TỬ VI LUẬN ĐẨU SỐ

Xem, hỏi đáp, luận giải về tử vi
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tử vi. Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
can_spacy_77
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1626
Tham gia: 14:59, 19/12/11
Đến từ: Sài Gòn

TL: TỬ VI LUẬN ĐẨU SỐ

Gửi bài gửi bởi can_spacy_77 »

108. Song Lộc vi cung cục
(Song Lộc Cách)
"Song Lộc triều viên cách" cùng "Lộc thai uyên ương" có chổ bất đồng, "Lộc thai uyên ương" là Lộc tinh thủ mệnh, chỉ riêng một Lộc tinh lai hợp; còn "Song Lộc triều viên" là cung Mệnh không có Lộc tinh thủ cung, nhưng Lộc Tồn cùng Hóa Lộc phân ra ở 3 phương chiếu về cung Mệnh. Như cung Mệnh tại tý, Lộc tồn tại thân, Hóa Lộc cư thìn; thân tý thìn ba cung tương hợp. Hoặc Lộc tinh tại đối cung cũng có thể hợp cách.
Cổ ca rằng:
Tài quan nhị xử dữ thiên di,
Song Lộc lâm chi tối hữu nghi,
Đức hợp kiền khôn nhân kính trọng,
Thao thao phú quý thế hi kỳ.
(Hai cung Tài Quan và cung Thiên di rất nên có song Lộc tọa thủ là rất tốt, đức hợp với trời đất được người người kính trọng, còn phú quý như nước chảy cuồn cuộn, như vậy thật hiếm thấy)

Cách này nếu song Lộc đồng cung là không hợp cách. Phải cần một thủ cung Tài bạch, một thủ cung Quan Lộc; hoặc một thủ cung Tài bạch, một thủ cung Thiên di; hoặc một thủ cung Quan Lộc, một thủ cung Thiên di, vậy mới là cách đẹp. Nếu có Kỵ tinh ở cung Mệnh hoặc ba phương xung phá, thì không thể gọi là hợp cách.

"Song Lộc triều viên" tốt ở chỗ dễ phát tài, nhất là song Lộc phân bố vào tam phương hội hợp về, tuần hoàn mỗi mười hai năm, chí ít cũng có ba lần lưu niên ở cung Mệnh hội hợp song Lộc, cách vài năm lại có một lần tiền tài như ý, khí thế tài vận cả đời người vì thế mà cũng dễ dàng hơn.

Nhưng cách cục này vẫn có sự phân biệt cao thấp. Nếu cát tinh thủ Mệnh, hơn nữa mệnh lại cường và có lực, tất cách cục là cao, nhược cung Mệnh thủ sao phù động, như Thiên Cơ, Cự Môn, tất cách cục là thấp. Lại gặp Tứ Sát phân bố ở 3 phương là cung Mệnh hội nhiều Sát tinh, chỉ chủ nhiều tiền tài thì nhiều tai họa.
(hết mục 108)
58. Tài tinh Vũ Khúc có nhiều khuyết điểm
Vũ Khúc là sao thứ sáu trong chòm Bắc đẩu, ngũ hành thuộc kim, được xếp là tài tinh trong khoa Đẩu số. Tài tinh là chính diệu chủ yếu có 3 sao Vũ Khúc, Thiên Phủ, Thái Âm, ba sao cùng là tài tinh nhưng có những đặc tính không giống nhau.
Trong 3 tài tinh, Vũ Khúc mang tính chất cô khắc, nhất là đối với hôn nhân càng ảnh hưởng, bình thường mà nói, nữ mệnh không nên có Vũ Khúc, bởi vì cổ thư cho rằng: "Vũ Khúc chi tinh vi Quả Tú", nữ nhân gặp chủ quan hệ với đàn ông/chồng bất lợi, hoặc hình khắc vì quá nghiêm, hoặc sanh ly.
Thật ra nếu nghiên cứu kỹ lưỡng tính chất Vũ Khúc, có khi tình trạng này vị tất nghiêm trọng như vậy, vì tính chất cô khắc của Vũ Khúc tất cả đều làm gia tăng tính cương nghị, như dạng phụ nữ sự nghiệp lên hàng đầu, dễ đem tính cách cương nghị vào cuộc sống gia đình, khiến đàn ông cảm thấy gia đình không ấm áp. Xã hội hiện đại phụ nữ cũng có thể có sự nghiệp riêng, có thể phát huy đặc tính Vũ Khúc vào trong sự nghiệp, chứ không nên đem điều đó đối đãi với chồng trong gia đình; ngược lại phải phát huy sự ôn nhu nữ tính, sẽ khiến gia đình tràn ngập hòa khí. Nhưng cho dù được như thế, với chồng cũng ít nhiều khó tránh tình trạng cô khắc. Đây là nhược điểm biểu hiện tại nữ mệnh có Vũ Khúc tọa thủ.

Vũ Khúc có một đặc tính riêng là sợ Hóa Kị nhất, chủ tình cảm vợ chồng phát sinh biến hóa, hoặc chủ tiền tài ra như nước chảy, thậm chí lâm cảnh nợ nần. Người tuổi Nhâm, Vũ Khúc Hóa Kị, nếu lạc vào cung Mệnh, Điền trạch, Phu thê, Tài bạch, Quan lộc thì rất không nên. Nhưng nếu phối hợp nhiều sao tốt, chỉ là ý nghĩa không nên theo đường kinh thương mà thôi. Vương Đình Chi từng chứng kiến một vị thầy thuốc ngoại khoa, có Vũ Khúc Hóa Kị cư cung Quan lộc, nhưng vẫn giàu có.

Vũ Khúc trừ Hóa Kị ra, cũng kỵ gặp Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh. Cổ nhân có thuyết cho rằng "Vũ Khúc Hỏa Linh đồng cung, nhân tài bị kiếp" cái gọi là "nhân tài bị kiếp", không nhất định là gặp phải ăn cướp, bị cướp, mà là tài bạch tổn thất vì nhiều lý do khó cưỡng lại được. Nên nếu Vũ Khúc đi chung với Hỏa Tinh tọa mệnh, thì phá tài rất nhiều, cách hóa giải là giao cho người phối ngẫu nắm giữ. Nhưng nếu Phu thê cung lại không tốt, vậy chỉ thêm nhiều phiền toái mà thôi.
Vũ Khúc vốn là tài tinh, song đã có không ít khuyết điểm, đủ thấy có khi tài tinh chẳng phải nhất định lúc nào cũng tốt.
Trích: “Vũ Khúc có một đặc tính riêng là sợ Hóa Kị nhất, chủ tình cảm vợ chồng phát sinh biến hóa, hoặc chủ tiền tài ra như nước chảy, thậm chí lâm cảnh nợ nần. Người tuổi Nhâm, Vũ Khúc Hóa Kị, nếu lạc vào cung Mệnh, Điền trạch, Phu thê, Tài bạch, Quan lộc thì rất không nên. Nhưng nếu phối hợp nhiều sao tốt, chỉ là ý nghĩa không nên theo đường kinh thương mà thôi. Vương Đình Chi từng chứng kiến một vị thầy thuốc ngoại khoa, có Vũ Khúc Hóa Kị cư cung Quan lộc, nhưng vẫn giàu có.”
Thực chứng 1 : Nam nhân tuổi Nhâm Dần Vũ cư Tuất trúng Kỵ gia thêm Hổ là cách khắc vợ, đúng câu "trai hai đời vợ, gái hai đời chồng", Vũ cô đơn đến mức kô con hay có 1 là may mắn rồi.
Muốn Vũ thành túng thiếu, không dễ đâu vì Vũ là tài tinh bậc nhất chủ bảo thủ tồn kho, có Kỵ càng chặt chẽ giữ tiền thì sao gọi là túng thiếu, chỉ e rằng Kỵ gặp Hao thêm Thiên Không thành bộ hao túng đì đọa con người chi ly từng cắc như người ăn mày !
Thực chứng 2 : Nữ nhân tuổi Nhâm Tý cũng Vũ Khúc cư Tuất có Kỵ, cũng xong luận án tiến sĩ mà bác Đinh Văn Tân cũng từng coi số, như vậy đâu gọi là xấu, dĩ nhiên Vũ khắc Mộc mệnh thì cuộc đời cô khổ long đong chuyện chồng con, có Kỵ an vào hại nữ / nam tình duyên gia đạo trắc trở !
Cả 2 ví dụ trên cho thấy 2 người đều có công danh, no ấm, chỉ vì Vũ khắc nghiệt còn Kỵ (La Hầu / Kế Đô) là sao ám làm cho cuộc đời ôm một mối hận hành hạ đuơng nhân !
65. Liêm Trinh kiến lộc, thị cát thị hung ?
78. “Phùng phủ khán Tướng”đích bí mật
98. “Phủ Tướng triều viên” trọng Thiên Tướng
Dịch:
65. Liêm trinh kiến lộc, thị cát thị hung -------> Liêm Trinh cần sao Lộc nhưng lại lúc cát lúc hung
78. Phùng phủ khán tướng đích bí mật ----> Tôi cho rằng là Phủ phùng khán Tướng đích bí mật ----> Thiên Phủ phùng Thiên Tướng thì là người có nhiều suy nghĩ nhưng tâm tư giấu kín , hoặc sự việc còn trong vòng bí mật
98. Phủ Tướng triều viên trọng Thiên tướng -----> cách này trọng Thiên Tướng hơn Thiên Phủ .
59. Vũ khúc và Sát Phá Tham có quan hệ mật thiết:
Vũ khúc phối hợp tinh diệu, cộng có 6 tình huống:
- Tại tý, ngọ cung, Vũ khúc Thiên phủ đồng viên.
- Tại sửu, mùi cung, Vũ khúc Tham lang đồng viên.
- Tại dần, thân cung, Vũ khúc Thiên tướng đồng viên.
- Tại mão, dậu cung, Vũ khúc Thất sát đồng viên.
- Tại thìn, tuất cung, Vũ khúc độc tọa, đối cung là Tham lang.
- Tại tị, hợi cung, Vũ khúc Phá quân đồng viên.
Các tổ hợp trên dễ thấy Vũ Khúc đặc biệt quan hệ mật thiết với 3 sao Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang. "Sát Phá Tham" là một tổ hợp không tốt và hòa hiệp lắm (tổ hợp chủ hành động/ biến động), điều này ảnh hưởng đến tính chất Vũ Khúc. Hơn nữa, nếu Phu thê cung thấy Vũ Khúc, Thiên Phủ, cung Mệnh tất là Tham Lang; nếu Phu thê thấy Vũ Tướng, cung Mệnh tất vi Thất Sát, điều này có thể thấy được Vũ Khúc bất kể như thế nào, đều không thoát khỏi ảnh hưởng "Sát Phá Tham", mà quan hệ mật thiết với Thất Sát cùng Tham Lang. Cổ nhân không thích nữ mệnh cung Mệnh hoặc Phu thê cung kiến Vũ Khúc, nguyên nhân một phần cũng là không thích quan hệ với bộ "Sát Phá Tham" này.
Nếu y theo thuyết pháp của cổ nhân, Vũ Khúc chỉ có 1 tổ hợp tốt, khiến xuất hiện câu phú "Vũ Khúc hội Tham Lang, Thất Sát cập Liêm Trinh, liền khứ kinh thương" (Vũ Khúc hội Tham, Sát, Liêm, dễ đi vào đường kinh thương), ta nhận thấy mấu chốt chính là sao Liêm Trinh can dự vào, nhờ đó có thể thay đổi, tinh chỉnh tính chất tổ hợp tinh diệu.
Vũ Khúc phối hợp với các tinh diệu khác không dễ thay đổi kết quả này, vì lẽ đó không nên gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương cùng Đà La là "Tứ Sát", cổ nhân phú rằng "Vũ Khúc Hỏa Linh đồng cung, nhân tài bị kiếp", "Vũ Khúc ngộ Kình Dương Đà La, tiện chủ cô khắc", "Vũ Khúc Dương Đà kiêm Hỏa tú, nhân tài táng mệnh", "Vũ Khúc kiến Tứ Sát xung phá, cô bần phá tướng, thậm hoặc yểu thọ".
Tại Úc châu, Vương Đình Chi bị nạn rơi xuống sườn núi cả trăm thước, kết quả điều trị chấn thương ba tháng, mặt mày cơ thể hốc hác vàng vọt, nguyên cớ là do lưu niên trúng cung Thiên di gặp Vũ Khúc lại gặp Đà La, may mà đồng cung còn có một sao Thiên Tướng hơn nữa đại vận đó không quá tầm thường, cho nên mới thoát chết. Nếu gặp sát tinh không phải là Đà La, mà là Hỏa Linh, Vương Đình Chi tin rằng sớm về quê hương với một các xác không hồn.
50. Ba tính chất đặc biệt của người Thái Dương thủ mệnh
Cổ nhân đối với Thái Dương luôn luôn có một thiên kiến rằng miếu vượng tất cát, lạc hãm tất hung. Gọi là miếu vượng, tức là thời giờ ánh mặt trời mãnh liệt, bắt đầu cung Mão đến Ngọ ví như mặt trời giữa ban ngày, đến cung dậu mặt trời bắt đầu lặn về phía Tây, dỹ nhiên là sau đó đến cung Dần được ví như "Thái dương thủy hữu xuất san chi tượng" (tượng mặt trời bắt đầu mọc trên đỉnh núi ).
Bởi vậy, khi phán đoán người có Thái Dương thủ cung Mệnh, rất coi trọng tính chất cung đóng. Nói cách khác, Thái Dương tại cung Hợi thủ mệnh, vận mệnh không bằng tại Tị cung. Phương thức đoán mệnh này, cơ hồ đã thành "kim khoa ngọc luật" (nguyên tắc vàng ngọc).
Cho nên cổ thư đối với Thái Dương thủ mệnh có vài câu bình ngữ điển hình:
- "Thái dương thủ mệnh lạc hãm, tuy hóa quyền lộc diệc hung, quan lộc bất hiển, thành bại bất nhất." (Thái Dương thủ mệnh vào đất hãm, tuy hóa Quyền Lộc cũng hung, quan lộc không hiển đạt, thành bại thất thường)
- "Thái dương thủ mệnh, lạc hãm gia hung sát, kỳ nhân đới tật." (Thái Dương thủ mệnh, lạc hãm thêm hung sát tinh, trong người thường có tật.)
- "Thái dương thủ mệnh miếu vượng, phú quý vinh hoa."
- "Nữ mệnh Thái dương, cư mão thìn tị ngọ, vô sát, vượng phu ích tử" (Nữ mệnh Thái Dương, cư mão thìn tị ngọ, không hội hợp sát tinh, thì là mẫu phụ nữ làm lợi cho chồng con)
Tóm lại, cứ thấy cung Mệnh cư cung ban ngày có Thái Dương là cát, gặp cung ban đêm Thái Dương cũng có uy lực riêng. Trung Châu phái luận về Thái Dương tinh, dựa trên sự so sánh khách quan nhiều hơn.
Thái Dương tọa mệnh kỳ thật có ba tính chất chung:
- Thứ nhất là hào phóng, phóng khoáng. Gọi là hào phóng, cũng không phải "Đường triều hào phóng nữ" mà hào phóng này là có tình thần không so đo tính toán tiểu tiết. Cho nên người Thái Dương thủ mệnh, tuyệt đối sẽ không ghi tạc lỗi lầm của người khác trong lòng.
- Thứ hai, coi danh dự lớn hơn mối lợi của mình. Ở Đẩu số, Thái Âm chủ phú, Thái Dương chủ quý, cho nên người có Thái Dương tọa mệnh, bất kể sự nghiệp lớn hay rộng mở cỡ nào, cũng khó mà cự phú (giàu có lớn), thậm chí có khi giá trị giàu có không bằng nhân viên dưới quyền.
- Thứ ba, thường có tâm khí cao ngạo, khiến cho người lâm vào hoàn cảnh bất lợi, tánh khí cũng thường xuyên bất phục đối với thủ trưởng, trừ phi thủ trưởng thực sự có danh vọng, uy tín rất cao, hoặc là có năng lực lãnh đạo mạnh mẽ. Người Thái Dương thủ mệnh nếu không hiểu biết điều này chỉ làm chính mình lâm vào hoàn cảnh không tốt, cũng như phải hiểu rằng ở đâu cũng có người giỏi hơn.
(*) Phuc Loc chú thích: so sánh "Đường triều hào phóng nữ" là ý nói phụ nữ thời nhà Đường (Trung Quốc) ăn mặc rất phóng khoáng (hở ngực,...), nét đẹp hình thể phụ nữ được tôn vinh... một phong cách thời trang rất phóng khoáng và tự do (mặc dù lúc đó là thời phong kiến), thời nay phong cách đó ở cô gái Trung Hoa cũng chưa phổ biến. "Đường triều hào phóng nữ" ---> Ai đã từng coi phim Hoàng Kim Giáp thì biết !!!
51. Ba tình huống phối hợp khi Thái Dương tọa mệnh

Thái Dương đồng cung với các chính tinh khác chỉ có ba tình huống. Ở sửu, mùi cùng Thái Âm đồng cung; tại dần, thân có Cự Môn đồng cung; ở mão, dậu cùng Thiên Lương đồng cung. Còn lại, vào tý, thìn, tị, ngọ, tuất, hợi 6 cung vị, Thái Dương độc tọa.

Nhưng khi Thái Dương độc tọa, cũng có ba tình huống khác nhau. Thái Dương tọa hai cung tý, ngọ, nhất định cùng Thiên Lương xung chiếu nhau; Thái Dương tọa hai cung tị, hợi, nhất định cùng Cự Môn xung chiếu nhau; Thái Dương tọa thìn, tuất cùng Thái Âm xung chiếu nhau. Cho nên các sao phát sinh quan hệ với Thái Dương kỳ thật chỉ có 3 sao Cự Môn, Thiên Lương, Thái Âm, có khác chăng là chia làm 2 loại tình huống đồng cung hoặc đối cung.

Bởi vậy "Trung châu phái" nghiên cứu tính chất Thái Dương rất chú trọng quan hệ của nó cùng Cự Môn, Thiên Lương cũng như Thái Âm, chứ ko chỉ so đo tính toán chú trọng việc Thái Dương bị vây hãm ở cung ban đêm.
Cự Môn chủ ám; Thái Âm chủ phú; Thiên Lương chủ thanh quý. ba loại tính chất cơ bản này có thể ảnh hưởng đến Thái Dương thủ Mệnh, những cách cục này đại khái là Thái Dương ngộ Cự Môn, nếu thiếu cát tinh là người chỉ có hư danh; Thái Dương ngộ Thái Âm, có khả năng phú quý, nhưng cũng có thể thuộc loại tiểu phú quý, thậm chí chỉ là loại kinh tế gia đình (thường thường bậc trung) có chút quyền lực trong phạm vi nhỏ; Thái Dương ngộ Thiên Lương, tất bản thân tuân thủ nguyên tắc quá mức mà thành như nhân vật nổi tiếng chỉ biết làm theo 1 định kiến/nghề nghiệp nhất định, ngược lại mà không nhận ra được cái chung, đại chúng trong xã hội.
Đương nhiên lý thuyết trên chỉ là những đặc tính rất cơ bản, chi tiết cụ thể vẫn là ở sự tương tác biến hóa với các tinh diệu khác mà thành, độc giả không nên chỉ hiểu phần phân tích trên, khi nghiên cứu tính chất sao Thái Dương thủ cung tuyệt đối không phải cứ căn cứ vào ca quyết mà phán định tính chất, mà hẳn là phải căn cứ vào 3 tình huống Thái Dương hội hợp với các sao (đoạn trên) mà xác định. Đó là mệnh pháp (phương pháp luận mệnh), "Trung châu phái" có sự đặc sắc, không ngại mời độc giả tham khảo.
52. So sánh Thái Dương và Tử Vi
Thái Dương thủ mệnh có rất nhiều tính chất cơ bản, tại Đẩu số Thái Âm chủ phú, Thái Dương chủ quý, đây là tính chất cơ bản nhất, cho nên phàm Thái Dương thủ mệnh, cứ từ phương diện "Quý" này mà quan sát, nhận xét.
Người trọng ở quý, cho nên Thái Dương rất mừng gặp được một số trợ tinh chủ quý hội hợp. Như Thiên Khôi, Thiên Việt; Tả Phụ, Hữu Bật; Văn Xương, Văn Khúc; Tam Thai, Bát Tọa; Ân Quang, Thiên Quý; Long Trì, Phượng Các. Các trợ tinh này chia làm sáu cặp, nếu Thái Dương được tất cả những cặp sao này cùng hội hợp, lực lượng hỗ trợ lớn hơn gấp bội.
Ví dụ nếu Thái Dương cùng hội ba cát tinh Văn Xương, Hữu Bật, Thiên Khôi (chỉ 1 sao trong cặp sao)không bằng khi 3 sao này có đủ một cặp sao, như khi hội đủ Tả Phụ Hữu Bật (có đủ cặp), thì lực lượng so với 3 sao bị phân tán trên lại trở nên rất mạnh.
Tam Thai Bát Tọa, Ân Quang Thiên Quý là những sao đi cặp với nhau, một khi bị phân tán thì lực tác động yếu đi, nhưng nếu đủ cặp đi cùng Thái Dương thì lực tác động lại to lớn, thậm chí lực tác động còn lớn hơn ba bốn sao trong lục cát khi chúng không thành đôi (Lục cát tinh tức Xương Khúc, Khôi Việt, Phụ Bật).
Tính chất này của Thái Dương có thể nói so với Tử Vi không khác biệt lắm, bởi vì Tử Vi cũng cần cát tinh triều củng, sau mới có thể phát huy khả năng. Nhưng trong đó cũng có một chút phân biệt:
- Tử Vi mừng có Thiên Phủ, Thiên Tướng triều củng, Thái Dương dường như không thích vậy; Tử Vi sợ "Lục sát", Tham Lang và Phá Quân, nhưng Thái Dương không sợ, nhưng lại sợ Cự Môn. Tử Vi thủ mệnh là người có năng lực lãnh đạo, phong cách uy nghiêm, khó gần; còn Thái Dương thủ mệnh lực lãnh đạo yếu hơn, nhưng có đặc tính hay giúp đỡ bố thí không cầu lợi lộc, điều này dường như dễ thân cận với người khác.
- Nhưng Thái Dương lại có lực hình khắc mà Tử Vi không có. Tử Vi thủ mệnh, thì quan hệ với cha mẹ, vợ chồng, huynh đệ, con gái tương đối tốt, nhưng Thái Dương thủ mệnh, thì đối với cha, huynh trưởng, con trưởng lại có sự hình khắc, nặng thì tử vong, nhẹ thì sanh ly, hoặc là tình cảm không tốt.
Cho nên tính chất Tử Vi vẫn còn tốt hơn, thậm chí ngay cả so sánh tình trạng sức khỏe cũng tốt hơn một chút.
53. Hai ví dụ (về câu phú) Thái Dương tọa mệnh
Vì Thái Dương vốn có khuyết điểm hình khắc, vì lẽ đó cổ nhân liền cho rằng "Nhật Nguyệt thủ mệnh bất như chiếu hiệp" (Nhật Nguyệt thủ mệnh không bằng chiếu hợp). Lý do, xem cung Mệnh nếu không thấy Thái Dương tọa thủ nhưng đắc Thái Dương củng chiếu, đương nhiên khiến cung Mệnh có được tính chất "Quý" vốn có của Thái Dương, mà lại khả năng giảm bớt được sự hình khắc.
Nhưng chẳng biết tại sao, hiện nay nếu xem một người Thái Dương thủ mệnh, độ hình khắc trên thực tế cũng không thái quá theo như lời cổ nhân. Chính như sự quý hiển, theo lời cổ nhân cũng không quý hiển bằng. Vương Đình Chi xem mệnh một bằng hữu, Thái Dương tọa mệnh, cổ nhân cho rằng "Dữ nhân quả hợp chiêu thị phi", nhưng bản thân nhân duyên lại tương đối tốt đẹp, hơn nữa đối với cha cảm tình cũng khá tốt. Hiện thực và theo như lời cổ nhân không một chút tương hợp.
Theo Vương Đình Chi suy đoán, sự e ngại này lý do là vì cách thức tổ chức cuộc sống thời xưa và hiện đại không giống nhau. Thời xưa, hai thế hệ cha con cùng đồng cư một nhà, dễ dàng sinh ra mâu thuẫn, không giống hiện nay, kết hôn xong liền rời cha mẹ sống riêng, vì lẽ đó người Thái Dương thủ mệnh, lại có thể phát huy bản chất tình cảm của sao Thái Dương, bất quá về phương diện khác mà nói, sống riêng cũng có thể xem như bị hình khắc nhẹ nhất.
Quan hệ cùng bằng hữu cũng như thế. Người xưa quan hệ xã giao trong phạm vi hẹp, vì cá tính người Thái Dương khá quyết liệt, trong phạm vi nhỏ không một ai tiếp thu du di cho điều đó, có khi lại biến thành không hợp, thành kiến với nhau, mất vẻ tự nhiên,... không giống như ngày nay xã giao trong phạm vi rộng, trước sau cuối cùng thì khi gặp mặt cũng có thể tiếp nhận cái loại cá tính riêng của bằng hữu.
Cho nên dùng Đẩu số đoán mệnh cho người hiện đại, gặp Thái Dương thủ mệnh thì, không thể không cẩn thận một chút, lời giải đoán không thể ứng hoàn toàn y theo ca quyết cổ nhân để lại.
Ví như cổ nhân nói: "Thái Dương cư ngọ, kỳ quý chuyên quyền", đó là bởi vì mừng cho Thái Dương ví như gặp ánh mặt trời giữa trưa mãnh liệt nhất, trên thực tế, người hiện đại vị tất theo đường chính trị, hơn nữa liên quan đến nó cũng còn ít, thường theo đường kinh thương, vậy Thái Dương tại ngọ thủ mệnh ngược lại dễ dàng biến thành một lão quan rổng ruột vui mừng khi được đứng đầu, điều này thể hiện mặt quý của Thái Dương, vì lẽ đó con người Thái Dương dễ yêu thích hư danh; về phương diện khác Thái Dương không chủ phú, càng yêu cái hư danh càng dễ dàng không tưởng, đến nổi trở thành một lão quan rổng vậy (không tiền cũng không có danh, chỉ có chức quan).
Đơn cử vài ví dụ, tức cũng biết tính chất Thái Dương tọa mệnh.
Được cảm ơn bởi: Ngàn Phố
Đầu trang

can_spacy_77
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1626
Tham gia: 14:59, 19/12/11
Đến từ: Sài Gòn

TL: TỬ VI LUẬN ĐẨU SỐ

Gửi bài gửi bởi can_spacy_77 »

55. Luận "Nhật Nguyệt giáp mệnh"

Đẩu số xem trọng "Nhật Nguyệt giáp mệnh", cho rằng lá số rất tốt, mệnh cục này trước tiên chúng ta nghiên cứu hai trường hợp:

- Một, cung Mệnh tại sửu, lúc này Thái Âm tại tý, Thái Dương tại dần. Cung Mệnh có chủ tinh là Vũ Khúc, Tham Lang.

- Hai, cung Mệnh tại mùi, lúc này Thái Âm tại ngọ, Thái Dương tại thân. Cung Mệnh có chủ tinh cũng là Vũ Khúc Tham Lang.

Nói cách khác, chúng ta nghiên cứu người "Nhật Nguyệt giáp mệnh" là nghiên cứu cung Mệnh có 2 sao Vũ Khúc Tham Lang. Vũ Khúc là tài tinh, đồng thời có tính chất độc hành độc đoán, cho nên hành xử cũng rất quyết đoán. Tham Lang là sao tinh xảo nghề nghiệp, đồng thời đại biểu cho năng lực giao tế ứng đối rất tốt. Vì lẽ đó, Vũ Khúc và Tham Lang đồng thủ cung Mệnh thì hai chủ tinh này dễ dàng tác dụng hỗ trợ lẫn nhau.

Một cá nhân, nếu như có năng lực quyết đoán lại có khả năng lý tài, đồng thời có kỹ năng chuyên môn mà lại am hiểu giao tế, chẳng cần phải nói nhiều, đương nhiên là một nhân vật thành công trong thương trường. Nhưng người có mệnh cục này lại có khuyết điểm.

Đầu tiên, Vũ Khúc chủ phát chậm, cho nên chỉ có thể là nhân vật bạch thủ hưng gia (tay trắng làm nên), gian tân khai sáng sự nghiệp.

Tiếp theo, Tham Lang có một mặt yếu kém chính là chủ trầm mê tửu sắc, cờ bạc, bởi vậy cũng rất nguy hiểm, nhẹ thì sự nghiệp vì đó mà không thuận, nặng thì vì tự phụ quá thông minh rồi lầm lỗi thậm chí bị lừa đến tai ương lao ngục. Đó là lý do làm cho người có mệnh cục này thích giở thủ đoạn, giở thủ đoạn rồi vào con đường bất chính, tự nhiên bất lợi.

Người có cách "Nhật Nguyệt giáp mệnh" sợ nhất cung Mệnh gặp Kình Dương, đương mệnh tại sửu cung, cung Tài bạch tất là Liêm Trinh, Phá Quân; đương mệnh tại mùi cung, cung Quan lộc cũng gặp Liêm Trinh, Phá Quân. Liêm Trinh Phá Quân hội Kình Dương ở cung sửu mùi gọi là "Nữu gia đới tỏa" (đeo gông vào cổ) (*), chủ vì lý do tiền tài hoặc quan lộc mà lâm cảnh hình tụng.

Hơn nữa, không chỉ nói cung Mệnh tại sửu hoặc là tại mùi, mà cung Phúc đức tất kiến Thiên Tướng lạc hãm, cho nên phàm "Nhật Nguyệt giáp mệnh", cho dù là mệnh tạo tốt, bản thân cũng chủ bôn ba vất vả.

Cổ thư cho rằng "Nhật Nguyệt giáp mệnh" là "quý cục", kỳ thật phải có rất nhiều điều kiện phụ, cung Mệnh không thấy Kình Dương, cố nhiên ở ranh giới giữa chánh và tà; nếu có Khôi Việt, Phụ Bật, Xương Khúc tắc có thể sự nghiệp thành tựu, nhất là càng mừng nếu gặp Hỏa Linh, bởi vì có Hỏa Linh liền dễ làm suy yếu đi tính cách "hảo tửu tham hoa".
Chú thích:
"Nữu gia đới tỏa" : nghĩa đen, vặn gông cùm đeo xiềng xích (vào cổ); nghĩa bóng, mắc hình tụng.
56. Tái đàm "Nhật Nguyệt giáp mệnh"

"Nhật Nguyệt giáp mệnh" còn có một trường hợp khác:

- Thiên Phủ tại sửu cung thủ mệnh, Thái dương tại tý, Thái âm tại dần.

- Thiên Phủ tại mùi cung thủ mệnh, Thái dương tại ngọ, Thái âm tại thân.

Thiên Phủ đứng đầu nam đẩu tinh hệ, hơn nữa được ví như ngân hàng trung ương giữa các ngân hàng, bình thường mà nói đương nhiên là có đủ tính chất tốt đẹp, nhưng Thiên Phủ cư cung sửu, mùi lại có một đặc điểm đó là chỉ có một mình chủ tinh độc thủ cung Mệnh, hơn nữa cung Thiên di lại gặp Liêm Trinh Thất Sát, vì đó mà tính chất Thiên Phủ thủ mệnh dễ có rất nhiều biến hóa.
Khi Thiên Phủ thủ mệnh cư vào sửu cung thì thích nhất người tuổi Bính bởi vì có Lộc tồn tại cung tị hội hợp, tăng mạnh lợi ích cho sự nghiệp. Người tuổi Giáp, Đinh, Kỷ, Canh, Quý tất có Kình Dương hoặc Đà La vừa bao vây vừa quấy nhiễu Thiên Phủ, chẳng thể cát lợi.

Khi Thiên Phủ thủ mệnh cư vào cung mùi thì thích nhất người tuổi Nhâm bởi vì có Lộc Tồn ở cung hợi hội hợp. Người tuổi Giáp, Đinh, Kỷ, Canh, Quý có Kình Dương hoặc Đà La cũng quấy nhiễu Thiên Phủ. Đặc điểm Thiên Phủ độc thủ cung Mệnh vốn có tính cách bảo thủ, hơn nữa có thể nói là người có chút cò kè thêm bớt; nhưng đối cung là Liêm Trinh Thất Sát, lại hàm chứa sự thích mạo hiểm, hơn nữa có nhiều loại sở thích, cái cương liệt mạnh mẽ này (Liêm Sát) cùng Thiên Phủ độc thủ cung Mệnh có tính chất xung đột lẫn nhau.
Lúc này, nếu có Lộc Tồn trợ giúp, tài lực Thiên Phủ tăng mạnh, đủ để ứng phó làm tiêu hao Liêm Trinh Thất Sát. Ngược lại, nếu không có Lộc Tồn, mà hội hợp Kình Dương Đà La, Thiên Phủ yếu kém trong phương diện ứng phó Liêm Trinh Thất Sát, cuối cùng hóa ra hao tổn mà thôi và cái tính cách bảo thủ và keo kiệt cố hữu lại tự khiến cho đương số đau lòng, lúc này vì hội hợp ảnh hưởng Dương Đà, khiến cho đương số hiểu được không nên tìm cách làm càn rồi tự mình không thể sửa sai được. Vì vậy có cơ mưu đầy rẫy, cũng rơi vào bọn xảo trá quyền thuật mà thôi.

So sánh sự khởi lai cách cục, cư vu sửu cung thì không tốt bằng mùi cung bởi vì Nhật Nguyệt đồng thời cư vượng cung, cục diện khác nhau khá lớn. Nhưng nếu vô cát tinh củng chiếu, ngược lại có Tứ Sát hội hợp, cục diện càng lớn, càng có cơ mưu quyền thuật tà đạo, vì thế mệnh cục loại này có thể có một chút "không tâm đại lão quan" (viên quan hữu danh vô thực, rỗng ruột).

Thế nên "Nhật Nguyệt giáp mệnh" vị tất đại quý, nhất là tại cái xã hội xa hoa và đầu cơ này.
69. Thái Âm lạc hãm cũng không nên e sợ

Thái Âm tức là ánh trăng. Tại Tử vi Đẩu số, Thái Âm cùng Thái Dương là một đôi "Trung thiên tinh diệu" rất có lực, tinh diệu này không thuộc về nam đẩu, lại cũng không thuộc về bắc đẩu. Phàm như thuộc là "Đối tinh", đều có tính chất giống nhau vừa có điểm khác nhau. Thái Âm chủ phú, Thái Dương chủ quý; Thái Âm chủ nữ, Thái Dương chủ nam; Thái Âm chủ nhu, Thái Dương chủ cương, Thái âm thuộc thủy, Thái Dương thuộc hỏa.

Cổ nhân cho rằng biến hóa của Thái Âm rất lớn, tại hợi tý sửu cung nhập miếu, cơ bản là mệnh hảo; nhưng nếu tại tỵ ngọ mùi cung là lạc hãm, dễ mang đến những tai hại khá lớn, phú "Thái Âm lạc hãm thương thê mẫu", đối với người thân là nữ thường bất lợi ; nếu như là nữ mệnh, xưng là "Hình phu khắc tử vi xướng thiếp" ("Nếu không làm kỹ nữ, tỳ thiếp thì cũng hình khắc chồng con").

Thuyết pháp này, võ đoán quá mức, cho nên một số độc giả tự mình lập lá số, nhìn thấy cung Mệnh Thái Âm lạc hãm, liền hết sức chi là sợ hãi, cho rằng vận mệnh của chính mình rất kém, sự thật thì suy đoán Đẩu số cũng không đơn giản như vậy. Thái Âm cho dù lạc hãm, nhưng cũng phải kiến Tứ Sát Không Kiếp và phải có sát tinh đồng cung, hơn nữa cung Phúc đức cùng Thân cung bất hảo, sau đó mới phát sinh những sự chẳng lành, nếu không thì cũng không quá xấu theo như lời cổ nhân.

Lấy ví dụ Thái Âm cư cung ngọ :

Tại ngọ cung Thái Âm lạc hãm, cùng Thiên Đồng đồng cung, Thiên Đồng cũng lạc hãm, chiếu theo thuyết pháp của cổ nhân là: "Hóa cát phản hung, phùng sát dâm tà", tức là nói nếu Thái Âm, Thiên Đồng hóa thành Lộc, Quyền, Khoa tam cát tinh, phản vi hung cục; nếu ngộ Tứ Sát tất không cần hỏi rồi. Có thể nói điều này chẳng đúng tý nào, trên thực tế cũng không phải là như vậy. Vương Đình Chi luận qua mệnh một nam một nữ đều là Thiên Đồng Thái Âm thủ ngọ cung, người nam chính là một nhân vật quản lý kinh doanh trong giới tài chính kinh tế, người nữ chính là nhân viên quan trọng của một công ty quan hệ xã hội nổi tiếng.

