quê hương” (Thất sát lưu Dương ngộ Quan phù, li hương tao phối), cổ nhân còn nói “Thất sát đến cung Thân hay cung Mệnh, gặp lưu niên Kình dương Đà la, chủ về tai họa tổn thương” (Thất sát lâm thân mệnh, lưu niên Dương Đà, chủ tai thương); “Thất sát gặp Kình dương và Linh tinh có lưu niên Bạch hổ, chủ về bị tai kiếp ở biên cương” (Thất sát Dương Linh, lưu niên Bạch hổ, hình lục tai biên); kết cấu hung hiểm nhất là “Thất sát thủ mệnh có Kình dương của niên hạn chiếu, người sinh năm Ngọ an ở Mão hoặc Dậu, chủ về hung” (Thất sát thủ chiếu tuế hạn Kình dương, Ngọ sinh nhân an Mão Dậu cung, chủ hung vong), đây là nói về kết cấu “Kình dương Đà la trùng điệp”.
Phàm các thuyết liên quan đến việc Thất sát gặp Sát tinh, đều cho rằng Thất sát không nên gặp thêm tứ Sát và Địa không Địa kiếp.
Thất sát được cách nổi tiếng nhất là “Hùng tú kiền nguyên”, tức là khi Thất sát và Liêm Trinh đồng cung tại Mùi, hoặc Thất sát ở Ngọ và Liêm Trinh ở Thân, hai cung chia ra một ở cung Thân và một ở cung Mệnh. Thất sát đồng độ với Liêm Trinh, tính chất biến hóa rất lớn. Cùng một cung mệnh, nhưng cách cục cao thấp có mức độ chênh lệch rất lớn (Mân phái cho rằng ở Sửu tốt hơn ở Mùi), Tam hợp phái cho rằng, có nhiều loại phối hợp ở Mùi mà có sự thành tựu lớn hơn rất nhiều so với ở Sửu. Cách nổi tiếng này ưa gặp sao Lộc, Văn xương, Văn khúc, bởi vì âm Hỏa của Liêm Trinh tôi luyện âm Kim của Thất sát, cho nên không ưa gặp các sao “dương cương” gây rối loạn lẫn lộn đầu cuối và làm tình thế khó ứng xử, lại sợ có Hỏa tinh cùng bay đến là phá cách, vì cổ nhân ví sự đồng độ của “Liêm Trinh Thất sát” là Hỏa luyện Kim, gặp thêm Hỏa tinh bay đến phá hoại, thì hỏa hầu bị mất điều hòa.
Thất sát độc tọa ở Dần, cung đối diện có “Tử vi Thiên Phủ”, thì gọi là “Thất sát ngưỡng đẩu”. Khi Thất sát độc tọa ở Thân, cung đối diện có “Tử viThiên Phủ” thì gọi là “Thất sát triều đẩu”. “Triều đẩu” và “ngưỡng đẩu” đều chủ về cuộc đời gặp nhiều cơ hội, còn chủ về năng lực quản lý tốt. Nếu gặp “tam cát hóa” có thêm cát tinh chủ về đại quý; nếu đồng thời có thêm Sát tinh chủ về theo nghề sản xuất hoặc theo những nghề mà tài năng quản lý được phát huy.
Bất kể là nhập cách hay không nhập cách, người có Thất sát độc tọa thủ mệnh, cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, trắc trở; dù có chính diệu khác đồng độ, ắt cũng phải trải qua một thời kỳ khốn khó, nếu gặp Sát tinh tụ hội thì khốn khó trắc trở càng nặng hơn, chủ về phá tán gẫy đổ. Cho nên cần phải “hành động thiết thực” để giữ vững hiện trạng, không nên đầu cơ may rủi. Nếu gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Lộc tồn, Hóa Lộc, chủ về cuộc đời sẽ được bạn bè hiệp trợ và trợ lực, nhờ đó mà vượt qua ải khốn khó.
Khi đánh giá tình huống cát hung của Thất sát độc tọa, cần phải chú ý tính “cứng rắn và hình khắc” của Thất sát ở mức độ nào; nhất là nữ mệnh, quá “cứng rắn và hình khắc” ắt sẽ “hình phu khắc tử”, đời người khó tránh cô tịch.
Thất sát tối kị Kình dương Đà la, cũng không ưa gặp sao Tuyệt và không ưa ở vào tình thế hãm địa, Cổ nhân nói “Thất sát mà đến đất Tuyệt, hội hợp với Kình dương Đà la, tuổi trời như Nhan Hồi” (Sát lâm tuyệt địa hội Dương Đà, thiên niên thiên tự Nhan Hồi), “Tuyệt địa” ở đây tức là vị trí sao Tuyệt trong “Ngũ hành Trưởng sinh thập nhị thần”, thuyết này tuy nói quá nghiêm trọng, nhưng cũng chủ về cuộc đời nhiều âu lo, nạn tai, bệnh tật. Hơn nữa, kết cấu tinh hệ kiểu này có cách cục không cao, chỉ thích hợp theo ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật hoặc những nghề chuyên nghiệp thông thường.
Cổ nhân nói “Thất sát hãm địa, chủ về nên dùng tay nghề khéo để mưu sinh” (Thất sát hãm địa, xảo nghệ mưu sinh). Gặp tinh trạng này, rất nên gặp các sao Văn xương, Văn khúc, Long trì, Phượng các, Thiên tài, chủ về làm tăng thêm thông minh tài trí trong nghề nghiệp. Nếu gặp Sát tinh thì nên theo Võ nghiệp hoặc những nghề nghiệp có “sát khí”, tức chọn những nghề dính dáng đến kim loại, công cụ bén nhọn để mưu sinh. Cổ nhân nói “Thất sát có Kình dương Đà la hội hợp mệnh đồ tể” (Thất sát Dương Đà hội sinh hương đồ tể chi nhân) là nói về lý này. Nhưng nếu gặp Văn xương Văn khúc, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì lại chủ về có địa vị cao trong xã hội.
“Thất sát Liêm Trinh” đồng độ ở tại cung Mệnh hoặc cung Thiên di, gặp Kình dương Đà la và Hóa Kị, hơn nữa còn có lưu Kình, lưu Đà, lưu Kị xung khởi, đây là cách cục nổi tiếng “Sát củng Liêm Trinh cách”, chủ về đi xa có chuyện bất trắc. Có thuyết “Liêm Trinh Thất sát đồng cung, chủ về chôn thây trên đường” (Liêm Sát đồng vị, lộ thượng mai thi), gặp Vũ Khúc Hóa Kị và Liêm Trinh Hóa Kị thì càng nghiệm. Thất sát có Phá Quân, Liêm Trinhhội hợp, cũng chủ về tai nạn giao thông.
Tổ hợp Thất sát ở 12 cung ắt sẽ đối diện với Thiên Phủ, tính vững vàng của Thiên Phủ và tính xung kích của Thất sát sẽ hình thành sự xung đột, khi luận giải cần phải xem xét kỹ sự ảnh hưởng lẫn nhau của chúng.
Thất sát độc tọa ở Tý hoặc Ngọ, sẽ đối diện với “Vũ Khúc Thiên Phủ”. Ở Mão hoặc ở Dậu thì “Thất sát Vũ Khúc” đồng độ; cho nên tứ vượng Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp “Vũ Khúc, Thất sát, Thiên Phủ”.
Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất sẽ đối củng với “Liêm Trinh Thiên Phủ”; ở Sửu hoặc ở Mùi có “Thất sát Liêm Trinh”, cho nên tứ mộ Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp “Liêm Trinh, Thất sát, Thiên Phủ”.
Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân sẽ đối củng với “Tử vi Thiên Phủ”, ở Tị hoặc ở Hợi có “Tử vi Thất sát” đồng độ, cho nên tứ sinh Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp “Tử vi, Thất sát, Thiên Phủ”.
Biệt cách
Các sao có liên quan mật thiết với Thất sát, đó là Phá Quân và Tham Lang. Ba sao này hội chiếu ở tam phương, gọi là tổ hợp “Sát Phá Tham”.
Thất sát bài bố ở 12 cung, cấu tạo cơ bản được phân làm 6 tổ hợp như sau:
• Ở Tý Ngọ, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Vũ Khúc Thiên Phủ”
• Ở Sửu Mùi, Thất sát đồng độ với Liêm Trinh
• Ở Dần Thân, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Tử vi Thiên Phủ”
• Ở Mão Dậu, Thất sát đồng độ với Vũ Khúc
• Ở Thìn Tuất, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Liêm Trinh Thiên Phủ”
• Ở Tị Hợi, Thất sát đồng độ với Tử vi
Từ các tổ hợp này có thể thấy, các sao có quan hệ với Thất sát, ngoại trừPhá Quân và Tham Lang ra, còn phải kể thêm bốn sao Tử vi, Thiên Phủ,Liêm Trinh, Vũ Khúc.
Thất sát rất ưa gặp Tử vi, cho nên khi thủ mệnh ở tứ sinh Dần Thân Tị Hợi, phần nhiều dễ “hợp cục nhập cách”, mà trở thành cát tường. Tổ hợp “Tử vi Thất sát” hóa làm “quyền lực”. Thất sát ở cung đối diện với Tử vi, cũng chủ về làm tăng “sức khai sáng” của mệnh cách; nhưng tính chất của Thiên Phủ đồng thời lại khiến cho mệnh tạo rơi vào hư ảo; nhìn từ mặt tích cực, Thất sát ở Tị Hợi sẽ tốt hơn ở Dần Thân, nhưng người có Thất sát thủ mệnh ở Dần Thân lại sống có ý vị triết học, không như người có Thất sát thủ mệnh ở Tị Hợi, luôn luôn cảm thấy không thỏa mãn dục vọng quyền lực.
Thất sát đồng độ với Liêm Trinh, tính nhu của Liêm Trinh có thể hóa giải tính cương của Thất sát, lúc này cần phải xem các sao Phụ diệu và Tá diệu hội hợp để định, nếu Hung thì thiên nặng về nhục dục, nếu Cát thì phẩm cách cương trực trung chính, còn thêm mấy phần khí chất văn nghệ, phong lưu nho nhã, tuyệt đối không có chút gì hạ lưu. Nhưng Thất sát đối nhau với “Liêm Trinh Thiên Phủ”, là có thêm mấy phần cảm khái, thường cảm thấy cuộc đời không đẹp như “hoa trong gương” hay như “trăng dưới nước”, lúc này khiến cho mệnh cách như một chiến tướng dục tốc trên chiến trường, xông pha trong mũi tên hòn đạn.
“Thất sát Vũ Khúc” đồng độ, là một tổ hợp tinh hệ rất tích cực mà lại thiếu tài lãnh đạo. Có Thiên Phủ ở cung đối diện hội chiếu, nên tài năng độc lập của Thất sát lại dễ được phát huy, nhưng thường có biểu hiện độc, cho nên có khuyết điểm về năng lực lãnh đạo. Trong các tổ hợp tinh hệ của Thất sát, thì tổ hợp này được xếp vào loại ưu, sóng gió ít và nhỏ, nếu để tìm một cuộc sống an định, đương nhiên mệnh cách này là thích hợp.
Thất sát thủ cung, chủ về hành động thiết thực
Trong Đẩu Số, Thất sát là sao “cương mãnh”, phối tam phương Sát Phá Tham là có thâm ý. Lực phá hoại của Phá Quân và tính khéo ăn khéo ở của Tham Lang được nhuyễn hóa trong vô hình, toàn bộ tính phá hoại củaPhá Quân không còn dư lực, còn tính phá hoại của Thất sát thường là chủ mưu tính toán để hành động, tổ hợp Sát Phá Tham hội hợp có sắc thái “cương nhu tương tế”. Người có Thất sát thủ mệnh, có đặc điểm là thiết thực, không nịnh bợ nịnh hót, không chần chừ, dứt khoát không lần nữa, không cẩu thả. Khi Thất sát hội với các sao quá mạnh, như găp Hỏa tinh Linh tinh, thì mệnh cách dễ chuốc lấy oán hận, nếu hội với Địa không Địa kiếp thường cảm thấy tâm hồn trống rỗng, sinh hoạt xã giao ít hợp quần.
Xã hội thời cổ đại, người có nghề đặc thù, mới có cảnh ngộ “độn thế và nhập thế” được gọi là cao nhân ẩn sĩ, cho nên cổ quyết nói “Thất sát hãm địa, nhờ tay nghề khéo mà mưu sinh”, “Tính thê lương thì số nên làm tăng nhân, đạo sĩ”. Thực ra, người có Thất sát thủ mệnh không như cổ thư nói, trong xã hội ngày nay, người có Thất sát là người có hành động thiết thực, như cổ thư nói “Thất sát nhập Mệnh Thân, gặp cát tinh, ắt sẽ trải qua gian khổ”, đây là một đánh giá thỏa đáng; không như Tham Lang dễ khéo léo mưu lợi, cũng không như Phá Quân phá hoại tất cả, một sống hai chết, không cần phải xem xét lại, còn Thất sát thì đương nhiên “trải qua gian khổ” sau mới có thành tựu.
Người có Thất sát thủ mệnh, phần nhiều sức đề kháng tiên thiên của Phổi không đủ, trước kia y dược còn lạc hậu, vì vậy cho rằng Thất sát mà hội thêm với Hung tinh thì dễ yểu mạng, cho rằng nguyên nhân chết là vì bệnh Phổi và bệnh suyễn khí. Ngày nay Y học đã có những tiến bộ vượt bậc, luận đoán này không còn ứng nghiệm.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
nhaque1123
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2909
Tham gia: 23:07, 28/10/14

