Đất Phật
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
TUẦN TỰ NÓI VỀ 16 CÕI SẮC GIỚI
16 cõi trời Sắc-giới này là trú xứ Chư Phạm Thiên, vậy từ Brahma này có ý nghĩa ra sao? Và hạng người nào? Từ Phạm Thiên Brahma, nghĩa là người tu tiến với ân Đức đặc biệt như thiền định chẳng hạn. Gọi là Brahma tức là Chư Thiên ở trong cõi Phạm Thiên.
Những Chư Thiên phát triển tu tiến pháp thù thắng đặc biệt như thiền... Do vậy, những Chư Thiên ấy được Gọi là Phạm Thiên.
Giải rằng: Sự phát triển có hai: Là sự phát triển theo đời và sự phát triển theo Đạo pháp.
- Sự phát triển theo đời, là việc đầy đủ tài sản, danh vọng, tùy tùng, chỗ ở, chỗ nương, các vật thọ dụng, có trình độ và kiến thức về nghệ thuật thế gian, có tuổi thọ dài, có màu da xinh đẹp, có sự an lạc thân tâm, có sức mạnh. Những điều này, gọi là có sự phát triển theo đời.
- Sự phát triển theo Đạo pháp, là việc phát triển theo các loại thiện pháp như: Giới, Định, Tuệ hoặc Thiền, Thắng trí, Đạo-quả, Níp- Bàn. Hay làm Tăng Trưởng Pháp học, Pháp hành, Pháp thành. Những điều này gọi là có sự phát triển theo Đạo pháp.
Đối với người được gọi là Phạm Thiên, thường có sự phát triển cả đời lẫn Đạo. Sự phát triển theo đời của vị Phạm Thiên ấy là việc có tuổi thọ lâu dài, màu da xinh đẹp, thanh khiết có sự an lạc thù thắng, có thần lực mạnh mẽ, có Thiên cung rực rỡ xinh đẹp, có vườn hoa ngoại cảnh, có đồ chúng thích hợp. Các tài sản của hàng Phạm Thiên thù thắng đặc biệt hơn Chư Thiên cõi dục.
Sự tăng trưởng Đạo pháp của vị Phạm Thiên là: Việc có giới, định, tuệ hoặc Thiền chứng, thắng trí và phạm trú pháp. Việc phát triển các pháp có ân Đức đặc biệt như Thiền... cho nên mới Gọi là Phạm Thiên.
-ooOoo-
NÓI VỀ BA CÕI SƠ THIỀN
1- Phạm Chúng Thiên:
Định nghĩa: Parisati bhavā = Pārijjā. Hạng ở trong đồ chúng Gọi là Pārisajja, tức là hạng thông thường, không có quyền lực gì đặc biệt.
Hạng Phạm Thiên đồ chúng của Đại Phạm Thiên, Gọi là Phạm Chúng Thiên, nghĩa là hạng Phạm Chúng Thiên này là tùy tùng của Đại Phạm Thiên.
Trong bốn cõi sắc là: Cõi Sơ-thiền, cõi Nhị-thiền, cõi Tam-thiền, cõi Tứ-thiền (ngoại trừ cõi chúng sanh Vô-tưởng). Cả 4 cõi, mỗi cõi đều chia Phạm Thiên ra thành ba bậc:
1- Phạm Thiên làm tùy tùng phục vụ cho Phạm Thiên thủ lãnh, gọi là Phạm Chúng Thiên.
2- Phạm Thiên là cố vấn giúp việc cho Phạm Thiên thủ lãnh, gọi là Phạm Phụ Thiên.
3- Phạm Thiên là thủ lãnh, gọi là Đại Phạm Thiên.
Cả ba hạng Phạm Thiên này đều có trong 4 cõi sắc. Từ Phạm Chúng Thiên này là tên của một hạng Phạm Thiên sanh trong cõi Sơ-thiền, và những chỗ sanh, chỗ nương của hạng Phạm Thiên này, cũng gọi là phạm chúng Thiên. Ở đây, lấy tên của người ở trong chỗ ấy và đặt tên cho chỗ ấy. Và ở đây đặt tên theo Tīhānayùpacāranaya, tức là đặt tên theo lối đa diện chứ không phải đặt tên theo lối trực diện.
Định nghĩa của từ Phạm Chúng Thiên cũng là tên của cõi như vầy:
Tầng nào là chỗ sanh, chỗ nương của hạng Phạm Chúng Thiên, tầng ấy cũng là tầng Phạm Chúng Thiên.
2- Phạm Phụ Thiên:
Định nghĩa: Pure ucce tīhāne chanti tiṭṭhantīti = Purohitā.
Người có chức vị cao, có vị trí là người chỉ dẫn trong mọi công việc của Đại Phạm Thiên, Gọi là Purohitā - Cố vấn. Hoặc:
"Pure ucce dhīyate thapiyatehi = Purohito".
Người được sắp đặt trong chức vị là người dẫn dắt, Gọi là Purohita.
Hai định nghĩa này là người có chức vị Purohita.
Hạng Phạm Thiên làm cố vấn cho Đại Phạm Thiên, gọi là Phạm Phụ Thiên.
Từ Phạm Phụ Thiên này cũng là tên của hạng Phạm Thiên sanh trong cõi Sơ-thiền. Những chỗ sanh, chỗ nương của hạng Phạm Thiên này cũng có tên là Phạm Phụ Thiên, do lấy tên của người nương trong chỗ ấy mà đặt tên cho chỗ ấy.
Định nghĩa của từ Phạm Phụ Thiên cũng là tên của cõi như vầy:
"Brahmapurohitānaṃ nibbattāti = Brahmapurohitā".
Tầng nào là chỗ sanh, chỗ nương của hạng Phạm Thiên cố vấn, tầng ấy Gọi là Phạm Phụ Thiên.
3- Đại Phạm Thiên:
Định nghĩa: Brūhati parivaddhatīti = Brahmā.
Người có sự phát triển với ân Đức đặc biệt như Thiền... Gọi là Phạm Thiên, tức người có sự phát triển trong thiền, thắng trí và tuổi thọ, dung sắc, an lạc, sức lực nhiều hơn nhân loại, cùng với tất cả Chư Thiên Dục-giới.
Vị Phạm Thiên lớn hơn cả (trưởng), Gọi là Đại Phạm Thiên, tức vị Phạm Thiên thù thắng, to trọng hơn cả Phạm Chúng Thiên và Phạm Phụ Thiên.
Đại Phạm Thiên có ba hạng là:
1- Đại Phạm Thiên có hào quang phát ra xa 1000 Cakkavāḷa, gọi là Sahassabrahma.
2- Đại Phạm Thiên có hào quang phát ra xa 2000 Cakkavāḷa, gọi là Dvisahassabrahma.
3- Đại Phạm Thiên có hào quang phát ra xa 3000 Cakkavāḷa, gọi là Tisahassabrahma.
Chỗ sanh, chỗ nương của các vị Đại Phạm Thiên, gọi là tầng Đại Phạm Thiên.
Từ Đại Phạm Thiên ấy cũng là tên của hạng Phạm Thiên thù thắng vĩ Đại trong cõi Sơ-thiền, và chỗ của hạng Phạm Thiên này cũng Gọi là Đại Phạm Thiên, bởi lấy tên của người nương trong chỗ ấy và đặt tên cho chỗ ấy, giống như hai tầng đã trình bày trên.
Vị trí của bậc Sơ-thiền này không phải nằm theo thứ tự tầng bậc. Thật vậy, ba cõi Sơ-thiền này cùng nằm trong 1 lãnh vực như nhau, giống như lãnh vực của nhân loại. Lãnh vực này nằm giữa hư không, cách xa cõi Tha-hóa-tự-tại là 5.508.000 do tuần, đầy khắp Phạm cung, vườn hoa, hồ nước, được an lập trên nền hình thành bởi 7 loại báu, có hào quang vô cùng xinh đẹp. Trong ba cõi Sơ-thiền được chia ranh giới ra thành từng phần, một phần là trú xứ của Đại Phạm Thiên, một phần là trú xứ của Phạm Thiên, một phần là trú xứ của Phạm Chúng Thiên.