Nguyên nhân chủ yếu ở bối cảnh xã hội khác nhau, bởi vì phàm người có Thiên Đồng Thái Âm tại ngọ cung, tính cách đều có điểm hướng nội, thích hợp nhất vào công tác nội vụ, đồng thời kế hoạch tính rất mạnh, không thì rồi lại thường dễ vào ảo tưởng. Loại tính cách này, ở xã hội xưa rất khó phát huy, ở xã hội hiện đại lại thường có khả năng dựa vào ảo tưởng rồi phát ra linh cảm, sau đó từ linh cảm mà biến thành kế hoạch. Hơn nữa, doanh nghiệp ngày nay, thường có một bộ quy chế về chấp hành kế hoạch, cho nên người có loại kết cấu cung Mệnh, cũng có thể dễ dàng phát huy sở trường của họ (trong việc lập kế hoạch).

Đoán Đẩu số thiết yếu ở nghiên cứu tính chất, không nên căn cứ chỉ một mặt sáng của khẩu quyết như ví dụ trên.
70. Thái Âm thủ mệnh, kiêm coi kỹ cung Phúc Đức

Cổ nhân luận đoán các tình huống Thái Âm tọa thủ các cung, có thể chỉ căn cứ bối cảnh văn hóa xã hội thời xưa, cho nên có rất nhiều tư liệu, ngày nay chỉ có thể làm tư liệu tham khảo.

"Thái Âm tại mệnh thân cung, miếu vượng chủ nhất sanh chi khoái lạc" (Thái Âm tại mệnh thân cung, miếu vượng chủ cả đời sung sướng), luận đoán câu này ngày nay không còn thích hợp, đại khái xã hội thời xưa ít cạnh tranh, và vì lý do Thái Âm chủ phú cho nên cổ nhân mới cho rằng đã phú tất "nhất sanh khoái lạc", xã hội hiện đại sự việc ấy không phải hoàn toàn như vậy.

Ví dụ như Thái Âm tại cung tuất thủ mệnh, cực kỳ sáng tỏ, nhưng "Cung Phúc đức" có Cự Môn tại tý cung tọa thủ, "Cung Phúc đức" chủ việc hưởng thụ về mặt tinh thần, Cự Môn tọa tý tất hội Thiên Cơ, một sao ngộ sát tinh liền dễ dàng gây ra các cạnh tranh, khiến thân tâm bị bất an, vậy "cả đời sung sướng" sao được? Bởi vậy bối cảnh xã hội khác nhau gây ra các sai biệt.
Lại như cổ quyết nói rằng: "Thái Âm cư tý, hào thủy trừng quế ngạc, đắc thanh yếu chi chức, trung gián chi tài" (Thái Âm cư tý, tượng như nước lắng trong ở đài hoa quế thơm, làm quan thanh liêm giữ chức trọng yếu, có tài trung liệt can gián vua). Phàm Thái Âm cư tý, tất cùng Thiên Đồng đồng cung, cổ nhân lấy Thiên Đồng là "Phúc tinh" nên khó trách đánh giá khá cao, chính tính chất phúc quan trọng của Thiên Đồng tựa như "đả giang sơn đả xuất lai" (tranh đấu cho đến khi lập được giang sơn), bởi vậy "Cung Phúc đức" rất trọng yếu là vậy.

Thái Âm cư tý ở cung Mệnh thì "Cung Phúc đức" nhất định là Thái Dương Cự Môn đồng thủ dần cung, nếu như kiến sát chủ tinh thần cả đời khốn nhiễu không yên, đồng thời vào cạnh tranh thường dễ dàng áp dụng thủ đoạn bất chánh, điểm này nhất định dễ ảnh hưởng Thiên Đồng đến sự kiên nhẫn, vững vàng không lay chuyển của việc "tranh đấu giành thiên hạ", bởi thế cũng cần thiết đánh giá lại lần nữa đối với phán đoán "Thanh yếu chi chức, trung gián chi tài".

Xã hội thời xưa người và sự việc đơn giản, cho dù Thái Dương Cự Môn thủ cung Phúc đức kiến sát tinh, cũng chỉ chủ bản thân động não ở phương diện "Ngôn lộ" (*) mà thôi, cho nên mới có khả năng trở thành "Trung gián chi tài", xã hội ngày nay áp lực cạnh tranh lớn, dễ bức bách người Thái Dương Cự Môn kiến sát thủ cung Phúc đức thành người "Xuất thuật" (**), làm sao thành "Trung gián" được chứ!

Cho nên Vương Đình Chi đề nghị độc giả xem lá số có "Thái Âm thủ mệnh", tốt nhất là nên kiêm xem thêm cung Phúc đức rồi hãy đánh giá.
Chú thích:
"Ngôn lộ" : (theo) phương diện/đường ăn nói.
(**) "Xuất thuật": cái gì tự không mà ra có thì gọi là "xuất" và phương pháp, quy tắc, cách thức được học được rèn luyện gọi chung là "thuật"; nên "xuất thuật" hiểu nôm na là kẻ "ăn không nói có, biến có ra không" - không đáng tin.

94. Thuyết "Tham Vũ đồng hành cách"
"Tham Vũ đồng hành cách" - tức Tham Lang Vũ Khúc nhị tinh tại tinh bàn đích cung sửu hoặc mùi, mà cung Mệnh đóng ở đây.
- Cổ nhân cho rằng cách cục này: "Văn tác giam ti thân hiển đạt, vũ thần dũng mãnh trấn biên cương" (Làm quan văn, thì hiển đạt, làm quan võ thì dũng mãnh trấn biên cương). Vũ Khúc là tài tinh, vừa là vũ chức, gặp Tham Lang đồng cung chủ phú, có thể gia tăng thanh thế của Vũ Khúc, vì lẽ đó định là mỹ cách (cách tốt).
- Nhưng người có cách "Tham Vũ đồng hành", tại xã hội hiện đại đa số lại không làm quan. Vương Đình Chi đã từng gặp qua một vị bằng hữu là thầy thuốc ngoại khoa, ông ta có mệnh cách thuộc loại này. Thầy thuốc ngoại khoa sát khí lớn, hằng ngày khi làm việc chủ yếu sử dụng dao mổ xẻ, tự nhiên tính chất cơ bản này theo như lời cổ nhân lại giống nhau. Mặt khác, Vương Đình Chi cũng gặp qua không ít trường hợp có cách cục này lại là giáo sư khoa học tự nhiên, thí nghiệm khoa học chủ yếu sử dụng (khuấy, ke'o, đẩy,...) thiết bị để làm thí nghiệm, cho nên vì lẽ đó Vương Đình Chi cũng cho rằng có sự tương hợp tính chất đối với cách cục này. - bởi vậy dẫn lại ca quyết (bài vè) của cổ nhân đích không nên câu nệ câu chữ, chỉ nên lĩnh hội tinh thần khả dĩ trong đó mà thôi.
- Cách cục này, cung Mệnh tốt nhất là nên gặp Lộc. Tuổi Mậu, Tham Lang hóa Lộc, tuổi Tân gặp Lộc Tồn ở cung dậu hội hợp, Vũ Khúc Tham Lang đồng cung ở sửu tốt hơn ở mùi, bởi vì sửu cung đối với Vũ Khúc có lợi.
- Hỏa Linh cũng tốt nhưng không thể có Kình Dương đồng thủ, vì như vậy, gặp cùng hai lực lượng sát tinh ko khác gì tự mình triệt tiêu chính lực lượng của mình (vì Kình Dương, Hỏa Linh phá hoại lẫn nhau)
46. Thiên Cơ thủ mệnh là mẫu người linh động
Tại cổ bổn "tý vi Đẩu số" sao Thiên Cơ được liệt vào "Nam đẩu đệ nhất tinh", mân phái gọi là "Nam đẩu đệ tam tinh". Bản chất thuộc âm, hóa khí là thiện tinh.
Tính chất cơ bản Thiên Cơ chủ về động, tính động của Cơ, Vương Đình Chi đã nói qua, cũng không có ý nói biến động trong cuộc sống, mà là chỉ linh động từ phương diện quan hệ giao thiệp đến tinh thần, hoặc chủ linh động trong làm việc đầu óc.
Cổ nhân đối với Thiên Cơ đánh giá không cao. Chỉ khi cùng Thiên Lương hội hợp, hơn nữa gặp được Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc thì mới thừa nhận là "Văn vi thanh hiển, vũ vi trung lương" cách. Vương Đình Chi cho rằng đánh giá này, chính yếu là sao Thiên Lương hội hợp đến, bởi vì sao Thiên Lương được cho là sao thanh hiển mà trung lương.
Ngoại trừ cách cục này ra, Thiên Cơ chủ "thoái tổ tự hưng" (tổ nghiệp bị suy thoái mà tự mình làm hưng thịnh), chủ tha hương phiêu bạt; ở nữ mệnh tất "Tuy phú quý diệc bất miễn dâm dật" (Tuy phú quý cũng khó tránh dâm dật), gặp sát tinh tất "Dâm tiện thiên phòng xướng tì chi mệnh , phủ tắc hình phu khắc tý" (là mệnh làm vợ nhỏ hay nữ dâm dật, xướng tỳ, nếu không cũng hình phu khắc tý). Chỉ nói vậy mà không chỉ ra căn cứ.
Ngày nay đánh giá sao Thiên Cơ tuyệt không quá xấu như lời cổ nhân, nguyên nhân tại vì hoàn cảnh xã hội cổ kim khác nhau rất nhiều. Thời cổ trọng đôn hậu, không trọng biến; trọng an phận thủ thành, không trọng cải cách, bởi vậy nói tính chất Thiên Cơ ứng biến, linh hoạt, sở trường cải cách, khá dùng đầu óc vào giải quyết sự việc không tâng bốc quá đâu.
Tại Đẩu số, có cách cục "Cơ Nguyệt đồng lương", tức là Thiên Cơ thủ mệnh ở hai cung dần thân, hội hợp ba sao Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương. Cổ quyết thuyết: "Cơ Nguyệt đồng lương tác lại nhân", nói cách khác, mệnh cục này là người đao bút (chuyên viết đơn), soạn kế sách công, cho nên thích hợp vào vai trò đao bút lại (người phụ trách việc văn thư). "Lại" không bằng "Quan", bởi vì lại chỉ là kẻ dưới tay quan để sai khiến, vì như vậy nhìn tổng thể cổ nhân đánh giá Thiên Cơ không bằng quan đứng đầu là người được xã hội thừa nhận quang minh chánh đại.
Xã hội ngày nay, Thiên Cơ có ý nghĩa ở chổ càng linh động càng dễ hòa nhập vào xã hội, đồng thời khi là người làm việc cho chánh phủ, mặc dù là thân phận lại nhân (công chức), địa vị xã hội cũng không được cao, vì thế ta nên đánh giá cao người có Thiên Cơ thủ mệnh. Cũng như càng phải chú ý đến họ bởi vì lý do đầu óc họ luôn năng động, có khả năng thích ứng nhanh với thời đại công nghệ, không thể đánh giá thấp được.
47. Sáu tình huống Thiên Cơ độc thủ mệnh cung
Phàm Thiên Cơ độc tọa cung Mệnh, nhất định phải nghiên cứu cẩn thận cung nó đóng. Tổng cộng có sáu cung vị là "Thiên Cơ độc tọa", tức tý ngọ; sửu mùi; tị hợi, có thể đại khái chia làm ba tổ hợp:

- Tại tý, ngọ cung, Thiên Cơ nhập miếu, tức giống như có người cung phụng, tinh diệu rất trong sáng, cởi mở, tình huống này, người Thiên Cơ tọa mệnh có năng lực phân tích và khả năng linh động rất mạnh. Vương Đình Chi đoán mệnh cho một số công trình sư, y sư, luật sư thì đều thấy họ có cách cục này, có thể thấy được mệnh cục có cách cục này không tầm thường.

Nhưng mà cần phân biệt cẩn thận, xem xét các tinh diệu khác, coi khuynh hướng tính chất Thiên Cơ mạnh vào một phương diện nào, giống như xét mệnh Thiên Cơ lực linh động mạnh dễ có thể là luật sư mà không phải là công trình sư vậy; hay như nếu gặp tinh diệu hội hợp quá xấu, người này lại chỉ có thể là một nhân viên chào hàng nhanh nhạy. Bởi vậy, gặp mệnh cục tương tự phải nhìn ra khuynh hướng chức nghiệp của một người.

- Tại sửu, mùi, Thiên Cơ lạc hãm, tinh diệu quá tối vì thế mà lực linh động giảm bớt rất nhiều; để có thể phát huy năng lực phân tích, tốt nhất là nên gặp Xương Khúc - hai sao chủ thông minh, tất lực phân tích tăng mạnh, có thể tại sự nghiệp có cơ hội thể hiện. Nếu gặp phải một số sao xấu như Hóa Kị thì lực phân tích tất suy yếu đi; lực linh động đã bị khiếm khuyết, lực phân tích lại mơ hồ, thì không thể xác định là thượng cách (cách tốt).

- Tại tị, hợi thì trung bình, lực linh động và phân tích không bằng người Thiên Cơ nhập miếu, nhưng so với người Thiên Cơ lạc hãm (sửu mùi) vẫn còn tốt, đáng tiếc đối cung thấy sao Thái Âm thu hút tác động Thiên Cơ, khiến người có mệnh cục này, lực linh động hóa thành tiêu hao như theo đuổi một phương diện dị tính (khác thường, khác giới tính,...), còn lực phân tích cũng dùng như để phân tích tâm lý người khác giới, như đón trước tâm lý người khác để quan tâm, chăm sóc bằng vẻ ôn nhu, bằng không còn lại chỉ là tốt về những mưu toan, tính toán nhỏ vặt. Cổ thư ghi rằng: "Thiên Cơ tị hợi cung Mệnh phùng, hảo ẩm ly tông gian giảo trọng" (Mệnh có ThiênCơ tị hợi tuy lập nghiệp xa quê no ấm nhưng vẫn nặng về gian xảo).

Cùng cách cục tinh diệu, có thể không giống và biến hóa đa đoan, nhưng khi phân tích phải đứng trên bản chất đã có của nó, điều này độc giả cần lưu ý nhiều hơn.
49. Cơ Lương thủ mệnh có ba loại biến cục
Thiên Cơ tọa mệnh có một biến cục riêng là Thiên Cơ Thiên Lương đồng cung. Tại cổ thư đối với mệnh cách này có 3 câu bình luận:
- "Cơ Lương đồng cung Thìn Tuất, cao nghệ tùy thân"
- "Cơ lương thìn tuất gia cát diệu , phú quý từ tường" (Cơ Lương Thìn Tuất hội hợp thêm cát tinh, người hiền lành hưởng phú quý)
- "Cơ Lương thủ mệnh gia Hình Kỵ, thiên nghi tăng đạo" (Cơ Lương thủ mệnh thêm Thiên Hình Hóa Kỵ, nên theo đường tu hành hay đạo sỹ)

Ba đoạn bình luận này có thể thấy được cách Cơ Lương thủ mệnh, có biến hóa rất lớn.

Phân tích nguồn gốc đưa đến 3 câu phú này kỳ thật là xem xét chỉ từ hai tinh diệu này, so sánh xem sao nào (tác động) mạnh, ví như nếu Thiên Cơ cường, vậy đó là mệnh "cao nghệ tùy thân"; trái lại, nếu lực Thiên Lương cường, phùng cát diệu, tất "phú quý từ tường"; phùng Hình Kỵ tác động đến Thiên Cơ một cách mạnh mẽ, phát huy triệt để tính chất Thiên Cơ, cho nên dễ vào chốn không môn (cửa Phật).

Tọa Thìn Tuất hai cung, vốn là Thiên la địa võng, lực linh động của Thiên Cơ bị ảnh hưởng, bởi vậy chỉ có thể phát huy lực phân tích của Cơ mà thôi. Lại có người hiểu biết tra vấn, rất nhiều công trình sư cùng với giảng viên đều là loại mệnh cục này (đương nhiên không phải loại thường lên giọng chỉ biết phun nước miếng) có thể thấy được loại mệnh cục này tuyệt đối không tầm thường. Cổ nhân gọi là "cao nghệ tùy thân", thời hiện đại khả dĩ chỉ về "chuyên môn học vấn".

Nhưng tính chất Thiên Lương lại có khả năng ảnh hưởng đến Thiên Cơ thành tâm địa hiền lành, trầm mặc ít nói, phẩm tính thanh cao, (từ một người linh động thành người bị động) nên khiến mệnh cục khá kém, rơi vào trường hợp thợ thủ công, bản thân cũng nghiên cứu kỹ thuật rất tốt, thường đạt được nhiều sự tâm đắc. Hoàn một nổi, loại người này có 1 đặc điểm là không chịu đem những điều tâm đắc truyền cho người khác, ngay cả đồ đệ cũng không chịu truyền thụ, vì lẽ đó dù tâm địa thiện lương, nhưng lại thường dễ dàng chiêu oán.

Nếu như gặp Thiên Hình Hóa Kỵ, Thiên Cơ hoàn toàn bị thụ chế, lúc này lực lượng Thiên Lương phát huy cực độ, bản thân sẽ thiên về "hoang tưởng", thích suy tư vấn đề triết học, vì lẽ đó cổ nhân cho là "thiên nghi tăng đạo", kỳ thật thời hiện đại, điều này cũng không hiện thực lắm vì không phải mệnh cục một vị triết gia nào cũng nhất định xuất gia.

Cơ Lương phối hợp, tinh diệu đã nhược, nhất định không nên gặp sát tinh, nếu không xử sự dễ lâm cảnh rối tinh rối mù, hơn nữa tâm linh lại hư không, không có gì để gởi gắm niềm tin.
27. Liêm Trinh chủ bệnh về máu

"Thiên Trượng tinh củng hạn, chủ cảm gió hen suyễn. Nếu tại cung Tật ách chủ lo lắng về bệnh tật, phàm bị sao này thủ chiếu chỉ có hại không có lợi, sanh tai vạ, có tật nùng huyết (*)"

Theo thiển kiến Vương Đình Chi, Liêm Trinh ở "Tử vi Đẩu số" vốn có đủ các tính chất của Thiên Trượng, phàm bị lao suyễn nhất định là Liêm Trinh cùng với tinh diệu tương tác hội hợp. Vương Đình Chi đoán mệnh cho một vị đại cô nương sinh năm 1982, nhập hạn năm ngọ, năm ấy trúng cung Tật ách có Liêm Trinh, nhận thấy tụ hội hệ thống sao gây bệnh phổi, hỏi tới, quả nhiên đã mắc bệnh phổi. Thời đại bây giờ, người mắc bệnh phổi khá ít, cho nên có những người sẽ không bị bệnh phổi, gặp hạn này lại bị ho khan, cũng như khí quản nhiễm trùng (viêm phế quản).

"Liêm Trinh ngộ Dương Đà, nùng huyết bất miễn", đây là lý thuyết ghi nhớ. Ở thuyết pháp "Trung châu phái", khi có Liêm Trinh hội hợp cùng các tinh diệu khác mà dễ gây bệnh tật, thì bệnh tính cũng thuộc về nùng huyết tai ương.

Vương Đình Chi ghi nhớ trong số thủ hạ có một học trò, Vương Đình Chi xem mệnh phê rằng "hữu huyết tật", đánh chết hắn cũng không tin, Vương Đình Chi chỉ hắn đi lấy máu xét nghiệm, nhưng lại hoài nghi làm luôn năm thí nghiệm, sau cùng đều xác định như vậy hết, học trò kia bị dọa mặt không còn chút máu, tìm Vương Đình Chi để xem, Vương Đình Chi đoán kỳ vô sự, rốt cục chứng minh chỉ là "tiên thiên tính bần huyết" (thiếu máu bẩm sinh). Chuyện này, tại nơi Vương Đình Chi làm việc, thủ hạ đều biết, họ đều kinh hãi cho là thần toán, thật ra cũng chỉ căn cứ "mười tám phi tinh" mà thôi: "Tại cung Tật ách giả dị tộc ly dĩ …… chủ nùng huyết tai ương". Một chút thần bí cũng không có vậy !
Phuc Loc chú thích:
64. Liêm Trinh khó phân định nhất

Ở "Tử vi Đẩu số", sao Liêm Trinh rất khó phán đoán, đại khái cổ nhân cũng cảm thấy như vậy nên thường trọng Liêm Trinh đồng cung hoặc hội hợp với các tinh diệu khác, mà định thuyết pháp: "xúc chi bất khả giải kỳ họa, phùng chi bất khả trắc kỳ tường" (đụng phải nó không thể giải được họa, gặp được nó không lường hết được phúc), nói cách khác, sao này thủ mệnh cát hung họa phúc vô định, việc luận đoán cần lấy trọn các tinh diệu phối hợp tam phương mới chuẩn.

Trong Cổ ca cũng có rất nhiều thuyết pháp cát hung vô định, như "Liêm Trinh chủ hạ tiện chi cô hàn", "Liêm Trinh sát bất gia , thanh danh viễn bá" (Liêm Trinh không gia sát tinh, tiếng lành đồn xa), "Liêm Trinh Thất Sát, lưu đãng thiên nhai" (Liêm Trinh Thất Sát phiêu lãng chân trời xa xăm), "Liêm Trinh Thất Sát, phản vi tích phú chi nhân" (Liêm Trinh Thất Sát lại là người tích cóp làm giàu), "Thất Sát Liêm Trinh đồng vị, lộ thượng mai thi" (Thất Sát Liêm Trinh đồng cung là cách chết đường). Trong đó riệng cách cục Liêm Sát đồng cung, thuyết pháp mâu thuẫn hơn cả.

Nếu theo cách nhìn của Trung châu phái Liêm Trinh có nhiều biến cách nhất, sao này mặc dù có thuyết pháp "thứ đào hoa" nhưng vị tất con người Liêm Trinh thủ mệnh cứ là đào hoa, hoặc cứ có tính cách dâm đãng, song, có một chút tính chất cơ bản có thể dám khẳng định đó chính là bản thân thường có điểm khinh bạc, không nghiêm túc, nhưng nội tâm lại khá chủ quan, không dễ dàng hòa hợp cùng người khác khi chung sống.

Tham Lang là "chánh đào hoa", Liêm Trinh là "thứ đào hoa", cùng là đào hoa cả nhưng Tham Lang thủ mệnh lại lả lướt khéo đưa đẩy, còn Liêm Trinh thì khác lại hơi nghiêng về nói năng tùy tiện, bạ đâu nói đấy, bằng hữu nghiên cứu Đẩu số, điều này phải nên phân biệt. Nhưng Liêm Trinh tuy không cẩn ngôn, nhưng có khiếu hài hước, hóm hỉnh, trong khi giao tế thấy có người hứng thú đóng vai một chú hề nhỏ để gây cười, tức người đó rất có thể là Liêm Trinh thủ mệnh. Nhưng vì Liêm Trinh cũng có tính chất "ngạnh cảnh" (cứng đầu cứng cổ) cho nên bạn chớ thấy người này vui vẻ, hài hước mà cho rằng trong công việc bàn chuyện với anh ta dễ dàng tốt đẹp, trên thực tế, người này rất có khả năng giải quyết công việc chung, mọi việc nề nếp ngăn nắp, đâu ra đấy (làm ra làm, chơi ra chơi).
Vì lẽ đó người có mệnh cục này, mừng nhất là "Liêm Trinh Thất Sát đồng cung , kiến Lộc bất gia sát" (Liêm Trinh Thất Sát đồng cung, gặp được Lộc mà ko gặp sát tinh xung phá), ở xã hội hiện đại, người có mệnh cục này có thể đảm nhiệm công việc công trình sư, nhân viên kỹ thuật hoặc nhân viên công vụ, họ làm việc nề nếp ngăn nắp đâu ra đấy,...rất phù hợp tính chất cơ bản của Liêm Trinh, thậm chí đi vào kinh doanh, kiến trúc cũng rất hợp, bởi vì Liêm Trinh cũng có điểm thành tựu về mặt nghệ thuật.
65. Liêm Trinh gặp Lộc, cát hay hung ?
Liêm Trinh phân bố tại mười hai cung hết sức phức tạp, đại để cùng Sát, Phá, Lang đồng cung hoặc hội hợp, tình hình rất dễ sinh biến hóa.
- Tại Tý Ngọ cung, Liêm Trinh tất cùng Thiên Tướng, đối cung vi Phá Quân, cung Tài bạch là Tử Vi, Thiên Phủ, lại hội Vũ Khúc tài tinh. Kết cấu này, thoạt nhìn tưởng như tốt lắm, bởi vì hội hợp ba cát diệu Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Tướng, đối cung là Phá Quân lại có thể tăng mạnh sáng tạo lực. Nhưng trọng điểm lại ở Liêm Trinh có kiến lộc hay không, người tuổi Giáp, Liêm Trinh hóa Lộc; người sanh năm Đinh, Kỷ Lộc Tồn tại ngọ cung; Quý niên Lộc tồn tại Tý, cách cục này cực kỳ có ích. Nhược không thấy Lộc, ngược lại gặp Hóa Kị, tắc trở thành hạ cách, cho nên kết cấu tinh hệ này bất lợi cho người tuổi Bính vì nguyên cớ Liêm Trinh Hóa Kị. Đồng thời, người có kết cấu tinh hệ này đa số bất lợi cha mẹ, hoặc tự lập, hoặc ly gia đình vào đời sớm, tốt lắm thì cũng chủ không được hưởng phúc ấm cha mẹ. Vương Đình Chi toán mệnh một người, cung Phụ mẫu kết cấu rất tốt, hỏi ra từ nhỏ học cấp tiểu học bốn năm ở ký túc, lại đáo ngoại quốc học trung học và đại học, ở trên khả dĩ tính toán được năm sớm rời nhà tốt nhất.

- Tại Thìn Tuất hai cung, Liêm Trinh cùng Thiên Phủ đồng cung, đối cung Thất Sát, hội Tử Vi, Vũ Khúc, Thiên Tướng. Theo như tinh diệu mà nói, Tý Ngọ cung đại khái giống nhau, nhưng thử thay đổi Phá Quân là Thất Sát, tính chất tất bất đồng rất lớn. Người có kết cấu tinh hệ này, không thích Liêm Trinh Hóa Lộc, chủ chậm phát, hơn nữa sớm gặp vận khó khăn trắc trở, nhưng cách cục này mừng gặp Vũ Khúc đới Lộc: Canh niên sanh nhân, Vũ Khúc đới Lộc (tồn) ở Thân cung, Giáp niên sanh nhân, Vũ Khúc đới Lộc (tồn) ở Dần cung là cách tài tinh đới Lộc, khiến kết cấu tinh hệ này tăng thêm lực lượng phát tài. Nếu Liêm Trinh hóa Lộc, đối với nữ mệnh rất là không nên, nếu không chậm hôn nhân, phần nhiều dễ sanh ly, nguyên nhân tại vì Thiên Phủ quá ôn hậu, Liêm Trinh Hóa Lộc tăng thêm hàm ý đào hoa, dễ dàng bị người quyến rũ mê hoặc.

Đây là quan hệ giữa Liêm Trinh với Thiên Phủ, Thiên Tướng đồng cung, về phần quan hệ khi đi cùng "Sát Phá Tham" sẽ đề cập và nói rõ ở phần sau.
66. Liêm Trinh và "Sát Phá Tham"

Quan hệ giữa Liêm Trinh và "Sát Phá Tham" có thể chia làm hai, một là đồng cung, một xung chiếu:
- Đồng cung, Liêm Trinh tại sửu mùi tất cùng Thất Sát đồng cung; tại mão dậu tất có Phá Quân đồng cung; tại tị hợi tất Tham Lang đồng cung.

- Xung chiếu, Liêm Trinh tại dần thân tất cùng Tham Lang xung chiếu nhau.

Liêm Trinh vốn tựu xưng là "thứ đào hoa", phàm đào hoa tất tính chất có điểm mẫn cảm mà "Sát Phá Tham" lại chủ chuyển biến, cho nên một sao mẫn cảm hội một sao có tính chất biến hóa dễ dàng xuất hiện các biến cục, rất cần xét xu thế đại vận luân chuyển ra sao, cũng như tam phương tứ chánh hội tinh diệu gì về cung Mệnh, sau đó mới có thể quyết định việc phát sinh biến hóa tốt hay xấu. Từ tính chất cơ bản mà nói, tại dần thân hai cung, Liêm Trinh độc tọa hội Tham Lang độc tọa là "thứ đào hoa" hội "chánh đào hoa", điều này ứng vào mệnh lẵng lơ hoa liễu (thủy tính dương hoa chi mệnh), nhưng theo kinh nghiệm Vương Đình Chi, mệnh cục này hết sức say mê, hứng thú trong phương diện nghệ thuật, nhất là trong việc phối hợp tuyển chọn nhan sắc, họ thường có nhãn quang dị thường, độc đáo. Tại xã hội ngày nay, vị tất hạ thấp hay xem thường địa vị mệnh cục loại này, ngoài ra, theo thuyết pháp "Trung châu phái" nếu mệnh cục này kiến Lộc, ngược lại trở thành "thanh bạch chi cách" (cách cục trong sạch), không thể coi là đào hoa cách.

Tại tị hợi, hai đào hoa tinh Liêm Trinh Tham Lang đồng cung, ngược lại biến thành thần kinh quá mẫn cảm, nếu không có đào hoa tinh khác hội chiếu, cũng không thể lẵng lơ hoa nguyệt một cách tùy tiện. Có một số người dụng "Đẩu số" đoán mệnh loại này, hơi một chút là nhận định người khác dâm đãng, tính dục cường,... vậy rất thô thiển, hơn nữa tư tưởng như vậy chỉ là những ý nghĩ tầm thường, nhỏ bé. Kỳ thật, loại người này đại đa số chỉ là vất vả bôn ba mà thôi.

Liêm Trinh Thất Sát đồng cung, tính chất biến hóa rất lớn, cùng cư cung Mệnh, nhưng có thể có cách cục cao thấp, chênh lệch rất lớn. "Mân phái" cho rằng sửu cung tốt hơn mùi cung, "Trung châu phái" lại trái ngược, cho rằng phải có sự phối hợp thêm sao khác thì người Liêm Sát cư mùi cung mới thành tựu hơn sửu cung.

Về phần Liêm Trinh Phá Quân đồng cung, tính chất đào hoa bị giảm rất nhiều, trái lại còn chủ một đời "đa ba chiết" (nhiều trắc trở, thăng trầm), việc lập nghiệp luôn xắn tay vào hành động mà không chịu ngồi yên. Có một phái cho rằng người có mệnh cục này dễ bị chó cắn, kỳ thật cũng không nên một mực cho là như vậy.
71. So sánh Tham Lang - Liêm Trinh

Cái tên Tham Lang (*) nghe lên rất e ngại, kỳ thật cũng không phải nghĩa sao Tham Lang là như thế, nguồn gốc (mục đích) chính của mệnh danh này là do cùng "Liêm Trinh" xung đối (**), một Liêm một Tham, trở thành một đôi "Đối tinh" trọng yếu trong Đẩu số.

Tham Lang tại Đẩu số xưng là "Chánh Đào Hoa", Liêm Trinh xưng là "Thứ Đào Hoa", nhưng hai sao cùng tính chất (lý tính) nhưng lại có rất nhiều điểm không giống, đại khái Liêm Trinh dường như thiên hướng vào âm nhu, Tham Lang lại thiên vào dương cương, bởi vậy cái Đào Hoa ở Tham Lang nổi rõ như kẻ gặp vận hội lớn phô trương ngựa hay, rượu ngon; mà Đào Hoa ở Liêm Trinh lại chỉ là len lén cái khuôn mẫu mang thanh sắc khuyển mã.
Vì lẽ đó Tham Lang thủ mệnh ngộ tai ách cũng ngộ một cách đường đường chánh chánh, như "Tham Lang tị hợi cư hãm địa, bất vi đồ nhân diệc tao hình"; "Tham cư hợi vu ngộ Dương Đà, danh vi phiếm thủy Đào Hoa" (chú: nam nữ tham hoa mê tửu đến táng thân); "Tham Vũ Phá Quân ngộ cát diệu, mê luyến hoa tửu dĩ vong thân". không giống Liêm Trinh đóng cung hãm phùng ác diệu, gặp phải tai hại dị thường như "Liêm Trinh Vũ Khúc hội vu thụ chế chi hương, khủng mộc áp xà thương"; "Liêm Trinh Hỏa Tinh đồng Không hãm, đầu hà bạch ải" (Liêm, Hỏa, Địa Không hãm đồng cung, thắt cổ hoặc đâm đầu xuống sông tự tử); "Liêm Trinh Phá Quân hội Kình Dương vu Thiên di, tử vu ngoại đạo". - nhưng xin độc giả chú ý, suy đoán này cấn có rất nhiều điều kiện tiên quyết khác, hy vọng không gặp chuyện độc giả tự mình khởi lá số nhìn thấy cách cục vừa kể trên lại tự mình làm mình sợ hãi đến nổi không ăn được cơm.

Tính chất Tham Lang ở cung vị miếu vượng lợi hãm khi đi cùng các tinh diệu khác rất không giống nhau, đối với độc giả nghiên cứu "Tử vi Đẩu số" điều này cần chú ý thêm.
Bình thường mà nói Tham Lang hỉ nhập miếu (cư thìn, tuất, sửu, mùi bốn cung), gọi là "Tham Lang nhập miếu năng tập chánh" nhưng mà vẫn phong lưu; "Tham Lang nhập miếu thọ nguyên trường", nhưng đặc biệt không thích tọa vượng cung (tý, ngọ, mão, dậu bốn cung). Phú rằng: "Tham Lang vượng cung, chung thân thử thiết", "Tham Lang cư vu ngọ mão dậu thủ mệnh, chung thân bất năng hữu vi". Song các thuyết pháp này lại cũng có rất nhiều điều kiện tiên quyết không thể một mực mà nói vậy được.

Tham Lang không thích lạc hãm, nhưng hỉ ngộ Không diệu; sẽ làm giảm bớt tửu sắc tài khí, nhưng ngộ Văn Xương Văn Khúc có thể trở thành kẻ vì phong lưu mà ô danh, đây là chính là chổ khác biệt lớn nhất giữa Tham Lang và Liêm Trinh, mặc dù "Liêm Trinh ngộ Văn Xương hảo lễ nhạc"; còn Liêm Trinh ngộ Không diệu, lại không thể giảm bớt tập tính thanh sắc khuyển mã.
Chú thích:
(*) Tham Lang: Tham: ăn của đút lót, tham lam,...; Lang: con chó sói.
(**) Tham Lang và Liêm Trinh đối xứng nhau qua trục Tị Hợi. Tại Dần Thân, Tham và Liêm thể hiện bản chất rõ ràng nhất: Tham Lang ăn chơi trác táng, mê đắm tửu sắc, "phong lưu thái trượng"; Liêm Trinh thì "thanh bạch năng tương thủ" (ý tác giả nhấn mạnh đối tinh là vậy).
102. Cách "Liêm Trinh văn vũ" thiếu năng lực khai sáng
"Liêm Trinh văn vũ cách" - tức là Liêm Trinh nhập miếu thủ mệnh (cung Mệnh tại dần, thân) ngộ Văn Xương Văn Khúc củng chiếu (hình 9).
Ca rằng:
Mệnh trung văn vũ hỷ triều viên,
Nhập miếu bình sanh phúc khí toàn
Thuần túy năng văn cao chiết quế
Chiến chinh vũ định trấn tam biên.
"Mệnh mừng gặp được Liêm Trinh miếu vượng và Xương/Khúc đồng cung triều củng, là mệnh phúc khí vượng; theo đuổi văn nghiệp thì thành danh đỗ cao như bẻ cành quế, theo võ nghiệp thì như võ quan trấn thủ các nơi biên cương trọng yếu"

Liêm Trinh đúng là một sao rất khó suy tính, có thể cực tốt cũng có thể cực xấu, biến hóa đa đoan, cho nên gặp phải người Liêm Trinh độc thủ cung Mệnh suy đoán thời phải hết sức cẩn thận.

Cổ nhân rất trọng văn sĩ, không trọng nhân sĩ ra ngoài hành nghiệp, thậm chí ngay cả võ tướng bảo vệ kinh đô cũng không được ở nhãn nội (**), là bởi vì Liêm Trinh hàm chứa tính chất "vũ biên" không thực, cho nên cổ nhân luận mệnh Liêm Trinh thường đánh giá không cao; nhưng một khi Liêm Trinh gặp "văn tinh" cổ nhân lập tức có cái nhìn khắc hẳn, cho rằng đúng là người "văn vũ kiêm tư chi tài" (***), cái nhìn này để ý áp dụng ở xã hội hiện đại thật ra cũng có chút lệch lạc, bởi vì người kinh thương cũng như người mở xưởng làm ăn, tại xã hội hiện đại cũng không hẳn là địa vị quá cao.
Liêm Trinh thủ mệnh tại dần hoặc thân thì cung Tài bạch tất là Tử Vi Thiên Tướng; Quan lộc tất vi Thiên Phủ Vũ Khúc, nhưng hội chiếu thêm Văn Xương Văn Khúc, có thể gọi là nhiều cát hội hợp, hơn nữa đầy đủ hết các loại sao văn võ, cơ bản phải công nhận là một sự phối hợp rất tốt đẹp.