TL: Thất sát luận đàm!

Gửi bài gửi bởi nhaque1123 »

Nữ mệnh Thất sát độc tọa cung Phúc đức
Thất sát có đặc tính trôi nổi, hiếu động, cổ nhân cho rằng không thích hợp với nữ mệnh, ngày nay vẫn có người nệ cổ cho rằng “Nữ mệnh Thất sát độc tọa ở Phúc đức ắt sẽ thấp hèn”. Khi cung Phúc đức ở Tý hoặc ở Ngọ có Thất sát độc tọa, cung Mệnh ắt sẽ là tinh hệ “Tử vi Thiên Tướng”, cổ nhân cho rằng tinh hệ này có tính chất “vô tình vô nghĩa”, thêm vào cung Phúc đức có Thất sát độc tọa mang tính “hiếu động trôi nổi”, và cổ nhân lập thuyết cho rằng, không thích hợp với nữ mệnh. Ở xã hội hiện đại, chỉ chủ về mệnh cách không chịu an phận thủ thường với hoàn cảnh đang sống, mà thường tìm cơ hội thay đổi để thỏa với nhu cầu đòi hỏi của cuộc sống. Tính cách này thường phản ánh ở cung Sự nghiệp, không nhất định ảnh hưởng đến đời sống hôn nhân.
Nếu Thất sát độc tọa cung Phúc đức ở Dần hoặc ở Thân, cung Mệnh ắt là “Liêm Trinh Thiên Tướng” ở Tý hoặc ở Ngọ, còn cung Phu là Tham Langvà cung Sự nghiệp là Vũ Khúc, với mệnh bàn cấu tạo theo cách này, các sao đều bất lợi về tình cảm, do đó cổ nhân cho rằng đây là mệnh “xướng kỹ, tỳ thiếp”, bởi vì thời cổ đại, “xướng kỹ, tỳ thiếp” thường ứng với loại nữ giới hay đùa giỡn với tình cảm. Xã hội ngày nay, tình cảm xung động nhất thời của con người, cũng như những tình cảm giao động của nữ mệnh, không hẳn là nhân tố quyết định đổ vỡ hạnh phúc gia đình.
Nếu Thất sát độc tọa cung Thìn hoặc Tuất, thì cung Mệnh ắt sẽ là “Vũ KhúcThiên Tướng ở Dần hoặc ở Thân, cổ nhân cho rằng “Vũ Khúc là sao cô quả” nên bất lợi về hôn nhân. Trên thực tế, nữ mệnh có mệnh cách loại này, sở trường mạnh nhất là “cơ trí”. Thời cổ đại, phụ nữ phải lo lắng chăm sóc gia đình, luôn ở trong nhà, “cơ trí” không có đất dụng võ, mà thường phát triển biến thái thành tính “ngầm hại nhau bằng kế mọn”, đương nhiên không thể kết luận là mệnh cách tốt. Xã hội hiện đại, chế độ đại gia đình đã không tồn tại, người phụ nữ có sự nghiệp của riêng mình, người có mệnh cách loại này, ngoài việc giỏi giang biết chăm lo gia đình, còn giỏi việc giữ tiền và sử dụng đồng tiền, không chỉ nghĩ tới bản thân mà sự nghiệp cũng có phát triển nhất định. Làm sao nói là “mệnh thấp hèn” ?
Thất sát cư sửu mùi hai cung, thiên di cung tất là thiên phủ, chủ bên ngoài cương cường mà nội tâm giàu tình cảm, dễ sinh tư tưởng xuất thế( cao ngất), nhiều ý niệm trách trời thương dân, đối với hôn nhân bất lợi.
Thất sát hội thái dương cự môn ở nơi đế vượng là cát xử tàng hung ( trong cát có hung).Chủ nhân đang ở thuận cảnh chợt sinh kịch biến, nên giấu tài giấu nghề.
Thất sát là tướng tinh, tác dụng của khôi việt xương khúc, cùng hóa lộc, hóa quyền, hóa khoa có thể nói không trọng yếu, chỉ gia tăng thanh thế, không bằng phân phối cát diệu vào các cung vị khác, đối với nam mệnh thất sát, nên là phúc đức cung kiến cát tinh, nữ mệnh thất sát, tất nên là phu thê cung kiến cát tinh.
Sửa lần cuối bởi nhaque1123 vào lúc 21:55, 18/01/17 với 1 lần sửa.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
nhaque1123
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2909
Tham gia: 23:07, 28/10/14

TL: Thất sát luận đàm!

Gửi bài gửi bởi nhaque1123 »