Tất cả đều cùng ở trong một lãnh vực với nhau. Nhưng sở dĩ gọi tên theo thứ tự tầng bậc, không phải mục đích lấy cõi, mà chỉ nương gọi theo chức vụ của Chư Phạm Thiên trong cõi Sơ-thiền này, như trong Dhammahadaya vibhaṅga aṭṭhakathā có nêu rằng: Ime tayopi janā pathamajjhānabhūmiyaṃ ekatale vasanti.
Cả ba hạng Phạm Thiên này ở trong cùng một lãnh vực của cõi Sơ-thiền. Có vị Đại Phạm Thiên là bậc cao trọng trong cõi Sơ-thiền. Sở dĩ biết được như thế cũng do nương vào ý nghĩa mà Đức Thế Tôn thuyết trong kinh Brahmajāla rằng:
"Khi thế gian bị diệt bằng lửa, bằng nước, bằng gió thì cõi Sơ-thiền này đều bị hủy hoại đi mỗi lần, và khi bắt đầu hình thành thế gian mới, trong cõi Sơ-thiền cũng có một vị Đại Phạm Thiên sanh lên trước, còn Phạm Phụ Thiên và Phạm Chúng Thiên, hai hạng này sanh đến sau".
Lại nữa, Ngài đã thuyết trong kinh Brahmasamyutta rằng:
"Tatra sudaṃ bhikkhave brahmā (mahābrahmā) ca brahmaparisā ca brahmapārisajjā da ujjhāyanti khīyanti ..."
Theo đoạn Pāli trên, sau khi xét theo văn phạm thì thấy rằng:
"Từ chỉ một vị Phạm Thiên là số ít, còn từ chỉ Phạm Phụ Thiên và Phạm Chúng Thiên thì dùng số nhiều. Do nhân này mới kết luận rằng: Chỉ có một vị Đại Phạm Thiên trong cõi Sơ-thiền.
-ooOoo-
16 cõi trời Sắc-giới này là trú xứ Chư Phạm Thiên, vậy từ Brahma này có ý nghĩa ra sao? Và hạng người nào? Từ Phạm Thiên Brahma, nghĩa là người tu tiến với ân Đức đặc biệt như thiền định chẳng hạn. Gọi là Brahma tức là Chư Thiên ở trong cõi Phạm Thiên.
Những Chư Thiên phát triển tu tiến pháp thù thắng đặc biệt như thiền... Do vậy, những Chư Thiên ấy được Gọi là Phạm Thiên.
Giải rằng: Sự phát triển có hai: Là sự phát triển theo đời và sự phát triển theo Đạo pháp.
- Sự phát triển theo đời, là việc đầy đủ tài sản, danh vọng, tùy tùng, chỗ ở, chỗ nương, các vật thọ dụng, có trình độ và kiến thức về nghệ thuật thế gian, có tuổi thọ dài, có màu da xinh đẹp, có sự an lạc thân tâm, có sức mạnh. Những điều này, gọi là có sự phát triển theo đời.
- Sự phát triển theo Đạo pháp, là việc phát triển theo các loại thiện pháp như: Giới, Định, Tuệ hoặc Thiền, Thắng trí, Đạo-quả, Níp- Bàn. Hay làm Tăng Trưởng Pháp học, Pháp hành, Pháp thành. Những điều này gọi là có sự phát triển theo Đạo pháp.
Đối với người được gọi là Phạm Thiên, thường có sự phát triển cả đời lẫn Đạo. Sự phát triển theo đời của vị Phạm Thiên ấy là việc có tuổi thọ lâu dài, màu da xinh đẹp, thanh khiết có sự an lạc thù thắng, có thần lực mạnh mẽ, có Thiên cung rực rỡ xinh đẹp, có vườn hoa ngoại cảnh, có đồ chúng thích hợp. Các tài sản của hàng Phạm Thiên thù thắng đặc biệt hơn Chư Thiên cõi dục.
Sự tăng trưởng Đạo pháp của vị Phạm Thiên là: Việc có giới, định, tuệ hoặc Thiền chứng, thắng trí và phạm trú pháp. Việc phát triển các pháp có ân Đức đặc biệt như Thiền... cho nên mới Gọi là Phạm Thiên.
-ooOoo-
NÓI VỀ BA CÕI SƠ THIỀN
1- Phạm Chúng Thiên:
Định nghĩa: Parisati bhavā = Pārijjā. Hạng ở trong đồ chúng Gọi là Pārisajja, tức là hạng thông thường, không có quyền lực gì đặc biệt.
Hạng Phạm Thiên đồ chúng của Đại Phạm Thiên, Gọi là Phạm Chúng Thiên, nghĩa là hạng Phạm Chúng Thiên này là tùy tùng của Đại Phạm Thiên.
Trong bốn cõi sắc là: Cõi Sơ-thiền, cõi Nhị-thiền, cõi Tam-thiền, cõi Tứ-thiền (ngoại trừ cõi chúng sanh Vô-tưởng). Cả 4 cõi, mỗi cõi đều chia Phạm Thiên ra thành ba bậc:
1- Phạm Thiên làm tùy tùng phục vụ cho Phạm Thiên thủ lãnh, gọi là Phạm Chúng Thiên.
2- Phạm Thiên là cố vấn giúp việc cho Phạm Thiên thủ lãnh, gọi là Phạm Phụ Thiên.
3- Phạm Thiên là thủ lãnh, gọi là Đại Phạm Thiên.
Cả ba hạng Phạm Thiên này đều có trong 4 cõi sắc. Từ Phạm Chúng Thiên này là tên của một hạng Phạm Thiên sanh trong cõi Sơ-thiền, và những chỗ sanh, chỗ nương của hạng Phạm Thiên này, cũng gọi là phạm chúng Thiên. Ở đây, lấy tên của người ở trong chỗ ấy và đặt tên cho chỗ ấy. Và ở đây đặt tên theo Tīhānayùpacāranaya, tức là đặt tên theo lối đa diện chứ không phải đặt tên theo lối trực diện.
Định nghĩa của từ Phạm Chúng Thiên cũng là tên của cõi như vầy:
Tầng nào là chỗ sanh, chỗ nương của hạng Phạm Chúng Thiên, tầng ấy cũng là tầng Phạm Chúng Thiên.
2- Phạm Phụ Thiên:
Định nghĩa: Pure ucce tīhāne chanti tiṭṭhantīti = Purohitā.
Người có chức vị cao, có vị trí là người chỉ dẫn trong mọi công việc của Đại Phạm Thiên, Gọi là Purohitā - Cố vấn. Hoặc:
"Pure ucce dhīyate thapiyatehi = Purohito".
Người được sắp đặt trong chức vị là người dẫn dắt, Gọi là Purohita.
Hai định nghĩa này là người có chức vị Purohita.
Hạng Phạm Thiên làm cố vấn cho Đại Phạm Thiên, gọi là Phạm Phụ Thiên.
Từ Phạm Phụ Thiên này cũng là tên của hạng Phạm Thiên sanh trong cõi Sơ-thiền. Những chỗ sanh, chỗ nương của hạng Phạm Thiên này cũng có tên là Phạm Phụ Thiên, do lấy tên của người nương trong chỗ ấy mà đặt tên cho chỗ ấy.
Định nghĩa của từ Phạm Phụ Thiên cũng là tên của cõi như vầy:
"Brahmapurohitānaṃ nibbattāti = Brahmapurohitā".
Tầng nào là chỗ sanh, chỗ nương của hạng Phạm Thiên cố vấn, tầng ấy Gọi là Phạm Phụ Thiên.
3- Đại Phạm Thiên:
Định nghĩa: Brūhati parivaddhatīti = Brahmā.
Người có sự phát triển với ân Đức đặc biệt như Thiền... Gọi là Phạm Thiên, tức người có sự phát triển trong thiền, thắng trí và tuổi thọ, dung sắc, an lạc, sức lực nhiều hơn nhân loại, cùng với tất cả Chư Thiên Dục-giới.
Vị Phạm Thiên lớn hơn cả (trưởng), Gọi là Đại Phạm Thiên, tức vị Phạm Thiên thù thắng, to trọng hơn cả Phạm Chúng Thiên và Phạm Phụ Thiên.
Đại Phạm Thiên có ba hạng là:
1- Đại Phạm Thiên có hào quang phát ra xa 1000 Cakkavāḷa, gọi là Sahassabrahma.
2- Đại Phạm Thiên có hào quang phát ra xa 2000 Cakkavāḷa, gọi là Dvisahassabrahma.