Nhưng ông chủ xí nghiệp lại sẽ không nhất định phải có lá số như thế này, bởi vì Liêm Trinh có chút nghi ngờ là hoa nhi bất thật (có vẻ hào nhoáng bên ngoài, không thực), khiếm khuyết năng lực khai sáng cục diện, làm cho đến nơi đến chốn, bởi vậy "Liêm Trinh văn vũ cách" vỏn vẹn chỉ có khả năng thuộc loại mệnh quản trị điều hành doanh nghiệp hoặc là hiệu trưởng một trường học, học viện.
Chú thích:
Cây quế: có công dụng dùng để làm thuốc. Chiết quế là bẻ cành quế thơm. Từ mặt đất nhìn lên mặt trăng, cái bóng đen ở trong mặt trăng tục gọi là cóc, là thỏ, là cây quế. "Chiết quế" là uyển ngữ, ở đời khoa cử, ai đỗ khoa Hương gọi là thiềm cung chiết quế (bẻ quế thơm nơi cung trăng).
(**) Nhãn nội: chổ trọng yếu, thường là nơi vua ở. Lo sợ ko cho quan võ đóng trong nội cung vì lo sợ binh biến tiếm ngôi (vì lý do an ninh)
(***) Quan có tài kiêm cả việc văn và việc võ.
80. Thiên Lương tọa mệnh phần nhiều chủ cô lập
Chánh diệu cùng Thiên Lương có quan hệ mật thiết nhất là Thái Dương, Thiên Đồng, Thiên Cơ; cụ thể như sau:

- Tại tý ngọ, Thiên Lương độc tọa có Thái Dương xung chiếu
- Tại sửu mùi, Thiên Lương độc tọa có Thiên Cơ xung chiếu
- Tại dần thân, Thiên Lương cùng Thiên Đồng đồng cung
- Tại mão dậu, Thiên Lương cùng Thái Dương đồng cung
- Tại thìn tuất, Thiên Lương cùng Thiên Cơ đồng cung
- Tại tị hợi Thiên Lương độc tọa có Thiên Đồng xung chiếu.

Khi Thiên Lương cùng Thái Dương cấu thành tinh hệ, đích thị là kết cấu tốt nhất, bởi vì Thiên Lương vốn có tính chất "cô khắc" có khả năng nhờ Thái Dương hóa giải, do vậy có thể thấy rằng Thái Dương nên vào nhập miếu hoặc vượng, tỷ như Thái Dương vào cung ngọ hay mão, ánh quang và tỏa nhiệt đều thịnh hơn dậu cung hoặc tý cung, vì lẽ đó Thiên Lương nên tọa tý được Thái Dương cư cung ngọ chiếu soi; từ Thiên Lương Thái Dương đồng cư mão thời tốt đẹp hơn cư dậu, cho đến phần Thiên Lương tọa ngọ có Thái Dương cư tý củng chiếu, so sánh với cách cục Thiên Lương cư tý xem ra không bằng được.

Phàm Thiên Lương cùng Thái Dương cấu thành tinh hệ, dễ dàng hình thành cách cục "Dương Lương Xương Lộc", tức là gia hội Văn Xương và Lộc Tồn, cách này lợi nhất khi tham gia thi cử, nhất là đối với các kỳ thi quốc gia trọng yếu rất có lợi. Bởi vậy người vốn có đủ cách cục này, dễ dàng trở thành nhân tài chuyên nghiệp hoặc người nghiên cứu, học thuật. Hoặc ngay như không thấy Văn Xương cùng Lộc Tồn thì kết cấu Thái Dương Thiên Lương đích kỳ thật cũng lợi vào nghiên cứu học thuật; vì lý do đó, ngược lại đương số nếu theo con đường chính trị sẽ là sự mạo hiểm rất lớn, hoặc nếu theo nghiệp kinh thương buôn bán thuần túy, cũng có biến đổi bất ngờ.

Thiên Lương cùng Thiên Cơ, cổ nhân cho rằng người thiện nói chuyện binh. Điều này là do Thiên Cơ có tài ăn nói linh hoạt cơ biến, còn Thiên Lương thích tự mình thể hiện, soi xét sự việc duyên cớ, ở thời xưa văn nhân có khả năng bàn luận binh pháp thì được cho rằng đích thị văn vũ toàn tài, nhược ở hiện đại, kết cấu Cơ Lương tất không nhất định "thiện đàm binh pháp" mà có thể chỉ là ba hoa, khoác lác lý luận chuyện làm ăn, đầu cơ.

Thiên Lương đi cùng Thiên Đồng là một tổ hợp dễ biểu hiện hành vi sơ cuồng (*), vì Thiên Lương thích soi mói bắt bẻ, Thiên Đồng thì thích hưởng thụ, hai loại tính chất kết lại thường khiến người dễ nghĩ rằng xã hội luôn có rối ren, lộn xộn,... nói xin lỗi các cụ bô lão chứ chính người này tự mình ra vẻ "tọa nhi luận đạo" (**), như là quốc sĩ trong thiên hạ vô song vậy! song, nếu có thể hướng những ưu điểm đến những điều tích cực, tất ngược lại có thể đạt được tâm tư tinh tế, không chịu "hòa quang đồng trần" (sống ẩn dật, tiêu cực không đấu tranh), đại khái có Thiên Lương đồng cung phần nhiều chủ cô lập vậy.
Chúc thích:
sơ cuồng: sơ xài, hời hợt và có vẻ rồ, ngông, thiếu suy nghĩ chín chắn làm liều...
(**) ngồi nói suông, lý luận suông
122. "Cơ Lương gia hội" cao nghệ tùy thân
("Cơ Lương gia hội" là người có tay nghề cao)

"Cơ Lương gia hội cách" - tức Thiên Cơ Thiên Lương đồng thủ cung Mệnh.
Cổ ca:
Cơ Lương nhập miếu tối kham ngôn
Đắc địa giáo quân phúc lộc toàn
Diệu toán thần cơ ứng cái thế
Uy uy lẫm lẫm chưởng binh quyền.
(Cơ Lương nhập miếu khó nói hết đc điều tốt, vào đắc địa là thầy giáo dạy học cho vua phúc lộc vẹn toàn, có tài thần cơ diệu toán cái thế thiên hạ, khi chấp chưởng binh quyền uy danh lẫm liệt.)

Thiên Cơ Thiên Lương đồng cung, chỉ có hai trường hợp, một là ở cung thìn, lúc này Thiên Cơ thừa lợi, Thiên Lương nhập miếu; một là ở tuất cung, cũng là Thiên Cơ thừa lợi, Thiên Lương nhập miếu, nhưng tuất không bằng thìn, bởi vì khi ở thìn cung thì hội hợp Thái Âm Thiên Đồng ở tý cung là miếu vượng, còn khi ở tuất cung hội hợp Thái Âm Thiên Đồng thất hãm ở cung ngọ. Vì lẽ đó chiếu theo giải thích của Vương Đình Chi, bản thân cách cục Thiên Cơ Thiên Lương tọa thìn cung không chỉ vào cách cục "Cơ Lương nhập miếu".

Cổ nhân đối với tinh hệ "Cơ Lương" này, khẩu quyết rất nhiều, như "Cơ Lương Tả Hữu Xương Khúc hội, văn vi quý hiển vũ trung lương", "Thiên Cơ Thiên Lương đồng cung Thìn Tuất, tất hữu cao nghệ tùy thân"; "Cơ Lương hội hợp thiện đàm binh"; "Cơ Lương đồng tại thìn tuất thủ mệnh, gia cát diệu, phú quý từ tường, nhược ngộ Dương Đà / Không diệu, thiên nghi tăng đạo."

Nhưng thật ra tổ hợp Thiên Cơ Thiên Lương, chủ chỉ người tò mò, thích sự lạ, biện luận gian trá, thích biểu hiện, hơn nữa đa phần không phụ họa ý kiến người khác. Ở thời xưa, có thể tư liệu sống, tài liệu thực tế nói viết, soi sáng không nhiều lắm, nhất là thường thấy văn nhân đàm luận binh pháp, cho nên mới có thuyết pháp "Cơ Lương hội hợp thiện đàm binh".

Vương Đình Chi khi so sánh chú trọng thuyết pháp "tất hữu cao nghệ tùy thân", cái gọi là "cao nghệ", là nói có tay nghề kỹ thuật, thủ công mà thôi. Vào thời hiện đại, người có tổ hợp tinh hệ loại này tốt nhất là nên học tính toán máy móc hoặc làm nghề kế toán, thống kê.
tùy thân : cái gì mang theo bên người thì gọi là tùy thân, như tiền bạc tùy thân, hành lý tùy thân,...
81. Phân biệt tính chất cát hung của Thiên Lương

Bởi vì Thiên Lương tàng chứa nhiều tính chất biến hóa, bất kể tổ hợp "Thiên Lương Thái Dương", "Thiên Lương Thiên Cơ" hay "Thiên Lương Thiên Đồng" đều rất dễ có biến hóa hết sức cực đoan, cho nên Vương Đình Chi ý định nói rõ kỷ càng tỉ mỉ một chút tư liệu này.
- Thiên Lương không nên gặp tinh diệu có tính chất thiên về phù động, đây chính là đặc điểm đầu tiên của nó, nên thuyết pháp cổ có "Thiên lương Thiên mã hãm, phiêu đãng vô nghi" (Thiên Lương Thiên Mã hãm, phiêu đãng không nghi ngờ); "Thiên Lương Nguyệt diệu, nữ dâm bần"; "Lương dậu Nguyệt tị, khước tác phiêu phùng chi khách".
- Thiên Lương tối kỵ gặp Kình Dương Đà La, là đặc điểm thứ hai, nên cổ nhân có thuyết pháp "Thiên Lương hãm địa kiến Dương Đà, thương phong bại tục". (Lương hãm gặp Dương Đà đồng cung làm tổn hại đến đạo đức, phong tục, tập quán truyền thống).
- Thiên Lương mừng được cư cung miếu vượng và đắc các sao phụ tá triều củng trợ giúp, cho nên Thiên Lương không thích 3 cung hãm là tị thân hợi, vào dậu cung cũng chê cho là bình thường, cái gọi là phụ tá chi diệu, đầu tiên phải kể đến là Thiên Khôi Thiên Việt, Tả Phụ Hữu Bật, Văn Xương Văn Khúc, Lộc Tồn Thiên Mã; thứ nữa là một trong các bộ sao tạp diệu Tam Thai Bát Tọa; Long Trì Phượng Các; Ân Quang Thiên Quý; Thiên Quan Thiên Phúc. Đây là đặc điểm thứ ba, nên cổ nhân có các thuyết pháp "Thiên Lương thủ chiếu, cát tương phùng, bình sanh phúc thọ", "Thiên Lương miếu vượng, Tả Hữu Xương Khúc gia hội, xuất tướng nhập tướng".
Lưu niên tiểu hạn, sao lưu theo tuổi, gặp Thiên Lương cũng có ảnh hưởng tương đương. Thiên Lương hỉ gặp sao lưu Thanh Long, Tấu Thư, gặp là chủ có chuyện mừng về văn thư, giấy tờ, bằng sắc; song cái gọi là "Văn thư chi hỉ" thì Thanh Long, Tấu Thư cùng Văn Xương Văn Khúc cũng không giống nhau; "Văn thư" Văn Xương Văn Khúc có thể chỉ trái khoán, chi phiếu cùng cổ phiếu; nhưng Thiên Lương kiến "Văn thư" Thanh Long Tấu Thư, chỉ có thể nói là công văn chính phủ hoặc một đại cơ cấu. Bình thường phần nhiều chỉ chức vị thăng tiến, hoặc thu hoạch, đạt được danh hàm. Tin rằng một nhân vật nổi tiếng về chuyện gì, năm đó đương số tất có Thiên Lương gặp được Thanh Long hoặc Tấu Thư vậy.
Bởi vì Thiên Lương cát thì giơ tay làm một mình, hung thì tính tình lầm lỳ, cho nên bất kể cát hung cùng lợi vào sự học thuật nghiên cứu. Cổ nhân chỉ cho là "Lương Đồng Cơ Nguyệt dần thân vị, nhất sanh lợi nghiệp thông minh" (Lương Đồng Cơ Nguyệt dần thân vị, cả đời thông minh lợi nghiệp", (các vị trí) còn lại là tổn hại vì dâm cùng cơ trí, và phát huy tính chất cô khắc nếu gặp thêm Hình Kỵ, nhưng nếu ở hậu thiên có cách cục có khả năng tương phù, tháo gỡ thì tính cách biến thành linh động (khó hợp vào học thuật nghiên cứu), vậy bản thân cũng khó thể trở thành người tài giỏi trong giới học thuật.
79. Đặc tính "tiêu tai giải nạn" của Thiên Lương

Cổ thư thường dẫn giảng sai cho độc giả, chớ dựa chỉ vào một sao Thiên Lương để suy đoán. Bổn mộc cổ thư đều nói Thiên Lương là thọ tinh, hóa khí là ấm , chuyên việc khống chế hóa giải tai ách, ấm vào thân mệnh, cái phúc truyền đến đời con đời cháu, thậm chí thuyết "Nãi vạn toàn thanh danh, hiển vu vương thất" (Ấy là thanh danh vẹn toàn, vinh hiển vào hàng họ hàng của vua); "Nhược canh phùng Tả Hữu Xương Khúc gia hội, tắc xuất tướng nhập tướng" (Nếu Thiên Lương hội hợp Tả Hữu Xuong Khúc tất oai phong như vị quan tướng). Đích thực những điều đã nói về Thiên Lương quá ư tốt lành một cách dị thường.

Chỉ có Tuệ Tâm Trai Chủ (**) là người tiên phong có thể chỉ ra đích xác chân tướng, đặc chất của Thiên Lương. Bà ta nói rằng: "Trong các sao, Thiên Lương là một sao có đầy đủ khả năng phùng hung hóa cát, gặp khó khăn nguy hiểm là xuất hiện điềm lành, do đó nhất định phải biểu hiện khả năng giải nạn cho đến khi tỏ rõ điềm lành (hết nạn), cho nên người có Thiên Lương tọa mệnh, bất kể cung vị nào, có hay không hội chiếu cát tinh đều không khỏi gặp phải khó khăn, khiến Thiên Lương thực thi hóa giải."

Người sau viết và xuất bản sách Đẩu số, bởi vậy mà cũng hiểu được cái nhìn có thay đổi đối với Thiên Lương, tuy không xứng đáng khen ngợi nhưng được như vậy là rõ ràng mạch lạc rồi! (PhucLoc: đang nhận xét những người viết sách thời nay như Tuệ Tâm Trai Chủ). Người dùng Đẩu số xưa, chỉ có thể căn cứ ca quyết cổ: "Thiên Lương, Nguyệt diệu nữ dâm tham", để cử ra khuyết điểm duy nhất của kết cấu tinh hệ Thiên Lương, nhưng rồi lại hiểu lầm ý tứ của "Lương Đồng đối cư tị hợi, nam lãng đãng, nữ đa dâm", cơ hồ tưởng rằng nữ nhân có loại kết cấu tinh hệ này hết thảy đều thành "dâm oa đãng phụ" (***) cả sao.

Kỳ thực, sao Thiên Lương không quá xấu cũng không quá tốt, chỉ là trước tiên làm cho người ta gặp phải khó khăn hoặc hung hiểm, sau đó lại hóa giải thành như không mà thôi. Cho nên, dù khai đao phẫu thuật ắt hẳn không chết; hoặc sự nghiệp sắp sửa sập tiệm lại có thể đột nhiên gặp được tư trợ; mang đến hết thảy tai nạn bệnh thống, rồi kết quả là cuộc sống đều chống chỏi được mà đi tới, nguyên nhân chính là như thế, cho nên người có Thiên Lương tọa mệnh, từ tuổi trung niên trở đi, quay đầu nhìn lại chuyện cũ trong quá khứ, thường thường cảm thấy đời người như hư không, vì thế nên tư tưởng phần nhiều tinh thần u uất, có khuynh hướng tiêu cực.

Một tính chất khác của Thiên Lương là thần bí, người có Thiên Lương tọa mệnh, không có khuynh hướng tự giác tin tưởng sự vật thần bí. Nếu phát triển một phương diện tích cực, thì người Thiên Lương ham thích nghiên cứu và thảo luận về xã hội đương thời, thường cho rằng cái lý của nhận thức rất thâm thúy, nhưng giới hạn ở chổ nặng lý luận mà ít thật tiễn; nhưng nếu định hướng phát triển không tốt, thì tính cách rơi vào soi mói, kiếm chuyện bắt bẻ con chữ, khiến người khác hiểu rằng khó mà tiếp cận, gần gũi.

Bởi vậy đối với người Thiên Lương tọa mệnh, làm danh sĩ tốt hơn, điều này mới là tính chất cơ bản của Thiên Lương.
Chú thích:
(*) Ấm : bóng cây che mát. Được nhờ ơn của người khác đều gọi là ấm.
(**) Tuệ Tâm Trai Chủ : sáng lập "Tân Thuyên phái", một trong những phái tử vi truyền thống (giống như Vương Đình Chi và Liễu Vô Cư Sỹ), một tác giả viết khá nhiều sách Tử Vi, cống hiến cho làng lý số rất nhiều. Một số tác phẩm như: "Như hà thôi toán mệnh vận"- Tử vi đẩu sổ dữ Tứ hóa tinh ; Tử vi đẩu sổ xu cát tị hung pháp ; Tử vi đẩu sổ khai phát tiềm năng...
(***) "dâm oa đãng phụ" : là gái đẹp (oa) thì dâm loàn, là phụ nữ có chồng thì phóng đãng bất chính.
120. "Thiên Lương chấn kỷ" không hợp trào lưu

"Thiên Lương chấn kỷ cách" - tức Văn Khúc ngộ Thiên Lương vượng địa thủ mệnh.
Cổ ca :
"Văn khúc cảnh hành ngộ Thiên lương
Vị liệt Hoàng môn Ô phủ hành
Cương kỷ triều trung công nghiệp kiến
Bức nhân thanh khí mãn càn khôn."
(Văn Khúc sáng sủa đi cùng Thiên Lương, đứng vào hàng Hoàng môn Ô phủ ra vào phủ vua, việc triều đình hay cương kỷ giường mối đều hỏi ý kiến, khiến thanh khí trong lành của người dân lan tỏa đầy khắp đất trời.)

Thiên Lương tại sáu cung tý ngọ, thìn tuất, dần mão là nơi nhập miếu, tại hai cung sửu mùi thừa vượng; Văn Khúc vào ba cung tị dậu sửu là miếu, ba cung dần mão mùi thừa vượng, cho nên cung vị mà hai sao đều miếu vượng liền chỉ có ba cung sửu, mão, mùi.

Thiên Lương tại sửu mùi là độc tọa, đối cung là Thiên Cơ; Thiên Lương tại cung mão, tất đồng cung với Thái Dương, so sánh hai kết cấu, dễ thấy kết cấu Thái Dương Thiên Lương đồng cung là ưu việt, lấy Thiên Lương so sánh cùng Thiên Cơ thì tính cách Thiên Lương hàm chứa tính cô khắc.
Được cảm ơn bởi: Ngàn Phố
Đầu trang

can_spacy_77
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1626
Tham gia: 14:59, 19/12/11
Đến từ: Sài Gòn

TL: TỬ VI LUẬN ĐẨU SỐ

Gửi bài gửi bởi can_spacy_77 »

Cổ quyết nói: "Văn Khúc Thiên Lương đồng cung, vị chí thai cương" tức là căn cứ vào "Thiên Lương chấn kỷ cách". Nhưng có người sáng chú rằng: "Hai tinh đồng tại ngọ cung an mệnh thượng cách, dần cung thứ chi" (hai sao cùng ở cung ngọ an mệnh là thượng cách, ở cung dần là thứ cách), không đúng, bởi vì Văn Khúc vào cung ngọ lạc hãm, tại cung dần thuộc loại nhàn cung, mặc dù Thiên Lương miếu vượng ở 8 cung, cũng không cách nào chỉ vì Văn Khúc đồng cung mà tăng thêm phần đặc sắc.

Thiên Lương ở thời xưa là Giám sát Ngự sử (Thai cương (**)), gia ngộ Văn Khúc, chẳng những gia tăng tài văn chương mà còn tăng mạnh khả năng trình bày tấu sớ của Giám quan (quan chuyên giám sát vạch tội của các quan), vì lẽ đó bản thân cách cục xưng là "Thiên Lương chấn kỷ"; "chấn kỷ" chính là chấn chỉnh, làm hứng khởi lại cái kỷ cương vậy.
Cổ nhân trọng quý không trọng phú, nên cách này có thể thành lập. Nếu ở ngày nay, người có cách cục này thủ mệnh, dễ dàng bỏ qua người có lỗi lầm, vị tất thành mỹ cách được.
Chú thích:
Hoàng môn Ô phủ : phủ vua. Tương truyền ở Hàm Dương đời nhà Đường, phủ của quan Ngự sử có trồng 1 hàng cây tùng bách, có một bầy quạ thường đậu trên đó, nên dân gọi phủ của vị quan này là Ô phủ (ô là con quạ). Từ đó về sau, nói đến Ô phủ là hiểu rằng nói đến dinh thự của vua quan.
(**) Thai cương : chữ "Thai" bắt nguồn từ thiên văn, sao Tam Thai, đc ví như ngôi vị Tam Công, nên trong thư tịch tỏ ra tôn trọng 1 ai đều gọi là "Thai", "cương" là lề lối trọng yếu, thời phong kiến không một người nào đc phép đi ra ngoài vòng kiểm soát của "tam cương ngũ thường".
78. Bí mật "Phùng Phủ khán Tướng"
Tại Đẩu số, Thiên Tướng xem ra là một tinh diệu rất khó suy đoán, bình thường thuyết pháp cho rằng Thiên Tướng có cảm khái chánh nghĩa, thích làm người phục vụ, thích ôm sự việc chống lại sự bất bình. Tại mệnh bàn không sợ ác sát xâm phạm, thậm chí tại mười hai cung đều đánh giá tốt, phúc rõ ràng, nhưng trên thực tế suy đoán, không đơn giản như thế.
Nghiêm túc mà nói, có thể cho rằng Thiên Tướng là một tinh diệu thiếu một tính cách rõ ràng. Sự mềm dẻo, uyển chuyển của nó quá lớn, gặp được tinh diệu phân bố ở "Tam phương tứ chánh" mà tốt, Thiên Tướng khuynh hướng dễ phát triển thành tốt ở một phương diện nào đó; nhưng nếu gặp tinh diệu phân bố bất hảo, tính chất tốt của Thiên Tướng cũng liền có khuynh hướng phôi pha, hỏng bét. Cổ nhân cho rằng "Phùng Phủ khán Tướng, phùng Tướng khán Phủ", vào nghiên cứu cát hung của Thiên Tướng ở tinh bàn thì tất kiêm xem xét nơi Thiên Phủ, cũng chính là bởi vì Phủ Tướng là hai sao vĩnh viễn gặp nhau ở tam phương, cho nên mới đưa ra phương thức quan sát toàn diện này.

Ví dụ, Thiên Tướng cư mùi cung thủ mệnh, hội hợp Thiên Phủ ở mão cung (cũng là cung Tài bạch), đối cung là Tử Vi Phá Quân. Ví như ở mão cung Thiên Phủ gặp phải Hỏa Linh Dương Đà (Tứ Sát), hoặc Hình Kỵ ác diệu, cho dù ác diệu này chủ yếu là từ cung dậu bắn phá mão cung từ xa, vốn cùng Thiên Tướng ở cung mùi không quan hệ, nhưng bởi vì tính chất Thiên Phủ đã biến thành xấu (phùng Tứ sát) nên cũng sẽ ảnh hưởng xấu đến Thiên Tướng, trở thành một người chuộng sự tham lận, vô chủ kiến hơn nữa cũng thành người hành động không nhìn trước nhìn sau, tiến thoái vô căn cứ (tiến thoái thất cứ).

Giả như không để ý tới điểm lý giải này, vừa thấy Thiên Tướng bản thân không phùng ác sát, liền tùy tiện căn cứ một vài lời của cổ nhân mà cho rằng cách cục đại hảo, rất dễ phạm vào sai lầm, ngộ nhận.
Cách xem này, chính là một bí mật nho nhỏ của "Trung châu phái". Cổ nhân thường không thích thuyết minh bí quyết một cách kỷ càng tỉ mỉ, mọi việc đều thích lưu giữ trong tay một ít, bởi vậy dễ có sự mơ hồ trong từ ngữ lời văn, đó là nói "Phùng Phủ khán Tướng" nhưng ngay cả "Phùng Tướng khán Phủ" cũng không chịu bật mí rõ ràng, người đi sau thực tâm nghiên cứu, tự nhiên có thể khám phá bí quyết, nếu không chịu nghiên cứu một cách đàng hoàng tựu chỉ là người hồ đồ mà không sành việc (hốt luân thôn tảo).
Mân phái biết rõ bí mật này, nhưng lại chỉ sử dụng miếu hãm của Thiên Tướng để xem ảnh hưởng của nó đối với Thiên Phủ, tất đối với câu "Phùng Phủ khán Tướng" của cổ nhân, thật sự cũng chưa khám phá một cách hoàn toàn. Vương Đình Chi xét thấy sao Thiên Tướng khó ở chổ bình phán, nên lấy đặc điểm này nói thẳng ra, tin tưởng đối với độc giả sẽ có ích lợi.
98. "Phủ Tướng triều viên" trọng Thiên Tướng
"Phủ Tướng triều viên cách" - tức hai sao Thiên Phủ, Thiên Tướng hội chiếu cung Mệnh, như cung Mệnh cư ngọ, Thiên Phủ cư tuất, Thiên Tướng cư dần, tức là xem cả một kết cấu "Phủ Tướng triều viên" (hình 5).
Cổ ca rằng:
Mệnh cung Phủ Tướng đắc câu phùng
Vô sát thân đương thị thánh quân
Phú quý song toàn nhân cảnh ngưỡng
Nguy nguy đức nghiệp mãn càn khôn.
(Cung Mệnh có Phủ Tướng củng chiếu, vô sát tinh xung phá thì như đối diện với thánh quân, phú quý song toàn người người ngưỡng mộ, sự nghiệp và tài đức nguy nga khắp đất trời)

Thiên Phủ là chính tinh nam đẩu, cổ nhân gọi là "Ti mệnh thượng tướng", "Trấn quốc chi tinh", chuyên chấp chưởng sở quan về tài khố (trông coi kho tiền, vật phẩm); Thiên Tướng là ấn tinh, người chiếm giữ ví như "Ti tước chi tinh" (sao trông coi chức vụ), cho nên Thiên Tướng cùng Thiên Phủ dễ trở thành một đôi "Tước lộc chi thần". Đẩu số có một số tinh diệu thường phải xem trọng sự liên hợp, đối địa, xem chúng như một đôi, gọi những sao này là "Đối tinh", vì vậy gọi Phủ Tướng tức là trong đó ẩn tàng sự trọng yếu cả đôi. Câu quyết "Phùng Phủ khán Tướng", chính là ý tứ này.

Bởi vì Thiên Tướng lạc hãm khi vào hai cung mão dậu, cho nên liên đới khi hội hợp với cung mão, là Thiên Phủ ở cung hợi hoặc cung mùi; cùng hội hợp cung dậu là Thiên Phủ cư cung tị hoặc sửu, tính chất biến thành đều có điểm khiếm lực.

Thiên Phủ vào mười hai cung đều không rơi vào hãm địa, nhưng "Phủ Tướng triều viên" thì Thiên Phủ lại không thích cư bốn cung tị hợi sửu mùi, tức là duyên cớ như vậy.
Kết cấu "Phủ Tướng triều viên" tốt nhất chính là Thiên Tướng cư tý, Thiên Phủ tại thân; Thiên Tướng cư ngọ, Thiên Phủ cư dần; Thiên Tướng cư thân, Thiên Phủ cư thìn.
Thiên Phủ không độc thủ ấy càng là mỹ cách, chủ người ngay thẳng không thiên vị điều gì, nếu không vậy (độc thủ) thì dễ rơi vào gian giảo. không lại cái gọi là gian giảo, kỳ thật thì ngày nay cũng chỉ là "Thương cổ chi mệnh" mà thôi (*).
Chúc thích:
Thương cổ chi mệnh : mệnh của các lái buôn, mệnh người kinh doanh, buôn bán,...
67. Thiên Phủ Thiên Tướng là "Đối tinh"

Dụng "Đẩu số" xem mệnh, bất luận là ai cũng sẽ có thiên kiến riêng nên Vương Đình Chi bàn sao Thiên Phủ dù cho không hứng thú cho lắm. Thiên Phủ là nam đẩu đích chủ tinh, nhưng nó lại thiết hụt khí thế lãnh đạo quần chúng; Thiên Phủ vừa mang tính chất "Tài khố" (kho bạc), như ngân hàng trung ương của một quốc gia, nhưng cũng bởi khuynh hướng vào "Lý tài", cho nên bản thân khó tránh khỏi cẩn thận quá mức từng ly từng tý, tuy vai trò chủ (Phủ là chủ tinh) là đương đầu khó khăn, hiểm trở nhưng làm việc lại đi vào tiểu tiết. Tính chất của sao này và nơi tính cách Vương Đình Chi thấy không thích thú, cho nên phàm nhìn thấy lá số có Thiên Phủ tọa mệnh, Vương Đình Chi sẽ không cho một đánh giá chung quá cao, đây là nhược điểm nơi tâm lý Vương Đình Chi.

Toán mệnh ở Tử vi Đẩu số rất coi trọng "Đối tinh", tỷ như Thái Âm Thái Dương; Văn Xương Văn Khúc; Tả Phụ Hữu Bật; Thiên Khôi Thiên Việt; Kình Dương Đà La; Địa Không Địa kiếp; Hỏa Tinh Linh Tinh; Tam Thai Bát Tọa; Thiên Hình Thiên Riêu, v.v..., vị trí của tổ hợp "Đối tinh" thường thường có tác dụng tăng cường hoặc suy yếu lẫn nhau, Thiên Phủ tuy là chủ tinh, nhưng nó cũng hình thành một tổ hợp "Đối tinh", đó là Thiên Phủ Thiên Tướng.

Vì thế, "Phủ Tướng triều viên" có thể thành một cách cục, còn cách cục "Tử Phủ triều viên" rất dễ khiên cưỡng nguyên nhân ở chỗ Thiên Phủ cùng Thiên Tướng có quan hệ "Đối tinh", nhưng Tử Vi cùng Thiên Phủ lại không có quan hệ này; cho nên Thiên Phủ Thiên Tướng cùng hội chiếu về một cung có thể tăng mạnh ảnh hưởng đối với cung này, còn Tử Vi Thiên Phủ đồng hội chiếu một cung, chỉ là gặp gỡ của hai chủ tinh bắc đẩu và nam đẩu, căn bản không có tăng mạnh quan hệ ảnh hưởng.

Bởi vậy, dụng "Đẩu số" luận mệnh, gặp Thiên Phủ nhất định phải đồng thời tìm Thiên Tướng ở cung nào, từ quan hệ đối tinh của hai sao mà tiến hành nghiên cứu, sau đó mới có thể chỉ ra cát hung lành dữ của Thiên Phủ tọa thủ cung viên.

Cổ nhân nói "Thiên Phủ cư ngọ, tuất cung Thiên Tướng lai triều, Giáp sanh nhân, nhất phẩm chi quý", tức là vì người tuổi Giáp có Lộc tồn ở cung dần, ba cung dần ngọ tuất vừa vặn được phân bổ Lộc Tồn, Thiên Phủ, Thiên Tướng, tạo thành một tổ hợp "Tam giác sắt" khá đẹp. Lúc này, ngược lại không coi trọng Thiên Phủ đồng cung với Vũ Khúc nữa (Thiên Phủ cư tý ngọ luôn luôn đồng cung với Vũ Khúc).

Dụng "Đẩu số" luận mệnh, có rất nhiều then chốt, "Kiến Phủ tầm Tướng" là một trong các mấu chốt đó, điều này quá sáng tỏ rồi, cũng dễ hiểu đối với những phán đoàn về tính chất "Đối tinh".
77. Tổ hợp tinh hệ của Thiên Tướng
Thiên Tướng và Thiên Phủ là "Đối tinh" ở Đẩu số, tức hai sao có liên quan và cùng ảnh hưởng lẫn nhau. Gọi là "Phùng Phủ khán Tướng", tức suy đoán tượng chinh lực Thiên Phủ thì phải đồng thời kiêm xem xét ảnh hưởng của Thiên Tướng đối với nó, cũng như quan sát cát hung của Thiên Tướng thì đương nhiên cũng đồng thời nghiên cứu Thiên Phủ.
Thiên Phủ là "Khố tinh", Thiên Tướng là "Ấn tinh", khố không có ấn tất không thể vận dụng tiền của giàu có của kho tiền, ấn vô tài tất thuộc loại quyền lực trống rỗng, vì lẽ đó phải chiếu cố đến cả hai sao, sau đó mới có thể hợp tài và quyền làm một chỉnh thể thống nhất mà quan sát.

Thiên Phủ vô hãm địa, cho nên không cung vị nào cư trú mà không tốt, nhưng Thiên Tướng tại hai cung mão dậu là lạc hãm, bởi vậy phàm Thiên Tướng thuộc hai cung mão dậu gặp gỡ Thiên Phủ, thì cũng như lực lượng bị đánh đến giảm sút, vơi bớt đi.
Về phần tổ hợp tinh hệ của Thiên Tướng, cũng có thể chia làm sáu cách cục:

Ở hai cung tý ngọ, Thiên Tướng cùng Liêm Trinh đồng cung
Ở sửu mùi, Thiên Tướng độc tọa, Tử Vi Phá Quân xung chiếu
Ở dần thân , Thiên Tướng và Vũ Khúc đồng cung
Ở mão dậu , Thiên Tướng độc tọa, Liêm Trinh Phá Quân xung chiếu
Ở thìn tuất, Thiên Tướng và Tử Vi đồng cung
Ở tị hợi, Thiên Tướng độc tọa, Vũ Khúc Phá Quân xung chiếu.

Từ các tổ hợp trên có thể thấy Thiên Tướng có quan hệ đặc biệt với các chính diệu Tử Vi, Liêm Trinh, Phá Quân và Vũ Khúc:

- Tử Vi Thiên Tướng đồng cung không bằng đối chiếu, bởi vì đồng cung thì lạc vào thiên la địa võng của hai cung thìn tuất, là khiến người khó có thể phát huy tiến mạnh. Khi xung đối thì do lực "chạy nước rút" và bức phá của Tử Vi Phá Quân mà có thể kích phát năng lực Thiên Tướng.

- Thiên Tướng Vũ Khúc đồng cung cũng không bằng xung chiếu, bởi vì đồng cung thì Thiên Tướng tuy có thể giảm bớt tính chất hình khắc của Vũ Khúc nhưng đồng thời cũng giảm bớt năng lực bản thân của nó; không như khi có Vũ Khúc Phá Quân xung chiếu, ngược lại có thể lợi dụng sự bức phá của tinh hệ này.

- Thiên Tướng lại nên đồng cung với Liêm Trinh, vì đồng cung thì Thiên Tướng có khả năng hóa giải cái xấu của Liêm Trinh; nếu Thiên Tướng tọa mão dậu và Liêm Trinh Phá Quân xung chiếu, thì lực hóa giải kém đi một chút, vận đồ dễ có thể nhiều trắc trở, thăng trầm.
62. Thiên Đồng không thuần là "Phúc tinh"
"Tử vi Đẩu số" có một sao rất dễ bị người ta hiểu lầm, sao này là Thiên Đồng.

Bình thường trong thư tịch Đẩu số, cố gọi Thiên Đồng là "Phúc tinh", vì ấn tượng này liền dễ coi phúc khí người mệnh Thiên Đồng quá trọng. Cổ thư thuyết: "Thiên Đồng thủ mệnh phúc tự thâm, bất úy Hình Sát Kỵ tương xâm" (Thiên Đồng thủ mệnh thì phúc rất dày, nên không sợ các sao Hình Sát Kỵ xâm phạm), càng làm cho người học hiểu sai về tính chất của sao Thiên Đồng. Trên thực tế, tính cách tinh diệu này có rất nhiều khuyết điểm.

Kỳ thực nếu mà tiến hành nghiên cứu tỉ mỉ hết thảy ca quyết cùng luận thuật thời xưa có liên quan đến Thiên Đồng cũng dễ biết khuyết điểm của nó ở đâu, sách nói: "Thiên Đồng Kình Dương đồng cung, thân thể tao thương" (Thiên Đồng Kình Dương đồng cung, trên thân thể phải gặp tổn thương), "Thiên Đồng Thái Âm đồng cung, nữ mệnh tuy mỹ tất dâm" (Thiên Đồng Thái Âm đồng cung, nữ mệnh tuy đẹp nhưng rất dâm), "Nữ mệnh Thiên lương Thiên đồng, nghi tác thiên phòng thiếp thị" (Nữ mệnh Thiên Lương Thiên Đồng, nên làm vợ lẽ, tỳ thiếp hầu hạ).

Cổ nhân đối với khuyết điểm của Thiên Đồng tuy tiết lộ không được nhiều lắm nhưng cũng có thể nhìn ra, Thiên Đồng cũng không phải là hoàn toàn không sợ sát tinh, như các sao Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La, Thiên Hình, Hóa Kị, chỉ bất quá cổ nhân thích giữ lại một ít, không chịu tuyệt đối công khai, cho nên mới chỉ tiết lộ khuyết điểm của nó khi gặp gỡ Kình Dương, vậy là tự mình phản đối chính mình bằng thuyết pháp "Bất úy Hình Sát Kỵ tương xâm" (Không sợ Hình Sát Kỵ gây nguy hiểm), và mở ra con đường nghiên cứu cho hậu nhân.