THẤT SÁT TỌA THỦ TÝ NGỌ
Người mà sao Thất sát tọa thủ Tý Ngọ, là độc tọa thế vượng, tam phương tứ chính nếu chưa gặp tứ sát và sao Hóa Kị, là mệnh cách "Thất sát triều đẩu", chủ về người có mưu lược, tài năng, có khả năng nhẫn nại tốt, sáng tạo có kế hoạch, có khả năng tư duy phân tích, dũng mãnh quyết đoán, cuộc đời nhiều biến đổi bôn ba vất vả, dễ gây thị phi. Những năm đầu thì thường vất vả, nhưng có thể khắc phục được khó khăn để đạt tới thành công.
Sao Thất sát ở Tý Ngọ, nếu được sao Thiên hình, Kình dương hội chiếu, lại gặp cát tinh, thì có thể trở thành bác sỹ ngoại khoa hoặc bác sỹ nha khoa. Nếu cung đối diện (Thiên di) có sao Vũ Khúc tương phùng Hóa Lộc, lại đồng cung với sao Lộc tồn thì có thể làm chủ quản tài chính.
Thất sát ở Tý Ngọ tọa mệnh thế vượng, cung đối diện (Thiên di) tất phải gặp sao Thiên Phủ (Tý là nhập miếu, Ngọ là thế vượng) và sao Vũ Khúc ở thế vượng, cung Tài bạch có sao Tham Lang ở thế bình, cung Quan lộc có sao Phá Quân ở thế vượng. Là người giao tiếp rộng, xuất ngoại có quý nhân phù trợ, di chuyển hoặc đổi ngành có nâng đỡ, biến động lớn, lao tâm lao lực, trải qua nhiều gian khổ, ý chí kiên cường, cuối cùng sẽ đạt được thành công, thích hợp phát triển ở khu vực thành phố; ham muốn kiếp tiền lớn, thường không chọn thủ đoản, có vận thiên tài, chi tiêu nhiều thường không biết tiết kiệm. Có thể là người đứng đầu của một loại kỹ năng, thường theo đuổi công việc có tính sáng tạo, tính mạo hiểm kể cả nguy hiểm, thường chủ quan dựa vào nghị lực để thực hiện đột phá.
Thất sát độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện có “Vũ khúc Thiên phủ” đồng độ, các cung tam phương là Phá quân độc tọa và Tham Lang độc tọa.
Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ, đối nhau như vậy có thể nói đây là mệnh cách vào loại mạnh, nhất là Thất sát ở Ngọ, gặp Cát tinh là thành cách “Hùng tú kiền nguyên”, chủ về tuổi trẻ trải qua gian khổ sau đó hưng phát. Nếu Thất sát ở Tý gặp Sát tinh tụ hội, chủ về trung niên hoặc vãn niên rất vất vả, gian khổ, khiến cổ nhân có thuyết “nhảy sông trầm mình”, khi không gặp Sát tinh trùng trùng, vẫn chủ về mệnh cách có thành tựu.
Muốn luận giải Thất sát ở Tý Ngọ, cần phải phân biệt Thất sát thuộc loại “quyền uy” hay thuộc loại “khắc kị”.
Hễ Thất sát có sao Lộc thì không phải “khắc kị”. Thất sát rất ưa Tham LangHóa Lộc, không những tính chất của Thất sát được Tham Lang Hóa Lộc điều hòa, mà Liêm Trinh của cung Phúc đức cũng được điều hòa, rất đúng với cách “Hùng tú kiền nguyên”.
Vũ khúc Hóa Lộc cũng tốt, khiến cho Thiên phủ đồng độ cũng có sao Lộc, hội hợp và vây chiếu Thất sát cùng Liêm Trinh cũng là thượng cách, có tính chất “quyền uy”.
Phá quân Hóa Lộc ắt sẽ đối nhau với Tham Lang Hóa Kị, ảnh hưởng tới tính chất của Liêm Trinh, do vậy Thất sát cũng bị chi phối bởi nhiều lo lắng, tuy không ảnh hưởng đến tính “quyền uy”, nhưng đời người gian khổ hơn.
Mệnh cách loại này rất ái ngại khi Vũ khúc Hóa Kị, hoặc Liêm Trinh ở cung Phúc đức Hóa Kị, khiến cho Thất sát có tính “khắc kị”. Nếu lại gặp các sao Sát Hình, thì nội tâm nhiều lo lắng, nhất là nữ mệnh chủ về tình cảm “trống không”.
Thất sát rất ngại đồng độ với Kình dương, sẽ làm tăng tính “khắc kị” rất nặng, cũng không ưa Hỏa tinh, nếu có “Hỏa tinh Kình dương” đồng thời bay đến, thì tính “khắc kị” của nó làm cho đời người gặp nhiều tai nạn, sức khỏe cũng có vấn đề.
Rất ưa có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt tụ hội, không gặp Sát tinh, dù không có cát hóa cũng chủ về “quyền uy”.
Cung hạn “Thái âm Thái dương” đồng độ, Thất sát thuộc loại “khắc kị” ưa Thái dương nhập miếu Hóa Lộc hay Hóa Quyền, còn Thất sát thuộc loại “quyền uy” thì ưa Thái âm nhập miếu Hóa Lộc hay Hóa Quyền. Khi Thái dương nhập miếu cát hóa sẽ làm giảm nhẹ tính “khắc kị” của Thất sát, tính “khắc kị” được hóa giải. Khi Thái âm nhập miếu cát hóa sẽ làm hòa hoãn khí “quyền uy” của Thất sát. Nếu Thái âm hay Thái dương Hóa Kị, thì Thất sát thuộc loại “khắc kị” rất ngại, ắt sẽ xảy ra phá tán, thậm chí bị người gây lụy.
Niên hạn gặp năm Sửu hoặc năm Mùi, phải mượn “Thái âm Thái dương” để an cung, thì ngoài những tính chất kể trên, do lúc Thái âm Hóa Lộc thì Cự môn ở cung Tài bạch ắt cũng Hóa Kị, vì vậy gây ra những nhân tố không phù hợp với Thất sát, chủ về vận lúc trẻ gặp nghịch cảnh (Thất sát ở Tý thì cung mệnh của lưu niên ở Sửu, Thất sát ở Ngọ thì cung mệnh của lưu niên ở Mùi).
Cung hạn Liêm Trinh độc tọa, ưa có sao Lộc, đây là vận thế hưng phát của Thất sát, nếu gặp thêm các Phụ, Tá, ở nguyên cục loại Thất sát “quyền uy”, chủ về trong vận sẽ tự sáng lập sự nghiệp.
Nếu Liêm Trinh Hóa Kị, lại gặp các sao Sát Hình Hao, thì người theo Võ nghiệp phải đề phòng xảy ra bất trắc, nếu nguyên cục là loại Thất sát “khắc kị” thì càng thêm nặng, dù không theo võ nghiệp cũng phải đề phòng tai nạn đổ máu.
Vũ khúc Hóa Kị của loại nguyên cục Thất sát “khắc kị” càng là bất lợi. Đạo “xu cát tị hung” là làm những nghề có liên quan đến “máu”, như nha sỹ, bác sỹ ngoại khoa, khoa phụ sản, hoặc nghề dịch vụ tang lễ, hỏa thiêu, đồ tể… để giảm thiểu tính “khắc kị”.
Thông thường, Thất sát “quyền uy” ưa đến cung hạn Phá quân độc tọa, thêm cát hóa, có Cát tinh, ắt sẽ có chuyển biến theo hướng tốt lành. Thất sát “khắc kị” thì không ưa gặp cung hạn Phá quân, dù có các Cát tinh hội hợp, cũng phải trải qua thất bại trước rồi mới chuyển biến thành tốt lành. Nếu hội các sao Sát Hình, thì thất bại rất nặng, loại Thất sát “khắc kị” đến cung hạn này là vận hung hiểm.
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, Thất sát “khắc kị” cũng không ưa đến, chủ về tâm trạng không ổn định, các sao Hình Kị mà nặng, sẽ chủ về gặp tai nạn, bệnh tật. Thất sát “quyền uy” mà đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, thì lại là vận tốt, còn là vận có thu hoạch, nếu gặp thêm cát hóa thì càng thêm tốt.
Xét lưu niên, Thất sát “khắc kị” phần nhiều đều bất an, nhưng Thất sát “quyền uy” lại là năm định hình sự nghiệp.
Cung hạn “Vũ khúc Thiên phủ” đồng độ, bất kể là lưu niên hay đại hạn, Thất sát “quyền uy” đều ưa đến, chủ về tài lộc dồi dào, hoặc lập được công nghiệp. Đối với Thất sát “khắc kị”, thì phải có lưu diệu cát tường hội hợp với “Vũ khúc Thiên phủ” thì mới xét là tốt, nếu lại gặp Sát tinh hoặc hung tinh bị “hóa”, thì chủ về bị tai nạn rất lớn. Ở cung hạn này, Thất sát rất ưa gặp lưu Lộc hoặc gặp Hóa Lộc, tính “khắc kị” của Thất sát mới được hóa giải để giảm thiểu được nạn tai.
Tham Lang độc tọa, là cung hạn Thất sát ưa đến, dù có tính “khắc kị” cũng chủ về một năm thuận lợi toại ý, nếu được cát hóa và có Cát tinh, còn là thời kỳ tài lộc dồi dào. Bất kể là lưu niên hay đại hạn đều đúng. Thất sát “quyền uy” cũng ưa đến vận hạn hay niên hạn gặp Tham Lang, chủ về vận thu hoạch.
Tham Lang Hóa Kị thì Phá quân đồng thời Hóa Lộc, chỉ chủ về tăng thêm vất vả gian khổ mà thôi. Chỉ khi có các sao Sát Kị Hình Hao cùng đến, thì đây là vận hạn không như ý, nhưng không chủ về nạn tai.
Cung hạn “Thiên Cơ Cự môn” đồng độ, chỉ sợ Cự môn Hóa Kị (ở đại hạn hay lưu niên), sao hội chiếu mượn Thái dương Hóa Kị để an cung, lại gặp Sát tinh, loại Thất sát “khắc kị” chủ về bị người gây lụy, hoặc bị người tranh đoạt. Nữ mệnh cần đề phòng một năm hay một vận phải ôm hận, hối tiếc. Nếu Thiên Cơ Hóa Kị (ở đại hạn hay lưu niên) hội chiếu Thái âm Hóa Kị, loại Thất sát “khắc kị” mà đến cung hạn này, chủ về bị người mưu ngầm hãm hại ám toán, ngầm phá hoại mà thất bại. Thất sát “quyền uy” gặp cung hạn này cũng bất lợi, chủ về gây ra điều tiếng thị phi, kiện tụng, hoặc do kế hoạch sai lầm mà chịu tổn thất.
Nếu gặp cung hạn có cát hóa, lại hội cát tinh, đối với Thất sát “khắc kị” chủ về sự nghiệp tuy thuận, nhưng phải đề phòng vì tửu sắc mà chuốc họa. Đối với Thất sát “quyền uy”, thì đây là thời kỳ ổn định.
Cung hạn “Tử vi Thiên tướng” đồng độ, thông thường là đại hạn hay lưu niên, mà loại Thất sát “quyền uy” ưa đến, nhưng chỉ hơi gặp Sát tinh, thì không nên tự sáng lập khai mở sự nghiệp mới, thường chủ về hành động mù quáng, quyết định giải pháp nóng vội nên bị người công kích phản đối, hoặc bị cạnh tranh không lành mạnh. Loại Thất sát “khắc kị” đến cung hạn này, lại gặp các sao Sát Kị Hình Hao, chủ về điềm tượng phá tán thất bại. Nếu là đại hạn, thường trong lúc đang thành công thì đột nhiên xảy ra trắc trở.
Cung hạn Thiên Lương độc tọa, thường thường là vận trình Thất sát phải rời xa quê hương, nếu không, cũng chủ về nội tâm bất an. Cung hạn Thiên Lương rất kị Thiên đồng Hóa Kị hội chiếu, lại có Đà la đồng độ, đây là vận hạn Thất sát “khắc kị” bị lục thân lạnh nhạt. Nhất là nữ mệnh, dễ xảy ra rắc rối về tình cảm, yêu người đã có gia đình. Nếu Thiên Lương có cát hóa và Cát tinh, thì Thất sát “khắc kị” nảy sinh ý muốn độc lập trong lưu niên hoặc đại hạn này. Đối với Thất sát “quyền uy” thì đây là niên vận đặt nền tảng cho sự nghiệp, nhưng vẫn không tránh được tình hình bất ổn.

Vận mệnh Tuế quân năm Giáp:
Cung Quan lộc có sao Phá Quân Hóa Quyền, cung Thiên di có sao Vũ Khúc Hóa Khoa. Hoàn cảnh nhiều biến động, có thể làm tăng năng lực khai sáng của sao Phá Quân trong Thiên la Địa võng, chủ động mưu cầu phát triển ở những mặt tốt, vượt qua trùng trùng khó khăn sau gian khổ sẽ có thành công; có danh vọng, xuất ngoại có quý nhân phù trợ, hiệu quả làm việc tốt, kiếm tiền ổn định, có cơ hội thăng tiến, tâm tính tương đối cởi mở.
Người sinh năm Giáp Thân, Giáp Tý, Giáp Thìn khi mệnh tọa ở Ngọ, hoặc người sinh năm Cân Dần, Canh Ngọ, Canh Tuất khi mệnh tọa ở Tý, có sao Lộc tồn và Thiên mã nhập cung Tài bạch, nếu không có Hỏa tinh, Linh tinh xung phá, đây là mệnh cách Lộc Mã giao trì, càng biến động thì càng sinh tài, cả đời có nhiều cơ hội đi du lịch.
Người có Tuế quân là Ất hoặc Kỷ có mệnh tọa ở Tý, hoặc người có Tuế quân là Tân có mệnh tọa ở Ngọ, thì hai sao Thiên khôi và Thiên việt lần lượt ở cung Mệnh và cung Tài bạch tam phương hội chiếu, đây là mệnh cách Thiên Ất củng mệnh chủ về văn chương cái thế, thường được quý nhân phù trợ.
Người có Tuế quân là Bính hoặc Mậu có mệnh tọa ở Ngọ, sao Kình dương rơi vào cung Mệnh, đây là mệnh cách Mã đầu đới tiễn nếu không đoản mệnh thì bị hình thương, thường phải rời xa quê hương, phiêu bạt bất định, đời gặp nhiều nguy hiểm khó khăn. Đại hạn, tiểu hạn hoặc lưu niên gặp phải thì dễ gây ra thị phi, nếu tuổi trung niên gặp phải thì phải đặc biệt lưu ý đến sức khỏe.
Thất sát độc tọa Tý Ngọ
Thất sát độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện xung chiếu là “Vũ KhúcThiên Phủ”. Khi Thất sát ở Tý, cổ nhân có thuyết “Vũ Khúc, Phá Quân,Tham Lang hội hợp Tý, nhảy sông tự vẫn” (Vũ Phá Tham hội vu Tý, đầu hà nịch thủy), tuy nhiên thuyết này còn phải nghiên cứu thêm. Theo truyền thừa của Nam phái, khi Thất sát ở Tý gặp Vũ Khúc, Phá Quân, Tham Lang, năng lực kháng cự Hung tinh của Thất sát sẽ yếu đi, nếu có đột biến xung lực thì lại không đúng nơi đúng chỗ, cho nên Thất sát độc thủ ở Tý không bằng độc thủ ở Ngọ.
Có điều, Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ, chủ về được quý nhân quan tâm, bạn bè trợ giúp. Nếu có Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc hội chiếu, lại được Vũ Khúc Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền ở cung đối diện xung chiếu hiệp trợ, chủ về theo võ nghiệp, hoặc theo nghiệp chuyên quản về tài chính kinh tế, cổ nhân gọi là “văn võ toàn tài”. Nhưng nếu có tứ Sát cùng chiếu, lại thêm Thiên hình, Âm sát, Thiên hư hội chiếu, chủ về chết nơi sa trường.
Nếu không gặp cát tinh, cũng chủ về người có mưu lược, nên theo ngành công thương nghiệp, tuy cuộc đời khó tránh một lần gặp sóng to gió lớn, nhưng nhất định sẽ lại hồi phục đứng lên.
Nếu Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ mà gặp Kình dương, Thiên hình, thì có thể theo nghề bác sỹ ngoại khoa, hoặc nha sỹ. Gặp Vũ Khúc Hóa Lộc hay Hóa Quyền ắt thành danh y.
Sửa lần cuối bởi nhaque1123 vào lúc 22:03, 18/01/17 với 1 lần sửa.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
nhaque1123
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2909
Tham gia: 23:07, 28/10/14

TL: Thất sát luận đàm!