3- Đại Phạm Thiên có hào quang phát ra xa 3000 Cakkavāḷa, gọi là Tisahassabrahma.
Chỗ sanh, chỗ nương của các vị Đại Phạm Thiên, gọi là tầng Đại Phạm Thiên.
Từ Đại Phạm Thiên ấy cũng là tên của hạng Phạm Thiên thù thắng vĩ Đại trong cõi Sơ-thiền, và chỗ của hạng Phạm Thiên này cũng Gọi là Đại Phạm Thiên, bởi lấy tên của người nương trong chỗ ấy và đặt tên cho chỗ ấy, giống như hai tầng đã trình bày trên.
Vị trí của bậc Sơ-thiền này không phải nằm theo thứ tự tầng bậc. Thật vậy, ba cõi Sơ-thiền này cùng nằm trong 1 lãnh vực như nhau, giống như lãnh vực của nhân loại. Lãnh vực này nằm giữa hư không, cách xa cõi Tha-hóa-tự-tại là 5.508.000 do tuần, đầy khắp Phạm cung, vườn hoa, hồ nước, được an lập trên nền hình thành bởi 7 loại báu, có hào quang vô cùng xinh đẹp. Trong ba cõi Sơ-thiền được chia ranh giới ra thành từng phần, một phần là trú xứ của Đại Phạm Thiên, một phần là trú xứ của Phạm Thiên, một phần là trú xứ của Phạm Chúng Thiên.
Tất cả đều cùng ở trong một lãnh vực với nhau. Nhưng sở dĩ gọi tên theo thứ tự tầng bậc, không phải mục đích lấy cõi, mà chỉ nương gọi theo chức vụ của Chư Phạm Thiên trong cõi Sơ-thiền này, như trong Dhammahadaya vibhaṅga aṭṭhakathā có nêu rằng: Ime tayopi janā pathamajjhānabhūmiyaṃ ekatale vasanti.
Cả ba hạng Phạm Thiên này ở trong cùng một lãnh vực của cõi Sơ-thiền. Có vị Đại Phạm Thiên là bậc cao trọng trong cõi Sơ-thiền. Sở dĩ biết được như thế cũng do nương vào ý nghĩa mà Đức Thế Tôn thuyết trong kinh Brahmajāla rằng:
"Khi thế gian bị diệt bằng lửa, bằng nước, bằng gió thì cõi Sơ-thiền này đều bị hủy hoại đi mỗi lần, và khi bắt đầu hình thành thế gian mới, trong cõi Sơ-thiền cũng có một vị Đại Phạm Thiên sanh lên trước, còn Phạm Phụ Thiên và Phạm Chúng Thiên, hai hạng này sanh đến sau".
Lại nữa, Ngài đã thuyết trong kinh Brahmasamyutta rằng:
"Tatra sudaṃ bhikkhave brahmā (mahābrahmā) ca brahmaparisā ca brahmapārisajjā da ujjhāyanti khīyanti ..."
Theo đoạn Pāli trên, sau khi xét theo văn phạm thì thấy rằng:
"Từ chỉ một vị Phạm Thiên là số ít, còn từ chỉ Phạm Phụ Thiên và Phạm Chúng Thiên thì dùng số nhiều. Do nhân này mới kết luận rằng: Chỉ có một vị Đại Phạm Thiên trong cõi Sơ-thiền.
-ooOoo-
Được cảm ơn bởi: hey
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
NÓI VỀ BA CÕI NHỊ THIỀN
1- Cõi Thiểu Quang Thiên:
Định nghĩa: Parittā ābhā etesanti = Parittābhā.
Phạm Thiên có hào quang ít hơn Phạm Thiên ở phía trên, gọi là Thiểu Quang.
Parittānbhānaṃ nibbattāti = Parittābhā.
Chỗ sanh của Phạm Thiên Thiểu Quang, Gọi là Thiểu Quang.
2- Cõi Vô Lượng Quang Thiên:
Định nghĩa: Appamāṇā ābhā etesanti = Appamāṇābhā.
Phạm Thiên có hào quang Vô Lượng, Gọi là Vô Lượng Quang Thiên.
Appamāṇābhānaṃ nibbattāti = Appamāṇābhā.
Chỗ sanh của hạng Vô Lượng Quang Thiên, Gọi là Vô Lượng Quang.
3- Cõi Biến Quang (Quang Âm Thiên):
Định Nghĩa: Sarati nissaratīti = Sarā.
Hào quang có chỗ chiếu phát Gọi là Sarā.
Ābhāsarā etesanti = Ābhassarā.
Phạm Thiên có hào quang chiếu phát từ thân, Gọi là Ābhasarā.
Hoặc: "Ābhā saranti niccharanti etesūti = Ābhasarā.
Hào quang chiếu phát từ thân của hạng Phạm Thiên nào, do vậy hạng Phạm Thiên ấy gọi là Ābhasarā.
Các Phạm Thiên Quang âm này, có sự sung mãn hỷ ở trong thiền của mình và được diễn tiến do mãnh lực của hỷ thường xuyên. Chính vì vậy, mới là cho tâm trạng của hạng Phạm Thiên này rất tinh khiết, khi tâm được tinh khiết rồi thì sắc tâm cũng được tinh khiết theo, và chính do mãnh lực của tâm thanh khiết là nhân cho thấy sắc quý tiết, tức sắc hiện khởi cho thành ánh hào quang cũng được tinh khiết. Vì thế, sở dĩ hạng Quang Âm Thiên có hào quang biến mãn khắp thân này là do mãnh lực của sắc quṅ tiết nương vào sắc tâm sanh, gọi là Cittapaccaya utujarūpa mà có sự thanh khiết hiện khởi.
Ābhassarā nibbattāti = Ābhasarā.
Chỗ sanh của hàng Quang Âm Thiên, gọi là Quang Âm.
Từ Thiểu Quang, Vô Lượng Quang và Quang Âm. Cả ba tên này chính là tên của Chư Phạm Thiên, dùng tên cõi để đặt tên cho các hạng Phạm Thiên trong cõi ấy. Nơi đây, gọi tên theo Tīhānayūpacāranaya, giống như nhóm Phạm Thiên cõi Sơ-thiền vậy.
Vị trí ba cõi Nhị-thiền này nằm giữa hư không cách cõi Sơ-thiền 5.508.000 do tuần, phần nền của ba cõi này nằm trong lãnh vực, hình thành bằng 7 loại ngọc báu, đầy đủ với Thiên cung, vườn hoa, ao hồ và cây kiểng.
Ba cõi Nhị-thiền nằm giữa hư không ví như chiếc tàu lớn bồng bềnh giữa Đại dương. Và tất cả Chư Thiên trong ba cõi Nhị-thiền này:
- Hạng Thiểu Quang Thiên có chức vị như Phạm Chúng Thiên.
- Vô Lượng Quang Thiên có chức vụ như Phạm Phụ Thiên.
- Quang Âm Thiên có chức vị như Đại Phạm Thiên.
-ooOoo-
1- Cõi Thiểu Quang Thiên:
Định nghĩa: Parittā ābhā etesanti = Parittābhā.
Phạm Thiên có hào quang ít hơn Phạm Thiên ở phía trên, gọi là Thiểu Quang.
Parittānbhānaṃ nibbattāti = Parittābhā.
Chỗ sanh của Phạm Thiên Thiểu Quang, Gọi là Thiểu Quang.
2- Cõi Vô Lượng Quang Thiên:
Định nghĩa: Appamāṇā ābhā etesanti = Appamāṇābhā.
Phạm Thiên có hào quang Vô Lượng, Gọi là Vô Lượng Quang Thiên.
Appamāṇābhānaṃ nibbattāti = Appamāṇābhā.
Chỗ sanh của hạng Vô Lượng Quang Thiên, Gọi là Vô Lượng Quang.
3- Cõi Biến Quang (Quang Âm Thiên):
Định Nghĩa: Sarati nissaratīti = Sarā.
Hào quang có chỗ chiếu phát Gọi là Sarā.
Ābhāsarā etesanti = Ābhassarā.
Phạm Thiên có hào quang chiếu phát từ thân, Gọi là Ābhasarā.
Hoặc: "Ābhā saranti niccharanti etesūti = Ābhasarā.