Vương Đình Chi giúp một vị độc giả tuần san toán Đẩu số, vừa nhìn thiên bàn, hỏi rằng: "Bạn chẳng phải muốn tự sát sao ?" vị độc giả kia lập tức khóc lên, nói rằng đúng là chính mình đã từng muốn mở khí gaz tự sát, chỉ là muốn tìm Vương Đình Chi đoán mệnh, xem hậu vận như thế nào sau đó mới quyết định. Phen trả lời này, làm Vương Đình Chi kinh sợ đổ mồ hôi thấm ướt cả lưng.
"Tử vi Đẩu số" ở Mân phái, Thiên Đồng không hóa Kị, nhưng Trung Châu phái lại cho rằng Thiên Đồng vẫn có thể hóa Kị. Bằng mệnh tạo vị độc giả tuần san ở trên suy tính ra, chứng minh Trung Châu phái truyền lại tựa hồ có điểm hợp lý hơn Mân phái. Ngược lại nếu là "Phúc tinh" tức không sợ Hóa Kị, có khi dựa vào đây suy đoán sẽ sai một ly, đi ngàn dặm. Bởi vậy Vương Đình Chi hy vọng độc giả nghiên cứu Đẩu số, không thể câu nệ vào thuyết pháp của bản phường (bản in của các phường khắc), vừa thấy Thiên Đồng liền lập tức nói là "Phúc tinh".

Vương Đình Chi có thể lớn mật cho rằng, Thiên Đồng cư mười hai cung đều có khuyết điểm, thậm chí ngay cả cư cung Phúc cũng khiến tinh thần đương số sa sút, tiêu cực, độc giả dù sao cũng phải ghi nhớ, ấn tượng điều này.
63. Ba loại tổ hợp của sao Thiên Đồng

Thiên Đồng tại mười hai cung, có sáu loại phối hợp, hấp thụ ảnh hưởng của ba tinh diệu Thái Âm, Cự Môn, Thiên Lương. Sắp xếp như sau:

- Tại tý, ngọ cung, Thiên Đồng cùng Thái Âm đồng cung.
- Tại mão, dậu cung, Thiên Đồng cùng Thái Âm xung đối.

"Tý ngọ mão dậu" là nơi đất Đào Hoa, vì vậy cũng ảnh hưởng đến tính chất Thiên Đồng, vì lẽ đó cổ nhân cho rằng nữ mệnh gặp sự phối hợp này, tuy đẹp mà dâm. Trong đó khi cùng Thái Âm đồng cung dường như ảnh hưởng khá mạnh, cùng Thái Âm xung đối mức độ trên có thể giảm bớt.

- Tại sửu, mùi cung, Thiên Đồng cùng Cự Môn đồng cung.
- Tại thìn, tuất cung, Thiên Đồng cùng Cự Môn xung đối.

"Thìn tuất sửu mùi" là đất tứ Mộ, nhưng Cự Môn lại lạc hãm khi vào tứ Mộ địa (cổ ca: "Mộ địa ứng hiềm hãm Cự Môn"), bởi thế cũng ảnh hưởng đến Thiên Đồng khi Cự đồng cung hoặc khi xung đối, như "Thái thái đoàn" (một đoàn các bà vợ quan), một mặt chơi mạt trượt một mặt bàn tán xôn xao rằng Trương gia tài giỏi, rằng Lý gia yếu kém, v.v... loại nữ mệnh này, rất có thể có mệnh cục là tổ hợp Thiên Đồng đi cùng Cự Môn.

- Tại dần, thân cung, Thiên Đồng cùng Thiên Lương đồng cung.
- Tại tị, hợi cung, Thiên Đồng cùng Thiên Lương xung đối.

"Dần thân tị hợi" là nơi tứ Trường sanh. Đối với Thiên Đồng có lợi nhất, có thể gia tăng "Phúc trạch" của Thiên Đồng, nhưng nó lại vẫn cứ là một kết cấu nguy hiểm, câu chuyện đã thuật trước của vị độc giả tuần san giúp cho Vương Đình Chi nhìn ra Anh ta có ý niệm tự sát trong đầu, mệnh tạo của vị độc giả kia là thuộc về kết cấu, cách cục này.

Kết cấu này, rất nhiều khi ngược lại không sợ gặp Sát, Hình, Kỵ, nhưng lại sợ một số cát tinh, cái lý trong đó rất là vi diệu.

Một đặc điểm riêng của kết cấu này là không nên gặp ở nữ mệnh, nữ mệnh gặp Thiên Đồng Thiên Lương, rất nhiều khi gặp gỡ biến thành "quá lộ khê tiễn" (tiền qua đường, qua suối) hoặc là "đơn liệu đồng bảo" (tiên liệu nung chảy đồng) (*), vì lẽ đó cũng dễ dàng sa ngã, không lại nhất định là thông minh hơn người, "nói đầu dấu đuôi". Nhưng thường thường có phối hợp của một hai tá diệu hoặc tạp diệu mới có thể phát sinh thay đổi rất lớn, đôi khi là chủ nhân thông minh mà trinh liệt, cho nên gặp lá số nữ nhân có cách cục "Đồng Lương mệnh", không thể không suy tính cẩn thận, y theo bản phường mà nói thẳng, thời giống như ăn nhiều bội thực cứng nhắc.
P/S: Mệnh Thiên Đồng luôn luôn nhị hợp Tham Lang (một sao tù tinh, tai họa tinh), luôn có Thái dương cư Phúc, phải chăng ảnh hưởng mạnh ??? Ông Vương Đình Chi cho rằng cung Phúc là sự hưởng thụ về mặt tinh thần, tác động mạnh đến các cung, đặc biệt là mặt sự nghiệp, Thái dương chủ đầu óc nên căng thẳng, xì-trét mà ...suy nghĩ tiêu cực !
Từ ngày đọc sách của ông Vương, PL ngộ ra rất nhiều điều hay, cũng như cách lập luận của ổng rất là logic và hợp lý, bảo sao ổng xứng đáng là tông sư (bậc thầy của một trường phái)
82. Thất Sát thủ viên, "làm ra làm chơi ra chơi"

Tại Đẩu số, Thất Sát thuộc về sao "cương mãnh" thẳng tắp một mạch, vì thế phối hợp "Sát Phá Tham" đặc biệt có nhiều thâm ý. Khả năng biến đổi cục diện của Tham Lang khá tròn trĩnh, có thể từ chuyện mà chuyển hóa một cách vô thanh vô sắc (không hình không tiếng), lực biến đổi cục diện của Phá Quân dứt khoát nhất thiết không để sót lại gì, nhưng Thất Sát biến đổi thường thường thuộc trường hợp lập mưu mà dẫn đến động. Nên "Sát Phá Tham" hội hợp, hết sức đầy đủ sắc thái "cương nhu tương tế" (kết hợp cứng rắn với mềm dẻo).

Cử một thí dụ, Phá Quân giống như xây một cái nhà mới, không quan tâm điều gì cứ đem nhà cũ dời đến nơi đất bằng phẳng, sau đó bắt đầu xây dựng từ đầu, có thể ví như làm việc nghĩa, việc quan trọng không cho phép chùn bước; Tham Lang không như vậy, nó không nhất định phải xây một cái nhà mới hoàn toàn, khả năng chỉ là trang hoàng, che đậy cái khuyết điểm của mình, không theo đường lối sách vở, rồi căn nhà tự nhiên rực rỡ hẳn lên như mới; còn Thất Sát thấy nứt thì đập bỏ, thấy khuyết điểm thì trang hoàng che đậy lại, không biến đổi một cách vô nghĩa cũng không tốn công hành sự vô ích, hời hợt bề ngoài.

Cho nên người có Thất Sát thủ mệnh, có đặc điểm là thực tế, bám sát thực tiễn, không siểm nịnh cũng không rụt rè cẩu thả; song chính yếu vẫn phải phối hợp cả kết cấu tinh hệ lại mà định, ví như Thất Sát hội hợp các tinh diệu quá mãnh liệt như kiến Hỏa Tinh Linh Tinh, người có loại mệnh tạo này dễ dàng chiêu oán; nếu hội hợp Địa Không Địa Kiếp, tắc tâm linh dễ giác ngộ hư không, hơn nữa việc xã giao trong cuộc sống cũng lẻ loi lập dị, ít hợp với ai.

Ở thời xưa, mỗi người vốn có một nghề đặc thù, mới có cảnh ngộ ở ẩn hay bôn ba vào đời, nếu không ắt là cao nhân ẩn sĩ, cho nên cổ quyết nói: "Thiên Hình hãm địa, xảo nghệ mưu sinh" lại nói: "Kỳ tính nhược thanh lương chi trạng, kỳ sổ tắc nghi vu tăng đạo" (Số tốt thì như Trạng Nguyên, số xấu thì đi theo đường tu hành) hay như: "Thất Sát cư hãm địa, trầm ngâm phúc bất sanh".

Thật ra người có Thất Sát thủ mệnh, cũng không phú quý "cả đời tước lộc vinh xương" theo như lời cổ thư, cũng không thê lương như lời câu phú ghi bên trên. Vương Đình Chi đặc biệt thích thú tính cách Thất Sát, hiểu được xã hội hiện đại, khắc họa được một ít người "làm ra làm chơi ra chơi". Cổ thư nói: "Thất Sát nhập mệnh thân cung kiến cát, diệc tất lịch thụ gian tân" (Sát thủ mệnh thân dù gặp được cát tinh cũng trải qua gian khổ), câu phú này đánh giá quá phù hợp và đúng đắn, không giống Tham Lang dễ rơi vào thủ xảo, lại không giống Phá Quân là biến đổi hết thảy, hành động không chút chần chừ, hoặc sống hoặc chết. Vì vậy mới cho là Thất Sát "lịch thụ gian tân" rồi sau đó thành tựu là thế.

Người có Thất Sát thủ mệnh bộ phổi phần nhiều không đủ khả năng chống cự thiên nhiên, mà trình độ y dược thời xưa lạc hậu, bởi vậy dễ cho rằng Thất Sát gia hung tinh dễ yểu chiết, dễ chết về bệnh phổi hoặc bệnh suyễn, xã hội hiện đại văn minh, điểm này thấy không ứng nghiệm.
83. Sáu kết cấu Thất Sát thủ mệnh

Các tinh diệu có liên quan đến Thất Sát nhất là Phá Quân và Tham Lang, ba sao này vĩnh viễn ở ba phương hội chiếu, gọi là tổ hợp "Sát Phá Tham".

Nếu xét Thất Sát cư mười hai cung vị, thì cơ bản kết cấu có thể chia làm sáu tổ hợp:

- Tại tý ngọ cung, Thất Sát độc tọa, đối cung là Vũ Khúc Thiên Phủ.
- Tại sửu mùi cung, Thất Sát và Liêm Trinh đồng cung.
- Tại dần thân cung, Thất Sát độc tọa, đối cung là Tử Vi Thiên Phủ.
- Tại mão dậu cung, Thất Sát và Vũ Khúc đồng cung.
- Tại thìn tuất cung, Thất Sát độc tọa, đối cung là Liêm Trinh Thiên Phủ.
- Tại tị hợi cung, Thất Sát và Tử Vi đồng cung.

Thế nên từ sự phối hợp trên có thể thấy được tinh diệu có quan hệ với Thất Sát ngoài Phá Quân Tham Lang ra, còn là 4 sao Tử - Phủ - Liêm - Vũ.
Thất Sát hoan hỷ nhất gặp Tử Vi, cho nên thủ mệnh tại bốn cung dần thân tị hợi, dễ dàng trở thành cách cục tốt đẹp, tổ hợp Tử Vi Thất Sát lúc này hóa thành quyền lực; Thất Sát xung đối Tử Vi, cũng có thể gia tăng năng lực khai sáng cho người. Nhưng tính chất của Thiên Phủ lại đồng thời có thể khiến người rơi vào không ảo, nên từ phương diện tích cực mà nói, Thất Sát hai cung cư tị hợi tốt đẹp hơn so với hai cung dần thân; nhưng người có mệnh ở hai cung dần thân cuộc sống thủ đắc được triết học rất thú vị, không giống như cư hai cung tị hợi không dễ dàng thỏa mãn mong muốn quyền lực.
Thất Sát và Liêm Trinh đồng cung, Liêm Trinh là nhu so với Thất Sát là cương, lúc này rất cần xem xét các sao phụ tá hội hợp mà định, hung thì rơi vào nhục dục, cát thì phẩm cách ngay thẳng chính trực, lại mang vài phần hơi thở, mùi vị văn nghệ, phong lưu nho nhã mà tuyệt đối không hạ lưu. Nhưng Thất Sát xung chiếu Liêm Trinh Thiên Phủ, có thể thêm vào nhiều cảm xúc bùi ngùi, thường thường hiểu được nhân sinh chẳng qua là "kính hoa thủy nguyệt" (trang mờ đáy nước) (*), lúc này khiến Thất Sát tựa như vị chiến tướng gặp phải núi cao thình lình trước mặt, còn quân lính thì một đạo cầm đao đang mang sẹo một đạo cầm giáo thì bị thương, tất cả ghi nhận đều trong thế phải vùng vẫy đấu tranh.

Thất Sát Vũ Khúc đồng cung là tổ hợp tinh hệ hết sức tích cực, nhưng khiếm khuyết khả năng dự báo, dẫn đường; nhưng Thất Sát có Vũ Khúc Thiên Phủ hội chiếu, Thất Sát đứng độc lập ngược lại mới có thể dễ dàng phát huy khả năng nhưng lại dễ dàng biểu hiện độc tài, cho nên ở phương diện năng lực lãnh đạo có khuyết điểm. Trong các loại tổ hợp tinh hệ Thất Sát, loại tổ hợp này tốt đẹp hơn ở chổ sóng gió ít mà lại nhỏ, nếu ước mong yên ổn trong cuộc sống đương nhiên nên gặp cách cục này.
Chú thích:
kính hoa thủy nguyệt: hoa trong gương, trăng trong nước; ---> một cảnh tượng mờ mờ ảo ảo.
99. "Văn Quế Văn Hoa cách" chủ yếu xem ở chính tinh
"Văn Quế Văn Hoa cách" - tức an mệnh vào sửu hoặc mùi cung, mà cung Mệnh gặp Văn Khúc Văn Xương đồng thủ.
Cổ ca nói:
Sách thư nhất đạo tự thiên lai
Hoán khởi nhân gian kinh tể tài
Mệnh lý vinh hoa chân khả tiện
Đẳng nhàn bình bộ thượng bồng lai.
(Sách, thư cùng từ trời đến, kêu gọi người tài trị quốc chốn nhân gian, mệnh lý vinh hoa thực có thể ao ước, bỗng dưng một bước đến chốn bồng lai.)

Ở khoa cử thời đại, đọc sách cầu công danh là con đường tốt nhất, cho nên cổ nhân lấy Đẩu số luận mệnh hoan hỷ nhất gặp Văn Xương Văn Khúc, ngoại trừ "Văn tinh củng mệnh cách" đã thuật trước đó (mục 96 - "Văn tinh củng mệnh" chủ thông minh), còn có cách "Văn Quế Văn Hoa" này, sau này sẽ thảo luận đến các cách "Văn Lương chấn kỷ", "Lộc Văn ám củng", vì như đã biết cổ nhân khá coi trọng khả năng của văn tinh. Ở bối cảnh xã hội trước mắt tiến hành thảo luận thêm nữa.

Văn Xương Văn Khúc đồng tọa cung Mệnh, bản thân tất nhiên phong lưu nho nhã, có phong cách đặc biệt, hơn nữa lại thông minh tuấn tú, đây là ưu điểm của nó.

Nhưng hai sao Xương Khúc rốt cuộc không phải chánh diệu, khả năng bạc nhược, vào chuyện thi cử cạnh tranh lớn là có khả năng ứng phó, ở xã hội ngày nay ngoại trừ thi cử ra còn có rất nhiều sự việc phải tranh quyền đoạt lợi, cho nên tất cần có chánh diệu khác hữu lực phò trợ, sau đó mới có thể thích ứng thời đại trước mắt.

Cổ nhân không trọng nữ mệnh, vì lẽ đó cách cục này cũng không liên quan đến nữ mệnh. Nữ mệnh nếu gặp Xương Khúc đồng cung, trái lại sau hôn nhân dễ dàng có bất lợi, vỡ mộng chuyện tình cảm, nếu gặp Thiên Phủ Vũ Khúc đồng chiếu mệnh viên , dễ bị những người đã có gia đình theo đuổi, quấy nhiễu gây ra tình cảm thống khổ, cho nên "Văn Quế Văn Hoa" ngày nay cũng không tốt bằng thời xưa là thế.
P/s:
"...Thiên Phủ Vũ Khúc đồng chiếu mệnh viên...": mệnh ở Sửu Mùi làm sao gặp Vũ Phủ (cư Tý Ngọ) đồng chiếu được nhỉ ? Có khi nào ý nói là Vũ Khúc HOẶC Thiên Phủ chiếu ?! Hay là lỗi typo !
Hoặc nếu ko có lỗi typo thì thử suy diễn: mệnh ở sửu mùi có Vũ (Tham) chính chiếu, Thiên Phủ tam hợp; Hoặc Thiên Phủ chính chiếu, Vũ (Phá) tam hợp.
132. "Tướng tinh đắc địa" không hợp thời
"Tướng tinh đắc địa cách" - tức Vũ Khúc lâm miếu vượng cung thủ mệnh.
Cổ ca nói:
Tướng tinh nhập miếu thật vi tường
Vị chánh quan cao đáo xứ cường
Lược địa công thành đa diệu toán
Uy phong lẫm lẫm trấn biên cương.
(Tướng tinh nhập miếu thật là tốt đẹp, ở ngôi vị quan to nơi cường quốc, chiếm đất công thành bằng mưu sâu kế hiểm, uy phong lẫm liệt trấn ngự nơi biên cương.)

Cách cục này thuộc về trường hợp "trông mặt mà bắt hình dong" (nhìn chữ đoán nghĩa), bởi vì thời xưa có thuyết pháp Vũ Khúc là Tướng tinh cho nên mới cho là mệnh "chiếm đất công thành", "uy phong lẫm lẫm" , bởi vậy có thể thấy được cái đơn sơ ngây ngô của giang hồ thuật sĩ thời Minh; học luận mệnh đời nhà Thanh là việc được coi trọng nhưng văn nhân học sĩ chỉ nghiên cứu Tử Bình, không một người nào cảm thấy hứng thú xem "Đẩu số", đó là bởi lý do bất mãn sách vở dạy Đẩu số của thời nhà Minh.

Vũ Khúc tại bốn cung thìn tuất, sửu mùi nhập miếu, tại tý ngọ hai cung thừa vượng, y theo cách cục Vũ Khúc ở mười hai cung có sáu hợp cục, song phàm người có Vũ Khúc tọa mệnh, chẳng phải cứ là số rất tốt sao? Vậy ngày ấy người lập ra cách cục chẳng nghĩ thêm được tường tận là chỗ đó. Hơn nữa, Vũ Khúc vào hai cung thìn tuất là "thiên la địa võng", mặc dù nhập miếu nhưng cũng không xuất sắc, chẳng biết tại sao cũng cho là "Tướng tinh đắc địa".

Phàm người Vũ Khúc thủ mệnh, tuy có thể kiêu ngầm nhưng cũng nhiều ít có một chút tính chất cô khắc, thời xưa người tòng quân phần nhiều không phải là người thiếu niên no ấm, hoặc cơm áo không nhờ cậy được ai, hoặc lục thân bất toàn sau đó mới chịu rời xa nơi chôn rau cắt rốn.
28. Đoán sắc lao , sản ách (**), và hôn nhân

"Thiên Lộc trùng phùng Hồng Loan, sắc lao chi tật" (Thiên Lộc gặp Hồng Loan là bệnh lao)
Thiên Lộc tức là Lộc Tồn, ở Đẩu số có lúc lại rất sợ tinh diệu này, vì Lộc Tồn phùng Hồng Loan cố nhiên chủ việc phát tài, nhưng tại cung Tật ách, lại có thể biến ra bệnh thận, nói đến bệnh thận này sở chỉ chức năng sanh thực (***), mà không nói đến hệ thống bài tiết của thận.

Vương Đình Chi hoài nghi bản "Thập bát phi tinh" Phúc Kiến khắc trên gỗ, hoàn thành cuối cùng vào triều đại nhà Minh, trong lịch sử Trung Quốc, thời Minh là thời đại sắc tình, vì vậy mà người bị bệnh liên quan đến cơ năng sanh thực đặc biệt nhiều, Trong bản "mười tám phi tinh" vì lẽ đó cũng đặc biệt chú ý tới loại bệnh chứng này.

"Thiên Nhận tọa mệnh, nữ nhân chủ sản ách" (Thiên Nhận tọa mệnh ở phụ nữ, chủ về sản ách)
Hẳn là, độc giả còn nhớ Vương Đình Chi từng nói qua, Thiên Nhận ở "Thập bát phi tinh" tức là Thiên Hình ở Đẩu số. Mà nữ mệnh niên hạn phùng Thất Sát tọa cung Mệnh, gặp sát tinh, lưu diệu lại bất cát, người lục Giáp chủ bị sản ách, nhưng nếu cung Tử tức tốt con cái có thể bảo toàn, nếu không nhiều khả năng yểu chiết. Cách luận đoán trên, bản thân giới Đẩu số đã bỏ sót, hoặc không biết đến, nhưng có thể thấy được về "Thập bát phi tinh".

"Hồng Loan hội Văn Xương chủ hôn nhân"

Bây giờ toán Đẩu số cho một người, thường cho rằng Hồng Loan Thiên Hỉ là hạn hôn nhân, khi gặp hạn liền suy đoán kết hôn năm đó, thường thường không ứng, nhưng tham khảo "mười tám phi tinh", lấy Hồng Loan Thiên Hỉ hội Văn Xương là năm kết hôn, hơn nữa 9/10 trường hợp là năm này chánh thức cử hành hôn lễ, nhiều ứng nghiệm; bởi vì "Văn Xương vi lễ nhạc chi tinh, chủ hôn giá chi lễ" (Văn Xương là sao chủ lễ nhạc hay hôn lễ). Cách suy đoán này trước mắt cũng thấy gần với "Thập bát phi tinh".
_______________
Sắc lao, còn có tên là kết hạch: hội chứng lao, lao có nhiều loại, lao thận, lao phổi, lao da, lao xương, nổi hạch,... ("Sắc" là sắc đẹp, màu sắc, còn có nghĩa là vẻ mặt ngoài da; "Lao" là bệnh lao). Khi xét nghiệm lao thường xét nghiệm ngay trên da, sau đó mới kết hợp xét nghiệm đàm, sinh thiết, v.v... Bài viết này đề cập đến bệnh thận, suy thận, lao thận,...do "sắc tình" quá mức. Nếu các bạn thắc mắc, có thể tìm hiểu bệnh về thận trong Đông Y.
(**) Sản ách: bệnh tật và rủi ro khi mang thai và sinh nở.
(***) Sanh thực: hệ thống sinh sản ở người.
90. Đàm Hỏa Tinh và Linh Tinh
Vương Đình Chi mỗi lần nghĩ đến việc nói chuyện về 4 sát tinh Hỏa, Linh, Dương, Đà nhưng chấp bút lại nghĩ rất khó, bởi vì "Tứ Sát" mặc dù có đặc tính cơ bản nhưng tất đòi hỏi các tinh diệu khác phối hợp về thì việc đàm luận, luận đoán mới có ý nghĩa, nếu chỉ bàn một sát tinh nào đó tất dễ sinh hiểu nhầm hoặc hiểu không đủ. Cho nên vì lẽ đó bài viết này tuy nói về sát diệu, bất quá cũng chỉ nói đại khái mà thôi, mặc dù tác giả rất khách quan, độc giả vẫn cần đề phòng giảng sai, rất tai hại khi bàn riêng từng sát tinh.
Bình thường mà nói, "Hỏa minh Linh ám", cho nên hai sao tuy cùng có tính cương liệt, nhưng tính chất chính Hỏa Tinh khác với Linh Tinh một chút, nếu như lấy nhân vật "Thủy Hử" mà so sánh, Hỏa Tinh ví như Hắc toàn phong Lý Quỳ (cơn lốc đen Lý Quỳ), nói đánh là đánh, nói giết là giết, lòng không so đo tính toán; Linh Tinh ví như Hoa hòa thượng Lỗ Trí Thâm, mặc dù cương liệt cũng như Lý Quỳ, nhưng như hồi đánh chết gã bán thịt Trấn Quan Tây - Trịnh Đồ, trước tiên Lỗ Trí Thâm tìm hiểu hắn bán thịt sống ở chợ, sau đó đến tìm cớ chọc ghẹo mà đánh chết
Hai sao hoan hỷ nhất cùng Tham Lang đồng cung, hội hợp chỉ xếp thứ cách, xưng là "Hỏa Tham cách" hoặc "Linh Tham cách", chủ hoạnh phát, hoặc chủ hoạnh lập công danh, về cách cục này Vương Đình Chi sẽ luận thuật riêng đầy đủ. Trừ Tham Lang này ra, với Tử Vi, Thất Sát, Hỏa Linh đồng cung cũng tốt. Tử Vi hóa giải tính cương liệt của Hỏa Linh như Lý Quỳ gặp Tống Giang tự nhiên ngoan ngoãn vâng lời, cam thụ sai khiến xếp đặt; Thất Sát đối với Hỏa Linh có khả năng uy hiếp được Hỏa Linh, như một vị Nguyên soái cầm quân đầu tiên phải cưỡi ngựa xông trận ra oai, sau đó mới có thể thu phục được thuộc hạ cương mãnh làm tướng. Cho nên, dường như mệnh cục Tử Vi Hỏa Tinh đồng cung ít vất vả gian lao hơn nhiều so với mệnh cục Thất Sát Hỏa Tinh đồng cung.

Cự Môn là ám diệu, gặp Hỏa Linh rất không tốt, bởi vì Hỏa Linh là ngọn lửa không đủ soi sáng Cự Môn, mà Cự Môn lại là ám tinh đủ để làm tối tăm sắc sáng của Hỏa Linh, nếu đồng cung làm cho chủ nhân dễ xúc động, tâm tính ít độ lượng mà lại còn sinh nhiều thị phi.

Hỏa Linh cũng không thích Liêm Trinh, vì tượng Liêm Trinh là âm hỏa, hai hỏa đồng tụ một nơi, gặp Thất Sát Kình Dương tức "chủ sanh ý ngoại" (sinh chuyện ngoài ý muốn).
Câu chuyện Lỗ Đạt (Lỗ Trí Thâm) đánh tên Trịnh Đồ 3 quyền làm hắn chết luôn, xin đọc lại chuyện Thủy Hử để rõ.
Được cảm ơn bởi: Ngàn Phố
Đầu trang

can_spacy_77
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1626
Tham gia: 14:59, 19/12/11
Đến từ: Sài Gòn

TL: TỬ VI LUẬN ĐẨU SỐ

Gửi bài gửi bởi can_spacy_77 »

91. "Hỏa Linh giáp mệnh" và "Linh Xương Đà Vũ"

Về Hỏa Tinh Linh Tinh, cổ nhân từng xem xét kỹ rồi lập ra 2 cách cục, một là "Hỏa Linh giáp mệnh" và một là "Linh Xương Đà Vũ", bài viết nói về 2 cách cục này. Người xưa nói "Hỏa Linh giáp mệnh vi bại cục", về phần "Bại cục" ví như có hỏi cũng chẳng có thuyết minh. Chiếu theo Vương Đình Chi biết, ở Đẩu số phàm cung bị một cặp Sát tinh giáp biên, nhất định sẽ hội sinh ra khuyết điểm, như "Dương Đà giáp", "Không Kiếp giáp" và "Hỏa Linh giáp". Hỏa Linh giáp cung, sinh ra bệnh tật hay sự cố gì, ứng với tinh hệ bị sát tinh giáp biên mà định, thông thường thì vậy, còn lại là khiến cuộc sống giảm chất lượng.

Cùng một nguồn dạng xuất thân, cùng một quá trình học vấn, thậm chí cùng cơ cấu đảm nhiệm một công việc, rồi sau đến tuổi trung niên, một người thăng một người trầm, thì người trầm dễ có thể có cách cục "Hỏa Linh giáp mệnh" mà chính tinh ở cung Mệnh lại vô lực, đó là lý do. Nếu cung có tinh hệ bị giáp Hỏa Linh hữu lực như Vũ Khúc Thất Sát, Vũ Khúc Thiên Phủ, Liêm Trinh Thất Sát, Tử Vi Thất Sát, tắc chủ nhân vẫn có thể hồ hởi phấn khởi, nhưng gian lao khó tránh khỏi. Nhưng nếu cung vị mà Hỏa Linh giáp có Kình Dương, tắc phán đoán thời liền phải hết sức cẩn thận; sao Kình Dương này có thể trở nên thiện hay ác, không thể đại khái mà nói được, ứng thiện hay ác phải quan sát từ lá số tam phương tứ chánh hội hợp tinh diệu mà định tính chất của nó.

Về cách "Linh Xương Đà Vũ", tất là cung an mệnh ở Thìn Tuất mà tam phương tứ chánh tập hợp bốn sao Linh Tinh, Đà La, Văn Xương, Vũ Khúc. Cổ nhân gọi là "Linh Xương Đà Vũ, hạn chí đầu hà" chủ có thủy ách (tai nạn sông nước), tại sao lại sẽ có thủy ách, hẳn là cổ nhân thông qua những chinh nghiệm được mà đi ra kết luận. Chiếu theo kinh nghiệm của Vương Đình Chi kỳ thực cũng có thể chỉ điềm báo tai nạn thông thường, hơn thì chủ bất trắc trong giao thông.

Hẳn nên lưu ý, nếu nguyên cục có Vũ Khúc cùng Linh Tinh hội chiếu (không phải là Hỏa Tinh), liền cần đại hạn hoặc lưu niên có Lưu Xương Lưu Đà hội hợp, đó là thành cách cục "Linh Xương Đà Vũ", gom Lưu Xương Lưu Đà vào trong cách cục này. Ví như nguyên cục đã có Đà La hoặc Văn Xương, mà Lưu Đà hoặc Lưu Xương nhập cục, xung với Xương Đà nguyên cục, tai họa tức dễ phát tác, hẳn là năm ấy cẩn thận sức khỏe, đồng thời thận trọng đề phòng thủy ách và bất trắc giao thông - Vương Đình Chi đoán qua lá sốc của con của một vị bằng hữu, lưu niên gặp cách cục "Linh Xương Đà Vũ", Vương Đình Chi hết sức khuyên ngăn không nên chạy xe gắn máy, nhưng năm đó vẫn chạy xe đạp đụng người đi đường, gây nên một vết thương nhẹ.
Chú thích:
Lưu Xương : theo sách "Phép an sao và đoán mệnh có thực" của Vương Đình Chi, hai sao Lưu Xương Lưu Khúc an theo Thiên can năm tháng ngày nhập hạn:
Bài ca an Lưu xương, Lưu khúc:

Lưu Xương khởi tị vị
Giáp ất thuận lưu khứ
Bất dụng tứ mộ cung
Nhật nguyệt đồng niên tuế.
(Lưu Xương khởi từ cung Tị, theo chiều thuận bắt đầu là Giáp, đếm đến Can năm (hoặc tháng) tính hạn. Bỏ qua bốn cung tứ mộ là Thìn Tuất Sửu Mùi)
Lưu Khúc khởi dậu vị
Giáp ất nghịch hành tung
Diệc bất dụng tứ mộ
Niên nhật nguyệt tương đồng.
(Lưu Khúc khởi từ cung Dậu, theo chiều nghịch bắt đầu là Giáp, đếm đến Can năm (hoặc tháng) tính hạn. Cũng bỏ qua bốn cung tứ mộ là Thìn Tuất Sửu Mùi)

Điều này do Trung châu phái truyền thụ.
92. Kình Dương "chân tiểu nhân", Đà La "ngụy quân tử"

Kình Dương và Đà La là một cặp sát tinh ở Đẩu số, Kình Dương chủ "Hình", Đà La chủ "Kỵ", cho nên Kình Dương không thích gặp Liêm Trinh bởi vì Liêm Trinh chủ tù, vị chi "Hình tù tịnh chí" (hình tù cùng đến), lại không thích gặp Phá Quân bởi vì Phá Quân chủ hao, vị chi "Hình hao tề lâm" (Hình hao gặp đủ cả); Đà La cũng không thích gặp Hóa Kị, vị chi "Kị hóa tương xung" (cùng là Kị nhưng hóa xung nhau).

Từ tính chất đã phân biệt bên trên, Kình Dương có thể gọi là "Chân tiểu nhân", nhưng tính cách Đà La thì có điểm gần với từ "Ngụy quân tử", cho nên Kình Dương mang đến tai nạn thuộc loại nhất thời, như động đến phải phẫu thuật sau đó bình an, nhưng tai nạn Đà La đem đến mang tính chất đau, khổ triền miên, thí dụ như bệnh hoạn tuy không cần can thiệp bằng phẫu thuật nhưng làm cho người tật bệnh dai dẳng.

Kình Dương khéo về xung đột, xung đột bất kể hậu quả tốt hay xấu, giải quyết chuyện một lần cho xong; Đà La không như vậy, có mâu thuẫn một mực kéo dài không chịu phát sinh xung đột ra bên ngoài, kết quả ngược lại là hao phí tinh lực; cho nên Kình Dương chủ "nhất đao lưỡng đoạn", Đà La chủ thong thả từ từ giải quyết.
Kình Dương mừng gặp một mình Hỏa Tinh, là dương kim gặp dương hỏa, chủ rèn luyện mà thành có ích, điều này ví như lò luyện của thợ rèn, kim sáng hỏa cũng sáng cần phải đe búa mà rèn kim loại thành đồ dùng có ích, nên chủ nhân có cách này trải qua trăm nghìn cay đắng rồi sau đó mới đạt thành tựu.

Đà La cũng mừng gặp Linh Tinh (cách "Linh Xương Đà Vũ" là ngoại lệ), là âm kim gặp âm hỏa, tính chất của nó ví như nung đúc quặng thạch, tất qua nung đúc một phen sau đó mới có thể đúc thành đồ gốm, thỏi vàng thỏi bạc; vì lẽ đó cuộc sống tuy có thành tựu, nhưng tất gặp nhiều sự phiền toái tới quấy nhiễu khiến người cả đời không thể nhàn hạ, mà lại còn dễ dàng phát sinh hiện tượng dây dưa không dứt khoát, điều tốt chậm tới, sự xấu lâu tan, tuy là "cát tất lai, hung tất tán" (sự tốt tất đến, hung họa sẽ tan), nhưng đời sống lại cũng không khỏi cảm thấy "tha đà tuế nguyệt" (lần lữa năm tháng) (*). Nên cặp Hỏa Dương đồng cung và cặp Linh Đà đồng cung là ưu việt hợp cách.
"Dương Đà giáp", tính chất chính là "Hình Kỵ giáp" cho nên Quan vị bị giáp thì nhiều bất lợi. Duy cung vị bị Dương Đà giáp tất có Lộc Tồn, nên so đo tính toán dễ dẫn đến e dè, tị hiềm mà thôi. Ở xã hội hiện tại, hai sao Dương Đà cũng chủ kỹ năng chuyên môn, cổ nhân cho là "xảo nghệ an thân", bởi vậy người hiện đại so với người xưa thật sự may mắn, bởi vì địa vị thợ thủ công thời xưa thấp hèn, thời hiện đại đều hiểu được rằng người thợ sửa chữa Tivi cũng đều có cơ hội phát đạt.
Chú thích:

"tha đà tuế nguyệt": lần lữa năm tháng, lỡ thời, ý nói kẻ không cố gắng, cứ lần lữa ngày qua tháng lại không làm được việc gì.
97. "Tam Kỳ cách" khó đạt đến thuần mỹ

"Tam Kỳ gia hội cách" - tức ba sao Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp cung Mệnh.
Cổ ca rằng:
Tam kỳ củng hướng Tử vi cung
Tối hỉ nhân sanh mệnh lý phùng
Tiếp lý âm dương chân Tể tướng
Công danh phú quý bất lôi đồng.
"Tam kỳ củng hướng các cung trong Tử vi, hoan hỷ nhất là trùng phùng nơi mệnh, điều hòa âm dương, đích thị là (công việc) một chân Tể tướng, công danh phú quý chân thực không phải rổng tếch như là (kẻ) đạo văn, sai ngoa."

Bình thường Hóa Lộc chủ quan - lộc, Hóa Quyền chủ quyền bính, Hóa Khoa chủ danh vọng, uy tín, cho nên cung Mệnh đương nhiên thích ba tinh diệu này hội hợp. Nhưng chỉ khi không gặp Hỏa Linh Dương Đà (Tứ Sát), hoặc không thấy Địa Không Địa Kiếp; Thiên Hình Hóa Kị mới là mỹ cách. Ví như gặp cảnh "Tam Hóa hội hợp, lại thấy Sát Kỵ" vậy sẽ phải cẩn thận nghiên cứu tính chất sao Hóa, sau đó mới có thể suy đoán đặc điểm cùng khuyết điểm của mệnh người đó, nên tính chất tối phức tạp ở Đẩu số sợ rằng cũng không hơn cách cục này vậy.