Gửi bài gửi bởi nhaque1123 »

Thất sát và Liêm Trinh đồng cung
Liêm Trinh có khả năng làm thân với người mau lẹ, được người xử sự thật tình, như có ma lực . Dễ vượt hơn người khác, dễ bị người ghét.
Thất Sát tính nóng, thích làm kẻ anh hùng trượng nghĩa, bất kể hậu quả. Hai sao hợp lại thành người xung động, nhất định đạt mục tiêu bất kể phương pháp, tạo thành cảnh ngoài tốt đẹp trong chẳng có gì, khổ tâm không dám tiết lộ . Đời sống vì thế chỉ đạt được vật chất, còn tinh thần thiếu thốn . Chỉ đạt mục tiêu ngắn hạn, mà không chịu nhìn xa . Nên sống như nước chảy mây trôi, đời khó lòng định hướng.
Chỉ đồng cung tại Sửu Mùi, là "mộ địa" , tạo nhiều trở ngại, nên đối với người thường không hòa thuận, hay gặp nhiều khó khăn về tiền bạc . Cả hai sao cùng thích động, không chịu nổi tĩnh . Nên nếu không có yếu tố cứu giải tất đời sống gặp rất nhiều phiền toái . Nếu tôn sùng tôn giáo thì đỡ đi nhiều.
Ưu điểm : Tính tình hào phóng, bất chấp tiểu tiết, dám làm dám chịu, khi lâm sự bất kể gian khổ, hiểm nguy, xử sự đơn giản mau chóng, có tình thần hiệp nghĩa, biết tôn trọng danh dự kẻ khác, đầu óc rộng rãi.
Khuyết điểm : Tự tung tự tác, thích gì làm nấy, không suy nghĩ cặn kẽ nên lâm vào nhiều cảnh khó khăn . Thiếu may mắn về đường hôn nhân, thường bị miệng tiếng thị phi, thường vô tình đụng chạm kẻ khác mà bị phiền toái.
Sao Thất sát và sao Liêm Trinh đồng cung ở Sửu hoặc ở Mùi, tam phương hội hợp với các sao “Vũ Khúc Phá Quân” và “Tử vi Tham Lang”, và gặpThiên Phủ ở cung Thiên di. Kết cấu này tuy toàn là sao mạnh, nhưng bịThiên Phủ của cung đối diện gây ảnh hưởng, nên, lại chủ về muốn khai sáng nhưng lại quá thận trọng, sở trường nhất là quản lý tài chính, thường không vì hưng phấn nhất thời mà phạm sai lầm, có điều vẫn khó tránh khỏi chìm đắm trong thú hưởng lạc.
Liêm Trinh bị ảnh hưởng bởi Thất sát, nên phần nhiều tâm tính hay thay đổi, vì vậy không thể làm việc quá lâu ở một bộ phận chuyên trách nào, cũng như không thể theo đuổi một sự việc quá dài lâu, khi tình trạng công việc phải tuân thủ theo thời gian lâu dài, thường nảy sinh tâm trạng buồn bực, chán nản, hờ hững, nhiệt tình thuyên giảm, thường không theo đuổi công việc từ đầu đến cuối, do vậy tính kiên nhẫn và khả năng chịu đựng thường ảnh hưởng đến mệnh cách. Mệnh tạo cũng không được thừa hưởng tổ nghiệp hoặc giữ nghiệp của cha, thậm chí còn không ưa kế thừa nghề của cha. Do hay thay đổi, nên đời người cũng khó tránh phải trải qua nhiều gian khổ.
“Thất sát Liêm Trinh” ưa biến động thay đổi, nên thích hợp với những chức vị hành chính, do tính chất đào hoa của Liêm Trinh bị Thất sát tác động ảnh hưởng, nên có tính yêu thích văn hóa văn nghệ, nhất là thi phú âm nhạc; nếu gặp Văn xương Văn khúc hội hợp, sở thích yêu văn nghệ càng phát triển; nếu gặp thêm các sao Sát Kị cùng tụ tập, phần nhiều khó tránh có những sở thích không lành mạnh phong hoa tuyết nguyệt, mê đắm tửu sắc. Nhưng bất kể thế nào, mệnh tạo sẽ không vì tửu sắc mà khuynh gia phá sản.
Kết cấu tinh hệ giầu tính biến động thay đổi, thích quản lý tài chính, nên thường muốn hợp tác với người để thúc đẩy sự nghiệp kinh doanh, nhưng trong quá trình hợp tác, nếu ở cương vị lãnh đạo hay ở cương vị chủ chốt, thì công việc kinh doanh và sự nghiệp sẽ phát triển không thuận lợi. Có từ hai ba Sát tinh trở lên hội chiếu, thì nên chuyển hướng theo ngành công nghệ.
“Thất sát Liêm Trinh” thủ mệnh, chủ về đường hô hấp yếu; nếu có Hồng loan, Thiên hỷ đồng cung và đối chiếu, chủ về mắc bệnh hen xuyễn. Nếu Hóa Kị mà còn gặp Đà la đồng độ, phần nhiều chủ về bệnh máu mủ. Có Hóa Kị lại gặp tá Sát hội cùng chiếu, mà không có Hóa Lộc hoặc có Lộc tồn và Văn xương Văn khúc giải cứu, chủ về cả đời thân thể hư nhược, hoặc yểu mạng; Có tứ Sát cùng chiếu mà còn gặp các sao Hình Kị, chủ về các bệnh máu như tăng bạch huyết cầu, thiếu máu bẩm sinh, bệnh máu trắng.
Tinh hệ “Thất sát Liêm Trinh” đồng độ, khi mà Liêm Trinh Hóa Kị còn gặp tứ Sát, cổ nhân có thuyết “chôn thây trên đường” (lộ thượng mai thi); vào đại hạn Bính (như Bính Tý, Bính Dần, …), hoặc lưu niên Bính, cần phải đặc biệt cẩn thận, không nên đi xa.
Nữ mệnh gặp tinh hệ “Thất sát Liêm Trinh”, thường dung mạo ưa nhìn, nhưng khó bị người khác giới dụ dỗ, cung Phu tất có Thiên Tướng, nếu không gặp các sao Sát Kị thì hôn nhân hạnh phúc, phu xướng phụ tùy, vợ chồng đồng lòng thì sự nghiệp ắt sẽ phát triển, nhưng phần nhiều dễ vì đối tượng không hợp ý mà kết hôn muộn. Thích hợp nhất là lấy chồng hơn mình tám tuổi trở lên.
“Thất sát Liêm Trinh” của đại hạn và lưu niên, chủ về có biến động thay đổi, gặp cát tinh thì thăng tiến phát triển rộng, hoặc được tăng lương, chủ về có tích lũy; gặp Sát tinh thì không nên chủ động thay đổi. Nếu các sao Hình Kị cùng đến, nhất là Vũ Khúc Hóa Kị gặp Liêm Trinh Hóa Kị, mà không gặp Hóa Lộc, Lộc tồn giải cứu, cần phải đề phòng tai nạn chảy máu, không nên đi xa, tránh mọi tranh chấp kiện tụng.
Thất sát và Liêm Trinh đồng độ ở Sửu hoặc ở Mùi, cung đối diện là Thiên phủ độc tọa, cung tam phương là “Tử vi Tham Lang” và “Vũ khúc Phá quân”, tính chất cấu tạo của tổ hợp sao khá phức tạp.
Muốn luận đoán bản chất của tinh hệ “Liêm Trinh Thất sát” ở Sửu Mùi, cần phải phân biệt xem chúng thuộc loại nào, thuộc loại “phấn chấn” hoặc thuộc loại “cương bạo”.
“Liêm Trinh Thất sát” thuộc cách “Hùng tú kiền nguyên” ở Mùi, gặp các Cát tinh, đặc biệt là Văn xương Văn khúc, mà còn hội hợp với Lộc tồn, Hóa Lộc, nhưng không có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, thì được xếp vào loại “phấn chấn”, thông thường, chủ về trải qua gian khổ mà thành đại nghiệp, khác với “Liêm Trinh Thất sát” có tính “cương bạo”.
Gọi là “cương bạo”, là nói tính chất của các sao mà không nói về khí chất của mệnh tạo, do vậy, phần nhiều mệnh cách có biểu hiện bị lục thân lạnh nhạt, bản thân bị tai nạn, bệnh tật, đời người nhiều sóng gió, trắc trở, hoặc phải bôn ba vất vả rất nhiều.
“Liêm Trinh Thất sát” ưa gặp Lộc tồn hội chiếu và Hóa Lộc hội hợp. Có sao Lộc mà các sao Cát Hung đều gặp, cũng vẫn chủ về loại mệnh cách “phấn chấn”. Đây là điều kiện cơ bản.
Nếu mệnh cách “Liêm Trinh Thất sát” không có sao Lộc, dù gặp các Phụ diệu cát và Tá diệu cát, cũng không đủ để thành mệnh cách “phấn chấn”. Đây là khuyết điểm của mệnh tạo khi nguyên cục không được gặp sao Lộc.
Nếu mệnh cách “Liêm Trinh Thất sát” không có sao Lộc, lại hội hợp với các sao Sát Kị Hình ở tam phương tứ chính, thì mệnh cách thuộc tính “cương bạo”, mức độ “cương bạo” nặng hay nhẹ, thì phải xem các sao Sát Kị nhiều hay ít để định.