Hào quang chiếu phát từ thân của hạng Phạm Thiên nào, do vậy hạng Phạm Thiên ấy gọi là Ābhasarā.
Các Phạm Thiên Quang âm này, có sự sung mãn hỷ ở trong thiền của mình và được diễn tiến do mãnh lực của hỷ thường xuyên. Chính vì vậy, mới là cho tâm trạng của hạng Phạm Thiên này rất tinh khiết, khi tâm được tinh khiết rồi thì sắc tâm cũng được tinh khiết theo, và chính do mãnh lực của tâm thanh khiết là nhân cho thấy sắc quý tiết, tức sắc hiện khởi cho thành ánh hào quang cũng được tinh khiết. Vì thế, sở dĩ hạng Quang Âm Thiên có hào quang biến mãn khắp thân này là do mãnh lực của sắc quṅ tiết nương vào sắc tâm sanh, gọi là Cittapaccaya utujarūpa mà có sự thanh khiết hiện khởi.
Ābhassarā nibbattāti = Ābhasarā.
Chỗ sanh của hàng Quang Âm Thiên, gọi là Quang Âm.
Từ Thiểu Quang, Vô Lượng Quang và Quang Âm. Cả ba tên này chính là tên của Chư Phạm Thiên, dùng tên cõi để đặt tên cho các hạng Phạm Thiên trong cõi ấy. Nơi đây, gọi tên theo Tīhānayūpacāranaya, giống như nhóm Phạm Thiên cõi Sơ-thiền vậy.
Vị trí ba cõi Nhị-thiền này nằm giữa hư không cách cõi Sơ-thiền 5.508.000 do tuần, phần nền của ba cõi này nằm trong lãnh vực, hình thành bằng 7 loại ngọc báu, đầy đủ với Thiên cung, vườn hoa, ao hồ và cây kiểng.
Ba cõi Nhị-thiền nằm giữa hư không ví như chiếc tàu lớn bồng bềnh giữa Đại dương. Và tất cả Chư Thiên trong ba cõi Nhị-thiền này:
- Hạng Thiểu Quang Thiên có chức vị như Phạm Chúng Thiên.
- Vô Lượng Quang Thiên có chức vụ như Phạm Phụ Thiên.
- Quang Âm Thiên có chức vị như Đại Phạm Thiên.
-ooOoo-
Được cảm ơn bởi: hey
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
NÓI VỀ BA CÕI TAM THIỀN
1- Cõi Thiểu Tịnh
Định nghĩa: Parittā subhā etesanti = Parittasubhā.
Phạm Thiên có hào quang xinh đẹp, nhưng ít hơn ở phía trên, Gọi là Thiểu Tịnh.
Parittasubhānaṃ nibbattāti = Parittasubhā.
Cõi sanh của các Thiểu Tịnh Thiên, Gọi là Thiểu Tịnh.
2- Cõi Vô Lượng Tịnh
Định nghĩa: Appamāṇa subhā etesanti = Appamāṇasubhā.
Phạm Thiên có hào quang xinh đẹp vô lượng, gọi là Vô Lượng Tịnh Thiên.
Appamāṇāsubhānaṃ nibbattāti = Appamāṇasubhā.
Cõi sanh của các Vô Lượng Tịnh Thiên, Gọi là Vô Lượng Tịnh.
3- Cõi Biến Tịnh
Định nghĩa: Subhāki ākiṇṇāti = Subhākiṇṇā. Phạm Thiên có hào quang xinh đẹp biến mãn khắp thân, gọi là Biến Tịnh.
Subhākiṇṇānaṃ nibbattāti = Subhākiṇṇā.
Cõi sanh của các Phạm Thiên Biến Tịnh, Gọi là Biến Tịnh.
Từ Subhā nơi đây ám chỉ đến sự xinh đẹp của hào quang phát ra từ thân của hàng Phạm Thiên ở cõi Tam-thiền này.
Hào quang như thế nào mới gọi là hào quang xinh đẹp.
Giải rằng: Hào quang xinh đẹp của các Phạm Thiên này có tướng trạng giống như hào quang của mặt trăng, tức ánh sáng hào quang ấy gom lại thành vòng tròn, không có sự rời rạc, chính vì vậy mới Gọi là Subhā, tức là hào quang xinh đẹp.
Từ Subhākiṇṇā này gọi là Subhakiṇhā cũng được, điều này diễn tiến theo văn phạm Pāli, tức là đổi Ā thành A, chữ ṇ thứ hai thành H, gom lại thành Subhakiṇhā. Hoặc muốn gọi là Subhakiṇṇā cũng được, không sai văn phạm. Như định nghĩa sau:
Subhena Kiṇṇāti = Subhakiṇṇā.
Phạm Thiên có hào quang xinh đẹp biến mãn khắp thân, gọi là Biến Tịnh. Như trong Mūlaṭīkā có nêu rằng:
Sobhaṇapabhāya kiṇṇā subhākiṇṇāti vattabbe ākārassa rassattaṃ antimaṇakārassa hakārañca katvà subhakiṇhāti vuttā atha pana subhena kiṇṇā subhakiṇṇā.
Từ Parittasubhā, appamāṇasubhā, subhakiṇhā. Cả ba từ này là tên của Phạm Thiên, nhưng sở dĩ cùng được gọi là tên của cõi như thế vì lấy tên của người ở trong chỗ ấy đặt tên cho chỗ ở ấy. Ba cõi Tam-thiền này nằm giữa hư không, cách cõi Nhị-thiền là 5.508.000 do tuần. Phần nền của ba cõi này nằm trong 1 lãnh vực, hình thành với 7 loại báu, đầy đủ với Thiên cung, vườn, ao hồ và cây kiểng.
Tất cả Phạm Thiên ở ba cõi Tam-thiền này:
- Thiểu Tịnh Thiên có chức vụ như Phạm Chúng Thiên.
- Vô Lượng Tịnh Thiên có chức vụ như Phạm Phụ Thiên.
- Biến Tịnh Thiên có chức vụ như Đại Phạm Thiên.
1- Cõi Thiểu Tịnh
Định nghĩa: Parittā subhā etesanti = Parittasubhā.
Phạm Thiên có hào quang xinh đẹp, nhưng ít hơn ở phía trên, Gọi là Thiểu Tịnh.
Parittasubhānaṃ nibbattāti = Parittasubhā.
Cõi sanh của các Thiểu Tịnh Thiên, Gọi là Thiểu Tịnh.
2- Cõi Vô Lượng Tịnh
Định nghĩa: Appamāṇa subhā etesanti = Appamāṇasubhā.
Phạm Thiên có hào quang xinh đẹp vô lượng, gọi là Vô Lượng Tịnh Thiên.
Appamāṇāsubhānaṃ nibbattāti = Appamāṇasubhā.
Cõi sanh của các Vô Lượng Tịnh Thiên, Gọi là Vô Lượng Tịnh.
3- Cõi Biến Tịnh
Định nghĩa: Subhāki ākiṇṇāti = Subhākiṇṇā. Phạm Thiên có hào quang xinh đẹp biến mãn khắp thân, gọi là Biến Tịnh.
Subhākiṇṇānaṃ nibbattāti = Subhākiṇṇā.
Cõi sanh của các Phạm Thiên Biến Tịnh, Gọi là Biến Tịnh.
Từ Subhā nơi đây ám chỉ đến sự xinh đẹp của hào quang phát ra từ thân của hàng Phạm Thiên ở cõi Tam-thiền này.
Hào quang như thế nào mới gọi là hào quang xinh đẹp.
Giải rằng: Hào quang xinh đẹp của các Phạm Thiên này có tướng trạng giống như hào quang của mặt trăng, tức ánh sáng hào quang ấy gom lại thành vòng tròn, không có sự rời rạc, chính vì vậy mới Gọi là Subhā, tức là hào quang xinh đẹp.
Từ Subhākiṇṇā này gọi là Subhakiṇhā cũng được, điều này diễn tiến theo văn phạm Pāli, tức là đổi Ā thành A, chữ ṇ thứ hai thành H, gom lại thành Subhakiṇhā. Hoặc muốn gọi là Subhakiṇṇā cũng được, không sai văn phạm. Như định nghĩa sau:
Subhena Kiṇṇāti = Subhakiṇṇā.