Cách cục này thì Hóa Lộc tại cung Mệnh, hội lệnh ba phương Hóa Quyền Hóa Khoa là kết cấu tốt nhất. Hóa Lộc Hóa Quyền không nên đồng thời tập trung vào một cung, bởi vì hóa diệu tập trung thái quá, lực lượng các cung khác dễ lâm cảnh mỏng yếu, dễ dàng mất đi sự cân bằng.

Hóa Quyền thủ mệnh, bình thường tính chất chủ năng chấp chưởng quyền bính, nhưng nếu phùng sát diệu, ngược lại là chủ hữu chức vô quyền, Hóa Khoa thủ mệnh, bình thường tính chất chủ danh dự rõ rệt, nhưng nếu phùng sát diệu, ngược lại là chủ tự thủ lợi ngầm thanh thế hư ảo, vì lẽ đó "Tam kỳ cách" cũng không dễ dàng thuần mỹ.
Cổ đại trọng kẻ sỹ, kẻ làm quan, khinh nông thương, cho nên "Tam kỳ cách" cũng vì thế thường đem tài năng ra làm quan mà cầu vinh hoa phú quý, xã hội hiện đại tất "Tam kỳ cách" cũng có khả năng vào thủ lãnh tập đoàn tài chính, ngân hàng, không nhất định kẻ đó phải làm quan.
106. Kết cấu "quý tinh giáp mệnh"

"Quý tinh giáp mệnh cách" - xem về kết cấu của cách cục này, có nhiều giải thích bất đồng, hạ văn sẽ đề cập đến kỷ càng tỉ mỉ, đầu tiên là xét một số câu ca cổ liên quan đến cách này:
"Mệnh lý vô hung Thiên quý giáp
Cát tinh đắc ngộ hảo sanh nhai
Nhược phi hàn mặc văn chương sĩ
Dã thị phong y túc thực gia"
(Mệnh lý giáp Thiên Quý không tọa thủ hung tinh, đắc ngộ thêm cát tinh thì sanh nhai tốt đẹp, nếu không là kẻ sỹ bút mực văn chương thì cũng là kẻ cơm no áo ấm).
Cổ ca nói về cách cục này tương đối chân thật, nhưng không dễ dàng tùy tiện đồng ý như vậy được, kết cấu của cách cục này có ba thuyết pháp bất đồng:

Một là cho rằng chính là "Thiên Khôi Thiên Việt giáp mệnh"
Hai là cho rằng chính là "Nhật Nguyệt cùng Tả Hữu giáp mệnh"
Ba là cho rằng chính là "Tử Phủ, Nhật Nguyệt cùng Tả Hữu giáp mệnh"

Theo ý kiếnVương Đình Chi thì trường hợp thứ nhất khá dễ dàng, phàm người sinh năm Bính Đinh thì Khôi Việt đều giáp cung tuất, cơ hội xuất hiện rất lớn.
Trường hợp thứ hai, loại này khó hơn, đắc Nhật Nguyệt giáp mệnh lại muốn cả Tả Phụ Hữu Bật giáp mệnh, cơ hội xuất hiện không nhiều nhưng ngược lại là hợp lý, bởi vì, tổng lại ngoài đường phố không thể ai cũng đều là "Hàn mặc văn chương sĩ", "Phong y túc thực gia".
Trường hợp thứ ba, quả thực không có khả năng, đắc Tử Vi cùng Thiên Phủ giáp mệnh, tất không thể đắc Thái Dương Thái Âm giáp mệnh, loại thuyết pháp này nhất định có thành phần nghe nhầm đồn bậy.
Nhưng chiếu theo thầy Vương Đình Chi đã dạy, bổn cách hẳn là Thiên Khôi Thiên Việt giáp mệnh và cung Mệnh gặp Ân Quang Thiên Quý chủ khảo thí thi đậu ra làm quan, các vị không ngại thì tham khảo.
117. "Quyền Lộc tuần phùng" có khuyết điểm
“Quyền Lộc tuần phùng cách" - tức Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn cùng Hóa Quyền đồng thủ cung Mệnh.
Cổ ca nói rằng:
"Mệnh phùng Quyền Lộc thật kham khoa
Thiên tái công danh phú quý gia
Đan kiến dã ứng thân phú hậu
Bình sanh ổn bộ hảo sanh nhai."
(Mệnh phùng Quyền Lộc thật đáng được ngợi khen, nghìn năm mới gặp người công danh phú quý như vậy, gặp được một sao Quyền hay Lộc cũng ứng bản thân sung túc, giàu có, bình sanh cuộc sống cứ vững bước tốt đẹp).
Cách cục này cũng thuộc về mệnh cục "Tam hóa tinh" và cùng loại hình với "Giáp đệ đăng dong cách" (Trạng nguyên lên ngôi), "Khoa danh hội Lộc cách".
Khuyết điểm ở cách cục loại này là phải hoàn toàn coi kỷ càng tính chất chính diệu thủ cung, nếu chỉ chú trọng ba sao Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, sẽ có phần võ đoán quá mức. Hơn nữa, ngược lại trong ba cách cục, khuyết điểm nhiều nhất chính là "Quyền Lộc tuần phùng cách". Bởi vì hai Hóa tinh tốt tụ vào một cung, cung còn lại liền khó tránh sự mất đi bản sắc, vì thế mà toàn cục dễ dàng mất đi sự cân đối, nên không thể xem là cách cục quá tốt đẹp.
Cổ nhân tuy có thuyết pháp "Quyền Lộc tuần phùng, tài quan song mỹ", nhưng cũng không phải nói Hóa Lộc Hóa Quyền tụ vào một cung, mà là chỉ tam phương tứ chánh gặp Lộc Quyền hội hợp. Cách cục này cũng có một điều kiện, đó là Quyền Lộc đồng thủ Mệnh Quan ứng khi không thấy Sát diệu, thì mới quý.
Nếu gặp sát tinh Hỏa Linh Dương Đà, cổ nhân cho rằng cận chủ "Hư dự chi long" (*), cũng tức là hữu danh vô thật, càng khó nói đến chuyện "Thiên tái công danh phú quý gia" được.
Chiếu theo kinh nghiệm Vương Đình Chi, người có Lộc Quyền thủ mệnh, đảo thích hợp làm công tác kế toán, đặc biệt càng đúng với mệnh Thiên Cơ Hóa Lộc, Vũ Khúc Hóa Quyền.
"Hư dự chi long" : danh dự to tát nhưng hão huyền.
124. "Quyền sát hóa Lộc" trước khổ cực sau ngọt bùi
"Quyền sát hóa Lộc cách" - tức Kình Dương hoặc Đà La cùng Hỏa Tinh tọa mệnh nhập miếu vượng. trong đó lại lấy mệnh Kình Dương Hỏa Tinh, so sánh với Đà La Hỏa Tinh nhập mệnh thì đều tốt.
Cổ ca rằng:
"Tam sát gia lâm miếu vượng cung
Tính tình cương mãnh chấn anh hùng
Kỷ phiên hiểm địa đô kinh quá
Lẫm lẫm uy quyền chúng hãn đồng."
(Tam sát gia lâm cung miếu vượng, tính tình cương mãnh uy chấn như bậc anh hùng, chổ hiểm địa nào cũng đều xông pha, từng trải, uy quyền lẫm liệt trong chúng nhân hiếm có người tương tự).
Trong ca từ thuyết pháp "Tam sát gia lâm" có điểm mơ hồ, bởi vì Kình Dương và Đà La vĩnh viễn cách nhau một cung, căn bản không có khả năng gia lâm. Cổ nhân bất quá nói chung chung, chỉ là thuận theo thể cách văn từ của ca quyết vậy thôi.

Kình Dương, Đà La tốt khi cư bốn cung thìn tuất sửu mùi là nhập miếu, trong bốn cung vị này, Hỏa Tinh vào cung thìn là lạc hãm, bởi vậy khi Kình Đà vào ba cung tuất sửu mùi gặp Hỏa Tinh đều hợp cách.

Nguyên nhân thành cách chính là Kình Dương Đà La đều thuộc kim (đới) hỏa, phân biệt thành một dương một âm, vào miếu vượng cung gặp Hỏa Tinh, ấy là hỏa luyện kim tinh, lại thành cách cục, tức là không chỉ Hỏa Tinh vừa triệt tiêu được tính chất tàng ẩn hình kỵ của Dương Đà mà còn là Dương Đà cũng triệt tiêu được tính chất "cương liệt hoành bạo chi cách"của Hỏa Tinh (nóng nảy khí khái và ngang ngược, hung bạo của Hỏa Tinh), nhưng Dương Đà gặp Hỏa Tinh mặc dù thành cách nhưng cuộc sống vẫn khó tránh được sự lao khổ, hỏa luyện kim tinh, tất nhiên là được một phen rèn luyện vậy, bởi vậy chủ nhân trước lao khổ sau mới thành (tiên lao hậu thành).

Cách cục này không nên trộn lẫn đứng cùng với Tham Lang, bởi vì Tham Lang Hỏa Tinh tự thành "Hỏa Tham cách", nếu lại gặp Dương Đà, tắc cách cục có phần pha lẫn, làm cho hai cách cục đồng loạt biến sắc, nhạt nhòa. Cách cục lấy Hỏa làm sát, Hỏa khắc kim là tài là lộc, nên xưng là "Quyền sát hóa Lộc".
lực hình kỵ của Dương Đà : Kình Dương hóa khí là Hình, Đà La hóa khí là Kỵ.
134. "Mệnh vô chính diệu" ít hợp với người thời xưa

"Mệnh vô chính diệu" - tức cung Mệnh không có chính diệu tọa thủ.
Cổ ca rằng:
"Mệnh cung tinh diệu trị không vong
Ấu tuế trọng trọng hữu họa ương
Bất thị quá phòng tu ký dưỡng
Tha hương hảo khứ tác Đông sàng"
"Cung Mệnh tinh diệu gặp Không vong, tuổi ấu thơ có bệnh tật, tai ương trùng trùng, nếu không cho đi làm con thừa tự nhờ nuôi dưỡng, thì cũng bỏ đến nơi xứ lạ lại làm nên như trong câu chuyện chàng rể Vương Hy Chi đời nhà Tấn"
Về cách cục này, bản khắc (thường trên gỗ) ở Phúc Kiến thời Minh viết: "tức mệnh cung vô chính tinh phù tinh túng tinh thị dã" (tức chính là cung Mệnh không có chánh tinh, phù tinh, túng tinh) nhưng đã có nguyên văn một lời phê trong một bản sao: "vô nam bắc nhị đẩu chánh tinh dã" (Chính là không có hai (loại) chính tinh nam bắc đẩu), lời phê này không thấy nhắc tới "Phù tinh" cùng "Túng tinh".
Cái gọi là "Phù tinh"? là chỉ Hỏa Tinh Linh Tinh, về phần tên gọi "Túng tinh" là gì, Vương Đình Chi cũng không biết, nhưng hoài nghi xuất bản sai, có thể chỉ tinh diệu từ "Tòng tinh".

Cổ nhân luận mệnh, có thuyết pháp "Mệnh vô chính diệu, nhị tính diên sinh" (mệnh VCD có hai tên họ thì thêm tuổi thọ - ý nói làm con nuôi họ khác). Nhưng thuyết pháp này có hạn chế rất lớn, bởi vì phàm khi cung Mệnh vô chính diệu thông thường mượn tinh diệu đối cung để suy đoán, xung đối cung Mệnh tức cung Thiên di, sở dĩ như vậy nên loại mệnh cục này lợi vào "Thiên di", tức cũng là đi xa lập nghiệp ở nơi khác quê hương mình.
Người thời xưa, thường mong có thể an thân lập mệnh ở quê hương, quyết không dễ dàng nói lìa xa là lìa được, cho nên phàm thị những người bỏ tỉnh ly hương đa số là tòng theo cái khí thế của song thân (cha mẹ), ở quê hương tưởng rằng chẳng có cách gì mà sống được, chính vì vậy mà "mệnh vô chính diệu" đã bị cổ nhân cho rằng tuổi nhỏ bất hạnh, đến nổi phải "quá phòng ký dưỡng" (cho làm con thừa tự - con nuôi họ khác), hoặc là phiêu bạt đến nơi khác mà thành mệnh "nhập chuế" (ở rể) (**), nhất là xã hội nông nghiệp thời xưa, có tập tục "chiêu chuế" (kén trai ở rể) đến làm công việc nhà nông, cổ nhân cho rằng vậy là đương nhiên. Ngày nay, vào suy đoán Đẩu số vẫn ứng khi mượn sao ở cung Thiên di làm căn cứ suy đoán.
Chú thích và tản mạn:
Đông sàng: tích truyện "rể Đông sàng, dâu Nam gián" được sử dụng trong câu ca quyết này.
_________________
"rể Đông sàng" bắt nguồn ở tích "Đông sàng thản phúc", nghĩa là nằm thẳng bụng trên giường phía Đông.
Đời nhà Tấn (265-419) có quan Thái Úy tên Khước Giám muốn chọn một người rể hiền, mới cho người đến trường của Vương Đạo xem trong đám học sinh, có người nào xứng đáng không. Lúc người nhà trở về, Khước Giám hỏi thì người ấy đáp:
- Học sinh giỏi thì đông, người nào nghe việc kén rể cũng sửa soạn áo quần bảnh bao, ganh đua nhau, ra dáng nề nếp; chỉ có một người không để ý đến, trật áo, tréo chân nằm ở giường phía Đông.
Khước Giám bảo:
- Người ấy mới thật đáng rể ta.
Đoạn chọn làm rể. Người đó là Vương Hi Chi, sau làm quan đến chức Hữu quân, có tài viết chữ đẹp hơn cả thiên hạ. "Đông sàng" là giường phía đông, chỉ người rể quý, "rể đông sàng".
Trong "Nhị độ mai" có câu:
"Có Tây Tử Đô, thiếu đông sàng nào" là do điển tích trên. Vương Hy Chi, tự Dật Thiếu. Vì làm quan đến chức Hữu quân nên thường gọi là Vương Hữu Quân. Tương truyền Vương tập viết chữ bên bờ ao, sau nước ao đen ngòm những mực. Lối chữ "Khải" của Vương được người đời cho là lối chữ đẹp nhất từ xưa đến nay.

Người đời thường khen bút thế của Vương "lướt như mây bay, mạnh như rắn lộn". Trong các bản bút thiếp của Vương để lại có bản "Lan Đình tập tự" viết ngày 3 tháng 3 năm Vĩnh Hòa thứ 9 đời nhà Tấn (337) được hậu thế quý trọng, cho làm mẫu mực để tập theo. Những bản "Lan Đình tập tự" có lưu hành nhưng có lẽ đó là những bản phỏng theo. Bản chính đã thất lạc từ sau đời nhà Đường (618-907).

Ngày nay, trong các lối chữ Hán có lối chữ "Lan Đình"; đó tức là lối chữ phỏng theo chữ viết của Vương Hy Chi trong "Lan đình tập tự".
Trong "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du, đoạn nói về Kiều bị Hoạn Thư cho ra tu ở Quán Âm các để chép kinh, Hoạn Thư khen chữ viết của Kiều, có câu:
Khen rằng: "Bút pháp đã tinh
So vào với thiếp Lan Đình nào thua!
Ý nói chữ viết tốt ngang với chữ của Vương Hy Chi.
_________________________
Còn vế "dâu Nam gián" thì bắt nguồn từ lời của một bài thơ, trong bài thơ "Thái tần" có câu:

Vu dĩ Thái Tần,
Nam gián chi tân
Vu bỉ Thái Tảo
Vu bỉ hàng lạo
Nghĩa là: "Đi hái rau Tần, bên bờ khe phía nam, đi hái rau Tảo, bên lạch nước kia". Theo cách chú giải truyền thống thì câu thơ trên ca ngợi người vợ hiền dâu thảo, chăm hái rau Tần, rau Tảo về làm cỗ cúng tổ tiên. Trong truyền thống văn hóa Trung Quốc, Tảo và Tần tượng trưng cho đức tính siêng năng, chịu khó, hay làm của người phụ nữ. Thành ngữ "buôn tảo bán tần" đã có trong Kinh Thi. Vì vậy, dâu Nam gián là con dâu chịu thương chịu khó.
Truyện Lục Vân Tiên cũng có câu:
"Xem đà đẹp đẽ hòa hai:
Này dâu Nam gián, nọ trai Đông sàng".
(Sưu tầm và tổng hợp)
(**) "nhập chuế" : Ngày xưa gọi các con trai đi gửi rể là "chuế tế" nay thường nói con trai làm lễ thành hôn ở nhà vợ là nhập chuế, vào gửi hay ở rể.
54. Nghi vấn về hai "quý cục"

Đẩu số dùng sao trên trời định ra hai "Quý cục" đó là cách cục "Nguyệt lãng thiên môn" và "Nhật chiếu lôi môn".
- "Nguyệt lãng thiên môn" là Thái Âm thủ mệnh vào cung hợi, cổ nhân nhận định loại mệnh cục này có thể phong hầu tiến tước, kỳ thực chiếu theo cái nhìn ở xã hội hiện đại thì chỉ thuộc loại có thanh danh, là nhân sĩ nổi tiếng trong xã hội mà thôi. Hơn nữa, "Nguyệt lãng thiên môn" còn cần có điều kiện, chiếu theo kinh nghiệm Vương Đình Chi chỉ có người sinh tháng tám và tháng mười hai là gồm đủ điều tốt, bởi vì hai tháng này có Tả Phụ Hữu Bật hội hợp cung Mệnh. Ví như ko có một trong hai sao phụ trợ này, cách cục ngược lại như chổ hư không, là nổi danh mà vô lợi, hơn nữa cảm thấy tịch mịch cô đơn. Cái tịch mịch cô đơn, không phải nói bản thân ko có bạn bè trai gái, trái ngược có khi bạn bè trai gái nhiều lắm, điều tệ hại chính là ở chỗ này, "trái tim cô đơn lạnh lẽo" gặp gỡ quá nhiều người khác giới sẽ rất dễ dàng ảnh hưởng sự nghiệp, lúc này mệnh cục "Nguyệt lãng thiên môn" chẳng phải chủ quý, chỉ có thể là mệnh một vị "công tử" mà thôi.

- "Nhật chiếu lôi môn", Thái Dương thủ mệnh ở cung mão, chiếu theo xã hội hiện đại mà nói, hẳn là một mệnh của một chính khách hoặc nhà đầu tư. Rất nên sinh vào giờ mão, mùi và hợi bởi vì phải sanh vào ba canh giờ này mới có thể đắc Văn Xương, Văn Khúc, nhưng sanh vào năm Ất có Lộc Tồn cùng Thái Dương đồng cung, thì mới là một chính khách có đầu óc, có chánh kiến và chủ trương thực tế, tạo phúc cho xã hội. Nếu điều kiện như trên không đủ, mặc dù có hào quang vạn trượng, chỉ bất quá là một nhân vật đứng đầu hơn nhiều người trong xã hội thôi.
So sánh hai cách cục, "Nhật chiếu lôi môn" tốt hơn khi so với "Nguyệt lãng thiên môn", bởi vì "Nhật chiếu lôi môn" là người chánh trực lại nhiệt tâm cho dù phải đứng đầu sóng ngọn gió, cuối cùng đối với xã hội vẫn sẽ có lợi; không giống như người có cách "Nguyệt lãng thiên môn", khi sự việc suy kém rồi lại có thể xông pha ở một phương diện có tính chất khác nhau, không chuyên, đối với xã hội có cống hiến duy nhất chỉ là cung cấp tin tức thời sự bên lề trong lúc nhàn rỗi uống trà hay sau bữa ăn.
Xã hội thời xưa rất khó rạng danh, một khi rạng danh, bản thân tất quý, vì thế hai cách cục này được xác định là "quý cách", không biết rằng xã hội ngày nay, đường rạng danh có nhiều phương hướng, không nhất định phải quý rồi sau đó mới có thể rạng danh. Cho nên ngày nay xem hai mệnh cục này, cần phải thay đổi cho thông suốt, hợp thời, nhất thiết không thể y như cổ thư mà nhận định như vậy được.

(KHÔNG POST LÁ SỐ Ở TOPIC NHÉ)
Được cảm ơn bởi: Ngàn Phố
Đầu trang

Nhat_Nguyet
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 131
Tham gia: 21:37, 21/03/12

TL: TỬ VI LUẬN ĐẨU SỐ

Gửi bài gửi bởi Nhat_Nguyet »

Bài viết bổ ích cho người muốn học tử vi :) nhưng không biết mục đích của spacy là gì? Không thấy nói gì. Nếu trao đổi học thuật thì hình như nhầm mục rồi thì phải!
Đầu trang

hungmanhksxd
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 3976
Tham gia: 18:05, 15/05/11
Đến từ: Xách xô vác xi

TL: TỬ VI LUẬN ĐẨU SỐ

Gửi bài gửi bởi hungmanhksxd »

Cái này phải post vào mục trao đổi chứ.Với toàn là copy paste
Đầu trang

can_spacy_77
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1626
Tham gia: 14:59, 19/12/11
Đến từ: Sài Gòn

TL: TỬ VI LUẬN ĐẨU SỐ

Gửi bài gửi bởi can_spacy_77 »

không lập topic ở mục trao đổi được.
mấy cái này là của trung quốc cả. không có việt nam đâu. kiến thưc là thế. có gì mà phải trao đổi. ai chuyển dùm qua mục chuyên đề tử vi nhé. để post tiếp.
hàng toàn là trung châu phái không.
Đầu trang

can_spacy_77
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1626
Tham gia: 14:59, 19/12/11
Đến từ: Sài Gòn

TL: TỬ VI LUẬN ĐẨU SỐ

Gửi bài gửi bởi can_spacy_77 »