“Liêm Trinh Thất sát” rất kị hội hợp với Vũ khúc Hóa Kị, chủ về làm tăng tính “cương bạo” của chúng. Tham Lang Hóa Kị thì không sao, vẫn không bị mất đi bản chất “phấn chấn”, chỉ làm tăng số lần xảy ra sóng gió, trắc trở, mà không làm tăng mức độ nặng nhẹ. Khi Phá quân Hóa Quyền cũng được xếp vào loại “phấn chấn”.
Lộc tồn không nên đồng độ với “Vũ khúc Phá quân”, mà nên đồng độ với “Tử vi Tham Lang”. Trường hợp Lộc tồn đồng độ với “Vũ khúc Phá quân”, dù khiến “Liêm Trinh Thất sát” có bản chất “phấn chấn”, những vẫn bị áp lực quấy nhiễu, gây khó khăn về tâm lý, làm ảnh hưởng đến sự nghiệp.
Thiên phủ ở cung đối diện có ảnh hưởng rất lớn đối với bản chất của “Liêm Trinh Thất sát”. Nếu Thiên phủ là “kho trống”, “kho lộ” sẽ gây ảnh hưởng khiến “Liêm Trinh Thất sát” biến thành “cương bạo”; nếu Thiên phủ Hóa Khoa, mà Thái dương và Thái âm không bị lạc hãm đến giáp Thiên phủ, sẽ gây ảnh hưởng khiến “Liêm Trinh Thất sát” thành mệnh cách “phấn chấn”.
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, “Liêm Trinh Thất sát” loại “phấn chấn” rất thích hợp đến, đây là vận hạn phát đạt; nếu nguyên cục có các sao đào hoa đồng độ, chủ về chuốc lấy rắc rối về tình cảm. “Liêm Trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, được Cát tinh hội hợp, cũng là vận hạn phát đạt; nếu gặp các sao Sát Kị Hình Hao, thì dễ vì tiền bạc mà gặp nạn, hoặc xảy ra trắc trở, hoặc chủ về hôn nhân trắc trở.
Cung hạn Thiên đồng Hóa Kị, “Liêm Trinh Thất sát” loại “cương bạo” dễ bị phạm pháp, kiện tụng, gặp Thiên hình, Đại hao thì càng tệ.
Cung hạn “Vũ khúc Phá quân” đồng độ, “Liêm Trinh Thất sát” loại “phấn phát” thường thường là vận trình tốt đẹp. Lưu niên đến cung độ này cũng chủ về có cơ hội sáng lập sự nghiệp. Nếu nguyên cục có các sao đào hoa đồng độ, chủ về dễ thay lòng đổi dạ. Hiện tượng bề ngoài gần giống như cung hạn Thiên đồng độc tọa, nhưng bản thân mệnh cách sẽ tự biết nội tâm có sự cảm thụ khác nhau, đến cung hạn Thiên đồng sẽ có ý vị của tình yêu, còn lúc đến cung hạn “Vũ khúc Phá quân” thì thuần túy về nhục dục.
“Liêm Trinh Thất sát” loại “cương bạo” nhập vào cung hạn “Vũ khúc Phá quân” thường chủ về được người đề bạt, cổ nhân cũng xem vận hạn này là “lập công ở biên cương”, vì vậy tuy được cát lợi cũng khó tránh khỏi bôn ba vất vả. Nếu cung hạn này lại hội hợp với các sao Sát Kị, mà “Liêm TrinhThất sát” loại “cương bạo” nhập cung hạn này, ắt xảy ra tranh giành tiền của, trong lưu niên Liêm Trinh Hóa Kị xung chiếu với Vũ khúc Hóa Kị sẽ có sắc thái tranh giành tiền của, mà còn đổ vỡ về tình cảm. Sát tinh nặng, còn gặp Thiên hình, Âm sát đồng độ, cung Tật ách của nguyên cục không tốt, thì nên đề phòng bất trắc.
“Liêm Trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thái dương độc tọa, thường thường là năm lục thân xảy ra sự cố, nặng thì có thể sinh ly tử biệt. “Liêm Trinh Thất sát” loại “phấn chấn” đến cung hạn Thái dương độc tọa, chủ về danh tiếng ngày càng lớn, hoặc chủ về sự nghiệp khuếch trương lớn. Nếu Hóa Kị bay đến hóa Thái dương, thì đây là vận xấu của “Liêm Trinh Thất sát”, bất kể thuộc loại bản chất “phấn chấn” hay “cương bạo” cũng đều không tốt. Cần phải xem kỹ cung Tật ách.
Cung hạn Thiên phủ độc tọa, đối với tính chất của “Liêm Trinh Thất sát” cực kỳ đơn giản, “cương bạo” thì bất lợi, thất bại; “phấn chấn” thì cát lợi, có thu hoạch.
Nếu ở lưu niên Thiên phủ độc tọa thủ mệnh, gặp Lộc tồn đến hội hợp, mà nguyên cục không có sao Lộc, thì không nên tích cực thúc đẩy phát triển, nếu không, không những hao phí khí lực, mà còn dễ bị người bài xích, chèn ép. Nếu các sao Sát hình nặng, còn chủ về bị người hãm hại.
Cung hạn “Thiên Cơ Thái âm” đồng độ, “Liêm Trinh Thất sát” loại “cương bạo” mà đến cung hạn này, sẽ xảy ra sự mất ổn định. Khi Thái âm ở cung vượng, thì đây là vận trình trải qua sự mất ổn định mà dẫn đến hưng phát, khi Thái âm rơi vào nhàn cung, thì gặp nhiều phiền phức. Khi Thái âm Hóa Kị thì hậu quả của sự mất ổn định là không tốt.
Cung hạn “Tử vi Tham Lang” rất ưa Hóa Quyền ở nguyên cục, lúc “Liêm Trinh Thất sát” đến sẽ là vận hạn sáng sủa, phát đạt. Nếu Hóa Quyền của nguyên cục bị Hóa Kị của vận hạn xung khởi, thì lại càng thêm sáng, chủ về lập được sự nghiệp và công trạng, cạnh tranh đắc lợi. Nếu có Hóa Kị ở nguyên cục, thì dù mang bản chất “phấn chấn”, cũng chủ về xảy ra áp lực rất lớn trong sự nghiệp, phải rất gian khổ để hóa giải. Nếu “Tử vi Tham Lang” ở cung mệnh của đại hạn, chủ về xảy ra cảm giác mệt mỏi, buồn giầu lo lắng, thậm chí có cảm giác đời người hư ảo.
Thông thường “Liêm Trinh Thất sát” ưa đến cung hạn Cự môn độc tọa, đối với “Liêm Trinh Thất sát” loại “cương bạo” chủ về tình cảm gặp bất lợi, còn sự nghiệp và tiền bạc không có trở ngại. “Liêm Trinh Thất sát” loại “cương bạo” ưa đến đại vận hoặc lưu niên Cự môn thuộc cục “phản bối” ở Thìn. Nếu là đại vận, thường những năm đầu của vận đột nhiên phát lên, tài lộc danh dự đều có ngoài dự liệu.
“Liêm Trinh Thất sát” loại “phấn chấn” gặp Cự môn của cục “phản bối”, tuy có xảy ra chuyển biến theo hướng tốt lành, nhưng thường trong những năm đầu của vận, phải trải qua những trắc trở quá lớn, khiến cho mệnh tạo khó chịu đựng nổi.
Cung hạn Thiên tướng độc tọa, thông thường là vận hạn đặt định nền tảng của sự nghiệp cho “Liêm Trinh Thất sát”. Bản chất “cương bạo” thì nền tảng của sự nghiệp mỏng yếu, còn bản chất “phấn chấn” thì nền tảng của sự nghiệp dày chắc, mà còn có địa vị cao.
Ở lưu niên, nếu “Liêm Trinh Thất sát” loại “cương bạo” gặp cung hạn thuộc loại “Hình kị giáp ấn” chủ về chuốc lấy thị phi, vì vậy không nên cố xuất đầu lộ diện, cũng không nên thay đổi nghề nghiệp, nếu có tứ sát cùng chiếu, chủ về tai nạn, bệnh tật, hoặc phạm pháp. Cần phải xem cung Phúc đức và cung Tật ách để xác định rõ thêm tính chất của cung hạn này.
“Liêm Trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thiên Lương độc tọa, thường đây là vận hạn lục thân bệnh chết hoặc ly tán. Nữ mệnh không nên yêu đương hay kết hôn trong vạn hạn này, nếu không, sẽ gặp nhiều đau khổ (Thiên Lương ở Tý xấu hơn ở Ngọ).
“Liêm Trinh Thất sát” loại “phấn chấn” ưa đến cung hạn Thiên Lương độc tọa, tuy có trắc trở, nhưng thời điểm này là lúc kết giao các mối quan hệ giao tế, hoặc được người trợ lực.
Nữ mệnh “Liêm Trinh Thất sát” không nên đến cung hạn Thiên Lương độc tọa, dù là mang bản chất “phấn chấn” hay bản chất “cương bạo”, đều chủ bất lợi về lục thân, bản thân phải chia ly với gia đình, anh chị em bệnh mất.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
nhaque1123
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2909
Tham gia: 23:07, 28/10/14