Phạm Thiên có hào quang xinh đẹp biến mãn khắp thân, gọi là Biến Tịnh. Như trong Mūlaṭīkā có nêu rằng:
Sobhaṇapabhāya kiṇṇā subhākiṇṇāti vattabbe ākārassa rassattaṃ antimaṇakārassa hakārañca katvà subhakiṇhāti vuttā atha pana subhena kiṇṇā subhakiṇṇā.
Từ Parittasubhā, appamāṇasubhā, subhakiṇhā. Cả ba từ này là tên của Phạm Thiên, nhưng sở dĩ cùng được gọi là tên của cõi như thế vì lấy tên của người ở trong chỗ ấy đặt tên cho chỗ ở ấy. Ba cõi Tam-thiền này nằm giữa hư không, cách cõi Nhị-thiền là 5.508.000 do tuần. Phần nền của ba cõi này nằm trong 1 lãnh vực, hình thành với 7 loại báu, đầy đủ với Thiên cung, vườn, ao hồ và cây kiểng.
Tất cả Phạm Thiên ở ba cõi Tam-thiền này:
- Thiểu Tịnh Thiên có chức vụ như Phạm Chúng Thiên.
- Vô Lượng Tịnh Thiên có chức vụ như Phạm Phụ Thiên.
- Biến Tịnh Thiên có chức vụ như Đại Phạm Thiên.
Được cảm ơn bởi: hey
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
NÓI VỀ 7 CÕI TỨ THIỀN
1- Cõi Quãng Quả
Định nghĩa: Vipulaṃ phalaṃ etesanti = Vehapphalā.
Phạm Thiên có quả rộng lớn gọi là Quãng Quả.
Nơi đây từ Quãng Quả dịch từ chữ Nipphanna ấy, nếu theo định nghĩa, đáng lẽ sẽ là Vipulaphalā. Nhưng sở dĩ không diễn tiến theo từ này cũng vì ảnh hưởng của văn phạm, diễn tiến ấy như vầy: Vipula thành Veha, Pha thành Paya (Asadisa theo Dvābhāva). Vehapphalānaṃ nibbattāti = Vehapphalā. Cõi sanh của các Phạm Thiên Quãng Quả, Gọi là Quãng Quả.
Hoặc "Jhānānurūpaṃ visesena thitaṃ aneñjitaṃ puññaphalaṃ ettha atthīti vehapphalā".
Quả phước rộng lớn bất động (do nổ lực) đặc biệt theo thiền có trong cõi nào thì cõi ấy gọi là Quãng Quả.
Giải rằng: Quả phước hiện khởi trong ba cõi Sơ-thiền, ba cõi Nhị-thiền, ba cõi Tam-thiền. Cả 9 cõi này không Gọi là Quãng Quả, vì rằng, khi thế gian này bị diệt bằng nước thì ba cõi Nhị-thiền bị hoại, khi thế gian bị hoại bằng gió thì ba cõi Tam-thiền bị hoại. Tất cả Phạm Thiên nương trú trong các cõi này đều phải mạng chung, Thiên cung và Thiên sản của các vị ấy cũng bị hủy diệt theo.
Cả 9 cõi này, Phạm Thiên sanh trong tầng Biến Tịnh Thiên có tuổi thọ lâu nhất. Thọ lượng của Phạm Thiên Biến Tịnh này lâu đến 64 Đại kiếp, nhưng Phạm Thiên Biến Tịnh có thọ lượng tròn đủ 64 Đại kiếp đó, phải sinh cùng thời với thế gian khi mới tạo lập, còn những vị Phạm Thiên sanh lên về sau, không tròn đủ mà phải giảm theo tuần tự, vì rằng: Trong số 64 Đại kiếp ấy, ba cõi Tam-thiền này sẽ bị hủy diệt 1 lần bởi gió.
Còn cõi Quãng Quả được thoát khỏi nạn hủy diệt, cho nên những vị Phạm Thiên sanh trong cõi này, dù sanh lên trong thời nào vẫn có thọ lượng là 500 Đại kiếp. Chính do nhân này, quả phước dẫn cho tái tục vào cõi này, được gọi là Quãng Quả, được sanh từ mãnh lực thiện ngũ thiền Sắc-giới tương ưng xả thọ. còn Phạm Thiên sanh lên trong ba cõi Sơ-thiền, là do mãnh lực thiện Sơ-thiền. Do mãnh lực thiện Nhị-thiền và Tam-thiền, sanh về cõi Nhị-thiền. Do mãnh lực thiện Tứ-thiền sanh về cõi Tam-thiền, đó là những tâm thiền tương ứng hỷ thọ.
Thông thường Thiền thiện tương ưng xả thọ là loại Thiền thù thắng bất động, cao hơn thiền Thiện tương ưng hỷ thọ. Cho nên, quả sanh từ Thiền thiện tương ưng xả thọ mới là quả thù thắng diễn tiến theo nhân.
Còn quả sanh từ Thiền thiện hỷ thọ thời không thù thắng và không kiên cố, cũng diễn tiến theo nhân như nhau.
2- Cõi Vô Tưởng
Định nghĩa: Natthi saññā etesanti = Asaññā.
Sở hữu tưởng không có với Phạm Thiên nào, hạng Phạm Thiên ấy Gọi là Vô-tưởng.
Ở đây, từ Vô-tưởng được trình bày bằng cách đưa sở hữu tưởng lên làm chủ, nhưng thật sự tâm và các sở hữu khác thuộc tứ danh uẩn cũng không có phần trình bày này, chỉ trình bày theo Upalakkhaṇa nidassana.
Hoặc: Natthi saññāmukhena cattāro arūpakkhandhā etesanti = Asaññā: Sở hữu tưởng làm trưởng trong tứ danh uẩn không có với vị Phạm Thiên nào. Do vậy, Phạm Thiên ấy Gọi là Vô-tưởng.
Asaññā ca te sattā cāti = Asaññāsattā.
Phạm Thiên không có tứ danh uẩn, do sở hữu tưởng là trưởng, nhưng Phạm Thiên này cũng gọi là chúng sanh, do vậy mới gọi là chúng sanh Vô-tưởng.
Phần đông mọi người đều hiểu rằng: Những vật nào không có danh uẩn, những vật ấy không gọi là chúng sanh, sự hiểu như thế không được đúng hoàn toàn, tức là chỉ đúng trong cõi dục, nhưng đối với cõi sắc thì không hoàn toàn là vậy. Có những vị Phạm Thiên sanh lên do mãnh lực ngũ thiền và có tưởng ly tham là căn bản, hạng Phạm Thiên này không có danh uẩn, chỉ có sắc uẩn duy nhất, nhưng vẫn xếp vào loại chúng sanh, vì có sắc mạng quyền gìn giữ. Cho nên Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới trình bày rằng:
Chúng sanh liên hệ với Vô-tưởng, gọi là chúng sanh Vô-tưởng.
Asaññasattānaṃ nibbattāti asaññāsattā.
Cõi sanh của hāng Phạm Thiên Vô-tưởng, Gọi là chúng sanh Vô-tưởng. Chỗ gọi của cõi Quãng Quả và cõi Vô-tưởng là do lấy tên của người ở trong các cõi ấy đặt tên cho chính cõi ấy.
Hai cõi Tứ-thiền này nằm giữa hư không cách cõi Tam-thiền 5.508.000 do tuần. Phần nền của hai cõi này trong cùng một lãnh vực, được hình thành bằng 7 báu, đầy đủ với vườn hoa, ao hồ và cây kiểng.
Phạm Thiên trong cõi Quãng Quả và chúng sanh Vô-tưởng cũng được chia thành ba bậc chính, do liên quan từ sự khác nhau của thiện Ngũ-thiền, tức là nếu thiện Ngũ-thiền bậc hạ thì sanh vào trong chức vụ như Phạm Chúng Thiên, nếu là bậc trung thì sanh vào chức vụ như Phạm Phụ Thiên và nếu là bậc thượng thì sanh vào chức vụ như Đại Phạm Thiên.
Sở dĩ, Ngài giáo thọ sư không chia tên của chứ Phạm Thiên cõi Quãng Quả và cõi Vô-tưởng ra thành ba bậc giống như các Phạm Thiên ở những cõi thấp, vì các Phạm Thiên sanh ra trong hai cõi này đều có thọ lượng như nhau, và Phạm Thiên cõi Quãng Quả có khả năng nhìn thấy Phạm Thiên cõi Vô-tưởng. Riêng các Phạm Thiên ở cõi Sơ-thiền, Nhị-thiền, Tam-thiền thì không thể nhìn thấy nhau được. Do nhân này, Ngài chú giải sư mới gom Phạm Thiên cõi Quãng Quả và Vô-tưởng vào gọi chung, không chia thành nhóm bậc.