TRUNG CHÂU PHÁI TỬ VI ĐẨU SỐ ĐẠO TẠO SÂU GIÁO TRÌNH QUYỂN HẠ


Mệnh cung
1 Tử Vi
Tại Tí Ngọ cung độc tọa Tử Vi, nếu là [ trăm tướng triều củng ] tốt nếu được kiến Hóa Lộc, Hóa Quyền hoặc Hóa Khoa đại nạn, năm xưa. Nếu nguyên cục Tử Vi Hóa Quyền hoặc Hóa Khoa mà vô [ trăm tướng triều củng ], thì lại tốt nếu kiến xương khúc, khôi việt, phụ bật chư diệu đồng lại vận hạn năm xưa.
· nếu nguyên là 『 cô quân không quyền 』 cách cục, kỳ niên hạn mặc dù kiến Lộc Quyền Khoa, kỳ cát diệc tiểu, sợ rằng cũng chỉ là một thời đắc ý. Nếu nguyên là [ cô quân vô đạo ] cách cục, kèm theo sát kỵ hội tụ đích niên hạn, mỗi khi hữu tai hoạ, hơn nữa tất đồ tự chiêu.
· phàm Tử Vi cũng tốt nếu được Thiên Phủ, Thiên Tướng cố thủ cung viên. Tí Ngọ cung độc tọa người càng tốt.
· Tí Ngọ cung độc tọa Tử Vi hỉ Lộc Tồn đồng cung. Duy [ cô quân không quyền ] thì đa ích kỷ nghi kị. Đi chí sát kỵ hình tịnh chiếu đích niên hạn, đa vưu oán thị phi, thả thường thường gây thành tụng thành sự.
· phàm Tử Vi đều không thích đi Thiên Cơ, Thiên Lương, Cự Môn triền độ cung viên, kiến Hóa Kỵ càng kém. Tí Ngọ nhị cung Tử Vi, kiến Thiên Cơ chủ phá bại; kiến Thiên Lương chủ tai ương, nhưng lại sợ bóng sợ gió; kiến Cự Môn chủ cảm tình làm phức tạp. Hữu cát hóa khả giải, kiến hình sát khắc ứng với.
·[ Tử Phá ] thủ mệnh, tối kỵ là 【 không cầm quyền 】 cách cục, đi tới Cơ Lương Cự Môn vận hạn, thường làm một sinh vận trình then chốt, nếu kiến sát kỵ hình chiếu, kỳ đã phát sinh chuyện đoan, mỗi khi khả dĩ ảnh hưởng suốt đời. Cũng không tuyên kiến Thái Dương Hóa Kỵ đích niên hạn, mỗi khi chiêu gây chuyện vưu oán.
·[ Tử Phá ] thủ mệnh, nguyên cục Vũ Khúc Hóa Kỵ, đại nạn đi tới [ Vũ Khúc Thất Sát ] đồng cung cung viên, canh đi Thái Dương Hóa Kỵ hoặc Cự Môn Hóa Kỵ năm xưa, nguyên nhân chính tài mà chiêu họa.
·[ Tử Phá ] không thích niên hạn kiến Thiên Phủ [ không khố ], [ lộ khố ], chủ rủi ro; nếu Thiên Phủ đắc lộc, thì cận nguyên nhân chính tài thất nghĩa.
·[ Tử Phá ] đi tới [ Thiên Đồng Thiên Lương ] cố thủ đích niên hạn, gặp Thiên Cơ Hóa Kỵ mang sát lai trùng, xử sự phải phúc hậu, bằng không xảo trá tính toán càng nhiều, phá bại càng lớn.
·[ Tử Phủ ] thủ mệnh, hay nhất kiến lộc. Kiến Lộc Tồn đồng cung, Liêm Trinh Hóa Lộc lai lại người, chủ cự phú. Với kiến Hóa Lộc, Lộc Tồn đích niên hạn là khắc ứng với. Nhất nhất như [ Tử Phủ ] tại Dần, giáp niên sinh ra, đi tới Đinh Mão chủ đắc tài hoặc đắc thế thân phát đạt kỳ ngộ tấn thân phát đạt kỳ ngộ.
. [ Tử Phủ ] hỉ đi Vũ Khúc độc thủ cung viên, kiến lưu lộc hoặc Tham Lang Hóa Lộc, Liêm Trinh Hóa Lộc người, chủ đắc tài. Nếu rất có phụ tá cát diệu, vô sát kỵ hình diệu lại chiếu, nguyên cục [ Tử Phủ ] hựu kết cấu may mắn người, tay không mà thành cự phú.
. [ Tử Phủ ] vô lộc, đi tới kiến lộc đích niên hạn cũng tốt.
. [ Tử Phủ ] hữu lộc, đi tới Thái Dương độc tọa Tị cung đích niên hạn, kiến cát phụ, chủ địa vị tăng cao. Thái Dương tại hợi cung người thứ chi.
. [ Tử Phủ ] thủ mệnh cung, nghịch hành người, với Thái Dương tọa thủ hoặc Vũ Khúc tọa thủ đại nạn, làm một sinh mệnh vận đầu mối then chốt; thuận hành người, với Tham Lang đại nạn ( Vũ Khúc tại đối cung ), hoặc Cự Môn đại nạn ( Thái Dương tại đối cung ) là đầu mối then chốt. Là cát là hung, ảnh hưởng suốt đời quá nhiều.
. [ Tử Tham ] tại mệnh cung, hỉ kiến Hỏa Linh, diệc hỉ kiến Tham Lang Hóa Lộc, chủ chợt mà hưng, hơn nữa kéo dài. Nếu Tham Lang Hóa Kỵ, thì suốt đời đa mệt nhọc, thả không như ý. Nếu canh sát trọng, thì thường thường công bại thùy uy.
. Nữ mệnh [ Tử Tham ], không tốt nếu được Thái Dương tại phu thê cung đích niên vận, chủ ngộ nhân không thục. Nam mệnh [ Tử Tham ], không thích phu thê cung mỗi ngày đồng ( hoặc Cự Môn ) đích niên vận, chủ rơi vào cảm tình lưới, khó có thể tự thoát.
. [ Tử Tham ] thủ mệnh kiến [ vũ việt Phá Quân J mà Vũ Khúc Hóa Kỵ người, đi đến tận đây đại nạn, canh kiến văn xương Hóa Kỵ hoặc Văn Khúc Hóa Kỵ năm xưa, chủ sinh phá bại.
. [ Tử Tham ] thủ mệnh tại mão cung, đi tới Thiên Lương tại Ngọ cung đại vận hoặc năm xưa, nếu Thiên Lương Hóa Lộc, thì tham tài háo sắc đều dịch khiến cho phiền phức, canh kiến sát diệu thì hữu hung họa, duy chung năng hóa giải.
. [ Tử Tham ] thủ mệnh người, với Thái Dương, Cự Môn gặp gỡ cung viên; hoặc 『 Thiên Cơ Thái Âm 』 đồng triền cung viên, làm một sinh mệnh vận đầu mối then chốt.
. [ Tử Tướng ] thủ mệnh, gặp [ Sát Phá Lang ] năm xưa, đều chủ biến động, cát hung thị tinh diệu tổ hợp tính chất mà định.
. [ Tử Tướng ] thủ mệnh, đi tới [ Tử Tướng ] là [ tật ách cung ] đại vận, phòng trái tim bệnh.
. 『 Tử Tướng 』 thủ mệnh, đi tới [ Tử Tướng ] là 『 phu thê cung 』 đại vận, phòng hôn nhân vỡ tan.
. 『 Tử Tướng 』 thủ mệnh, đi tới đại vận ngộ [ Vũ Khúc Thiên Phủ ], nếu Vũ Khúc Hóa Kỵ, hoặc Thiên Phủ [ không lộ ], thì nguyên nhân chính nhân sự nhiều lần mà thu nhận phá bại ( như thất nghiệp, ngừng kinh doanh, đóng cửa các loại ).
. 『 Tử Tướng 』 tại mệnh cung, canh đi 『 Tử Tướng 』 thủ mệnh năm xưa, giống nhau tình hình hạ không thích hợp cùng người hợp tác, dực niên tức hữu nhiều lần, hợp tác tuyệt không kéo dài.
. [ Tử Tướng ] thủ mệnh cung người, không thích Tham Lang Hóa Kỵ. Bất luận cái gì cung viên ngộ chi, đều sinh thử cung viên sở chủ khắc ứng với. Nhất nhất như đi tới 『 phụ mẫu cung 』 kiến Tham Lang Hóa Kỵ đại vận hoặc đại nạn, chủ thưởng thức chính thủ trưởng chủ quản bị thay đổi; đi tới [ phu thê cung ] kiến Tham Lang Hóa Kỵ năm xưa, chủ cảm tình phát sinh biến hóa.
. [ Tử Tướng ] thủ mệnh nhân, nghịch hành người với Tham Lang, [ Vũ Khúc Thiên Phủ ] đại nạn là số phận đầu mối then chốt,, thuận hành người, với Thất Sát, Liêm Trinh thủ hạn cung, là số phận đầu mối then chốt.
. [ Tử Sát ] thủ mệnh, tiền tài cung 【 Vũ Tham 】, nếu kiến Hỏa Linh, chủ hoành nổi giận phá, bạo phát bạo bại. Phát hậu phải giỏi về tự bảo vệ mình, sau đó mới khả trì doanh bảo thái.
. [ Tử Sát ] mà Tử Vi Hóa Quyền, thì suốt đời tài lực không đủ để tể chuyện lạ nghiệp.
. 【 Tử Sát 】 thủ mệnh, chủ trách nhiệm tâm trọng, quý niên sinh ra người, sự nghiệp cung [ Liêm Phá 】 mà Phá Quân Hóa Lộc, canh chủ đa phụ thêm vào trách nhiệm, mọi chuyện thân lực thân là.
. [ Tử Sát ] tại mệnh cung người, với 【 Thái Dương Cự Môn 】 là đầu mối then chốt. Thái Dương tại Dần cung giác Thân cung là tốt đẹp, nhưng nhưng thị tinh diệu cát hung mà định.
· nữ mệnh [ Tử Sát ], hôn nhân đa không như ý. Nếu mệnh cung, phu thê cung kiến sát, hựu bất thiện khắc chế, thì dịch nhiều lần thay đổi cảm tình.
·【 Tử Sát 】 thủ mệnh người, với Thiên Tướng, 『 Vũ Khúc Tham Lang 』 đại nạn là số phận đầu mối then chốt.
2 Thiên Cơ
. Tí Ngọ cung Thiên Cơ độc tọa, hay nhất Hóa Quyền. Thiên Cơ Hóa Quyền hựu trội hơn Cự Môn Hóa Quyền. Hóa Quyền thì ổn trọng, sở dĩ giác Hóa Lộc nhiều táo bạo không chắc người là tốt đẹp.
. Tí Ngọ cung Thiên Cơ, nếu đối cung Cự Môn Hóa Quyền, tại hiện đại khả năng cận là tài chính và kinh tế giới chi tiêu thụ nhân tài, không chủ bày ra quản lý. Thiên Cơ Hóa Quyền, thì thường là kẻ đứng sau màn trướng. Một hướng ngoại một hướng nội, tính chất bất đồng.
. Tí Ngọ cung Thiên Cơ, tráng nhiên sinh ra đa mệt nhọc, tật ách cung Thiên Tướng lại là Hình Kỵ kẹp giữa, dễ gặp nạn sỏi mật, sỏi thận.
. Tí Ngọ cung Thiên Cơ tối không thích hợp cùng Hỏa Linh đồng cung. Chủ còn nhỏ tức ly phụ mẫu, hoặc phụ mẫu cảnh ngộ có biến động, . Đến nỗi ảnh hưởng khi còn nhỏ phúc ấm.
. Tí Ngọ cung Thiên Cơ đi tới [ Vũ Khúc Thất Sát ] đồng cung cung viên, kiến Lộc Quyền Khoa thì cát, kiến Hóa Kỵ thì hung, đây là suốt đời số phận then chốt.
. Tí Ngọ cung Thiên Cơ đi tới Thiên Phủ cung, kiến phủ khố tràn đầy người thì cát, kiến phủ khố không lộ thì tất hung nguy.
. Sửu Mùi cung Thiên Cơ thủ mệnh, Thái Âm thủ thân cung người, chủ nhân ngày đêm hối hả, thường vu ca đêm công tác, hoặc tối muộn nhưng tu kế hoạch tự định giá. Không gặp sát, kinh thương khả thành phú cách.
. Sửu Mùi cung Thiên Cơ chủ thiện khẩu tài, nếu dương đà đồng cung, lại thấy Cự Môn Hóa Kỵ lai lại, thì khẩu tài hóa thành khẩu thiệt. Thích hợp làm với khẩu thiệt cầu tài chức nghiệp.
. Vị cung Thiên Cơ, phu thê cung Thái Dương tại Tị. Nếu hóa thành quyền lộc người, chủ cùng dị tộc thông hôn. Xấu cung người không phải.
. Sửu Mùi Thiên Cơ hay nhất Hóa Lộc, thì đối cung Thiên Lương Hóa Quyền, là kế hoạch, nghiên cứu nhân tài, hựu không thể kinh thương mệnh thị chi. Phúc đức cung Thái Âm song song Hóa Kỵ, thì là phí sức hao tâm tốn sức khắc ứng với, cũng không phải triệu chứng xấu.
. . Sửu Mùi Thiên Cơ cùng Không Kiếp đồng cung, một thân hữu đặc biệt tư tưởng; cùng Thiên Tài đồng cung, trí tuệ cực cao. Nhưng lưỡng chủng tình hình đều chủ không đổi thái độ làm người lý giải, sở dĩ phải [ huynh đệ cung ] cập 【 phụ mẫu cung 】 kiến cát tinh tường diệu,, sau đó mới có khả năng đứng thẳng, bằng không phản dịch chìm nổi.
. Sửu Mùi Thiên Cơ, với Thái Dương, Thái Âm kiện độ cung viên, là đại nạn đầu mối then chốt, với Thiên Đồng, Cự Môn kiện độ cung viên, là năm xưa đầu mối then chốt.
. Dần Thân cung 【 Thiên Cơ Thái Âm 】 đồng cung, là [ Cơ Nguyệt Đồng Lương ] vận chính cách. Thân cung Thiên Lương tại Tí, trội hơn Thiên Lương tại Ngọ cố vưu oán thị phi ít.
. Dần Thân 【 Cơ Nguyệt 】 tối không thích hợp Hóa Kỵ, chủ một thân đa quyền mưu. Tại Dần cung người, vưu chủ hỉ lộng quyền bính.
. Dần Thân [ Cơ Nguyệt ] ngộ Thiên Lương Hóa Lộc, đại nạn đi tới Cự Môn triền độ, hoặc Thiên Đồng triền độ cung viên, thường dịch gây tai hoạ phi, phải khiêm tốn hòa hậu, sau đó mới có khả năng bình an vượt qua.
. Dần Thân 【 Cơ Nguyệt 】, tu phúc đức cung Cự Môn ngộ cát tinh mới tốt đẹp, nếu Cự Môn cùng sát kỵ đồng cung, thì năm xưa đi tới [ Liêm Trinh Thất Sát ] sở triền cung, mỗi dịch chiêu phá bại.
. Mão Dậu cung [ Thiên Cơ Cự Môn ] đồng cung, phải kiến lộc mới cát. Tối không thích Hỏa Tinh linh tinh đồng triền, chủ khinh bạc, phá đãng.
. Mão Dậu [ Cơ Cự ], với [ Thái Dương Thái Âm ] triền độ cung viên, là năm xưa đầu mối then chốt. Tối không thích Thái Dương Hóa Kỵ, nếu hình sát trọng trọng, năm xưa kỵ tinh hựu vọt lên Thái Dương Hóa Kỵ người, nguyên nhân chính oán hận chất chứa mà chiêu trọng đại phong ba.
. Mão Dậu [ Cơ Cự ] đi tới Thái Âm Hóa Kỵ đại nạn, thường thường dịch sinh phá bại. Kỳ phá bại lại đi vãng nhân tự cho là thông minh mà đến.
. Mão Dậu [ Cơ Cự ] nam mệnh thẳng môn Hóa Lộc người, chủ lão phu phối thiếu gia thê; Thiên Cơ Hóa Lộc người, thì đa tái hôn. Nữ mệnh Cự Môn Hóa Lộc người, diệc với trường phối là nghi, Thiên Cơ Hóa Lộc kỳ, diệc đa hôn nhân thượng khuyết điểm.
. Mão Dậu [ Cơ Cự ], nữ mệnh mỗi ngày đồng cùng Lộc Tồn đồng cung người, đi tới Tham Lang vận, mỗi chủ bị người vứt bỏ, hôn nhân khúc chiết, cố không thích hợp tảo hôn. Dậu cung người mặc dù giác cát, duy diệc ngại đào hoa quá nặng. Thiên Đồng chủ cảm tình, cố hữu thử khắc ứng với.
. Mão Dậu [ Cơ Cự ] với [ Thái Âm Thái Dương ] đồng triền cung, cùng với Thất Sát thủ tễ cung, là đại nạn đầu mối then chốt, kỳ cát hung ảnh hưởng suốt đời quá nhiều. [ Sát Phá Lang ] cung hạn, thì là năm xưa đầu mối then chốt.
. Thìn Tuất nhị cung [ Thiên Cơ Thiên Lương ] đồng cung, chủ tài nghệ, hiện đại diệc khả đính định vì chuyên nghiệp nhân tài. Không thích hợp tòng chính tòng thương, bằng không phúc không kiên nhẫn cửu, vận may mỗi phù dung sớm nở tối tàn.
. Thìn Tuất cung 【 Cơ Lương 】, là 【 Cơ Nguyệt Đồng Lương 】 thiên cách, phải với khẩu thiệt cầu tài mới có khả năng triển sở khảm. Cố tại hiện đại, thường thường lại là mang tính kỹ thuật chất đẩy mạnh tiêu thụ nhân tài.
. Thìn Tuất 『 Cơ Lương 』 lúc rảnh rỗi diệu cập sát diệu đồng triền, cổ nhân đính định vì tăng nói chi mệnh, hiện đại cũng thầy tu. Nữ mệnh nhiều lẻ loi.
. Thìn cung 【 Cơ Lương 】, mà Thiên Cơ Hóa Kỵ người, phải lý do lưỡi với cầu tài. Không Hóa Kỵ người, chủ cùng dị tộc thông hôn.
. Thìn Tuất [ Cơ Lương ], với 【 Vũ Tham 】 sở nhảy lên cung là đại nạn đầu mối then chốt; với [ Tử Sát ], 『 Liêm Phá 』, [ Vũ Tham ] tam cung viên là năm xưa đầu mối then chốt.
. Tị Hợi cung Thiên Cơ, cùng Hỏa Linh đồng cung, là xa xứ mệnh; hoặc chủ tự ra; hoặc niên thiếu bất lợi phụ tinh.
. Tị Hợi Thiên Cơ đi tới Thất Sát tọa thủ đại nạn, nếu sát kỵ hình tịnh chiếu người, chủ hữu nghiêm trọng mục tật.
. Tị Hợi cung Thiên Cơ, suốt đời đa cảm tình làm phức tạp. Nếu 『 phu thê cung ] Thái Dương Hóa Lộc, hoặc 【 thiên di cung 】 Thái Âm Hóa Lộc người, thì tình dục rất nặng, canh kiến sát diệu, đào hoa chư diệu, thì dịch dâm lạm.
. Tị Hợi phu cơ, nữ mệnh không thích hợp Hóa Kỵ hoặc hữu kỵ tinh lại chiếu, canh kiến sát, hình phạt chính khắc sinh ly, hoặc nhà kề thị thiếp.
. Tị Hợi Thiên Cơ kiến phụ tá cát diệu, thì năng phú quý, với công chúng phục vụ sự nghiệp là nghi, đặc biệt nghi thông nhau, thông tin hành nghiệp.
. Tị Hợi Thiên Cơ với [ Thiên Đồng Cự Môn ], 『 Liêm Trinh Thiên Phủ 』 lưỡng cung viên là năm xưa đầu mối then chốt. Với 『 Sát Phá Lang 』 là đại nạn đầu mối then chốt.
3 Thái Dương
. Phàm Thái Dương tại mệnh cung miếu hãm, cập là sinh ban ngày hoặc sinh ban đêm. Nhập miếu lại là sinh ban ngày thì tối cát, sinh ban đêm thứ chi; lạc hãm lại là sinh ban đêm tối hung, sinh ban ngày đỡ xấu hơn một chút.
. Thái Dương tại mệnh cung người, tu lưu ý Cự Môn tại cung nào, cập hữu sát hoặc vô sát. Nếu Cự Môn mang sát, thì Thái Dương tại miếu vượng nơi thượng khả ( sinh ban ngày càng lợi ), bất quá mưu lực hóa phí mà thôi. Nếu lạc hãm địa ( sinh ban đêm càng kém ), thì tất là Cự Môn sở ám, ứng với tường Cự Môn tại cung nào mà nói cát hung. Tỷ như Thái Dương tại Tí lạc hãm, Cự Môn tại Thìn, Đà La đồng cung là [ sự nghiệp cung ], thì nhật sinh nhập chính và phụ sự làm ơn lực, lao khẩu thiệt hành trình nghiệp, sinh ban đêm thì chủ suốt đời cố sức mà không lấy lòng, thả dịch là sự nghiệp mà lo lắng.
Thái Dương tại mệnh cung người, hựu tu lưu ý Thiên Lương tại cung nào. Cự Môn ám, Thiên Lương cô. Phàm Thái Dương nhập mệnh dĩ bất lợi nam thân, nếu Thiên Lương canh cùng Cô Thần, Quả Tú, Thiên Hình cập sát diệu đồng cung ( càng kỵ Hỏa Linh ), thì hình phạt chính khắc, tuy nhiên dựa vào Thiên Lương chỗ cung mà suy đoán chi tiết. Như Thái Dương tại Tí lạc hãm, Thiên Lương cùng kình dương đồng cung tại Ngọ cung, là [ thiên di cung ], - thì nói rằng sinh ra cận chủ xa xứ cùng phụ sinh ly, sinh ban đêm thì hoặc chủ do sinh ly biến thành tử biệt. Hựu như [ Thái Dương Thái Âm ] tại xấu, Thiên Lương tại Tị là [ sự nghiệp cung ], như kiến sát diệu Không Kiếp, sinh ban ngày cận chủ không kế phụ nghiệp, cập phát triển việc của mình nghiệp thì vô tôn thân lực chi trì, sinh ban đêm thì chủ tổ nghiệp phá bại sau đó tự lập. Cử thử lưỡng lệ, dư lệ cũng biết.
. Thái Dương lạc hãm Hóa Kỵ, canh cùng Hỏa Linh đồng cung, sinh ban đêm đa chủ niên thiếu khắc phụ, lúc tuổi già tang tử. Nếu sinh ban ngày, nam tính lục thân cũng không lợi. Nhưng lại thêm kiến Thiên Hình, thì vô luận người sinh ngày hay đêm quân chủ quan phi dính vào kiện tụng.
. Thái Dương tại Tí Ngọ nhị viên, nếu Hóa Lộc, niên thiếu bất lợi, trung niên tức khả phát việt; nếu Hóa Kỵ, thì niên thiếu tự lập hậu, trung niên nhưng phòng phá bại rung chuyển.
. Thái Dương tại Tí Ngọ nhị viên, với [ Thiên Cơ Thái Âm ] cập Thiên Đồng, Cự Môn chỗ chi cung viên, là đại vận chi đầu mối then chốt; với Cự Môn, Thiên Lương,, Thiên Đồng nhị Thiên Tướng chỗ cung viên, là năm xưa chi đầu mối then chốt. Có lúc diệc tu với [ Thiên Cơ Thái Âm ] chi đối cung là năm xưa đầu mối then chốt ( thử cung tất vô chính diệu, nhất mượn [ Cơ Nguyệt ] an tinh ).
. Thái Dương tại Sửu Mùi nhị viên, phải kiến phụ tá cát diệu đàn tập, sau đó mới tốt đẹp; không gặp phụ tá, mặc dù vô sát cũng không ngoại thường thường, thảng kiến sát mà vô cát, thì rung chuyển vô căn, hoặc không tuân thủ nhất nghiệp. Nếu cát hung hội tụ, cũng không là mỹ, chủ nhân dịch khởi dịch điệt, hơn nữa vu năm xưa đại vận không tốt thì, dịch sinh tiêu cực chi tâm.
. Thái Dương tại Sửu Mùi nhị viên, với [ Tử Vi Thiên Tướng ] Phá Quân, [ Thiên Cơ Cự Môn ] là năm xưa đại vận chi đầu mối then chốt. Như nguyên vô lộc người, hỉ đi Hóa Lộc vận hạn. Nếu Thái Dương Hóa Lộc, đi thánh Thái Âm Hóa Lộc vận hạn" nhất tốt đẹp.
. Thái Dương tại Dần Thân nhị cung, với làm phục vụ nghiệp là tối nghi, cận vu phụ tá cát diệu tụ tập đầy đủ, thả kiến 『 trăm tướng triều củng 』 đích tình hình hạ, mới chủ khả tự hành độc lập phát triển, duy chuyện lạ nghiệp nhưng tu mang phục vụ màu sắc.
. Phàm Thái Dương tại Dần Thân nhị cung, đa chủ bất lợi hôn nhân, với trì hôn là tốt đẹp.
. Thái Dương tại Dần Thân cung thủ mệnh, dịch đắc bệnh tiểu đường, cổ nhân vị chi bệnh tiêu khát, sở chủ người là [ thượng tiêu ], tức đa thực không ăn no, thả hỉ phì nị. Đặc biệt tại Dần cung là nhiên.
. Thái Dương tại Dần Thân cung, Cự Môn Hóa Kỵ, thượng khả làm khẩu thiệt với cầu tài hành nghiệp, nếu Thái Dương Hóa Kỵ, tại Thân cung người vưu chủ suốt đời bị người liên lụy. Tại Dần cung người, nữ mệnh chủ phối phu không thục.
. Thái Dương Dần Thân cung thủ mệnh, với [ Tử Vi Thất Sát ], Thiên Tướng, [ Thiên Đồng Thái Âm ] các cung viên là đầu mối then chốt. Càng tốt mỗi ngày đồng hóa lộc, Thái Âm Hóa Quyền, Tử Vi Hóa Khoa.
Thái Dương tại Mão Dậu nhị cung, với cấu thành [ Nhật Lương xương lộc ] cách cục người là tốt đẹp. Tại mão cung thanh danh giác hiển, tại Dậu cung người, thì cận đắc thanh danh vu nhất định trong phạm vi, mà không là công chúng biết.
. [ Thái Dương Thiên Lương ] tại Sửu cung người am hiểu suy xét, tại Dậu cung người thì am hiểu ký ức.
. [ Thái Dương Thiên Lương ] mặc dù kiến cát tinh, diệc chủ rời xa nơi chôn rau cắt rốn thành gia, duy tất có phụ mẫu che chở lực.
. Dậu cung [ Nhật Lương ], thảng hựu hệ sinh ban đêm, chủ bất lợi hôn nhân; sinh ban ngày mối tình đầu đa thất bại.
. Mão cung [ Nhật Lương ] ất Thái Âm chỗ cung viên, là việc chính tể số phận đầu mối then chốt; Dậu cung người, với Thiên Cơ chỗ cung viên làm trọng yếu đầu mối then chốt.
. Thái Dương tại Thìn, Thái Âm tại tuất, là [ nhật nguyệt toàn bộ bích ] nhất nhất nếu kiến phụ tá cát diệu cập cát hóa, chủ nhân phú quý; phản chi, nếu Thái Dương tại tuất, Thái Âm tại Thìn, thì là 『 nhật nguyệt thất huy 』, chủ tuẫn biến thiên rung chuyển.
. Thái Dương tại mệnh cung, Thái Âm thủ thân cung vu Thìn Tuất, chủ rời xa nơi chôn rau cắt rốn.
. Thái Dương tại Thìn Tuất Hóa Khoa, đối cung Thái Âm Hóa Quyền, nghi là tài phú chi quan, diệc nghi vu đại cơ cấu chưởng quyền sở hữu tài sản.
. Thìn Tuất nhị cung Thái Dương, ất Thái Âm, Thiên Cơ, [ Đồng Lương ] cung viên, là đại nạn năm xưa chi đầu mối then chốt.
. Tị Hợi nhị cung Thái Dương độc tọa, Tị cung người hơn xa hợi cung. Tị cung nên dị tộc trợ lực, hợi cung cận chủ khẩu thiệt làm phức tạp.
. Hợi cung Thái Dương thủ mệnh, nếu 『 phúc đức cung 』 Thiên Cơ cát người thượng khả bổ cứu, nếu Thiên Cơ Hóa Kỵ, có thể ác sát Hình Kỵ, thì tâm chí sáp nhược, thả suốt đời đa công thành thùy bại, hựu chiêu thị phi vưu oán. Phải với nghị lực tác hậu thiên bổ cứu.
. Tị cung Thái Dương thủ mệnh, nếu xương khúc lại vu [ phu thê cung ] người, chủ đắc mỹ thê, thả đắc nhạc gia lực.
. Hợi cung Thái Dương dễ gặp nạn thần kinh suy nhược, tim đập mạnh và loạn nhịp. ,
· Tị Hợi cung Thái Dương kiến sát, đều chủ mục tật.
. Tị cung Thái Dương ất Thái Âm, [ Liêm Trinh Thiên Tướng ], Thất Sát là số phận đầu mối then chốt.
. Hợi cung Thái Dương, với 【 Tử Vi Thiên Phủ 】, Tham Lang, Thiên Lương chờ phú viên là vận hạn năm xưa đầu mối then chốt.
4 Vũ Khúc
. Vũ Khúc là tài tinh. Sự khác biệt nhỏ chi, lại là phát tài hành động, cùng Thái Âm chi mà sống tài kế hoạch bất đồng. Cố cổ nhân ất Thái Âm chúc văn, Vũ Khúc chúc vũ.
· cổ bí quyết: Thìn niên sinh ra, mệnh cung Vũ Khúc tại Thìn; tuất niên sinh nhập, mệnh cung Vũ Khúc tại tuất; xấu niên sinh ra, mệnh cung [ Vũ Khúc Tham Lang ] tại xấu; vị niên sinh ra, mệnh cung [ Vũ Khúc Tham Lang ] tại vị, chủ nhân đắc lập chiến công! Diệc với quân công lập nghiệp.
· Vũ Khúc là 【 Quả Tú 】, cố không thích hợp nữ mệnh. Dù có hôn nhân, diệc bà chủ đoạt phu quyền. Tại hiện đại, thường thường là sự nghiệp vượt lên trên trượng phu dấu hiệu, thả chủ trì hôn.
[ Vũ Khúc Thiên Phủ ] tại Tí Ngọ cung, với Ngọ cung giác tốt đẹp. Cổ bí quyết mặc dù vân [ Vũ Khúc Thiên Phủ đồng cung chủ hữu thọ ], duy tại Tí cung thủ mệnh nếu vô an người, ngại [ phụ mẫu cung ] Thái Dương lạc hãm, khủng niên thiếu chủ cô, hoặc khó có được phụ mẫu che chở, cố không bằng Ngọ cung.
『 Vũ Khúc Thiên Phủ 』 kỳ khí tối hòa, cố cổ đại cho rằng tối nghi nữ mệnh. Hiện đại vô luận nam nữ, 【 Vũ Phủ 】 đắc lộc, canh mỗi ngày khôi thiên việt, định chủ vu tài chính và kinh tế giới đắc ý. Nếu vô khôi việt, nhưng thấy phụ bật cũng tốt. Kiến xương khúc, cận chủ thông minh, không chủ đắc ý.
·[ Vũ Khúc Thiên Phủ ] với Thiên Đồng, [ Thái Âm Thái Dương ] nhị viên thái độ làm người sinh đầu mối then chốt. Thử nhị cung viên hỉ kiến cát tinh cát hóa, thì niên thiếu hưởng thụ, trung lúc tuổi già phúc trạch diệc hậu. Nếu kiến sát kỵ hình diệu, thì niên thiếu không cát, trung lúc tuổi già diệc thụ ảnh hưởng.
·[ Vũ Khúc Thiên Phủ ] với Tham Lang, [ Tử Vi Thiên Tướng ], Thất Sát, Phá Quân các viên là năm xưa chi đầu mối then chốt.
· Sửu Mùi nhị viên [ Vũ Khúc Tham Lang ] thủ mệnh, Hỏa Tinh hoặc linh tinh đồng cung tối cát. Tại [ tiền tài ], [ điền trạch ] nhị cung cũng tốt. Cổ bí quyết: [ Vũ Khúc Tham Lang tài trạch vị, hoành phát của cải ], tức chỉ thử mà nói. Vô sát người cát, hữu sát, thì chủ hoành nổi giận phá.
. 『 Vũ Khúc Tham Lang ] cùng Hỏa Linh đồng cung, kiến lộc chủ phú; kiến khôi việt, phụ bật chủ quý, hoặc kỳ phú diệc do quý mà đến.
·[ Vũ Tham ] Hóa Kỵ ( Vũ Khúc Hóa Kỵ vưu thậm ), kiến Hỏa Linh, tác kiến sát luận. Nhiên diệc chủ thông minh, hữu đặc thù tài nghệ khả dĩ mưu sinh. Hiện đại diệc khả làm công trình công nghệ.
·[ Vũ Khúc Tham Lang ] với [ Thái Dương Cự Môn ], [ Thiên Đồng Thái Âm ] thái độ làm người sinh đầu mối then chốt. Niên thiếu vận trình chi ưu khuyết, khả dĩ ảnh hưởng suốt đời.
·『 Vũ Khúc Tham Lang ] với Thiên Phủ, [ Liêm Trinh Phá Quân ], [ Thiên Cơ Thiên Lương ] là năm xưa chi đầu mối then chốt.
·[ Vũ Khúc Tham Lang ] trong người cung người, thua tại mệnh cung. Nếu kiến sát kỵ hình diệu, chủ suốt đời đa hung hiểm. Nếu cùng Hỏa Linh đồng cung, diệc chủ hoành phát lập tức hoành phá.
. [ Vũ Khúc Thiên Tướng ] tại Dần Thân nhị cung thủ mệnh, đa chủ thái độ làm người phục vụ, là phó quan tài, không thích hợp độc ngay mặt.
. [ Vũ Khúc Thiên Tướng ] cùng xương khúc đồng lại, chủ thông minh Sửu nghệ. Cổ bí quyết: [ Vũ Khúc Thiên Tướng xương khúc gặp, thông minh Sửu nghệ định vô cung ], tức chỉ thử mà nói. Hiện đại cũng công nghệ công trình hiện ra.
·[ Vũ Khúc Thiên Tướng ] cùng Văn Khúc đồng cung, canh kiến đào hoa chư diệu ( thiên diêu vưu thậm ), chủ thái độ làm người lỗ mảng, bất an nghề nghiệp. Phải gia dĩ hậu thiên khắc chế, mới có khả năng bằng nghị lực sáng lập sự nghiệp.
. [ Vũ Khúc Thiên Tướng ] tọa mệnh Dần cung, Tham Lang tại Tí cung thủ thân, nếu thân cung hữu sát kỵ đồng lại, thì gặp Tí niên hữu bảo hiểm đường thuỷ, với lưu sát lưu kỵ trùng lại chi niên là khắc ứng với.
. [ Vũ Khúc Thiên Tướng ] thủ mệnh, nếu [ tiền tài cung ] chi [ Liêm Trinh Thiên Phủ ] kiến Liêm Trinh Hóa Kỵ, nghi tòng hung sự với cầu tài. Tại hiện đại, ẩm thực, y dược, ngoại khoa, xét nghiệm chờ đều chúc 【 hung sự 】. Tại cổ đại thì chủ đồ tể, yêm kê các loại. Đều nếu không ly phục vụ vu nhân tính chất.
. [ Vũ Khúc Thiên Tướng ] hay nhất [ thiên di cung ] Phá Quân Hóa Lộc, thì mặc dù cư phó quan vị, diệc sinh động, thả suốt đời đa phụ sở nan năng trọng trách.
. [ Vũ Khúc Thiên Tướng ] cùng Văn Khúc đồng cung, đối cung thiên mã mà vô Hóa Lộc, Lộc Tồn; tinh diệu cát sát hỗn tạp, cổ đại cho rằng nãi đào kép chi mệnh.
. [ Vũ Khúc Thiên Tướng ] với [ Thái Dương Thiên Lương ], Thiên Cơ, Thái Âm là đại vận đầu mối then chốt; với Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Tử Vi chỗ cung viên là năm xưa đầu mối then chốt.
. Mão cung 【 Vũ Khúc Thất Sát 】 thủ mệnh, . Kiến sát kỵ thì chủ ý ngoại. Cổ bí quyết vân: [ ác sát hao tù lại vu chấn cung, chủ mộc lịch lôi kinh ]. Dậu cung người, thì là tranh tài động võ hiện ra. Cổ bí quyết vân: [ Vũ Khúc kiếp sát lại kình dương, nhân tài trì đao. ]
. Cổ bí quyết: 【 Vũ Khúc dương đà kiêm hỏa túc, chết nhân tài 】, diệc chỉ Mão Dậu cung [ Vũ Sát ] mà nói. Nói chung, [ Vũ Khúc Thất Sát ] đồng cung, là mang tính nguy hiểm tinh diệu tổ hợp. [ Vũ Sát ] bản cung không gặp sát kỵ thì vô phương, nếu tại bản ngoài cung kiến sát kỵ, phản nghi quan võ, khả lập công huân.
. [ Vũ Khúc Thất Sát ] với 『 Thiên Đồng Thiên Lương 』, Thái Dương, Thái Âm chỗ cung viên, là đại vận đầu mối then chốt; với [ Liêm Trinh Tham Lang ], [ Tử Vi Phá Quân ] cập bản cung [ Vũ Sát ] là năm xưa đầu mối then chốt.
. Thìn Tuất nhị cung Vũ Khúc độc tọa, kiến cát diệc chủ quyền sở hữu tài sản; kiến sát, thì là tiểu thương, tuyệt không nghi làm quan võ.
. Thìn Tuất Vũ Khúc tất cùng Tham Lang tương đối, kỳ tính chất cùng Sửu Mùi cung [ Vũ Tham ] đồng ý. Đại vận năm xưa chi đầu mối then chốt diệc đồng.
. Thìn Tuất Vũ Khúc thủ mệnh, [ thiên di cung ] Tham Lang cùng Hỏa Linh đồng cung, không chủ ly hương, bối tỉnh. , cận chủ đột phát. Nếu mệnh cung hữu Hỏa Linh, phản chủ rời xa nơi chôn rau cắt rốn với lập nghiệp.
. Tị Hợi 【 Vũ Khúc Phá Quân 】 cùng Hỏa Linh đồng cung, chủ phá tổ thành gia. Kiến cát hóa cát diệu, thì suốt đời đa gánh trách nhiệm nặng nề, hoặc bình thường gánh vác thêm vào công tác.
. [ Vũ Khúc Phá Quân ] tại mệnh thân, đa hỉ cùng người hợp tác, cố nghi tường thị 【 huynh đệ cung 】 chi cát hung.
. Hợi cung 【 vũ phá 】 đa thị phi rung chuyển. Cái [ phụ mẫu cung ] Thái Dương tại Tí lạc hãm, suốt đời che chở lực bất túc, không là thủ trưởng thành thật với nhau. Duy người sinh năm Nhâm, mặc dù Vũ Khúc Hóa Kỵ, nhưng Thái Dương đắc Thiên Lương Hóa Lộc lai củng, mới chủ biết dùng người đề bạt thưởng thức. Cố 【 vũ phá 】 Hóa Kỵ, thị là [ phản bối ] phản chủ cát tường.
. 【 Vũ Khúc Phá Quân 】 với Thái Dương, [ Thiên Cơ Thái Âm ], Thiên Đồng là đại vận đầu mối then chốt; với Thái Dương, Thiên Lương, 【 Tử Vi Tham Lang 】, [ Thiên Cơ Thái Âm ] là năm xưa chi đầu mối then chốt.
5 Thiên Đồng
Một ngày đêm đồng nhập thập nhị cung đều có khuyết điểm, cổ nhân vân, nhập thập nhị cung đều là phúc trạch, nãi chỉ kỳ chung năng khắc phục khuyết điểm mà nói. Như tại mệnh cung, chủ nhân tay không hưng gia, tức tu lưu ý kỳ phụ mẫu hữu vô phá bại, hoặc niên thiếu vận trình hữu vô phá bại.
. Thiên Đồng chủ tâm tình, sở dĩ đương phụ tá chư diệu tụ tập là lúc, trái lại vị tất thị cát, bởi vì khả dĩ sản sinh ỷ lại tính, khiến người sinh dễ nhân chút thành tựu tựu tức khu vu yên vui.
. Thiên Đồng là thuần túy tinh thần hình tinh diệu, hỉ thụ kích phát, sau đó mới hữu hăng hái chi tâm, sở dĩ kiến sát diệu cập Hóa Kỵ, có lúc trái lại chủ lịch gian nguy sau đó lấy được cát.
. Thiên Đồng kiến hình trọng trọng, chủ tinh thần làm phức tạp. Nếu tái kiến Thiên Hình, thiên hư, đại hao, âm sát chờ tạp diệu, mà Thiên Đồng bản thân hựu hóa thành kỵ tinh người, phòng tinh thần tật bệnh, cập tâm lý bất bình hành khiến cho chi bệnh hoạn. Tái kiến cát người, diệc chủ chịu đủ tinh thần áp lực.
. Bởi Thiên Đồng hỉ thụ kích phát, trừ phi nguyên cục sát kỵ hình hao trọng trọng, bằng không giống nhau hỉ đi Thất Sát tọa thủ cung hạn. Thử cung hạn sảo kiến cát diệu, thả vu [ tam phương tứ chính ] đắc lộc, nhất tức là hăng hái chi vận trình. Vô luận đại nạn năm xưa quân như thế quảng cức tu chú ý.
. Tí Ngọ cung, [ Thiên Đồng Thái Âm ] đồng cung, với Tí cung là cát, nhân Ngọ cung Thái Âm lạc hãm, canh ảnh hưởng Thiên Đồng đích tình tự bất ổn định. Nếu tái kiến sát, thì chủ âm dương không điều, nội tiết bất bình hành, âm hư chờ thần kinh tính bệnh. Không gặp sát diệc chủ thần kinh quá nhạy cảm.
. Ngọ cung 【 Thiên Đồng Thái Âm 】 kiến cát, mà kình dương đồng cung, xưng là [ mã đầu Đới tiến ]. Bính niên sinh người Thiên Đồng tất song song Hóa Lộc, giác mậu niên sinh ra Thái Âm Hóa Quyền ( diệc tất song song kiến Thiên Cơ Hóa Kỵ ) là tốt đẹp. Mậu sinh ra lịch gian nguy mà đứng nghiệp hậu, hựu thường nhân nghi kị hậu sinh phá bại. Bính sinh ra lập nghiệp hậu, phúc trạch giác hậu.
. Tí cung [ Thiên Đồng Thái Âm ] mặc dù không bằng Ngọ cung [ mã đầu Đới tiến ] chi cát, nhưng hơn xa vu phải không cách ức Ngọ cung [ Thiên Đồng Thái Âm ] nhân năng mượn lại Dần cung [ cự dương ], thảng kiến cát hóa, chủ thụ dị tộc đề bạt. Nữ mệnh thường thường cùng dị tộc thông hôn. Đặc biệt Tí cung vô chính diệu, mượn Ngọ cung [ Đồng Âm ] an tinh người là nhiên. Hoặc Ngọ cung vô chính diệu, mượn
Tí cung [ Đồng Âm ] người cũng thế.
· Tí Ngọ [ Đồng Âm ], tối không thích Thiên Đồng hoặc Thái Âm Hóa Kỵ, đi tới Thiên Tướng tọa thủ cung, vô luận năm xưa hoặc đại nạn tất có khuyết điểm, giống nhau là ngăn trở tính đích niên hạn. Nếu tráng nhiên sinh ra, Thiên Đồng Hóa Quyền, Thái Âm Hóa Lộc, thì phúc đức cung Cự Môn tất Hóa Kỵ, nghi làm thị phi khẩu thiệt với kỳ tài hành nghiệp. Nữ mệnh đi tới Thiên Tướng vận, cận
Phòng hôn nhân ngăn trở.
· Tí Ngọ [ Đồng Âm ] kiến sát. Với sát, phá, lang niên vận là đầu mối then chốt; không gặp sát mà kiến cát, với [ Tử Sát ], Thiên Tướng [ Cơ Lương ] cung viên là niên vận đầu mối then chốt.
· Sửu Mùi cung [ Thiên Đồng Cự Môn ]. Cự Môn là ám diệu, ảnh hưởng mang tâm tình màu sắc Thiên Đồng, vì vậy tinh diệu tổ hợp bản thân đã có khuyết điểm. Như Thiên Đồng Hóa Kỵ, thì tâm chí ti nhược, hoặc hữu nỗi khổ riêng; Cự Môn Hóa Kỵ thì chủ nhân sinh nỗi khổ riêng do chính chủ động trêu chọc mà đến.
· Sửu Mùi cung [ Đồng Cự ], Hóa Lộc thì tài lộc đẫy đà, nhiên nhưng không khỏi hữu nổi khổ âm thầm. Phải Cự Môn Hóa Quyền, có thể khoa quyền cát hóa sau đó mới chủ tâm tình ổn định, khả dĩ tránh cho bất túc là ngoại nhân nói nỗi khổ riêng.
·[ Đồng Cự ] tổ hợp, nếu Cự Môn Hóa Kỵ, thì Thiên Đồng tất song song hóa thành quyền tinh. Thiên Đồng Hóa Quyền khả dĩ ổn định tâm tình, Cự Môn Hóa Kỵ thì sinh kích phát, duy lúc này, nếu tại xấu cung người, thì là dương đà chiếu xạ, tại vị cung người, thì tất cùng kình dương đồng phương, kích phát quá mức, phản thành làm phức tạp, cố phản không bằng Thìn Tuất cung Thiên Đồng cùng Cự Môn tương đối chi tốt đẹp.
. 【 Đồng Cự 】 trừ với Thất Sát cung viên là vận hạn đầu mối then chốt ngoại, lánh với [ Thái Dương thái lương ], Thái Âm, Phá Quân, Thiên Cơ chờ cung viên là niên hạn đầu mối then chốt.
· phàm [ Đồng Cự ] cùng Đà La đồng cung người, chủ phiền não. Nhân sinh tất kinh thật lớn phong ba sau đó hăng hái. Hăng hái chi vận, nam mệnh nghi đi Thất Sát, nữ mệnh nghi đi [ Liêm Trinh Thiên Phủ ].
. Dần Thân cung [ Thiên Đồng Thiên Lương ] đồng cung, thành [ Cơ Nguyệt Đồng Lương ] cách. Thử kết cấu, giác với [ Cơ Nguyệt ] là mệnh cung [ Cơ Nguyệt Đồng Lương ] cách ổn định. Duy Thiên Đồng chủ tâm tình, lương chủ nguyên tắc, nhị diệu đồng cung, nhưng khó tránh khỏi hữu mâu thuẫn xung đột.
. Dần Thân 『 Đồng Lương 』 nhưng với kiến lộc quyền là tốt đẹp cách. Kiến Hóa Khoa, thì cẩn thanh quý, hữu tương đương địa vị, nhưng không có nhiều, thu nhập tùy chỗ vị mà quyết định.
. Dần Thân [ Đồng Lương ] bất lợi hôn nhân, phu thê cung Cự Môn Hóa Kỵ người vưu nhiên.
. Dần Thân [ Đồng Lương ] với [ Vũ Sát ], Cự Môn, Thái Âm, Thái Dương cung viên là năm xưa đại vận đầu mối then chốt.
. Mão Dậu cung Thiên Đồng độc tọa, cùng Thái Âm tương đối, ất Thái Âm tại Dậu là tốt đẹp. Nếu tráng nhiên sinh ra, tứ hóa tề lại, nhân Cự Môn tại tiền tài cung phạm huý, cố không chủ kích phát, cận chủ khẩu thiệt cầu tài, bằng không liền thành thị phi khẩu thiệt.
. Dậu cung Thiên Đồng, nếu đối cung Thái Âm Hóa Kỵ, dịch tang chí, hoặc đa tự ti. Mão cung Thiên Đồng, đối cung Thái Âm hóa tập, thì chủ quyền thuật.
. Mão Dậu cung Thiên Đồng, nếu lại Cự Môn Hóa Lộc hoặc Cự Môn Hóa Kỵ, thì diệc dịch sinh nỗi khổ riêng, vưu chủ khổ luyến ki luyến, như nhau Sửu Mùi cung [ Đồng Cự ].
· Mão Dậu cung Thiên Đồng với Thiên Cơ, Thất Sát, Thiên Lương, Cự Môn là niên hạn đầu mối then chốt.
· Thìn Tuất cung Thiên Đồng đối Cự Môn, diệc hữu [ Đồng Cự ] tính chất đặc biệt. Duy tuất cung Thiên Đồng, hỉ đối cung Cự Môn Hóa Kỵ kích phát, xưng là [ phản bối ] chủ gian khổ gây dựng sự nghiệp, phải chú ý điều hòa nhân tế quan hệ, ảnh hưởng sự nghiệp thành tựu quá nhiều.
· Thìn cung Thiên Đồng, đối cung Cự Môn Hóa Kỵ, sở dĩ phải không [ phản bối ], nãi nhân sở lại Thiên Lương tại Tí, không bằng tuất cung lại Thiên Lương tại Ngọ chi cô kỵ, sở dĩ nhân sinh giác trôi chảy, nhưng mà nhưng thiếu gia hết cùng lại thông với thành đại nghiệp tính chất.
. Thìn cùng cung Thiên Đồng, giống nhau quân hữu chủ quan thành kiến, cố không thích hợp cùng người hợp tác sự nghiệp.
· Thìn Tuất Thiên Đồng với [ liêm sát ] Thiên Lương, Cự Môn, 『 cơ âm 』 là niên vận đầu mối then chốt.
· Tị Hợi Thiên Đồng, với Tị cung là tốt đẹp. Hợi cung thanh thị một đôi cung Thiên Lương tại Tị, dịch mang đến thị phi kiện tụng khắc hại.
. Thiên Đồng cùng Thiên Lương tương đối, hữu tính trơ, cố nghi thận giao hữu, dịch giao tổn hại hữu, đến nỗi ảnh hưởng suốt đời.
. Tị Hợi thiên mặt tối ngại Hóa Kỵ, nhất là hợi cung, chủ suốt đời vất vả cực nhọc, lưu ly vô y. Ấp cung người thượng khả tự lập, duy phải tìm kiếm ổn định, bất khả đứng núi này trông núi nọ, sau đó mới khả lập nghiệp.
. Tị Hợi Thiên Đồng vu chút thành tựu thì, thiết bất khả cùng người hợp tác, bằng không hung chung khích mạt.
. Tị Hợi Thiên Đồng Phá Quân, 【 Thiên Cơ Cự Môn 】, Thất Sát, Liêm Trinh là niên hạn đầu mối then chốt.
6 Liêm Trinh
· Liêm Trinh chủ cảm tình. Cảm tình sinh vu tâm, cố hựu chủ huyết. Liêm Trinh Hóa Kỵ, vu nhân tế quan hệ là cảm tình thương tổn, vu nhân thân tật bệnh tức là nùng huyết tai ương.
· Liêm Trinh ký chủ cảm tình, cùng đào hoa chư diệu đồng lại, liền chuyển biến là nam nữ cảm tình, cho nên liền xưng là [ thứ đào hoa ]. [ thứ ] nãi tương đối Tham Lang [ chính đào hoa ] mà nói. Tham Lang chủ hành động, Liêm Trinh chủ tư tưởng, cố xưng là [ thứ ]. Nói cách khác, Tham Lang đào hoa chủ chinh ca trục sắc, Liêm Trinh đào hoa nhưng chủ khắc cốt minh tâm.
· Liêm Trinh lại là chính trị, hoặc là đối chính trị cuồng nhiệt cùng lý tưởng. [ Liêm Trinh Thiên Tướng ] tinh hệ, vưu kì cụ thử tính chất. Thử tính chất chuyển hóa thì là thủ đoạn cùng cổ tay. Thử hựu cùng Tham Lang nhân tế quan hệ có khuynh hướng rượu thịt bất đồng.
· Liêm Trinh táo bạo, thuộc về tinh thần phương diện; Tham Lang ngả ngớn, thì thuộc về hành vi cử chỉ. Cố Liêm Trinh hỉ Thiên Tướng, chuyển hóa là linh hoạt chính trị cổ tay cập phục vụ tính chất; mà Tham Lang thì lại tốt nếu Vũ Khúc, chuyển hóa là cầu tài thủ đoạn linh động khéo đưa đẩy.
· Liêm Trinh khả văn khả vũ, cố cổ nhân vân: [ ngộ văn xương hảo lễ nhạc, ngộ sát diệu hiển quan võ. ] ý này tối nghi thể hội. Cố xương khúc đào hoa đồng triền, thì là thi rượu phong lưu; cùng Phá Quân đồng cung, kiến sát, thì chủ quan võ, hoặc mang hung hiểm, trì lợi khí hành nghiệp. Hay nhất cùng Thiên Phủ đồng cung, lại Ngọ cung Tử Vi, Dần cung [ Vũ Khúc Thiên Tướng ], thì là tốt đẹp chính là cơ bản kết cấu. Kiến cát diệu khả thành châu báu. Thử tức nguyên vu Liêm Trinh văn võ đều nghi đặc tính.
· Tí Ngọ cung [ Liêm Trinh Thiên Tướng ] đồng cung, kỳ khí giác hòa, cùng Mão Dậu cung [ Liêm Trinh Phá Quân ] kỳ khí táo quyết không đồng. Hai người kháp là tương phản điển hình.
· Tí Ngọ [ Liêm Tướng ] tối ngại Hỏa Linh đồng cung, chủ trọng đại ngăn trở, hoặc thả khả phát triển là tự sát khuynh hướng. Nhất là đương Liêm Trinh Hóa Kỵ trùng lại Vũ Khúc Hóa Kỵ, lại thấy dương đà, Thiên Hình trùng lại, thử khuynh hướng canh xác thực.
· Tí Ngọ [ Liêm Tướng ], người sinh năm Bính Hóa Kỵ, đi tới Thiên Đồng cung viên hoành phát, tới Vũ Khúc cung viên thì phòng hoành phá.
· Tí Ngọ [ Liêm Tướng ] hay nhất [ tài ấm giáp ], hoặc Liêm Trinh Hóa Lộc hoặc địa cung Phá Quân Hóa Lộc, thì chủ phú quý, nhưng mà nhưng không rời phó quan, phục vụ tính chất.
·[ Liêm Tướng ] trừ người sinh năm Bính với Thiên Đồng, Vũ Khúc nhị viên là đầu mối then chốt ngoại, dư người là, 『 Tử Phủ 』 Vũ Khúc, Cự Môn, Phá Quân các viên là đại vận năm xưa đầu mối then chốt.
. Sửu Mùi cung [ Liêm Trinh Thất Sát ] duy vị cung khả dĩ cấu thành, [ hùng túc kiền nguyên cách ]. Điều kiện thị kiến phụ tá cát diệu, vô Tứ Sát, Hình Kỵ Không Kiếp trùng lại, chủ lịch gian khổ mà thành tích phú. Xấu cung người cận thủ thường thường bậc trung. Vị cung người Liêm Trinh Hóa Lộc, thì xưng là 『 thuần khiết cách ], diệc chủ giàu có, vô Hỏa Linh gửi thông điệp thì chủ phú quý; xấu cung người diệc cận
Thành trung cuộc.
· Sửu Mùi cung 『 Liêm Trinh Thất Sát ] không thích kình dương đồng cung, chủ đa thị phi; cũng không hỉ Đà La đồng cung, . Chủ đa vô vị hỗn loạn. Lại càng không hỉ Hỏa Linh, chủ trọng ngăn trở.
·『 Liêm Trinh Thất Sát ] đồng cung, mà Liêm Trinh Hóa Kỵ, tái kiến hình hao sát diệu, chủ chết tha hương tha hương. Nếu Vũ Khúc Hóa Kỵ, hoặc Văn Khúc văn xương Hóa Kỵ vọt lên, canh cùng Hỏa Linh đồng lại, chủ ý ngoại. Hoặc chủ manh tự sát chi tâm.
· Sửu Mùi [ liêm sát ], với Thiên Lương, [ Vũ Khúc Phá Quân ], Thiên Đồng chờ cung viên là năm xưa đại nạn đầu mối then chốt.
· Dần Thân cung Liêm Trinh độc tọa. Thân cung người, diệc thành [ hùng túc kiền nguyên cách ], khả tham khảo tiền thuật. Phải không cách người cùng Dần cung đồng đoạn.
· Dần Thân Liêm Trinh, tối không thích Văn Khúc triền thiên di cung, mệnh cung tạm biệt văn xương, cập tạm biệt âm hao hư hình chư tạp diệu, phục kiến Vũ Khúc Hóa Kỵ lai lại, thả ác sát trọng, thì chủ một thân hữu ăn cắp khuynh hướng, thả chủ lưu liên tửu sắc khuynh gia mà trí rơi xuống. Cổ bí quyết vân;『 Liêm Trinh tham sát Phá Quân gặp, Văn Khúc thiên di tác bối nhung ], [ bối nhung ] tức là [ kẻ trộm ] chữ.
Người thời nay đem câu này cổ bí quyết dũ sửa dũ loạn, thả hữu sửa là [ binh nhung ], cho rằng nãi [ quan võ hiển quý ], đại lầm.
· Dần Thân Liêm Trinh, diệc hỉ đối cung Tham Lang thành hỏa tham cách, linh tham cách, chủ bạo phát. Diệc chủ đắc thê tài, hoặc đắc thê tử giúp đỡ làm giàu.
· Dần Thân Liêm Trinh, với sát, phá, lang, Thiên Lương cập tự thân Liêm Trinh cung viên, là năm xưa đầu mối then chốt; với Thất Sát, Thiên Lương cập tự thân Liêm Trinh cung canh, là năm xưa đầu mối then chốt; với Thất Sát, Thiên Lương, [ Cơ Cự ], [ Vũ Phủ ] là đại vận đầu mối then chốt.
· Mão Dậu [ Liêm Trinh Phá Quân ], tối không thích hỏa, linh đồng cung, chủ bạo bại. Kiến sát trọng, hựu kiến Thiên Hình, thì chủ khai đao giải phẫu, hoặc chủ ý ngoại; vu Liêm Trinh Hóa Kỵ là năm xưa kỵ tinh vọt lên chi niên khắc ứng với. ( nguyên cục mệnh cung [ Liêm Phá ], vu [ Liêm Phá ] cư tật ách cung chi niên, kỵ tinh phá tan người cũng thế ).
· Mão Dậu ( Liêm Phá ], nếu Liêm Trinh Hóa Lộc người, thì tật ách cung tất lại Thái Dương Hóa Kỵ, cố chủ mục tật.
· Mão Dậu [ Liêm Phá ] cụ sức sang tạo, kiến kình dương đồng cung, vô hình hao, chủ nhân hữu Sửu tư Sửu nghệ.
. Mão Dậu 『 Liêm Phá 』, người sinh năm Bính diệc chủ hoành phát, hoành phá. Thiên Phủ đại nạn hoành phát, phòng [ Thiên Đồng Thái Âm ] hạn hoành phá.
. Trừ kể trên ngoại, [ Liêm Phá ] với 【 Vũ Tham 】, 【 Đồng Âm 】, 【 cự dương 】 là niên hạn chi đầu mối then chốt.
. Thìn Tuất [ Liêm Trinh Thiên Phủ ], kỳ khí tối hòa, kiến lộc người cát, không khố lộ khố người hung, duy mặc dù hung diệc giác cái khác tổ hợp chờ giảm bớt. Duy bất lợi tảo hôn, thường dịch dẫu lìa ngó ý còn vươn tơ lòng, hoặc hữu một đoạn thời kì hữu danh vô thực.
·[ Liêm Phủ ] kiến lộc, lại có phụ tá cát diệu, khả nhậm chức tài chính và kinh tế giới, hoặc là tài vũ chi cung. Canh kiến tả hữu tối cát.
. [ Liêm Phủ ] lại là [ nhật nguyệt giáp ], cố tuất cung trội hơn Thìn cung. Nếu lại chư cát, đại phú đại quý.
·[ Liêm Phủ ] với Phá Quân, Tham Lang, [ Nhật Lương ], xương khúc chỗ cung viên là đại vận năm xưa đầu mối then chốt.
. Tị Hợi 【 Liêm Trinh Tham Lang 】 đồng cung, kiến sát kỵ, . Chủ bồng bềnh tứ hải, khí tổ rời nhà. Kiến phụ tá chư diệu ( không thích hợp chỉ thấy xương khúc ), thì khí chất ưu nhã, nho tướng phong lưu, quân chính giới khả trở nên nổi bật.
. Sắc hợi [ Liêm Tham ] hữu Hỏa Linh đồng cung, bạo phát bạo bại tính chất cực kỳ nghiêm trọng, phải vu phát hậu xem thời cơ, năng chuyển biến tốt thu mui thuyền, sau đó mới có khả năng trì doanh bảo thái.
. Tị Hợi [ Liêm Tham ] cùng Đà La cao bằng, thì thì hữu cảm tình cùng vật chất chi xung đột, dịch tiến thối thất cư.
. Tị Hợi 『 Liêm Tham 』 hôn nhân đa bất lợi, dịch dẫu lìa ngó ý còn vươn tơ lòng. Dựa vào phu thê cung mà định kỳ trình độ.
. Tị Hợi [ Liêm Tham ] với Cự Môn, Thiên Tướng, [ Tử Phá ], [ Đồng Lương ] là niên vận chi đầu mối then chốt. Chú ý Tị cung [ Liêm Tham ] suốt đời đa tai nạn, duy nhất định có thể chuyển nguy thành an nhĩ.
7 Thiên Phủ
. Thiên Phủ hỉ tử huy tại tam phương gặp gỡ, cũng không hỉ đồng cung, phàm đồng cung tất có khuyết điểm, tường phúc đức cung, sự nghiệp phú, phu thê cung tinh diệu mà định.
. Thiên Phủ tại mệnh cung người, kiến lộc là lấy được cát chi cơ bản điều kiện, sau đó thị Thiên Tướng tính chất mà hiệu đính cách cục cao thấp.
. Thiên Phủ hỉ đi Thiên Lương, Thái Dương cung hạn. Như tinh diệu cát, thì chủ địa vị thăng chức. Hỉ đi Lộc Tồn, Hóa Lộc cung hạn, hội hợp cát diệu, chủ tài phú tăng.
. Thiên Phủ sở lại chi Thiên Tướng là 【 tài ấm giáp ấn 】, thì Thiên Phủ diệc chủ phú quý, sự nghiệp không khỏi tay không mà đến. Nếu là [ Hình Kỵ giáp ấn ], thì chủ tứ cố vô thân, tinh thần thụ áp lực, vật chất khởi tranh đoạt.
. Thiên Phủ đối cung tất là Thất Sát, đây là một người rất xảo diệu tinh diệu bố trí. Giáp phủ cận am hiểu gìn giữ cái đã có, không thiện khai sáng, cũng không thiện chỉ huy. Kỳ khai sáng lực cập quyền lực có hay không năng vận dụng như thường, nhu thị Thất Sát cung viên sở hội hợp tinh diệu mà định. Cố [ gặp phủ xem tướng ], kỳ thực cũng - nên [ gặp phủ nhìn sát ].
· Thiên Phủ vô lộc, thị là [ không khố ], tọa lại địa đất trống kiếp, cũng [ không khố ]. Phàm không khố mà đối cung Thất Sát hội hợp tinh diệu cát người, mới chủ do không trung lâu các thành lập sự nghiệp.
. Thiên Phủ cùng Tứ Sát lại, thì là [ lộ khố ]. Phàm lộ khố phải Thiên Tướng đắc lộc, hoặc thành [ tài ấm giáp ấn ] chi cách, sau đó mới chủ am hiểu cạnh tranh, tịnh nhân chi thành phú.
. Cùng với nó tinh diệu đồng cung chi Thiên Phủ, với tuất cung [ Liêm Trinh Thiên Phủ ] là điều kiện tốt nhất, vị [ Thiên Phủ lâm tuất hữu tinh phù, thắt lưng kim y tử ]. Thả với Liêm Trinh Hóa Lộc, có thể Vũ Khúc Hóa Lộc là thượng cách; lại Tử Vi Hóa Khoa người, quý mà không phú. Canh hỉ tả phụ hữu bật lai lại. Thiên khôi thiên việt tướng giáp, thì chủ địa vị cao thượng.
. Nếu [ Tử Vi Thiên Phủ ] đồng cung, thì với Tử Vi là việc chính, Thiên Phủ là phụ. Cố diệc hỉ tả hữu khôi việt. Vô phụ tá, thì thử tinh hệ hữu khuyết điểm, chủ tiến thối không quyết; nếu Lộc Tồn đồng cung, thì Thiên Phủ phản là việc chính tinh, kỳ cát hung diệc trọng Thiên Phủ bản chất chi suy đoán.
. Tí Ngọ cung [ Vũ Khúc Thiên Phủ ] đồng cung, kiến Lộc Tồn, tại [ tiền tài cung ] phản giác tại mệnh cung là tốt đẹp; kiến Vũ Khúc Hóa Lộc, thì tại mệnh cung là tốt đẹp. Người trước tại mệnh cung thì ngại khan tham, tại tiền tài cung thì chủ giỏi về quản lý tài sản phát tài; người sau tại mệnh cung chủ rộng lượng, thả quản lý tài sản hữu quyết đoán lực.
. Sửu Mùi cung Thiên Phủ độc tọa, xương khúc giáp thì lợi cầu danh, tức tiền tài thị kỳ xã hội địa vị mà định; tả hữu giáp thì lợi kỳ tài; tức địa vị do tiền tài nhiều ít mà định. Bởi vậy khả định trời sinh nỗ lực mục tiêu.
. Sửu Mùi Thiên Phủ, với vị cung giác tốt đẹp: nhân xấu cung người, sở lại Thiên Tướng tại Tị, giáp Thiên Tướng Thiên Lương tại Ngọ, hình sát khí giác trọng, ngao dịch gián tiếp ảnh hưởng Thiên Phủ thụ áp lực giác trọng.
. Sửu Mùi Thiên Phủ, với 『 Tử Tham 』, Thiên Lương, 【 liêm sát 】, 『 vũ phá 』, cập Lộc Tồn Hóa Lộc chỗ cung viên là năm xưa, đại vận chi đầu mối then chốt.
. Mão Dậu Thiên Phủ độc tọa, sở tọa cung viên là nhược địa, nếu Không Kiếp nhị diệu, nhất triền mệnh cung, nhất triền sự nghiệp cung, thì phủ khố không lộ, canh kiến sát diệu, trưởng máy mưu chồng chất diệc chu toàn không.
. Mão Dậu Thiên Phủ hỉ tả phụ đồng cung, lại hữu bật, thì chủ nhân địa vị cao thượng, hoặc hữu sẵn sự nghiệp phát triển. Duy cực úy Thái Dương Hóa Kỵ, [ Hình Kỵ giáp ấn đích niên hạn, làm trọng đại vỡ tan ngăn trở chi dấu hiệu.
. Mão Dậu Thiên Phủ, trừ kể trên ngoại, với [ Tử Vi Phá Quân ], [ Liêm Trinh Tham Lang ] là đại vận năm xưa chi đầu mối then chốt.
. Tị Hợi Thiên Phủ độc tọa, đối cung 『 Tử Sát 』 là quyền lực ngôi sao hệ, cố chủ nữ sai người đánh xe đýa đi lăng trượng phu, tại hiện đại, diệc chủ nữ tử hữu độc lập sự nghiệp.
. Tị Hợi Thiên Phủ kiến phụ tá chư diệu, chỉ bất quá tăng trợ lực, nhân hữu [ Tử Sát ] tương đối, cũng không phải là cần phải; không bằng kiến Lộc Tồn cập [ tài ấm giáp ấn ] chi Thiên Tướng, hoặc mượn lại Vũ Khúc Hóa Lộc, Tham Lang Hóa Lộc là tốt đẹp, . Khả dĩ phú quý song toàn.
. Tị Hợi Thiên Phủ, nếu Thiên Tướng là tài ấm giáp, tại hiện đại đa chủ thụ dị tộc đề bạt. Không phải, thì phải kiến khôi cự mới chủ thụ quý nhân đề bạt.
. Tị Hợi Thiên Phủ hay nhất đi 『 điệt khôi việt 』 cung viên. ( tức lưu khôi lưu việt kháp điệt trùng tinh bàn chi khôi việt, chủ đột phát. )
. Tị Hợi Thiên Phủ với [ Vũ Tham ], Thiên Tướng, [ Tử Sát ] là đại vận năm xưa chi đầu mối then chốt.
8 Thái Âm
. Thái Âm nghi nhập miếu, không thích hợp lạc hãm, nghi sinh ban đêm, không thích hợp sinh ban ngày. Nếu sinh ban đêm giá trị Thái Âm nhập miếu, tối cát; nói rằng sinh ra thì giảm phúc. Nếu sinh ban đêm giá trị Thái Âm lạc hãm, vị tất liền hung, nhưng tu đoan nói phụ tá sát hóa mà định; nếu sinh ban ngày giá trị Thái Âm lạc hãm, thì tất bất lợi nữ thân. Nữ mệnh cũng không lợi tự thân, ( hoặc tảo quả ).
· mệnh cung vô chính diệu, thân cung tại thiên di giá trị Thái Âm lạc hãm, kiến sát ( càng kỵ Hỏa Linh ), sinh ban ngày chủ [ tùy nương tái giá 】, hoặc cho làm con thừa tự ra tự.
. Thái Âm thủ mệnh, hựu phân thượng huyền sinh ra ( mùng một tới mười lăm ) cập hạ huyền sinh ra ( mười sáu đến tạp nhật ). Đã ngoài huyền là cát, cái lúc đó trăng tròn; hạ huyền không cát. Cái lúc đó nguyệt tiệm thiếu. Kể trên [ tùy nương tái giá ] khắc ứng với, dưới huyền sinh ra canh xác thực.
. Thái Âm nhập miếu, ngộ cát diệu tại tam phương lai lại, chủ hưởng thụ, vưu chủ tinh thần hưởng thụ. Tức sẽ không đem toàn bộ tinh thần đặt ở cầu tài dặc truy cầu vật chất sinh hoạt. Canh kiến xương khúc thì văn tú, mỗi ngày đồng thì lại tốt nếu hảo âm nhạc, cho dù kiến Thiên Cơ diệc chủ hứng thú nhiều mặt, tạ thử tiêu khiển duy cùng Thái Dương đồng cung người, khiếm tinh thần sinh hoạt.
. Phàm Thái Âm tại mệnh cung, suy đoán thì phải kiêm thị 『 phúc đức cung ], cái [ phúc đức cung ] tất là Cự Môn, kỳ cát hung khả dĩ ảnh hưởng mệnh cung chi Thái Âm. Nhất là tại tinh thần hưởng thụ phương diện.
. Thái Âm chủ phú, sở dĩ hỉ cùng Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc đồng cung hoặc đối củng; tại tam hợp cung người thứ chi. Kiến Hóa Quyền Hóa Khoa mà không gặp lộc, thì chủ kỳ tài lộc do xã hội địa vị cập bằng cấp chờ quyết định, cố phải cực lực tranh thủ thượng du; kiến xương khúc chủ thông minh; kiến tả hữu mới có khả năng tăng địa vị.
. Thái Âm bản tính thu liễm, duy thu liễm quá mức thì chủ tinh thần sa sút, hạ không thích Đà La, linh tinh, Hóa Kỵ, âm sát, Không Kiếp, Thiên Hình chờ diệu. Nếu tái hình hao tề thấu, thì chủ tự bế chứng hoặc nhược trí, . Hoặc tâm lý hữu khuyết điểm. Đặc biệt Dần Thân, Mão Dậu tứ cung là nhiên.
. Cổ bí quyết: [ nhật Tị nguyệt Dậu, an mệnh xấu phú, bộ mặt trăng ], 『 nhật mão nguyệt hợi, thi đấu mệnh vị cung, đa chiết quế 』. Còn đây là nhật nguyệt miếu vượng, lại chiếu mệnh cung. Hựu vân: 【 nhật nguyệt đồng vị, an mệnh xấu, hầu bá tài 】 còn đây là mệnh vô chính diệu, mượn vị cung 【 Thái Âm Thái Dương 】 an mệnh, diệc bằng nhật nguyệt lại chiếu. Phàm nhật nguyệt lại chiếu, giống nhau tình hình hạ so với [ nhật nguyệt đồng cung ] là tốt đẹp. Nhân nhật nguyệt đồng cung tính chất không mâu, phản dịch sinh khuyết điểm.
· nhật nguyệt kẹp giữa cung viên, nếu nhật nguyệt miếu vượng người diệc chủ phú quý. Giáp Thiên Phủ Hóa Khoa, hoặc Thiên Phủ đối Liêm Trinh Hóa Lộc khắc cát, giáp Vũ Tham Hóa Lộc người thứ.
. Thái Dương tại hợi, Thái Âm tại mão, cũng không phải là 【 phản bối 】, bản phường lầm. [ phản bối ] người Thái Dương tại tuất, Thái Âm tại Thìn. [ phản bối ] người, chủ ly tổ cho làm con thừa tự ra tự, kiến Hỏa Tinh linh tinh đồng cung, thì lúc nhỏ ly khai phụ mẫu, sát trọng chủ thụ vứt bỏ. Nếu lại thấy phụ tá cát diệu, thì ly tổ mập ra.
. Thái Âm không thích cùng dương đà đồng nhảy lên mệnh cung, chủ gian khổ. Nếu Thái Âm Hóa Kỵ tinh ( có thể kỵ tinh, hoặc Thái Âm Hóa Kỵ dương đà giáp ), đều chủ lục thân vô duyên, mẹ goá con côi linh đinh, hựu chủ suốt đời dịch đầu tư lệch lạc.
. Thái Âm chủ giấu, cố cũng không nghi cùng địa không, địa kiếp, bầu trời đồng cung. Kỳ không cát trình độ, so với Thái Dương là đại.
. Thái Âm chủ phú, cố hay nhất kiến lộc, Hóa Lộc tối cát, Lộc Tồn thứ chi. Thái Âm Hóa Quyền thì cận chủ quản lý tài sản, hoặc ti tài phú quyền bính, dù rằng phú diệc bởi vậy mà đến.
. Mão Dậu Thái Âm độc tọa, Dậu trội hơn mão rất nhiều. Duy mão cung kiến phụ tá chư cát mà không gặp sát, lại thấy cát hóa, thì là [ phản bối ], chủ đại phú.
. Mão Dậu Thái Âm với Cự Môn, [ Liêm Tướng ], Thất Sát, Thiên Cơ cung viên, là đại vận năm xưa chi đầu mối then chốt. [ phản bối ] người thì bất luận Thiên Cơ.
. Thìn Tuất Thái Âm, nhật nguyệt tịnh minh, đều là thượng cách. Duy phải kiến cát hóa mới chủ phú quý. Nếu vô cát, kiến sát, thì chủ danh lợi đều hư, thả hôn nhân bất lợi.
. Thìn Tuất Thái Âm, với [ Liêm Tham ], Cự Môn, [ Vũ Sát ], Thiên Cơ cung viên là đầu mối then chốt.
. Mình hợi Thái Âm, Tị cung đa khuyết điểm, nữ mệnh chủ giá phu thái độ làm người mưu làm là mình mưu; nam mệnh chủ đa phiêu đãng, thử bởi Thái Âm lạc hãm, phát tán quá mức cũng. Hợi cung thì danh [ trăng sáng Thiên môn ], kiến lộc tức chủ đắc ý ngoại chi tài mà thành đại phú.
· Tị Hợi Thái Âm kiến đào hoa chư diệu cập Hình Kỵ sát hao, chủ nhân đa âm mưu thả hảo tửu sắc.
. Tị Hợi Thái Âm, với [ Thiên Đồng Cự Môn ], Thất Sát, [ Liêm Trinh Thiên Phủ ], [ Thái Dương Thiên Lương ] chư cung viên là đại vận năm xưa chi đầu mối then chốt.
9 Tham Lang
. Tham Lang chủ ham muốn hưởng thu vật chất, hựu chủ sắc dục. Cố hỉ Hóa Lộc, Hóa Quyền, không nên văn xương Văn Khúc, tả phụ hữu bật diệc năng làm giàu quý. Trái lại kiến xương khúc thì, biến thành mang tô son trát phấn ý tứ hàm xúc ham muốn hưởng thu vật chất, liền có xảo trá lừa dối ý tứ hàm xúc. Tức là nói, ham muốn hưởng thu vật chất lợi cho đường đường chính chính tranh thủ, mà không thích che đậy lỗi lầm, che che lấp yểm.
. Tại tinh thần sinh hoạt phương diện, Tham Lang là thích thần bí sự vật, nhất là tôn giáo, vu thuật thần bí. Tại cổ đại liền biểu hiện là thiêu đan luyện hống, thần tiên thiêu luyện; tại hiện đại, thì là mang thần bí màu sắc tôn giáo.
. Bởi Tham Lang biểu hiện là ham muốn hưởng thu vật chất tranh thủ, sở dĩ hựu trở thành am hiểu giao tế xã giao biểu chinh. Nhiên kỳ giao tế tất có khuynh hướng tửu sắc tài vận. Cùng Liêm Trinh chi cùng xương khúc đồng lại, năng diễn hóa thành thi rượu cầm kỳ bất đồng.
. Tham Lang tọa mệnh, không thích Thất Sát thủ thân cung, cũng không hỉ Phá Quân thủ thân cung, kỳ lại sát diệu, thì ngại bay bổng, háo sắc. Hoặc chủ không hề lương ham mê.
. Tham Lang cùng Hỏa Linh đồng cung, chủ đột phát. Cổ đại duy quan võ mới dịch hữu thình lình xảy ra chi công động. Cố cổ nhân nãi vị [ Tham Lang Hỏa Tinh cư miếu vượng, danh chấn chư bang ], hiện đại khả kính suy đoán là đột phát.
. Tham Lang Hóa Kỵ, Hỏa Linh đồng cung, thì chủ bạo phát bạo bại. Vô Hỏa Linh, thì là xuất hồ ý liêu ở ngoài thành công. Tức vị [ Vô Tâm sáp liễu liễu thành âm ].
. Tham Lang Hóa Kỵ lưu diệu Hóa Lộc, diệc chủ 『 Vô Tâm sáp liễu liễu thành âm ]. Nếu Tham Lang Hóa Lộc, lưu diệu Hóa Kỵ, thì chủ thái độ làm người đoạt đi lợi ích.
. Tham Lang với tứ mộ là nhập miếu. Cố 【 hỏa tham 】[ linh tham J cách, với tứ mộ cung là tốt đẹp. Thìn Tuất cung Tham Lang độc tọa đối Vũ Khúc 1. Sửu Mùi cung Vũ Khúc Tham Lang đồng cung, quân là thượng cách. Dư cung thứ chi.
. Tham Lang hỉ Hỏa Linh, cũng không úy không diệu, cũng không úy Thiên Hình. Tham Lang cùng không diệu, Thiên Hình đồng triền, . Chủ đoan chính. Nhảy lên Thiên Hình vưu chủ tự hạn chế, tuy nhiên không thích địa kiếp đồng triền, chủ ngăn trở.
. Vu sát diệu, Tham Lang duy không thích kình dương, Đà La. Chủ tửu sắc tài vận. Tí cung đồng kình dương, hợi cung đồng Đà La, thì tên là [ phiếm thủy đào hoa ]; Dần cung đồng Đà La, tên là [ phong lưu màu trượng ], quân nguyên nhân chính sắc dẫn đến thất bại. . Thử lưỡng chủng cách cục nếu lại Thiên Hình, thì Thiên Hình không chủ tự hạn chế, phản là lao ngục tai ương.
. [ hỏa tham ], [ linh tham ] cách cũng không hỉ song song kiến dương đà, kiến thì là phá cục. Cho dù lúc này Tham Lang Hóa Lộc, diệc chủ hoành phát hậu lập tức hoành phá. Nếu lại thấy phụ tá chư diệu, thì chủ kinh nguy hiểm trắc trở mà hoành lập công danh.
. Tham Lang tại Thân cung độc tọa, lâm bị quản chế chi hương, kiến sát kỵ cập phụ tá chư diệu tụ tập đầy đủ, thì chủ tiên nghèo khó, thả kinh nguy nan, sau đó đột phát duy phát hậu hựu khủng nhân bất lương ham mê mà phá bại. Chỉ thấy sát, thì dịch nhập thiên môn nhân sinh diệc bởi vậy đa nghiêng ngửa; chỉ thấy cát diệu, thì thường là thủ phú quý, tuy nhiên tu chú ý trì doanh bảo thái. Tại Thân cung chi [ hỏa tham ], [ linh tham ], hoành nổi giận phá chi tính chất quá nặng.
. Tham Lang tại Dần cung độc tọa, vô kình dương, Thiên Hình gửi thông điệp ( hữu thì chủ tao hình trượng ), hựu phải không [ phong lưu màu trượng ] chi cách, mà hữu cát tinh tường diệu, thì diệc khả thành quý cục, nhưng suốt đời phong ba không ít, hữu sát diệu, thì sự nghiệp đang thịnh, quan tụng tùy lâm. Duy Tham Lang Hóa Kỵ, thứ nhất cận chủ công trình công nghệ mưu sinh.
. Tham Lang tại Tí độc tọa, nếu không vào [ phiếm thủy đào hoa ] chi cách, hữu cát tinh tường diệu, hoặc hữu Thiên Hình tướng chế, cũng phú cục, chủ trung niên đi sau tích.
. Tham Lang tại Ngọ, tên là [ mộc hỏa thông minh ], vô sát kỵ mà kiến cát diệu, thì là cự phú chi cách, hoặc nhâm tài chính và kinh tế chức vị quan trọng. Kiến sát người bình thường, tiểu phú. Duy tuyệt không nghi ăn ý.
. Tham Lang tại Thìn Tuất độc tọa, trung niên hậu mới có khả năng phát tích. Thảng sát kỵ tịnh lâm, thì chủ niên thiếu đa tai nạn bệnh hoạn. Thử cùng Sửu Mùi cung [ Vũ Khúc Tham Lang ] đồng cung bất đồng, 『 Vũ Tham 』 chủ niên thiếu hưởng thụ ( tường kiến Vũ Khúc nhất lễ ).
. Thân Tí Thìn niên sinh ra, Tham Lang tại Tí tọa mệnh; Dần Ngọ thành niên sinh ra, Tham Lang tại Ngọ tọa mệnh; Tị Dậu xấu niên sinh ra, [ Vũ Khúc Tham Lang ]- tại xấu phú tọa mệnh; hợi mão vị niên sinh ra, [ Tử Vi Tham Lang ] tại mão cung tọa mệnh, chủ nhân ham món lợi nhỏ, không hề lương ham mê, cổ nhân cho rằng nãi [ thử oa ] chi mệnh. Kỳ thực nãi ham muốn hưởng thu vật chất quá thâm chi cố. Nếu triền đào hoa chư diệu, thì tình dục diệc thâm. Hỉ kiến cát diệu thì bất lương tính chất giảm bớt, diệc hỉ kiến Thiên Hình cập không diệu, kiến Thiên Hình thì năng tự hạn chế, kiến không diệu chủ thuần khiết.
. Phàm Tham Lang, đều với Thất Sát, Phá Quân, Thái Âm, Thái Dương, Cự Môn, Tử Vi cung viên là đại vận năm xưa chi đầu mối then chốt.
Đầu trang