TL: Thất sát luận đàm!

Gửi bài gửi bởi nhaque1123 »

Thất sát độc tọa Dần Thân
Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, cung đối diện xung chiếu là “Tử viThiên Phủ”. Lúc Thất sát ở Dần gọi là “Thất sát ngưỡng đẩu”, khi ở Thân gọi là “Thất sát triều đẩu”. So sánh hai trường hợp, thì Thất sát ở Thân tốt hơn ở Dần.
“Triều đẩu” và “ngưỡng đẩu” đều là cách cục được xem là tốt, chủ về có năng lực quản lý rất tốt, có thể đảm trách công việc một mình. Phát triển bất kể ở nghề nghiệp nào, mệnh tạo thường ở vị trí chủ chốt. Nhất là khi cung Mệnh hoặc cung Thiên di gặp Lộc tồn đồng đô, càng chủ về không phải lo thiếu thốn tiền bạc. Nếu gặp Sát tinh đồng độ hoặc hội hợp, chủ về đường đời nhiều trắc trở, gập gềnh. Một khi Thất sát đóng ở cung Mệnh, thì cuộc đời ắt sẽ gặp phải một lần sóng gió rất lớn. Muốn khắc phục và vượt qua vận hạn này, thì trí lực phải hành động thiết thực và tâm chí không thể nguội lạnh.
Thất sát “triều đẩu” hay “ngưỡng đẩu”, thông thường chủ về công việc theo chính giới, như quản lý hành chính, quản lý nhân sự, quản lý công xưởng; nếu có Văn xương Văn khúc hội chiếu, hoặc gặp Tử vi Hóa Khoa ở cung đối diện, có thể theo nghiệp nghiên cứu khoa học kỹ thuật; nếu gặp Thiên Phủ Hóa Khoa, có thể theo nghiệp quản lý kinh tế tài chính, hoặc quản lý công thương. Nếu chỉ gặp sao Văn, chủ về là nhà giáo mẫu mực.
Nếu gặp Sát tinh nặng, lại gặp Hóa Kị, Thiên hình, Lộc tồn, Thiên mã, có thêm Tả phụ, Hữu bật, Tam thai, Bát tọa hiệp trợ, chủ về gia nhập quân đội hay cảnh sát, cũng có thể là lãnh đạo chính giới.
Thất sát ưa gặp sao Lộc, vì sao Lộc hóa giải được tính cứng rắn của Thất sát (gặp lộc, cương hóa nhu). Nếu không gặp sao Lộc, mà có tứ Sát cùng hội chiếu, có thêm Địa không, Địa kiếp, Thiên hình, Đại hao, chủ về cuộc đời bị hình khắc rất nặng, còn chủ về tính “khăng khăng một mực”, “ngoan cố ương ngạnh”, nên khi xử sự thường bộc lộ thái độ kịch kiệt. Vì vậy tuy phú quý nhưng vẫn bị phá tán, thất bại. Còn chủ về nhìn quá cao, tự sùng bái mình, nên khó tránh cuộc đời cô tịch. Tính chất này có thể dùng nỗ lực hậu thiên để bổ cứu.
Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, đối nhau với “Tử vi Thiên phủ”, tam phương là Phá quân độc tọa và Tham Lang độc tọa.
Muốn luận giải bản chất của Thất sát ở hai cung này, cần phải phân biệt nó thuộc loại “cô độc, cao ngạo”, hay thuộc loại “uy quyền”.
Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo” bề ngoài cũng giống như loại Thất sát “uy quyền”, nhưng lại làm cao, chẳng khiến người ta khâm phục, còn Thất sát “uy quyền” tuy không hòa đồng với mọi người, giống như xử sự không hòa hợp, nhưng khiến người giao tiếp thường e ngại e sợ, có phần dè chừng khi ứng xử.
Thất sát cần phải gặp sao Lộc, mới có thể giải được tính “cô độc cao ngạo” của nó, khi Tham Lang Hóa Lộc là hòa hoãn nhất, trường hợp Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu là kế đó, Phá quân Hóa Lộc là kế đó nữa.
Nếu Phá quân Hóa Lộc, mà Thất sát có các sao Phụ Tá hội hợp, là thuộc loại tổ hợp “uy quyền”, nhưng tính hòa hoãn vẫn không đủ, nên vẫn mang tính “cô độc cao ngạo”.
Nếu Phá quân Hóa Quyền, mà Thất sát có các sao Phụ Tá hội hợp, là thuộc tổ hợp sao “uy quyền”, tính “cô độc cao ngạo” tuy có giảm, nhưng biến thành tính chất “chọn bạn rất nghiêm khắc”.
Nếu Thất sát có các sao Sát Hình hội chiếu, lại có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật hội hợp, là thuộc loại “cô độc cao ngạo”.
Nếu Tham Lang Hóa Quyền, Thất sát đồng độ với các sao Sát Hình, không có Xương Khúc Tả Hữu hội hợp, cũng thuộc tính “cô độc cao ngạo”.
Hai trường hợp trên, có Xương Khúc Tả Hữu hội hợp, thì tính “cô độc cao ngạo” tuy có giảm, nhưng không thành tính “quyền uy”.
“Tử vi Thiên phủ” ở cung đối diện, rất nên Hóa Khoa, chi phối ảnh hưởng tới Thất sát, chủ về tính “uy quyền”, nếu Tử vi Hóa Quyền, thì trái lại, sẽ chủ về tính “cô độc cao ngạo”.
Thất sát tọa mệnh, nên có bản chất thuộc loại “uy quyền”, nếu mệnh cách thuộc loại “cô độc cao ngạo” chủ về gặp nhiều tình huống rắc rối trong đời, nhất là nữ mệnh chủ về hôn nhân bất lợi.
Thất sát đến 12 cung, tính chất rất phức tạp, mỗi một sao chủ về biến hóa thay đổi khác nhau khi gặp Thất sát, là có cảnh ngộ khác nhau ngay. Dưới đây là một số nguyên tắc cơ bản:
Thất sát nặng tính “uy quyền” mà nhẹ tính “cô độc cao ngạo”, thì nên đến những cung hạn sau:
- Thiên đồng độc tọa Hóa Quyền, cung đối diện có Thái âm Hóa Lộc vây chiếu.
- Thiên đồng độc tọa, hội Cự môn Hóa Quyền, Thái âm Hóa Khoa.
- Vũ khúc độc tọa Hóa Lộc.
- Vũ khúc độc tọa, gặp Tham Lang Hóa Lộc ở cung đối diện.
- Thái dương nhạp miếu, không gặp sao Sát Kị.
- Phá quân cát hóa, không có Sát tinh mà có Phụ Tá cát hội hợp.
- “Tử vi Thiên phủ” hóa làm sao Khoa, hoặc biến thành Hóa Khoa.
- Thái âm Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền hay Hóa Khoa, không có Sát tinh.
- Tham Lang Hóa Lộc, Hóa Quyền không có Sát tinh.
- Thiên Lương Hóa Khoa, có sao Phụ Tá cát hội hợp.
Thất sát Hóa Quyền (bốn cung sinh) đến các vận hạn trên, chủ về một mình phụ trách công việc, hoặc gánh vác trọng trách, đến đại hạn hoặc lưu niên Sát Phá Tham, phần nhiều thay đổi theo hướng tốt lành. Cảnh ngộ cụ thể của nó xem tính chất của các sao hội hợp để định.
Nếu bản chất Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo”, đến các đại hạn hoặc lưu niên đã thuật ở trên, không chủ về phát lên rồi biến thành hanh thông, chỉ là niên hạn thuận lợi toại ý. Nguyên cục có các sao Sát Kị hội hợp, chủ về phải gặp thị phi trước rồi mới được ổn định. Lúc đến đại hạn hoặc lưu niên Sát Phá Tham, cho dù tổ hợp sao của vận hạn rất đẹp, ắt sẽ có những khiếm khuyết đáng tiếc trong giao tế xảy ra, xác định nguyên nhân tại các cung vị lục thân để luận giải.
Thất sát có bản chất “uy quyền” không nên đến những cung hạn sau đây:
- Thiên đồng Hóa Kị, xung lưu niên Thái âm Hóa Kị
- Vũ khúc Hóa Lộc, Hóa Quyền, mà có các sao Sát Hình trùng trùng.
- Thái dương lạc hãm, mà có các sao Sát Hình đến hội.
- Phá quân Hóa Lộc, hội hợp với Tham Lang Hóa Kị, có Kình Đà chiếu xạ, hoặc đồng độ với Đà la.
- Thiên Cơ Hóa Kị
- Thiên Cơ Hóa Lộc, xung khởi Cự môn Hóa Kị
- Thái âm lạc hãm Hóa Kị
- Thái âm Hóa Lộc, xung khởi Thái dương của nguyên cục Hóa Kị
- Cự môn Hóa Kị, xung khởi Thái dương Hóa Kị, rất xấu
- Cự môn Hóa Lộc, đồng độ với Văn xương Hóa Kị, lại gặp thêm Thiên hình Đại hao.
- “Liêm Trinh Thiên tướng” thuộc loại “Hình kị giáp ấn”.
- Thiên Lương Hóa Lộc gặp các sao Sát Hao.
Lúc đến các vận hạn thuật ở trên, Thất sát thuộc loại “uy quyền” cũng sẽ gặp khó khăn, đình trệ. Hễ Thất sát tọa mệnh, cuộc đời ắt sẽ có một thời kỳ nghịch cảnh, vì vậy trong những vận hạn này, phải có cái tâm yên định theo cảnh ngộ, thì tự nhiên giảm nhiều trắc trở, nếu có cái tâm cưỡng cầu, thì sẽ làm tăng vận xấu.
Tính chất bất lợi có nội dung gì, xem tính chất của các tổ hợp sao để định.
Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo”, mà đến các đại hạn hoặc lưu niên thuật ở trên, thì phần nhiều sẽ vì quan hệ giao tế mà nảy sinh việc không may mắn, xui xẻo, cần tham chiếu cùng lúc cung Huynh đệ, Phụ mẫu, Giao hữu, để làm rõ chi tiết cảnh ngộ thực tế.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
nhaque1123
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2909
Tham gia: 23:07, 28/10/14

TL: Thất sát luận đàm!

Gửi bài gửi bởi nhaque1123 »