1- Cõi Quãng Quả
Định nghĩa: Vipulaṃ phalaṃ etesanti = Vehapphalā.
Phạm Thiên có quả rộng lớn gọi là Quãng Quả.
Nơi đây từ Quãng Quả dịch từ chữ Nipphanna ấy, nếu theo định nghĩa, đáng lẽ sẽ là Vipulaphalā. Nhưng sở dĩ không diễn tiến theo từ này cũng vì ảnh hưởng của văn phạm, diễn tiến ấy như vầy: Vipula thành Veha, Pha thành Paya (Asadisa theo Dvābhāva). Vehapphalānaṃ nibbattāti = Vehapphalā. Cõi sanh của các Phạm Thiên Quãng Quả, Gọi là Quãng Quả.
Hoặc "Jhānānurūpaṃ visesena thitaṃ aneñjitaṃ puññaphalaṃ ettha atthīti vehapphalā".
Quả phước rộng lớn bất động (do nổ lực) đặc biệt theo thiền có trong cõi nào thì cõi ấy gọi là Quãng Quả.
Giải rằng: Quả phước hiện khởi trong ba cõi Sơ-thiền, ba cõi Nhị-thiền, ba cõi Tam-thiền. Cả 9 cõi này không Gọi là Quãng Quả, vì rằng, khi thế gian này bị diệt bằng nước thì ba cõi Nhị-thiền bị hoại, khi thế gian bị hoại bằng gió thì ba cõi Tam-thiền bị hoại. Tất cả Phạm Thiên nương trú trong các cõi này đều phải mạng chung, Thiên cung và Thiên sản của các vị ấy cũng bị hủy diệt theo.
Cả 9 cõi này, Phạm Thiên sanh trong tầng Biến Tịnh Thiên có tuổi thọ lâu nhất. Thọ lượng của Phạm Thiên Biến Tịnh này lâu đến 64 Đại kiếp, nhưng Phạm Thiên Biến Tịnh có thọ lượng tròn đủ 64 Đại kiếp đó, phải sinh cùng thời với thế gian khi mới tạo lập, còn những vị Phạm Thiên sanh lên về sau, không tròn đủ mà phải giảm theo tuần tự, vì rằng: Trong số 64 Đại kiếp ấy, ba cõi Tam-thiền này sẽ bị hủy diệt 1 lần bởi gió.
Còn cõi Quãng Quả được thoát khỏi nạn hủy diệt, cho nên những vị Phạm Thiên sanh trong cõi này, dù sanh lên trong thời nào vẫn có thọ lượng là 500 Đại kiếp. Chính do nhân này, quả phước dẫn cho tái tục vào cõi này, được gọi là Quãng Quả, được sanh từ mãnh lực thiện ngũ thiền Sắc-giới tương ưng xả thọ. còn Phạm Thiên sanh lên trong ba cõi Sơ-thiền, là do mãnh lực thiện Sơ-thiền. Do mãnh lực thiện Nhị-thiền và Tam-thiền, sanh về cõi Nhị-thiền. Do mãnh lực thiện Tứ-thiền sanh về cõi Tam-thiền, đó là những tâm thiền tương ứng hỷ thọ.
Thông thường Thiền thiện tương ưng xả thọ là loại Thiền thù thắng bất động, cao hơn thiền Thiện tương ưng hỷ thọ. Cho nên, quả sanh từ Thiền thiện tương ưng xả thọ mới là quả thù thắng diễn tiến theo nhân.
Còn quả sanh từ Thiền thiện hỷ thọ thời không thù thắng và không kiên cố, cũng diễn tiến theo nhân như nhau.
2- Cõi Vô Tưởng
Định nghĩa: Natthi saññā etesanti = Asaññā.
Sở hữu tưởng không có với Phạm Thiên nào, hạng Phạm Thiên ấy Gọi là Vô-tưởng.
Ở đây, từ Vô-tưởng được trình bày bằng cách đưa sở hữu tưởng lên làm chủ, nhưng thật sự tâm và các sở hữu khác thuộc tứ danh uẩn cũng không có phần trình bày này, chỉ trình bày theo Upalakkhaṇa nidassana.
Hoặc: Natthi saññāmukhena cattāro arūpakkhandhā etesanti = Asaññā: Sở hữu tưởng làm trưởng trong tứ danh uẩn không có với vị Phạm Thiên nào. Do vậy, Phạm Thiên ấy Gọi là Vô-tưởng.
Asaññā ca te sattā cāti = Asaññāsattā.
Phạm Thiên không có tứ danh uẩn, do sở hữu tưởng là trưởng, nhưng Phạm Thiên này cũng gọi là chúng sanh, do vậy mới gọi là chúng sanh Vô-tưởng.
Phần đông mọi người đều hiểu rằng: Những vật nào không có danh uẩn, những vật ấy không gọi là chúng sanh, sự hiểu như thế không được đúng hoàn toàn, tức là chỉ đúng trong cõi dục, nhưng đối với cõi sắc thì không hoàn toàn là vậy. Có những vị Phạm Thiên sanh lên do mãnh lực ngũ thiền và có tưởng ly tham là căn bản, hạng Phạm Thiên này không có danh uẩn, chỉ có sắc uẩn duy nhất, nhưng vẫn xếp vào loại chúng sanh, vì có sắc mạng quyền gìn giữ. Cho nên Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới trình bày rằng:
Chúng sanh liên hệ với Vô-tưởng, gọi là chúng sanh Vô-tưởng.
Asaññasattānaṃ nibbattāti asaññāsattā.
Cõi sanh của hāng Phạm Thiên Vô-tưởng, Gọi là chúng sanh Vô-tưởng. Chỗ gọi của cõi Quãng Quả và cõi Vô-tưởng là do lấy tên của người ở trong các cõi ấy đặt tên cho chính cõi ấy.
Hai cõi Tứ-thiền này nằm giữa hư không cách cõi Tam-thiền 5.508.000 do tuần. Phần nền của hai cõi này trong cùng một lãnh vực, được hình thành bằng 7 báu, đầy đủ với vườn hoa, ao hồ và cây kiểng.
Phạm Thiên trong cõi Quãng Quả và chúng sanh Vô-tưởng cũng được chia thành ba bậc chính, do liên quan từ sự khác nhau của thiện Ngũ-thiền, tức là nếu thiện Ngũ-thiền bậc hạ thì sanh vào trong chức vụ như Phạm Chúng Thiên, nếu là bậc trung thì sanh vào chức vụ như Phạm Phụ Thiên và nếu là bậc thượng thì sanh vào chức vụ như Đại Phạm Thiên.
Sở dĩ, Ngài giáo thọ sư không chia tên của chứ Phạm Thiên cõi Quãng Quả và cõi Vô-tưởng ra thành ba bậc giống như các Phạm Thiên ở những cõi thấp, vì các Phạm Thiên sanh ra trong hai cõi này đều có thọ lượng như nhau, và Phạm Thiên cõi Quãng Quả có khả năng nhìn thấy Phạm Thiên cõi Vô-tưởng. Riêng các Phạm Thiên ở cõi Sơ-thiền, Nhị-thiền, Tam-thiền thì không thể nhìn thấy nhau được. Do nhân này, Ngài chú giải sư mới gom Phạm Thiên cõi Quãng Quả và Vô-tưởng vào gọi chung, không chia thành nhóm bậc.
Được cảm ơn bởi: hey
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
Năm Cõi Tịnh Cư
Cõi Tịnh Cư này là cõi của bậc Bất-lai và bậc A-la-hán, tức là những bậc có sự thanh tịnh, còn những người khác ngoài ra, dù chứng Ngũ-thiền, nhưng vẫn không sanh vào được. Như câu định nghĩa: "Suddhānaṃ anāgāmi arahantānaneva āvāsāti = Suddhāvāsā". Cõi trú thanh tịnh của bậc Bất-lai và bậc A-la-hán, do vậy cõi này gọi là cõi Tịnh Cư.