can_spacy_77
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1626
Tham gia: 14:59, 19/12/11
Đến từ: Sài Gòn

TL: TỬ VI LUẬN ĐẨU SỐ

Gửi bài gửi bởi can_spacy_77 »

(三)太阳巨门同度,或太阳拱照,更有吉曜,原文指说是[弟兄都是创立事业者],但这
要太阳巨门同度寅宫,或太阳在巳宫,巨门在亥宫拱照才是。如果太阳巨门同度申宫,或太 阳在亥宫,巨门在巳宫拱照,则不是。太阳巨门星系,如果更有天马同度或拱照,则兄弟姊 妹之间虽有情,却容易分离。

(四)太阳落陷,兼且命造为夜生人,就是不更见煞曜化忌,也不利兄弟关系,尤其更有
擎羊同宫,或太阳化忌,每主[多争不和、少依靠]。

(五)太阳见诸煞天刑,主刑克或兄弟意外伤害,太阳化忌、落陷、夜生人等,尤确。


3 ( )

原文: 太阳星临妻宫,妻子性情爽直,有正义感,性急有丈夫志。入朝聪明慈祥,但须迟婚,
早婚有刑克。会太阴星,主有贤美的妻子。太阳落陷、化忌者,妻子性急多疑(女命则主刑 克或丈夫有病灾)。凡太阳星临妻宫,会照擎羊、陀罗、火星、铃星、空劫、天刑者,主刑 克、生离。若逢破军,非礼成婚。女命太阳星躔夫宫,入朝者,主嫁富贵之婿。落陷化忌者, 难求满意之对象,或主刑克。有陀罗、火星者,初时热恋,终成冰炭;以继室迟婚或非正式
结婚者为宜。凡太阳星落陷化忌会煞星者,元配夫妻,不能白首偕老。遇四煞破军者,非礼
成婚。

评注:

(一)太阳具有阳刚气息,这一形格便反映在太阳坐妻宫的运势方面,这类男命易得[性情 爽直、有正义感、性急有丈夫志]的妻子,尤其是得左辅右弼,这个性更是强烈。和火星同 度,妻子的性急个性最明显。女命亦主这类个性的丈夫。

(二)男命妻宫得太阳星,一般对妻子并不刑克,尤其是太阳入朝居旺,更少刑克,原文 说[但须迟婚,早婚有刑克],笔者个人并不苟同。妻宫得朝旺太阳,主妻子[聪明慈祥],见 左辅右弼增慈祥,见文昌文曲化科增聪明,并旺夫益子的妻室。

(三)妻宫太阳太阴同度,[有贤美的妻子],不过,太阳太阴可以在丑宫同度,也可以在 未宫同度。在丑宫,太阳宫居旺而太阴居闲,则妻子贤多于美;在未宫,太阳落陷而太阴入 朝,则妻子美多于贤。反而以太阳在辰宫守妻宫,太阴在戌宫拱照,则妻子贤美并重。另外, 太阳太阴得文昌文曲,增加其温柔之美,得左辅右弼,增加其贤良性格。

(四)太阳在陷宫化忌,主妻子性急多疑,用另一种说法,就是醋罐子一个,容易打破吃 醋,对于任何风吹草动,丈夫和其他女人相处愉快,就会眼红多疑,故此,就是不更见羊陀 火铃空劫等,亦对命造有精神压力,更有文昌文曲,则更是感性,对丈夫的感情依附甚深。 在现代社会,女命夫宫太阳落陷化忌,也可以和男命同论,即丈夫吃醋多疑,男人其实和女 人一样会吃醋,只是在古旧社会,女人是男人的附属品,是男人的财富,这类性格不容易明 显流露而已。另外,在夫宫有此星象,也主刑克灾病。更见诸煞曜空劫,尤多刑克生离。


(五)无论男命女命,太阳在夫妻宫,当入于破军宫限,若在限内成婚,多为[非礼成婚],
意即没有正式注册,或是未有正式婚礼,或是同居,或是秘密结婚之类,这情况在现代并没 有什么大不了。

(六)女命太阳守夫宫,而且太阳入朝,可得富贵之婿,具体的星象是:太阳会化禄、禄 存、天马,得富裕丈夫;会左辅、右弼、天魁、天钺、文昌、文曲,得贵夫,有社会地位, 或是专业人士。

(七)女命太阳化忌在夫宫,若更为落陷的宫度,不利婚姻,即(难求满意的对象、或主刑
克),但有时却是命造挑剔,以致误了自己的婚期。更见煞曜则多为刑克。

(八)无论男命女命,太阳和火星同度,皆主突然的邂逅,一见钟情,或是突然和相识的 异性,共堕爱河。但陀罗却摧毁了感情的性质,故太阳火星陀罗相会,具体的克应就是[初 时热恋,终成冰炭。]这类星系以同居或迟婚为宜。火星阳火畏陀罗阴金,故结构不吉,如 果是火星擎羊同度,那反而仅是多口舌之争,却能维持感情。

(九)太阳化忌于落陷宫度,且见火星、铃星、擎羊、陀罗、地空、地劫、天刑,不利元
配,但如果续弦再娶再嫁的年限亦不吉,则再婚也不利。


4


原文:

太阳星入朝临子女宫,主子女秀发,有贵子,主三子三女。与太阴星在未宫同度,主子 女众多,无煞星,八胎以上。巨门会照,主聪明,有创业精神,有辨才。落陷有刑克,不利 长子。化忌星多病多灾。会擎羊、陀罗、火星、铃星、空劫者,一子送终。

评注:

(一)太阳在子女宫,也主子女数目众多,尤其多儿子,原文说有共有[三子二女],这仅 可参考而已,如果没有进行避孕措施,实际数目可以远多于这个。太阳在子女宫,如有红鸾、 天喜、咸池、大耗、天姚等,女儿数目较多。