Thất sát và Vũ Khúc đồng cung
Chỉ đồng cung tại Mão Dậu.
Vũ Khúc cương cường, quả quyết, nhưng thận trọng. Thất Sát dũng mãnh, cố chấp, hành sự muốn gì làm nấy, ít nghĩ đến hậu quả . Vũ Khúcnhẫn nại, Thất Sát nóng nảy . Vũ Khúc bảo thủ, Thất Sát xông xáo . Nên cá nhân có hai sao cùng cungtâm lý luôn luôn dẫy đầy mâu thuẫn.
Mão Dậu thuộc đào hoa địa nên người nặng cảm tình, sống nhiều về nội tâm . Về tài chánh khá giả, đổi nghề nghiệp nhiều lần, thường làm nghề buôn bán . Thiếu niên gian khổ, trung niên tạo nghiệp, lão niên bền vững.
Ưu điểm : Thông minh ưu nhã, trí dũng song toàn, có khả năng chịu đựng gian khổ, biết tiến thối, ý chí mạnh mẽ, làm việc đến nơi đến chốn, chăm chỉ, kiến thức rộng rãi, biết tự khắc chế, có khả năng tổ chức, lãnh đạo.
Khuyết điểm : Ương ngạnh, không hợp với đám đông, cô độc, ít có người thân, không chịu nhận cái sai của mình, chỉ làm theo ý muốn, có tâm lýphản kháng những gì người khác đề ra, thiếu tính nhẫn nại lâu dài . Vì chỉ biết đến mình, rất dễ thành kẻ xấu xa, độc ác.
“Thất sát Vũ Khúc” đồng độ ở Mão hoặc ở Dậu; tổ hợp kết cấu các sao cực kỳ mạnh mẽ, cần phải được Tả phụ Hữu bật vây chiếu, nếu được gặp Hóa Lộc hoặc Lộc tồn, thì những “tế ngộ” trong cuộc đời mới được thuận lợi toại ý; nếu không dễ sống trong tình cảnh cô lập, không có cứu viện, mà còn bị phá tài.
Đặc tính của tinh hệ này là nhạy bén, nhưng lại hay nóng vội, mưu tính nhiều nhưng lại không nhìn xa; tinh tế, sáng suốt, có năng lực làm việc, nhưng lại hay thích sát phạt, cần được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc điều hòa, mới có thể biến thành thông minh, lão luyện, mà không bị rơi vào tệ suy nghĩ thiển cận, bạc tình. Nếu được Hóa Lộc, Hóa Khoa, Thiên mã hội chiếu, có khả năng được hưởng phúc trạch dày.
“Thất sát Vũ Khúc” ở Mão, có Hóa Kị hoặc gặp Sát tinh, cổ nhân nói có tai họa “cây đè sét đánh”, xã hội ngày nay cần đề phòng thêm tai họa điện giật. Khi ở Dậu, có Hóa Kị hoặc gặp Sát tinh, chủ về tai họa bất trắc, đột ngột, dễ mắc bệnh ung thư, hoặc bệnh ở đầu.
“Thất sát Vũ Khúc” có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, chủ về vì lợi lộc mà xảy ra bất trắc; lại gặp Vũ Khúc Hóa Kị và Kiếp sát, hoặc có Đại hao đồng độ, chủ về gặp tai nạn trộm cướp; có Kình dương đồng độ, chủ về vì tài lợi mà gẫy đổ; nếu gặp Liêm Trinh Hóa Kị, chủ về tai nạn chảy máu hoặc bệnh nặng phải phẫu thuật.
Do hợp lực các sao quá mạnh, khiến cho mệnh tạo luôn sung sức, làm việc có phách lực và nghị lực cao, ở thời tuổi trẻ nếu mạnh dạn bốc đồng làm ăn đầu cơ mạo hiểm, thường không có hiệu quả, chủ về thất bại.
“Thất sát Vũ Khúc” tam phương có Lộc tồn Thiên mã đồng độ với “Liêm Trinh Tham Lang”, hoặc Lộc tồn ở cung đối diện hiệp trợ cùng với cát tinhhội hợp, là điềm tượng “anh hùng mạt lộ gặp quý nhân”, chủ về đột nhiên phát đạt trong cảnh khốn khó.
“Thất sát Vũ Khúc” hội hợp với Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, sao Hình, thì nên gia nhập quân đội hay cảnh sát hoặc là công tác bảo an. Nếu Sát tinh quá nhiều, chủ về làm đồ tể. Nếu có văn tinh, hoặc gặp cát hóa Lộc Quyền Khoa, chủ về hợp với nghiệp bác sỹ ngoại khoa, gặp Liêm Trinh Hóa Kị thì thích hợp theo khoa phụ sản.
“Thất sát Vũ Khúc” có các sao Sát Hình, mà gặp Lộc tồn, Thiên mã, thì trái lại, nên làm ăn kinh doanh.
Nữ mệnh “Thất sát Vũ Khúc”, nên lấy chồng hơn mình ít nhất tám tuổi.
Cung mệnh của đại hạn, hoặc cung mệnh của lưu niên có “Thất sát Vũ Khúc”, chủ về biến động thay đổi lớn. Thấy có Hóa Kị chủ về bị đình chỉ chức vụ, có nguy cơ vỡ nợ hay sập tiệm; gặp Sát tinh là gặp trắc trở hoặc sức khỏe không tốt.
Thất sát và Vũ khúc đồng cung ở Mão hoặc ở Dậu, cung đôi diện là Thiên phủ, cung tam phương có “Tử vi Phá quân” và “Liêm Trinh Tham Lang”.
Muốn luận giải cấu tạo hệ tinh bàn này, cần chú ý phân biệt xem chúng thuộc loại “quyết đoán” hay thuộc loại “nông cạn”.
Thực ra, “quyết đoán” sáng suốt và suy nghĩ “nông cạn” chỉ cách nhau một đường ranh, bởi vì “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại suy nghĩ “nông cạn”, bề ngoài vẫn giống như người “quyết đoán” sáng suốt, trong lúc nội tâm do dự, thiếu quyết đoán, vẫn có thể đưa ra một quyết định sáng suốt và nhanh chóng, nhưng thường thường là quyết đoán sai lầm và cần phải chắp vá bổ xung. Cho nên, nếu nhìn từ bề ngoài để phân biệt thì khó mà nhìn ra được.
“Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán” sáng suốt, thì phần nhiều đều có chừa đường để lui, còn loại người suy nghĩ “nông cạn”, thì phần nhiều là bạc tình, do đó đời người cũng khá cô lập. Điều này có thể dùng để phân biệt, khi luận giải nhóm tinh hệ này.
Luận giải tính chất của “Vũ khúc Thất sát”, chỉ cần xem tinh hệ này có gặp sao Lộc hay không, bất kể được Hóa Lộc hay gặp Lộc tồn đều được. Nếu có sao Lộc, mà còn gặp Tả phụ Hữu bật hội chiếu, thì thuộc vào loại “quyết đoán sáng suốt”. Nếu không có Tả phụ Hữu bật, mà còn không gặp sao Lộc, trái lại, có Sát tinh hội chiếu, thì thuộc vào loại “suy nghĩ nông cạn”.
Lấy các sao ở cung hội hợp để nói, nếu hệ “Tử vi Phá quân” có Sát tinh đồng độ, nhất là Đà la, thiflamf mạnh thêm bản chất “suy nghĩ nông cạn” của hệ “Vũ khúc Thất sát”; nếu không có Sát tinh, mà có các sao Phụ Tá hội hợp, thì có thể gây ảnh hưởng cho hệ “Vũ khúc Thất sát” thành bản chất “quyết đoán sáng suốt”.
Hệ “Liêm Trinh Tham Lang” cũng không nên đồng độ với Đà la, đặc biệt khi phải mượn hệ này để nhập cung Phúc đức an sao, sẽ gây ảnh hưởng tới hệ “Vũ khúc Thất sát” càng thêm quan trọng.
Văn xương, Văn khúc có khả năng điều hòa tính chất “suy nghĩ nông cạn” của hệ “Vũ khúc Thất sát”, điều kiện tốt nhất là khi Văn xương, Văn khúc đồng cung với Thiên phủ ở cung đối diện chiếu về hiệp trợ, trường hợp này tốt hơn khi Xương Khúc đồng độ ở một cung với hệ “Liêm Trinh Tham Lang”. Nguyên nhân chủ yếu là vì hệ “Liêm Trinh Tham Lang” không ưa Xương Khúc cùng bay đến một cung, sẽ mang tính đào hoa, chi phối gây ảnh hưởng đến lực “quyết đoán sáng suốt” của hệ “Vũ khúc Thất sát”.
Cung độ Thái dương tọa thủ, nếu nhập miếu thì có lợi cho hệ “Vũ khúc Thất sát”. Nhưng, trường hợp mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” nhập hạn cung độ này, thì lại nảy sinh hay oán trách vô cớ, khiến cho tình hình quan hệ giao tế diễn biến xấu đi, sẽ ảnh hưởng đến hậu vận. Nếu Thái dương lạc hãm, hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc tính chất nào cũng đều bất lợi. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” cũng dễ chuốc lấy thị phi, bị oán trách trong vận hạn này. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn”, nếu có Kình dương đồng độ, sẽ không dễ trụ nổi ở nơi làm việc, lại gặp thêm các sao Kị Sát thì còn chịu thêm cái họa gia nghiệp chao đảo.
Cung hạn Thiên Cơ độc tọa, nếu gặp Hóa Kị, nhất là lúc Thiên đồng và Thái âm biến thành Hóa Kị hội chiếu lưu niên, đối với hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn”, đây là năm mất cơ hội, phá tài. Mệnh cách thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” chỉ cần phòng thủ thì có thể tránh được tổn thất.
Nếu Vũ khúc của nguyên cục Hóa Kị, thì đại kị đến cung hạn Thiên Cơ tọa thủ, dù có cơ hội, ắt cũng bị phá tán, thất bại, cạnh tranh không lành mạnh, hai bên công kích lẫn nhau.
Đến cung hạn Thiên phủ tọa thủ, hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” không nên đến, nếu Thiên phủ lại là “kho lộ”, “kho trống”, thì thường là đại hạn hoặc lưu niên chủ về nạn tai, bệnh tật trọng đại, sự nghiệp phá sản. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” mà đến cung hạn này cũng phải đề phòng trộm cướp.
Cung hạn Thiên phủ thông thường bất lợi cho mệnh cách “Vũ khúc Thất sát”, nếu lưu niên hặp cung hạn này, có lưu Lộc hoặc lưu Hóa Lộc chiếu xạ, thì mới là điềm cát.
Hệ “Vũ khúc Thất sát” ưa đến cung hạn Thái âm tọa thủ, nếu Thái âm nhập miếu cát hóa thì càng ưa thích. Nếu hội các sao Hình Kị, mệnh cách thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” chủ về vì chắp vá điều sai lầm mà gây nên tổn thất nghiêm trọng. Đạo “xu cát tị hung” là biết có sai lầm thì lập tức dừng ngay kế hoạch, càng kéo dài thì tổn thất càng lớn.
Thái âm lạc hãm bất lợi cho hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt”, chủ về vì một quyết định trọng đại mà việc khó lưỡng toàn, ắt sẽ có một phía bất mãn. Đối với mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” thì lại không có khiếm khuyết đáng tiếc này, nhưng nên “tĩnh” không nên “động”, “động” thì gây nên tổn thất, nhất là lúc Thái âm Hóa Kị gặp Đà la đồng độ, tuyết đối không nên bảo lãnh cho người khác, nếu không sẽ liên lụy chịu trách nhiệm trả thay cho họ.
Cung hạ Cự môn tọa thủ, nếu thành cách “Thạch trung ẩn ngọc”, thì loại mệnh cách “quyết đoán sáng suốt” rất nên đến, nếu Cự môn lại được cát hóa và hoặc gặp Cát tinh, thì đây là lưu niên hay đại hạn thành tựu sự nghiệp lớn. Nếu Cự môn cùng ở một cung với Văn xương Văn khúc mà không có cát hóa, thì đây là vận trình có tính chuyển biến, xem xét kỹ các sao hội hợp để định sau khi chuyển biến thay đổi, thì cát hung sẽ như thế nào.
Mệnh cách thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” đến cung hạn Cự môn thuộc cách “Thạch trung ẩn ngọc”, vận hạn cũng không cát tường, thường sai lầm ở giai đoạn sau cùng, hoặc vì quyết định sai lầm mà bị chỉ trích, oán trách.
Cung hạn Thiên tướng độc tọa, nếu Thiên tướng thuộc cách “Hình kị giáp ấn”, thì hệ “Vũ khúc Thất sát” sẽ cảm thấy bị áp lực, nếu mệnh cách nguyên cục thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” thì khá dễ đối phó, tìm được biện pháp để giải tỏa. Nếu mệnh cách nguyên cục thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” mà gặp đại hạn hoặc lưu niên này, thì áp lực tinh thần càng nặng, chủ về thất bại.
Cung hạn Thiên tướng thuộc cách “Tài ấm giáp ấn”, thì bất kể mệnh cách thuộc bản chất nào, cũng đều chủ về “mọi toan tính chỉ phí sức”. Nếu cung hạn Thiên tướng có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật đồng độ hoặc hội chiếu, thì lại là cơ hội tốt để định hình sự nghiệp một đời.
Cung hạn hệ “Thiên đồng Thiên Lương” tọa thủ, Thiên Lương không nên Hóa Khoa và gặp sao Hình, nếu cung có tính chất quá cô độc và hình khắc, thì hệ “Vũ khúc Thất sát” mà gặp cung hạn này, phần nhiều có tang. Nếu hệ “Thiên đồng Thiên Lương” hội hợp với các sao đào hoa, mà Thiên đồng Hóa Lộc, thì e rằng tuổi trẻ đắc chí mà từ đó đắm chìm trong tửu sắc.
Ba cung hạn “Vũ khúc Thất sát”, Liêm Trinh Tham Lang” và “Tử vi Phá quân”, là lưu niên hay đại hạn có tính chuyển biến cực lớn đối với mệnh cách hệ “Vũ khúc Thất sát” tọa mệnh.
Nhưng hễ gặp Phá quân Hóa Lộc thì Tham Lang ắt cũng Hóa Kị, trong tình hình này, chỉ có lợi cho mệnh cách “quyết đoán sáng suốt”, còn mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” thì bất lợi.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
nhaque1123
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2909
Tham gia: 23:07, 28/10/14

TL: Thất sát luận đàm!

Gửi bài gửi bởi nhaque1123 »