Năm cõi Tịnh Cư, cõi Quãng Quả và cõi Vô-tưởng, gọi chung là cõi Tứ-thiền, vì sanh từ thiện Tứ-thiền (nói theo phần bốn) hoặc thiện Ngũ-thiền (theo phần năm).
Năm cõi Tịnh Cư này nằm giữa hư không và nằm thành từng bậc theo thứ tự cõi, không phải nằm trong cùng một lãnh vực như các cõi khác, cách cõi Quãng Quả và Vô-tưởng là 5.508.000 do tuần, mỗi cõi Tịnh Cư lại cách nhau 5.508.000 do tuần.
1) Cõi Vô Phiền
Định nghĩa: Appakena kālena attano tīhānaṃ na vijahantīti = Avihā. Các Phạm Thiên nào không rời bỏ trú xứ của mình, dù chỉ trong khoảnh khắc, các Phạm Thiên ấy gọi là Aviha. Hoặc:
Attano sampattiyā na hāyantīti = Avihā. Các Phạm Thiên nào không rời bỏ trú xứ của mình, dù chỉ trong khoảnh khắc Phạm Thiên ấy gọi là Aviha. Các Phạm Thiên nào với tài sản của mình không bị tổn giảm, các Phạm Thiên ấy Gọi là Avihā.
Nơi đây giải rằng: Phạm Thiên sanh trong cõi Vô-phiền, không rời bỏ trú xứ của mình, tức không chết trước khi hết tuổi thọ. đối với Phạm Thiên trong 4 cõi còn lại là Atappā, Sudassā, Sudassī, Akaniṭṭhā ấy dù chưa tròn đủ tuổi thọ, cũng có thể chết trước đi.
Hoặc những Thiên sản của những vị Phạm Thiên này vẫn tròn đủ suốt thọ lượng, không hề thay đổi bất luận 1 loại nào. Do nhân đó mới Gọi là Aviha.
Avihānaṃ nibbattāti = Avihā.
Cõi sanh của những Phạm Thiên Vô-phiền, Gọi là Aviha.
Từ Aviha này chính là tên của Phạm Thiên ấy, còn tên của cõi sở dĩ cũng gọi giống như thế, là do lấy tên của Phạm Thiên ấy. Đặt tên cho cõi, và bốn cõi còn lại cũng diễn tiến như vậy.
2) Cõi Vô Nhiệt
Định nghĩa: Na tappantīti = AtapPā.
Phạm Thiên không có sự nhiệt não, Phạm Thiên ấy Gọi là Vô-nhiệt.
Giải rằng: Tất cả Phạm Thiên Vô-nhiệt thường nhập Thiền, hoặc nhập Thiền quả, các phiền não là nhân khiến cho sanh nhiệt não ấy, không có cơ hội sanh khởi, nên tâm của nhóm Phạm Thiên này chỉ có sự an tịnh mát mẽ, không có loại nhiệt não nào cả.
Atappānaṃ nibbattāti = Atappā.
Cõi sanh của các Phạm Thiên Vô-nhiệt, Gọi là Vô-nhiệt.
3) Cõi Thiện Hiện
Định nghĩa: Sukhena dissantīti = Sudassā.
Phạm Thiên khi người khác nhìn thấy được sự an lạc, do vậy, Phạm Thiên ấy Gọi là Thiện Hiện.
Lại nữa: "Parisuddhehi pasādadibbadhammapaññā cakkhūhi sam pannattā suṭṭhu passantīti = Sudassā".
Những Phạm Thiên nhìn thấy vật rất rõ ràng, do nhục nhãn hoặc Thiên nhãn, pháp nhãn, tuệ nhãn thanh tịnh, Gọi là Thiện-hiện.
Giải rằng: Phạm Thiên ở cõi Thiện-hiện này có thân rất xinh đẹp, nên bất luận người được nhìn thấy sẽ phát sanh an lạc. Bởi lẽ ấy, nhóm Phạm Thiên này có tên là Thiện-hiện.
Lại nữa, Phạm Thiên Thiện-hiện này đầy đủ với 4 loại nhãn là nhục nhãn, Thiên nhãn, pháp nhãn và tuệ nhãn.
Trong 4 loại nhãn này, mắt thường Gọi là nhục nhãn, Thiên nhãn thông Gọi là Thiên nhãn, hoặc mắt thường của Thiên nhân cũng được Gọi là Thiên nhãn, vì thông thường những vị Thiên nhân có mãnh lực nhìn thấy các vật ở xa hay vật nhỏ bé được dễ dàng. Ba trí Đạo thấp là Pháp nhãn. Minh sát tuệ, phản khán tuệ và các thắng trí Gọi là tuệ nhãn.
Sudassānaṃ nibbattāti = Sudassā.
Cõi sanh của Phạm Thiên Thiện-hiện, Gọi là Thiện-hiện.
4) Cõi Thiện Kiến
Định nghĩa: Sukhena passantīti = Sudassī.
Phạm Thiên nhìn thấy các vật khác bằng sự thoải mái, Gọi là Thiện-kiến.
Lại nữa: "Tato atisayena suṭṭhu dassanabhāvena samannāgatāti= Sudassī".
Phạm Thiên khéo đầy đủ trong việc thấy mà thù thắng hơn nhóm Thiện-hiện, nên Gọi là Thiện-kiến.
Giải rằng: Phạm Thiên Thiện-kiến này, nói về 4 loại nhãn thì nhục nhãn, Thiên nhãn và tuệ nhãn, cả ba loại nhãn này thù thắng hơn Phạm Thiên Thiện-hiện, còn pháp nhãn thì bằng nhau.
Sudassīnaṃ nibbattāti = Sudassī.
Cõi sanh của Phạm Thiên Thiện-kiến, Gọi là Thiện-kiến.
5) Cõi Akaṇṇitthā
Định nghĩa: Natthi kaniṭṭho etesanti = Akaniṭṭhā.
Thiên sản và an lạc có không ít đối với các Phạm Thiên này. Do vậy, các Phạm Thiên này được Gọi là Akaniṭṭha.
Lại nữa: "Natthi rūpīnaṃ sattānaṃ majjhe kenaci guṇena kaniṭṭhabhāvo etesanti = Akaniṭṭhā.
Trạng thái chút ít với bất luận một Guṇasampatti nào giữa các chúng sanh hữu sắc, thời không có với các Phạm Thiên này. Do vậy, các Phạm Thiên này mới Gọi là Akaniṭṭha.
Akaniṭṭhānaṃ nibbattāti = Akaniṭṭhā.
Cõi sanh của các Phạm Thiên Sắc Cứu Cánh gọi là Akaniṭṭhā.
Giải rằng: Phạm Thiên ở tầng thứ năm của cõi Tịnh-cư này, là Phạm Thiên có Guṇasampatti thù thắng hơn tất cả Phạm Thiên hữu sắc, vì Phạm Thiên ở tầng thứ 1-2-3-4 của cõi Tịnh-cư này, tức là Vô-phiền Thiên, Vô-nhiệt Thiên, Thiện-hiện Thiên, Thiện-kiến Thiên. Khi Chưa chứng quả A-la-hán, phải tuần tự sanh lên cõi Tịnh-cư trên, không sanh lại cõi cũ hoặc cõi thấp hơn. Riêng Phạm Thiên Sắc Cứu Cánh sẽ không sanh lại nữa. Tức Níp- Bàn tại chính cõi ấy, điều này cho thấy rằng: Phạm Thiên Sắc Cứu Cánh có ân Đức thù thắng về giới, định, tuệ hơn các Phạm Thiên hữu sắc.
Trong 5 cõi Tịnh-cư, không chia thành từng bậc như cõi Sơ-thiền, Nhị-thiền... cõi Vô-phiền chỉ có duy nhất là Phạm Thiên Vô-phiền, các cõi Vô-nhiệt, Thiện-hiện, Thiện-kiến, Sắc Cứu Cánh cũng y như vậy. Vì rằng: Thọ lượng của Chư Phạm Thiên mỗi cõi đều như nhau, đều có khả năng thấy nhau được. Do nhân này, mới không chia mỗi cõi ra thành 2 hoặc 3 hạng. Người sanh vào cõi Tịnh-cư này phải là bậc Bất-lai, dù đó là người, Chư Thiên hay Phạm Thiên cũng vậy, và phải chứng đắc Ngũ-thiền.