(二)太阳入朝守子女宫,主[子女秀发],子女的品格良好,性刚,有事业心,能独立有 成,且可以照顾双亲。如果更有左辅、右弼、天魁、天钺、化禄、化权、化科等,更可得[贵 子],子女有社会地位。太阳入朝得文昌文曲,主子女学有所成,亦主两代之间,感情良好。 但如果太阳入朝见煞曜,则子女纵有成,照顾命造,但感情却不理想。火星擎羊同度,尤其 受气。

(三)太阳主子女数目众多,太阴也有同样性质,因此,二曜同度,便主子女数目甚多, 尤其是在未宫,因太阳在这宫度有光华。如无煞曜,[八胎以上],这也仅供参考而已,有些 情况,数目较少,有些情况,则多达十数人,并无一定。

(四)太阳巨门同度,或巨门拱照太阳,主子女有[辨才],这是巨门相会的原故,因此,
子女幼年时,父母每感难于教育,若是会吉星,只要不过份压逼,他们是可以顺势发展心志


的,品格依然理想。过份压逼反容易造成反叛心理,影响两代关系。太阳若是居于旺地,受
巨门影响,主[聪明]和[有创业精神],见吉曜尤佳。如太阳在闲宫陷宫度,则见吉亦容易受
挫折。

(五)太阳落陷,不利长子,尤其是太阳化忌,轻则感情不和,重则长子早产,或有伤残, 或是早夭,或一生体弱多病,或早年有灾害意外。更见诸煞尤确。如果煞曜过重,则刑克甚 大,子女多但却仅[一子送终],不是有白头送黑头人之事,就是感情成冰炭,没有伦常之情。


5


原文:

太阳星入朝,临财帛宫,日生人,财源丰足;但天上太阳是普照四方,故在人主乐善好 施,一生剥削极重。禄存、天马照会,乃大富之格。陷宫则财来财去,费心劳力。巨门会合 财由创业中来,或由竞争劳神中来。

评注:

(一)太阳是官禄主,不是财帛主,故在事业宫远胜于在财帛宫。太阳入朝守财帛,就是 日生人,且见吉曜禄曜,也只是断作[财源丰足],并不成为大富,一般并不利于经商,以从 事文教、政务、专业、传媒等生财为佳。

(二)如原文所言,太阳入朝在财帛宫的命造,[乐善好施],故对于朋友亲戚每多接济, 亦经常付出金钱作公益之事,因此人格高尚,但不会成大富,因此,就是得[禄存、天马照 会],也非原文所说的[大富之格],小富则可,唯从道德成就而言,他对世间的贡献,可能远 胜于大富。不过,是不是能成大富,还要看命宫的性质,例如,命宫太阴入朝,则因太阴为 财星,利经商投资,故论断也有异,可评为富裕,这点务要留意。

(三)太阳落陷,因太阳不是财星,所以在财帛宫落陷,也不是大不了的事,仅主[费心劳 力、财来财去],但却不如太阳入朝那样,经常付出金钱接济他人或作公益善举。得禄存, 财帛反容易积存。

(四)太阳巨门同度,或巨门拱照,这要视太阳旺宫朝垣,还是在闲宫陷垣,以定其性质。 在旺宫朝垣,则为[财由创业中来],在陷宫闲宫,则[由竞争劳神中来],且收入远不如在旺 宫朝垣的太阳,若太阳化忌或巨门化忌,则竞争尤甚,且求财多生口舌纷争,更擎羊、天刑、 天梁等,主因财兴讼。


6


原文:

太阳临疾病宫,主人血压高、头眩、双目昏花或目中有红筋,肝阳上升、头痛、大肠干 燥、痔疮便血、心火极重。逢擎羊、陀罗、化忌、眼目有损伤,或近视、散光及眼白不清, 易得风症。


评注:

(一)太阳属阳火,在中医学上主[心],这主要是指血液循环系统毛病,或神经情志的毛
病,因为在中医学上,[心]的功能包括了一部份脑功能,如思维、情绪等。

(二)不过,这有时也有例外,如原文所说的[高血压头眩],这其实是属于(肝阳上亢),是 肝症,但在此却归类为太阳的(心),而高血压引致的头痛,也为太阳所主。其他和心及血液 循环系统有关的疾病,如血栓症、中风等,及其引起的种种徽候,都为太阳所主。

(三)太阳亦主眼部,凡太阳落陷会陀罗、擎羊,或太阳居于午宫,皆主各类目疾,如眼 炎、近视、散光等,太阳更化忌,则为眼部的外伤。

(四)太阳亦主阳明实症,这属于中医学的专业范畴,很难具体描述,但在徽状方面,则 包括[大肠干燥、痔疮便血、心火权重]等,这伴有如目赤,舌红、脸红等徵候。一般的大肠 干燥便秘,则是属于大肠范畴,五行为阳金,和肺有关,这又不涉太阳星系了。

(五)原文亦指出,太阳守疾病宫,易得[风症]。这风症主内风,不主外风。外风即是一 般的外感风寒风热,即伤风感冒之类,内风则是由内部机能产生的,最轻微者,即是所谓[头 风],即头痛,而最严重的,则是中风。中医学的正确名词是[肝风内动],此即脑血栓塞或脑 部爆血管引起的重症,包括半身不遂、全身瘫痪等,严重者引致死亡。这类情况,以太阳会 天梁,更见诸煞并照为确。


7


原文:

太阳星主动,属外向,不宜静守,出门近贵能发。惟落陷者,出门多忙碌。化忌者,出 门不利,有病灾或碌碌奔忙。有擎羊、陀罗、火星、铃星、空劫者,出门多是非,不安宁有 破耗。

评注:

(一)太阳性质[主动],天上的太阳并不是固定在一个位置的,早上在东方,正午在当空, 黄昏在西方,然后又沉没于水平线下,周而复始。因此,居于迁移宫,便如原文所言,[属 外向,不宜静守],无论命宫星象为何,只要迁移宫不见煞,便主出门吉利,亦主适合从事 在外经常奔波的职业。

(二)太阳在迁移宫,主[出门近贵能发],这因为太阳是贵星,故有近贵的性质,但必须 是太阳居于五宫度,主在外得贵人扶助,或得良好机遇,更见天魁、天钺,尤佳。见化禄、 化权、化科,也有此意义。太阳[能发],则必须见化禄、禄存、天马等,始为吉利,或利于 经商,或利于专业生财。但如果只是单丁的太阳化禄,则可能热心助力,以致开销大,这又 不作[能发]论了。

(三)太阳落陷,虽仍利于出门,但却主在外多忙碌,不得安闲,唯若不更见煞曜空劫化
忌刑耗,仍可忙中生财,生活得安稳。见煞曜凶星则不宜出门,命宫吉利者,以留在原居地


为佳。

(四)太阳化忌,无论入哪一个宫垣,都发挥太阳最坏的一面,在迁移宫也不例外,最基 本的性质,就是[出门不利],轻者为[劳碌奔忙],见煞曜、天月、天虚等,主有[病灾]。太阳 化忌落陷,而命造为夜生人,煞气更重。

(五)原文末句指出太阳会凶星,有[出门多是非、不安宁有破耗]等凶象,具体的区分是:
会擎羊、火星、铃星,主出门多是非;会陀罗,主不安宁;会地空地劫,主有破耗。


8


原文:

太阳星之本质虽然是豪爽好施,但施与人则可,有求于人则不得,是一个施恩报怨的星 曜。因为在天空的太阳,是四方普照,是无条件的给人们温暖,可是就不可向人们收回一分 一厘的报酬。同时,在很多的情形下,人们反不咒骂太阳晒照的热度太热了;在连连的雨季 中,人们又在怪太阳偷躲在云里不露,所以在太阳星临命盘的交友宫时,也有同样的意义, 只有入朝或与太阴同度者,则多得朋友,如其落陷,及会照四煞空劫者,便是施之以恩报之 以怨。在手下的职员,更多反上怨言。会巨门星,则多无谓的口舌是非了。

评注:

(一)太阳星具有光照的性质,在命宫吉,在事业宫吉,在兄弟宫、子女宫、夫妻宫皆吉, 但同样的性质,并不适合引伸于交友宫,在交友宫并不主下属或朋友光照自己。相反,却如 原文所言,太阳常遭怪责,具体而言,就是无论命造为下属、为朋友,做过一些什么好事, 也得不得多谢,回报更不必论了,反而遭到怪责和埋怨,没有火星、铃星、擎羊、陀罗、地 空、地劫、化忌等,也是如此。不过,由于太阳对其他人有所施予,故在交友宫,必主朋友 众多,下属众多,自身亦对他们有所帮助,只是不得好感。但要太阳入朝才是,即太阳在卯 宫日照雷门,在巳宫,在午宫日丽中天,朋友甚多。另外,日生人的中天主星和夜生人的中 天主星同度,亦主朋友众多,因此,在未宫和丑宫太阳太阴同度,每主朋友众多,下属众多, 但自身对他们的付出,每每多于他们对己的付出。

(二)太阳在交友宫,如果太阳入朝乘旺,则只是命造为友辛劳,或是为友多付出,虽不 能得到感谢之声,但也不致于受朋友怨报。但是,如果太阳落陷,且没有太阴同度,则为朋 友服务,反招怨言,若更有火星、铃星、擎羊、陀罗、地空、地劫、天刑等,则朋友恩将仇 报、以怨报德,若是管理下属的,则更受下属打小报告,甚至阴谋排挤。

(三)太阳带有是非口舌的性质,巨门也带有是非口舌的性质,且比太阳更强。当太阳和 巨门同度,或巨门拱照太阳,而太阳却不是入朝居旺,则太阳光不能解巨门之暗性,则是非 口舌色彩极浓厚。在交友宫,如原文所言:[多无谓的口舌是非]。若果太阳化忌,或巨门化 忌,则口舌是非的性质便严重得多,更有擎羊、陀罗、火星、铃星等,纷争极重。若是擎羊、 天刑同度,更会牵涉入和朋友之间的官司词讼里。

(四)除了原文所言的太阳巨门星系外,尚有太阳太阴和太阳天梁星系,性质较太阳巨门
Đầu trang

can_spacy_77
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1626
Tham gia: 14:59, 19/12/11
Đến từ: Sài Gòn

TL: TỬ VI LUẬN ĐẨU SỐ

Gửi bài gửi bởi can_spacy_77 »

9


原文:

太阳入朝在事业宫,会照左辅、右弼、天魁、天钺,或得文昌、文曲,而不逢四煞空劫 者,主贵至一品或门徒众多。或寅宫与巨门同度,无煞星,主大富大贵。与化禄、化权、化 科会照,更是国家栋梁。太阳在午宫,乃日丽中天,主能掌握大权,并大富贵。有文昌同度, 入朝会左辅、右弼、天魁、天钺、三台、八座等吉星者,乃人民领袖或政府中之行政者。与 巨门会,乃折冲政务之外交家。若太阳落陷,逢擎羊、陀罗,则劳碌奔走,多成多败。遇空 劫,宜从技艺上成名,或由幻想中创立事业,多起家于空中楼阁的幻想中。

评注:

(一)太阳是官禄主,最喜入事业宫,比在命宫或其他宫垣为佳。事业宫内,太阳每主前
途光昌远大,在朝旺宫度,尤其如此。

(二)依原文所说,太阳在事业宫,更有左辅、右弼、天魁、天钺、文昌、文曲等,不见 煞曜空劫,主[贵至一品,或门徒众多],这是从古代的社会就业情况而论,和现代社会稍有 不符。在古代,最理想的工作,是做官,十年窗下,所求的就是科举高中,在官场内谋得一 官半职,有权亦有财,如果官运亨通,更可以步步高升,当政府要员,位居一品,这是事业 成就的极致。而[门徒众多],则是由于官场多各自建立势力,有权有势者,各自栽培门生, 门生都喜向自己的提携者靠拢,故形成势力,渗透于整个官场,产生小圈子,亦是扩展个人 权力和互相包庇的方式。因此,[贵至一品]、[门徒众多],都是事业成就的印记。太阳得左 辅右弼,主多助力,尤其是门徒众多;见天魁天钺,则多提携的机遇,官场遇贵人;得文昌 文曲,在古代利于金榜挂名,现代则利于成名,利于专业资格的获得。不过,这以不见煞曜 空劫才是,见之则格局减等,仕途多阻滞。

(三)太阳在事业宫,在现代并不一定要入官场,但亦以从事公职为佳,当政府官员,或 是在法定机构任职管理,亦适合传播媒体、文教事业等。太阳共有三类结构,一是太阳巨门, 一是太阳天梁,一是太阳太阴。一般而言,太阳巨门,适合从事商业活动,亦可以从政,运 用口才取胜。太阳太阴,较适合财务经济策划之类。太阳天梁,较宜于专业,或从事教学。 上述是以见吉为确,见煞则不是。

(四)原文认为太阳[在寅宫和巨门同度,无煞曜,主大富大贵。]这个大富大贵的条件, 未免过于简单。不过,太阳巨门在寅宫,确实利于口舌生财,特别是赚外国人的金钱,如出 口贸易,游客生意等,如为受薪,则适合在外国人的机构办事。太阳巨门在申宫,由于太阳 渐渐失辉,故事业的运势平平。

(五)太阳会三吉化,斌兆公认为是[国家栋梁],这话可圈可点,笔者个人嫌其不够平实
具体。不过,由于古代的职业性质简单,最佳的出路是当官,因此,[国家栋梁]已是很明确


的断语了,在现代社会,便应稍作区分。大致上,太阳自身化禄或会化禄,适宜商业活动;
太阳化权或会化权,适合管理工作;太阳化科或会化科,适合专业工作,或从事学术研究。
尤其太阳入朝旺,皆主对社会有贡献建树。

(六)午宫太阳是日丽中天,原文说是[主能掌握大权,并主大富。]笔者只同意前一句, 后一句则不敢苟同。太阳在午,气势磅薄,事业局面颇大,不过,在实质的财利收益上,却 不一定很多,最常见的现象,是命造把投资所得,都用于扩展业务去。太阳在午,除非得禄 存、化禄、天马等,否则最多亦为中人之产,不可视作大富。

(七)太阳文昌同度,更见辅弼魁钺、三台八座,主为[人民领袖或政府中之行政者],这 断语和[国家栋梁]类同,命造具有领导能力,并且是一个社会改革者,不过,这以更见文曲 为佳,因为文曲和文昌是对星,对星相会,能发挥最佳的相辅相承力量。太阳文昌同度,如 果不见文曲,则在迁移宫同时有文曲亦佳,因命宫可同时会此二曜。斌兆公在本讲义中,经 常提到[三台八座]。三台八座是不是如此重要,需要煞有介事的和左辅、右弼、天魁、天钺、 文昌、文曲等辅佐吉曜摆在一起?事实上,三台八座只是吉利的众多杂曜之一对,在斗数推 断系统中,地位并不很高,在张开卷先生的星曜分类中,属于乙级星,并不能和十四正曜、 四辅曜、四佐曜、四化星等相题并论。但是,由于某些原因,斗数古籍中,无论是北派的《紫 微斗数全书》,或南派的《紫微斗数全集》,都有一些论三台八座的赋文短篇,专论三台八座, 因此,有些斗数家参考古籍时,每每便受其误导,很看重三台八座。查实,三台八座的地位, 不必过誉,应和台辅、封诰、恩光、天贵等,等量齐观。如果事业宫入朝的太阳,只有文昌 文曲,不见辅弼魁钺台座等,则只宜专业求财,或从事教育文化界,不适合管理或从政。

(八)太阳巨门同度,原文评为[折冲政务之外交家],原文有此语,是因太阳巨门为外国 人的星系,在事业宫得吉曜吉化会照,能受外国人欢迎,因巨门有口才性质,故为外交官的 星系,而能精于政务。当然,世界并不是有如此多的外交官,只要明白太阳巨门在事业宫的 基本性质就可以了。

(九)太阳在事业宫落陷,无论是否见吉曜吉化,都主辛劳,见吉则劳而有成,见凶则徒 然辛劳,故[逢擎羊、陀罗,则劳碌奔走,多成多败],因成和败两者打个平手,故每每劳而 无功。

(十)太阳会地空地劫,原文仅提到吉利的一个方面,即[技艺上成名],[幻想中创立事业] 等。如果太阳会空劫,更有诸吉星吉化,确可以作此推断。但如果所会的是陀罗、擎羊、火 星、铃星、大耗等,则事业运滞,表现不如理想,必须有一技傍身,否则人生多波折。


10


原文:

太阳星是一个浮动的星曜,所以在田宅宫也有浮动的意义,祖传的产业便有退去的趋势。 入朝有吉星扶持,仍不免有浮动变换的事实。惟与太阴星或与巨门星同度,在寅宫或申宫, 有吉星扶持,不遇四煞空劫星曜,则产业增多,但仍因产业而生明争暗斗的情形。太阳、天 梁同度,在卯、酉宫,主有公产斗争。


评注:

(一)太阳在田宅宫,因为太阳从东方而出,又往西方落下,在中国传统的观念中,是不 息地移动的,因此,太阳主动,这在迁移宫的有关文字中,已有提到。太阳在田宅宫并不作 吉论,因为产业以稳定为宜,常常变化,则得而复失,失了又复得,并不安稳。不过,在香 港社会中,人们常常细屋换大屋,投资失败,又要大屋换细屋,变动已经习以为常。但是, 一般而言,就是在现代社会,亦不以田产变动为吉,具体情况是祖业败退,承继了而破败, 或先破败再自置,得左辅、右弼、天魁、天钺及三吉化,主败退后自置安稳,唯如果见煞曜, 则仍不主安稳。

(二)原文提到,太阳巨门在寅宫申宫同度,经借星安宫,三方见太阴,主有[因产业生明 争暗斗],这是由于太阳主变动,而巨门则主口舌纷争,所以有此克应。原文亦提到太阳和 太阴同度,这必须经借星安宫,会上巨门才是,原宫为田宅宫,不见巨门,没有明争暗斗的 克应。

(三)太阳天梁同度,主因公产斗争,但以见擎羊天刑才是,在现代社会,多因土地楼房
问题,被政府控告,这尤其涉及占用公地等问题。


11


原文:

太阳、太阴同宫,则阴阳调和,能享受快乐。与天梁星同度,有名士式的懒趣。太阳落 陷,自寻忙碌。巨门会照,操心费神。女命太阳星临福德宫,主得热情的夫婿而能享受快乐。 若逢四煞空劫,则奔走忙碌不宁。

评注:

(一)福德宫主精神享受,主性格喜好,太阳主动主热烈,在福德宫,每主命造喜欢热闹, 喜欢参予群体活动,故多社交生活。如果只是让命造静静的,反而精神苦闷。太阳入朝旺, 更有左辅、右弼、天魁、天钺、文昌、文曲,主其好动的性格,可以获得满足。反之,太阳 落陷见煞曜化忌,则只是徒然忙碌,忙而感到辛苦。

(二)太阳在丑未宫和太阴同度,或在辰宫戌宫独坐,太阴拱照,原文称为[阴阳调和,能 享受快乐]。其实是主既有太阳好动的性格,也有太阴好静的一面,因此,命造容易适应各 种环境,静时固然悠然自得,动时亦精彩刺激。不过,见文昌文曲则倾向静,见左辅右弼天 魁天钺,则倾向动。

(三)太阳天梁同度卯宫酉宫,或太阳独坐子宫午宫,天梁独坐,原文称之为[名士式的懒 趣],这句话形容得颇到要害。天梁具有名士风度,爱悠闲,不原奔波忙碌,因此,其人生 有时嫌欠活力,由于太阳偏巧主动,故此,当见火星、铃星、擎羊、陀罗时,便主心想安宁 而现实不许可。太阳天梁见煞曜,亦发挥天梁过度自以为是的性格,心理如顽石一样,故有 时不容易和人家妥协,以致影响人际关系。


(四)太阳巨门同度,或太阳受巨门拱照,因巨门有劳心劳神性质,故在福德宫比较不利,
主多粗劳,见火星、铃星、擎羊、陀罗等,尤其如此,不单是自寻劳碌,而且是受客观环境
压力。太阳化忌或巨门化忌更甚。

(五)原文说[太阳落陷,自寻忙碌。]凡是太阳落于陷宫,即在戌、亥、子、丑四宫,纵
不见煞曜,也主忙碌,但若得吉曜,则劳而有成,或是享受劳碌的乐趣。

(六)女命福德宫太阳坐守,因太阳主男性,故原文有[得热情的夫婿而能享受快乐]之说, 这可以从两方面:就命造的心理而言,她对于性欲有健康的兴趣;在现实方面,她遇上一个 同样喜欢闺房之乐的男人,这样就如鱼得水。见左辅、右弼、天魁、天钺、文昌、文曲,尤 其如此。不过,如果福德宫更见红鸾、天喜、咸池、大耗、天姚、沐浴等桃花,则该女命的 性欲非常强烈,几乎要求夜夜销魂,故此,如果夫妻宫不吉利,则可能是夫婿吃不消,或因 性欲房事,而有数度婚姻或婚外情。


12 ( )


原文:

太阳入朝临父母宫,主父母无刑克。会吉星,则幼年受父母笃爱。父在事业上握权力, 贵而且富。太阳星落陷者,克父。如逢化忌星,擎羊、陀罗、火星、铃星、空劫、天刑者, 须注意太阴星是否有煞星同躔,则主克母。因父在母死后,便成孤独寂寞之人。若太阴星有 吉星及天梁、天寿、解神、天福等星扶持者,主先克父。

评注:

(一)太阳在父母宫为吉曜,且以入朝旺为佳,主和父母的关系良好,[无刑克],但要不
见火铃羊陀空劫化忌等才是。

(二)太阳会吉,[幼年受父母笃爱],这亦可以分开来说:会左辅、右弼,主父母能承担 照顾的责任;会天魁、天钺,主得父母提拔帮助,特别是在教育方面;会文昌、文曲,主两 代间的感情和洽。上述情况,尤其是得父亲的爱护,不过,这要太阳入朝居旺才是,并且以 日生人为佳。落陷和夜生人则不是。

(三)太阳在父母宫,必须入朝且有六吉齐会,更有禄存、天马,始主父亲[贵而且富], 在事业上握有权力,落陷则减等,且就是得吉星,也刑克,最轻微的是感情不和,如果太阳 化忌,或更有火星、铃星、擎羊、陀罗等则刑克父亲,或为父亲事业不顺境,或为父亲多病 痛。斌兆公在文中,提出一个秘传,就是太阴星有煞曜同度,而太阳则会诸煞,这样,反而 主先克母,而父亲则因母死而[孤独寂寞]。相反,太阴会天梁、天寿、解神、天福等,则先 克父,而母亲便为孤独寂寞。







原文:


武曲星在五行属阴金,在天上属北斗星,化为财,是财帛宫的主星。在人命中,能发亦
能败。武曲星最忌化忌星,则事业失败。会煞星,则焦头烂额,不堪收拾。最喜化禄,则财 源涌到,事业发展,威名远震。在辰戌二宫,有左辅、右弼、天魁、天钺、文昌、文曲等会 照,更遇化禄、化权、化科拱照者,最是上格。在巳亥二平宫者,有专门技能。若逢擎羊、 陀罗、火星、铃星,乃是技巧的工作者。武曲命宫,在卯落陷,而贪狼在亥宫,有禄存冲照, 或同度天马星,及其他辅星吉曜者,主人身体肥胖,或作事有气魄、有胆力、有作为,此英 雄末路得遇贵人之象。若有擎羊、陀罗、火星、铃星、空劫、天刑者,则是军人武士或是杀 猪杀羊、斩杀牲口的屠夫。化忌星寿元夭短。武曲在天罗、地网宫,与贪狼对宫,若化忌星 有擎羊、陀罗者,主寿夭,或少年时有病有灾甚重;不化忌星者,三十岁后始发。武曲星在 丑未二宫,则主少年享受,但有克星。在古书中,以武曲星宜男命,不宜女命,但目今社会, 男女早趋平等,故武曲星临女命,则主女子而有男子丈夫气概。会照左辅、右弼、三台、八
座等吉曜辅星者,为女中豪杰。更逢化禄、化权、化科及天刑入庙者,乃社会闻人。在陷地 逢四煞者,刑克孤独。武曲星最喜天魁、天钺,如武曲入庙,有魁钺,无擎羊、陀罗、火星、 铃星、空劫者,主握经济大权或为财政界要员,为大富大贵之格。如会禄存天马,更能在他 乡远地发巨财。

评注:

(一)武曲星是财帛主,天府星也是财帛主,太阴星亦是财帛主。推断武曲星的性质, 必不可忽略这个意义,不过,这三曜的财帛性质有异:武曲星是求财之星,有动力,积极奋 斗;天府星是储财之星,不主生财;太阴星主计划生财,运筹帷幄。

(二)原文说武曲星[能发亦能败],是既从好的一面看武曲,又自坏的一面观武曲。 如果武曲得禄曜,无论是化禄或禄存均佳,更得天马,或甚至成[禄马交驰],则主富裕, 可以发达。但如果武曲化忌,则不利财运,主[事业失败],不过,武曲化忌也有金属利器 的性质,故如果是利用金属利器生财,则不一定[事业失败],甚至可能以武曲化忌为事业 顺利的徵兆。这类行业,包括屠夫、军警、工业实业、保安等。武曲化忌,最不宜从事财务、 经济、金融投资等生意,绝对不利财运。

(三)武曲不喜见煞曜,见之容易[焦头烂额],以不投机为宜,脚踏实地仍可安稳。 在众煞曜中,最不喜地空地劫,因为二曜把财气空掉,刚好和武曲的性质相反。其次则不喜 擎羊、陀罗。如果六煞齐会,则如讲义所言:[不可收拾。]

(四)武曲星喜得禄曜,[最喜化禄],不过,并不是所有化禄在武曲眼中,都是平等的, 不同的化禄对武曲的意义有别。最喜为武曲自身化禄,主容易生财,其次为廉贞化禄,亦利 生财;再其次,则是破军化禄,对于从事商业有突破性的转机。再次之则是贪狼化禄,可以 交际生财,或利于投资,而禄存则仅利于储财。原文的[财源涌到,事业发展,威名远震], 当以武曲化禄最佳。最理想的,当然是化禄和禄存一起会照。


(五)武曲在辰戌二宫,是唯一独坐的星系,而且入庙,这结构最容易成为武曲的上格,
财源最为丰厚,容易建立名声。原文指出,辰戌武曲会辅弼魁钺昌曲及三吉化,[最是上格], 不过,若无魁钺辅弼,则不宜见文昌文曲,因为昌曲是文星,武曲是武曜,性质并不协调, 具体而言,主命造流于三心两意,优柔寡断,欠成大事者的决断力。

(六)武曲在巳宫亥宫和破军同度,此星系力量较弱,较难成上格,因此,如要能安身 立命,便应该培养一技之长,[有专门技能],则一生不忧,在哪里都能生活顺遂,反之,身 无一技,则难免浪汤天涯。

(七)武曲会火星、铃星、擎羊、陀罗等,讲义称为[技巧的工作者],实际上,这是 反话,真正的意思应是:如果这种命格不培养成为[技巧的工作者],则生活艰苦,事业难 成。

(八)武曲在卯宫落陷,和七杀同度,三方见贪狼廉贞同度于亥宫,更有禄存天马,及 左辅、右弼、天魁、天钺,主身体肥胖、气魄、胆力、作为等,为[英雄末路遇贵人]。这 是斌兆公的秘传,唯说得比较复杂,实际可以系统一些:卯宫武曲七杀,见三合宫廉贞贪狼 禄存同度,廉贞贪狼天马同度,更有四辅曜,便有上述的克应。在运限大凶之时,形势极不 利,却可以因遇上贵人,而否极泰来。

(九)武曲会火铃羊陀空劫刑,这是煞气的星系,故为[军人武士]或[屠夫]之命格, 但如果不从事这类工作,则事业多阴滞和压力,尤其是武曲化忌。相反,从事投资、财务、 经济等,则必破败。

(十)武曲化忌在命宫,每主[元寿夭短],因为武曲煞气重,容易有意外血光等灾, 更见火铃羊陀空劫天刑等,尤甚。武曲在子宫午宫和天府同度,此星系坐命宫,主长寿,见 天寿尤甚,但如果武曲化忌,则长寿的吉利减等,不主长寿。

(十一)武曲化忌在辰戌二宫,贪狼对拱,更有陀罗或擎羊同度对拱,斌兆公指为[寿 夭]、[少年时有病有灾甚重]。斌兆公并没有说明具体情况,实际上,这是意外伤残的星系, 也是属于肺痨病的星系,过去的岁月,肺痨可说是绝症,故少年得此病,每每早夭,不过, 今时今日则有所不同。

(十二)武曲贪狼同度,或武曲独坐而贪狼拱照,武曲不化忌,贪狼也不化忌,主[三 十岁后始发],但是,这星系又容易在[少年享受],唯若真的享受,则少壮不努力,老大徒 悲伤,三十岁后恐不能发。因此,这类星系的命造,应该惜取少年时,则后运甚佳。

(十三)斌兆公在本文提出了一段很有时代感的话,这是在五十年代提出的,可见斌兆 公的先知先觉。他指出[武曲宜男命,不宜女命],但在男女早趋平等的社会,亦主女命武 曲有气概。不过,我们仍要注意武曲女命不利婚姻的一面,因为武曲性刚,女人性刚时,很 多男人都受不了,因此,她们纵想有男人亲近,男人也每每退避三舍。女命武曲,得左辅右 弼,可为女中豪杰,原文亦提及三台八座,不过,这只是次要的星曜,左辅右弼天魁天钺的 组合,比左辅右弼三台八座的组合,更佳。不过,这类女命,性格更强,婚姻可能更加不利, 以迟婚为宜。

(十四)武曲会三吉化和天刑,为[社会闻人],不过,这是因军事刑警而闻名,利武


职。不见天刑,则主其他方面闻名,具体性质,要视杂曜的组合而定。

(十五)武曲有孤克之性,不利六亲缘,因此,[陷地逢四煞者,刑克孤独],幼年离开 父母,或和父母感情不佳,亦不利婚姻,难结识异性。晚年则欠子女缘。故宜注意精神修养 及精神寄托。

(十六)武曲最喜禄存化禄,其次则为天魁天钺。禄曜为财气,魁钺则是机会,只要有 机会,则武曲就能有所发挥,可经努力而握经济大权,或为财政界要员。故此,武曲在命或 在财帛宫,或在事业宫,最理想的组合,是得禄存、化禄、天魁、天钺,可以因机会而发达。 武曲禄存天马,是为经商的命造,除了如原文所言:[他乡远地发巨财。]亦可以在本地经商。






原文:

武曲在命宫,主人面色青白或是青黑及青黄色。面型圆长,性情至刚至毅,处事果决。 戌宫辰宫身瘦长。卯宫肥胖。其他宫位都身形小而声高大,其量亦大。与七杀同在酉宫,亦 有身长高大者。逢禄存、天马、化禄、化科者,福厚。文昌、文曲同躔,有吉星扶持,出将 入相,能掌百万雄兵,以武职最为相宜;文人则多学多能。与贪狼会照,必须遇合火星,方 是上格。在卯宫立命,化忌星或有煞星者,有木压雷惊之灾。在酉宫会煞星,有意外之灾。 立命子宫,会照破军、贪狼、化忌及煞星者,主有溺水之灾或是有投河的不幸。如与火星、 七杀同度,就主为财利事业而招遇到意外灾禍。再逢化忌星及大耗星,则有盗贼枪劫等事发 生。如与擎羊、七杀、空劫同度,则因财利而持刀动武。如武曲与禄存同度,无空劫,虽能 富有,但是损人利己的自私者。武曲在命宫,性情都主刚强,遇破军,成独夫的性格,一生 必多是非。有左辅、右弼者,外刚强而内忠厚,武曲在子,有吉星及天马会照者,可以远涉 重洋,遨游国外。

女命武曲入庙,有男子丈夫气概,能握大权,更可富贵。最喜会照天府、左辅、右弼、 天魁、天钺、禄存、天马,则是女中豪杰,处事果断,志气极高,富贵双全之格。最恶化忌 星落陷或会照煞星,主寿短凶亡,刑夫克子。若落陷化忌星,再会文昌、文曲、咸池、廉真、 天姚等星,则行为轻荡。如会有化权、化科、化禄、天刑者,不是。武曲女命,妇夺夫权者。

大限流年武曲星入庙,有吉星会照,主事业兴旺,财利茂盛。遇文昌、文曲、天魁、天 钺,再化禄星,年升三级,主成大富。化权星,则事业发展,谋望有成。化科星,则地位崇 高,名誉远震。武曲化忌或落陷者,则事业失败,金钱纠纷,困难重重。再逢擎羊、陀罗, 则为钱财而发生讼词或狱灾。逢火星、大耗,有虚惊或火灾。遇空劫、大耗、破军者,有经 济周转困难、事业搁浅的现象。

评注:

(一)武曲在命,虽然说是面型圆长,但实际上亦有一些比较瘦削的。性情虽说是[至 刚至毅、处事果决],但实际亦有一些武曲女命,外表温柔,唯意志立场却很坚硬,这未必 能从外表上窥见。


(二)武曲在辰戌宫守命主瘦长,这是由于辰戌为[天罗地网]的原故,把武曲困著。

(三)斌兆公在本文提出一个对判别武曲命格很重要的形性经验,即除了卯酉二宫,[其
他宫位都身形小而声高大],即他们尽管不高大,但声音却颇见铿锵,如金属碰撞一般清脆。

(四)七杀在命的形相比较高大,但多呈瘦削。武曲在卯酉二宫,武曲七杀同度,则比 较高大而非形小。而在卯宫武曲落陷,则武杀同度主肥胖,但因为现代人很多都强调减肥, 尤其是女人,故论命者未必能从当事人的外相,加以判断。

(五)武曲[逢禄存、天马、化禄、化科者,福厚。]这福厚是由于物质生活丰厚之故, 武曲为财星,禄存化禄及天马,大大加强了生财和储财的能力,化科则增加才智,提高生财 的本领。至于精神生活的福气,如清福、安闲之乐等,则非武曲所主。

(六)原文提到武曲会文昌、文曲,更见吉曜,即见左辅、右弼、天魁、天钺等,主[出 将入相,能掌百万雄兵,以武职最为相宜。]这是从古代的就业环境而言。武曲为武将之星, 得文昌文曲,可成军师,以兵法布阵见长,更有辅弼魁钺,则擅于统领,管理军队的能力强。 在现代社会,武曲得文昌文曲,更见辅弼魁钺,除利于军队,亦利其他纪律部队。而更常见 的情况,则是利于财经银行金融业,昌曲加增对金融走势的判断和识见,这些行业的智囊人 才。更见辅弼魁钺则能管理大机构。但如果仅有文昌文曲,却欠辅弼魁钺,则命造每流于优 柔寡断,欠缺金融投资的决断明朗,反而不利。不过,却可当[文人],[多学多能],从事 文化、出版、教育、编辑采访等工作,所涉猎的范围,亦以金融经济为佳,汽车资讯亦宜。

(七)武曲在丑宫、未宫、辰宫、戌宫入庙,在丑未宫和贪狼同度,在辰戌宫独坐,却 有贪狼拱照。这是武曲正曜星系最佳的结构,如原文所言,以[遇合火星]为上格,而最佳 的,是火星和贪狼同度,这成为[火贪格],主暴发突发,做生意或投资,有突然而来的良 机,擅于把握,可以一登龙门,声价十倍,资产亦翻几翻。不过,若更有擎羊、陀罗、地空、 地劫、化忌,则恐防横发横破,发不耐久。武曲贪狼会铃星亦佳,这是[铃贪格],亦主横 发,但不如火贪格那样上等。

(八)在卯宫,武曲七杀同度,二曜都是武曲,带有煞气,且武曲和七杀都在卯宫落陷, 故本质上有不吉之处,故此,如武曲化忌,或遇火星、铃星、擎羊、陀罗、天刑、大耗,古 人称为有[木压雷惊之灾],在现代社会,多为楼房倒塌,或是为坠物所伤,或是触电。酉 宫也有类似的性质,但亦包括其他意外伤害。

(九)原文有一段很费解的:[(武曲)立命子宫,会照破军、贪狼、化忌及煞曜者,主 有溺水之灾或是有投河的不幸。]查实武曲在子宫,必和天府同度,这是长寿安稳的星系, 不主意外之灾,而且亦不会遇破军、贪狼。实际上,这是原讲义有误,斌兆公是指武曲在亥 宫和破军同度。武曲破军为性质变化不稳的星系,三方见贪狼,更有化忌,无论是武曲化忌 或贪狼化忌,更见火铃羊陀刑耗等煞曜凶星,则主意外。由于亥宫五行属水,因此,便有[溺 水]、[投河]等经验,这亦即是遇溺,但如果福德宫亦大凶,就可能是投水自杀。

(十)武曲和七杀火星同度,此为[意外灾祸]的星系,虽然财帛宫贪狼遇上火星,有 横发的性质,却是发不耐久。更见化忌大耗,则遭[盗贼抢劫],最不喜的是武曲自身化忌, 廉贞化忌次之。
Đầu trang

Trả lời bài viết