Thất sát độc tọa Thìn Tuất
Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất là nhập “Thiên la Địa võng”, cung đối diện là các sao nhu hòa “Thiên Phủ Liêm Trinh” không thể giúp Thất sát thoát khỏi “Thiên la Địa võng”, vậy nên Thất sát phải một thân một mình gắng gượng. Kết cấu tinh hệ kiểu này, khiến mệnh cách phải trải qua gian khổ, miệt mài phấn đấu chẳng hề quan ngại, vì vậy mà sóng gió trùng trùng.
Có thể sáng lập được sự nghiệp trong gian khổ, nhưng mệnh tạo vẫn không hài lòng với những kết quả đã đạt, cũng như những thành tựu mà mình đã đạt được. Không ngừng theo đuổi lý tưởng, mà lý tưởng lại càng lúc càng cao, kế hoạch mới cũng càng lúc càng nhiều, suốt đời không có được một ngày thảnh thơi, nhưng mệnh tạo lấy đó làm nguồn vui.
Thất sát ở Thìn hoặc ở Tuất, đều chủ về mệnh cách là người có chỗ sở trường, có khả năng kiến giải hơn người, ưa Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Lộc Quyền Khoa tam cát hóa hội chiếu hoặc đồng độ, là người văn võ song toàn, lại còn chủ về người yếu thích văn hóa văn nghệ.
Thất sát ở Thìn hoặc ở Tuất, chỉ sợ Liêm Trinh Hóa Kị ở cung đối diện xung chiếu ức hiếp, nếu lại gặp Sát tinh trùng trùng, thì cần phải xem xét các cung vị khác, xem cung nào là cung chí mệnh của nó. Nếu cung Tài bạch không tốt, cuộc đời phần nhiều gặp tranh chấp, bối rối khó xử về phương diện tiền bạc. Nếu cung Sự nghiệp không cát tường, cuộc đời nhiều lần bị vỡ nợ, sập tiệm. Nếu cung Tật ách không cát tường, cả đời sức khỏe không tốt, phần nhiều phải phẫu thuật, hoặc gặp một phen hú vía. Nếu cung Phu thê không tốt, bình sinh gặp nhiều sóng gió, trắc trở về tình cảm, hoặc người phối ngẫu gặp bất hạnh. Nếu cung Tử nữ không tốt, con bị nạn tai bệnh tật, yểu mạng, hoặc phạm pháp.
Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, tam phương tương hội có Tham LangHóa Kị gặp Sát tinh, chủ về mệnh tạo luôn luôn lo lắng về tiền bạc bị túng thiếu, trong khi tình trạng thu nhập lại không như ý muốn. Đó là vì lý tưởng đặt ở mức quá cao, sự nghiệp mở rộng một cách quá đáng, mà không chủ về bần cùng. Tham Lang Hóa Kị ắt sẽ gặp Phá Quân Hóa Lộc, càng chủ về một đời chỉ thích khai sáng, mà không chịu thủ thành. Khi Tham Lang Hóa Lộc mà không gặp Sát tinh, chủ về cuộc đời mệnh tạo luôn có tiền để dùng, nhưng lại không tích lũy được; còn khi Tham Lang Hóa Lộc mà gặp Sát tinh, không những chủ về tiêu xài xa hoa, mà còn thích tổ chức tiệc tùng vui chơi, giao du không biết tiết chế.
Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cung đối diện sẽ là hệ “Liêm TrinhThiên phủ”, tam phương có Tham Lang độc tọa và Phá quân độc tọa hội chiếu.
Muốn luận giải tính chất của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cần phải phân biệt rõ bản chất tính lý của Thất sát là “lý tưởng” hay “ảo tưởng”.
Trong thực tế, “lý tưởng” không nhất định sẽ tốt hơn “ảo tưởng”. Bởi vì “lý tưởng” quá cao, không phối hợp được với hiện thực, cũng là khiếm khuyết đáng tiếc của đời người. Còn người rơi vào “ảo tưởng”, tuy những suy nghĩ của họ không thể thực hiện, nhưng trên thực tế họ có thể rcanhr ngộ tốt đẹp, lúc này, họ cũng cho rằng bản thân có “lý tưởng” nhưng không thực hiện được mà thôi.
Ảnh hưởng tối quan trọng của Thất sát tọa thủ ở Thìn Tuất, đó là hệ “Liêm Trinh Thiên phủ” ở cung đối diện gây ảnh hưởng hiệp trợ hay là ức hiếp. Nếu hệ này thuộc tính chất cao thượng, thanh nhã, lúc này Thất sát sẽ có khuynh hướng “lý tưởng”, trở thành người có mục tiêu để theo đuổi, dù vất vả khổ cực vẫn không từ nan.
Nếu hệ “Liêm Trinh Thiên phủ” hội hợp với các sao Sát Kị, dù đồng thời có Cát tinh, được cát hóa, cũng gây ảnh hưởng đến khí chất của Thất sát mà trở thành dung tục, hơn nữa thường là người không tưởng, không thực tế; cảnh ngộ đời người nhiều biến động thay đổi, mà phần nhiều là không cần thiết, có lúc thậm chí những thay đổi không cần thiết đó lại là lý tưởng theo đuổi của đời người, thực ra đây là mục đích che đậy khuyết điểm của bản thân.
Ngoại trừ hệ “Liêm Trinh Thiên phủ”, hai sao Phá quân và Tham Lang cũng ảnh hưởng đến khí chất củ Thất sát. Tham Lang Hóa Kị khiến cho Thất sát dễ rơi vào không tưởng. Phá quân Hóa Lộc tuy có gây ảnh hưởng đến Thất sát bệnh không tưởng, nhưng vẫn có lúc đối diện với hiện thực.
Tham Lang mà Hóa Lộc, ắt Thất sát sẽ bị Đà la chiếu xạ hoặc đồng độ với Đà la, nếu cung độ của Thất sát lại gặp Địa không Địa kiếp, chủ về mệnh cách dễ rơi vào không tưởng.
Lấy bản thân Thất sát để nói, theo truyền thừa của Trung Châu phái, nếu hệ “Liêm Trinh Thiên phủ” ở Thìn chủ về nhiều không tưởng, hệ “Liêm Trinh Thiên phủ” ở Tuất chủ về nhiều “lý tưởng”. Ảnh hưởng của hệ này, biến khí chất của Thất sát độc tọa ở Thìn thành mệnh cách “lý tưởng”, còn Thất sát độc tọa ở Tuất thành mệnh cách “ảo tưởng”. Hai tính chất này không có liên quan với tình trạng “miếu, vượng, lợi, hãm” của các sao.
Sau khi nắm được đặc trưng của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, còn phải xem xét tình huống của Tử vi ở cung Phúc đức. Nếu là “bách quan triều củng” mà không gặp các sao Sát Kị Hình, thì Thất sát nhờ đó mà trở thành mệnh cách “lý tưởng”. Nếu gặp các sao Sát Kị Hình, , thì “lý tưởng” khá tầm thường, đời người phần nhiều phải dốc toàn lực để tranh giành. Nếu Tử vi là “tại dã cô quân”, thì bản chất của Thất sát là không tưởng, nếu gặp các sao Sát Kị Hình ở cung Phúc đức, thì giống như thương binh ở chiến trường mơ làm nguyên soái. Do những điều “ảo tưởng” không thể thực hiện, đời người lại nhiều gian khổ, vì vậy thưởng trở thành người phẫn thế ghét đời, hoặc tự xem mình là người cô độc thanh cao. Những “ảo tưởng” không thể thực hiện này, giống như sức mạnh của roi vọt thúc đẩy người ta tiến tới, khi đến cực hạn sẽ khiến mệnh cách trở thành kẻ trốn đời.
Thất sát thuộc loại “lý tưởng”, ưa đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham Lang độc tọa, nếu các sao Phụ Tá cát, có thể trở thành sức mạnh để thực thi “lý tưởng”, dù có một hai Sát tinh cũng không ảnh hưởng gì nhiều, càng trở ngại càng khiến mệnh cách phấn đấu mạnh hơn, trở thành sức mạnh chuyên nhất theo đuổi mực tiêu. Trường hợp Thất sát ở Thìn được cát hóa thì tình hình càng đúng như vậy. Có lúc, nhờ Sát tinh mang lại trợ lực, khiến “ảo tưởng” va chạm với hiện thực, mà biến thành “lý tưởng”.
Mệnh cách Thất sát “ảo tưởng”, không ưa đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham Lang độc tọa. Dù được cát hóa, cũng dễ xảy ra những biến động thay đổi không cần thiết. Nếu lại gặp các sao Sát Kị Hình, thì lại thay đổi một cách triệt để và toàn diện, đó là do bất mãn với hiện thực nên sinh lòng oán trách và oán hận.
Hệ “Liêm Trinh Thiên phủ” ở Thìn bất lợi đối với Thất sát, hệ “Liêm TrinhThiên phủ” ở Tuất thì có lợi hơn.
Nếu hệ “Liêm Trinh Thiên phủ” gặp các sao đào hoa, còn kèm thêm sao Hình, thì Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” mà đến cung hạn này, sẽ vì hành động mù quáng mà gây sự cố đáng tiếc, còn Thất sát thuộc loại “lý tưởng’ thì không sao. Các sao đào hoa này không chuyên chủ về tình cảm nam nữ.
Thiên phủ có sao Lộc sẽ có lợi đối với Thất sát. Nếu Thiên phủ là “kho trống”, hay “kho lộ”, khiến Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” càng tăng nặng “ảo tưởng”, dễ lâm vào tình huống rắc rối khó tìm được lối thoát; còn Thất sát thuộc loại “lý tưởng” thì phần nhiều cảm thấy giữa lý tưởng và hiện thực xung đột nhau, chỉ cần gặp Phụ diệu, đặc biệt là Thiên khôi Thiên việt, thì sẽ điều hòa được lý tưởng và hiện thực.
Hệ “Thiên đồng Cự môn” bất kể là cát hay hung, đều bất lợi đối với Thất sát loại “ảo tưởng”, khi Cự môn Hóa Kị thì gây phẫn thế, khi Thiên đồng Hóa Kị thì gây trầm luân, tình hình khả quan hơn thì lạnh nhạt với lục thân, ít hòa hợp hoặc sinh ra tâm lý ngăn cách. Hệ “Thiên đồng Cự môn” có sao đào hoa đồng cung, thì người Thất sát thủ mệnh sẽ đau khổ vì tình, rơi vào “ảo tưởng” rất nặng.
Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” ưa đến cung hạn “Thái dương Thiên Lương”, gặp Cát tinh, là vận tốt để thực hiện lý tưởng. Nếu cung hạn “Thái dương Thiên Lương” lạc hãm, không có Cát tinh tụ tập, lý tưởng cũng khó thực hiện được hoàn toàn, cần phải thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh. Thất sát loại “ảo tưởng” đến cung hạn “Thái dương Thiên Lương” lạc hãm, là điềm ứng có sự vọng động, nếu gặp Thái dương Hóa Kị, tình hình càng thêm nghiêm trọng. Đến cung hạn “Thái dương Thiên Lương” mà gặp Cát tinh, thì cảnh ngộ cuộc đời lại trở thành khá đẹp, nhưng đây không phải là cơ hội để thực hiện những “ảo tưởng”, nếu thực hiện những “ảo tưởng”, sẽ tự tìm đến buồn phiền, biến thành vận thế phá hoại bản thân.
Cung độ Tử vi độc tọa, có lợi đối với Thất sát thuộc loại “lý tưởng”, bất lợi đối với Thất sát loại “ảo tưởng”. Thất sát không bị kềm chế, chủ về rơi vào “ảo tưởng”. Khi Tử vi hội hợp với các Cát tinh, dễ trở thành người lớn mật làm càn; khi Tử vi gặp các sao không cát tường, chủ về người hiểu rõ việc mình làm nhưng thường gặp trở ngại.
Cung hạn Thiên Cơ độc tọa, khi Thiên Cơ cát hóa Lộc Quyền Khoa, thì có lợi đối với Thất sát, dù mệnh cách loại “ảo tưởng” vẫn có thể thích nghi với hoàn cảnh. Nếu Thiên Cơ Hóa Kị, lại gặp các sao Sát Hình, thì bất lợi đối với Thất sát, dù là loại mệnh cách “lý tưởng”, cũng dễ vì sai lầm nhất thời mà gây trở ngại cho việc thực hiện mục đích lý tưởng của mình.
Tử Vi Đẩu Số xem Thất sát là sao mấu chốt của sự biến động thay đổi !
Khi luận giải không nên ngộ nhận đối với Thất sát, tin rằng Thất sát là sao tích cực, mà xem thường mặt tiêu cực của sao Thất sát.
Hiện ta đang nói về Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, chú ý đến bản chất “lý tưởng” và “ảo tưởng” của nó, tức cần đồng thời chú ý đến mặt tiêu cực của nó. Bởi vì, khi “lý tưởng” có thể thực hiện được, sẽ dễ rơi vào trạng thái tiêu cực. Lúc “ảo tưởng” mà bất mãn, cũng dễ rơi vào trạng thái tiêu cực.
Ở trên, ta đề cập đến vấn đề bản chất của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất có quan hệ mật thiết với sao Tử vi ở cung Phúc đức, chú ý đến mặt tiêu cực của nó. Nếu hệ Tử vi thuộc loại tích cực, thì trạng thái của Thất sát rơi vào tiêu cực chỉ là nhất thời; còn nếu hệ Tử vi là tiêu cực, thì phải chú ý, tính tiêu cực sẽ trở thành bản chất của Thất sát tọa mệnh.
Thất sát thuộc loại tiêu cực, không nên đến cung hạn hoặc lưu niên có quá nhiều Cát tinh hội hợp. Bởi vì, không những không thể thay đổi thành tích cực, trái lại, còn vì tình huống thuận hay nghịch của vận trình, mà hiểu lầm tiêu cực chính là bản chất. Cũng không nên đến vận hạn quá nhiều Hung tinh hội hợp, bởi vì sự trắc trở, gập gềnh của đời người có thể làm tăng tính tiêu cực của nó. Sự “trung hòa” đối với mẫu người này là rất quan trọng.
Đầu trang

Trả lời bài viết