Sở dĩ Ngũ-tịnh-cư có 5 cõi, là do mãnh lực của 5 quyền:
- Vị có Tín quyền mạnh hơn 4 quyền kia, sẽ sanh về cõi Vô-phiền.
- Vị có Tấn quyền trội hơn, sẽ sanh về cõi Vô-nhiệt.
- Vị có Niệm quyền mạnh hơn cả, sẽ sanh về cõi Thiện-hiện.
- Vị có Định quyền mạnh hơn cả, sẽ sanh về cõi Thiện-kiến.
- Vị có Tuệ quyền mạnh hơn cả, sẽ sanh về cõi Sắc Cứu Cánh
Cõi Tịnh Cư này là cõi của bậc Bất-lai và bậc A-la-hán, tức là những bậc có sự thanh tịnh, còn những người khác ngoài ra, dù chứng Ngũ-thiền, nhưng vẫn không sanh vào được. Như câu định nghĩa: "Suddhānaṃ anāgāmi arahantānaneva āvāsāti = Suddhāvāsā". Cõi trú thanh tịnh của bậc Bất-lai và bậc A-la-hán, do vậy cõi này gọi là cõi Tịnh Cư.
Năm cõi Tịnh Cư, cõi Quãng Quả và cõi Vô-tưởng, gọi chung là cõi Tứ-thiền, vì sanh từ thiện Tứ-thiền (nói theo phần bốn) hoặc thiện Ngũ-thiền (theo phần năm).
Năm cõi Tịnh Cư này nằm giữa hư không và nằm thành từng bậc theo thứ tự cõi, không phải nằm trong cùng một lãnh vực như các cõi khác, cách cõi Quãng Quả và Vô-tưởng là 5.508.000 do tuần, mỗi cõi Tịnh Cư lại cách nhau 5.508.000 do tuần.
1) Cõi Vô Phiền
Định nghĩa: Appakena kālena attano tīhānaṃ na vijahantīti = Avihā. Các Phạm Thiên nào không rời bỏ trú xứ của mình, dù chỉ trong khoảnh khắc, các Phạm Thiên ấy gọi là Aviha. Hoặc:
Attano sampattiyā na hāyantīti = Avihā. Các Phạm Thiên nào không rời bỏ trú xứ của mình, dù chỉ trong khoảnh khắc Phạm Thiên ấy gọi là Aviha. Các Phạm Thiên nào với tài sản của mình không bị tổn giảm, các Phạm Thiên ấy Gọi là Avihā.
Nơi đây giải rằng: Phạm Thiên sanh trong cõi Vô-phiền, không rời bỏ trú xứ của mình, tức không chết trước khi hết tuổi thọ. đối với Phạm Thiên trong 4 cõi còn lại là Atappā, Sudassā, Sudassī, Akaniṭṭhā ấy dù chưa tròn đủ tuổi thọ, cũng có thể chết trước đi.
Hoặc những Thiên sản của những vị Phạm Thiên này vẫn tròn đủ suốt thọ lượng, không hề thay đổi bất luận 1 loại nào. Do nhân đó mới Gọi là Aviha.
Avihānaṃ nibbattāti = Avihā.
Cõi sanh của những Phạm Thiên Vô-phiền, Gọi là Aviha.
Từ Aviha này chính là tên của Phạm Thiên ấy, còn tên của cõi sở dĩ cũng gọi giống như thế, là do lấy tên của Phạm Thiên ấy. Đặt tên cho cõi, và bốn cõi còn lại cũng diễn tiến như vậy.
2) Cõi Vô Nhiệt
Định nghĩa: Na tappantīti = AtapPā.
Phạm Thiên không có sự nhiệt não, Phạm Thiên ấy Gọi là Vô-nhiệt.
Giải rằng: Tất cả Phạm Thiên Vô-nhiệt thường nhập Thiền, hoặc nhập Thiền quả, các phiền não là nhân khiến cho sanh nhiệt não ấy, không có cơ hội sanh khởi, nên tâm của nhóm Phạm Thiên này chỉ có sự an tịnh mát mẽ, không có loại nhiệt não nào cả.
Atappānaṃ nibbattāti = Atappā.
Cõi sanh của các Phạm Thiên Vô-nhiệt, Gọi là Vô-nhiệt.
3) Cõi Thiện Hiện
Định nghĩa: Sukhena dissantīti = Sudassā.
Phạm Thiên khi người khác nhìn thấy được sự an lạc, do vậy, Phạm Thiên ấy Gọi là Thiện Hiện.
Lại nữa: "Parisuddhehi pasādadibbadhammapaññā cakkhūhi sam pannattā suṭṭhu passantīti = Sudassā".
Những Phạm Thiên nhìn thấy vật rất rõ ràng, do nhục nhãn hoặc Thiên nhãn, pháp nhãn, tuệ nhãn thanh tịnh, Gọi là Thiện-hiện.
Giải rằng: Phạm Thiên ở cõi Thiện-hiện này có thân rất xinh đẹp, nên bất luận người được nhìn thấy sẽ phát sanh an lạc. Bởi lẽ ấy, nhóm Phạm Thiên này có tên là Thiện-hiện.
Lại nữa, Phạm Thiên Thiện-hiện này đầy đủ với 4 loại nhãn là nhục nhãn, Thiên nhãn, pháp nhãn và tuệ nhãn.
Trong 4 loại nhãn này, mắt thường Gọi là nhục nhãn, Thiên nhãn thông Gọi là Thiên nhãn, hoặc mắt thường của Thiên nhân cũng được Gọi là Thiên nhãn, vì thông thường những vị Thiên nhân có mãnh lực nhìn thấy các vật ở xa hay vật nhỏ bé được dễ dàng. Ba trí Đạo thấp là Pháp nhãn. Minh sát tuệ, phản khán tuệ và các thắng trí Gọi là tuệ nhãn.
Sudassānaṃ nibbattāti = Sudassā.
Cõi sanh của Phạm Thiên Thiện-hiện, Gọi là Thiện-hiện.
4) Cõi Thiện Kiến
Định nghĩa: Sukhena passantīti = Sudassī.
Phạm Thiên nhìn thấy các vật khác bằng sự thoải mái, Gọi là Thiện-kiến.
Lại nữa: "Tato atisayena suṭṭhu dassanabhāvena samannāgatāti= Sudassī".
Phạm Thiên khéo đầy đủ trong việc thấy mà thù thắng hơn nhóm Thiện-hiện, nên Gọi là Thiện-kiến.
Giải rằng: Phạm Thiên Thiện-kiến này, nói về 4 loại nhãn thì nhục nhãn, Thiên nhãn và tuệ nhãn, cả ba loại nhãn này thù thắng hơn Phạm Thiên Thiện-hiện, còn pháp nhãn thì bằng nhau.
Sudassīnaṃ nibbattāti = Sudassī.
Cõi sanh của Phạm Thiên Thiện-kiến, Gọi là Thiện-kiến.
5) Cõi Akaṇṇitthā
Định nghĩa: Natthi kaniṭṭho etesanti = Akaniṭṭhā.
Thiên sản và an lạc có không ít đối với các Phạm Thiên này. Do vậy, các Phạm Thiên này được Gọi là Akaniṭṭha.
Lại nữa: "Natthi rūpīnaṃ sattānaṃ majjhe kenaci guṇena kaniṭṭhabhāvo etesanti = Akaniṭṭhā.
Trạng thái chút ít với bất luận một Guṇasampatti nào giữa các chúng sanh hữu sắc, thời không có với các Phạm Thiên này. Do vậy, các Phạm Thiên này mới Gọi là Akaniṭṭha.
Akaniṭṭhānaṃ nibbattāti = Akaniṭṭhā.
Cõi sanh của các Phạm Thiên Sắc Cứu Cánh gọi là Akaniṭṭhā.
Giải rằng: Phạm Thiên ở tầng thứ năm của cõi Tịnh-cư này, là Phạm Thiên có Guṇasampatti thù thắng hơn tất cả Phạm Thiên hữu sắc, vì Phạm Thiên ở tầng thứ 1-2-3-4 của cõi Tịnh-cư này, tức là Vô-phiền Thiên, Vô-nhiệt Thiên, Thiện-hiện Thiên, Thiện-kiến Thiên. Khi Chưa chứng quả A-la-hán, phải tuần tự sanh lên cõi Tịnh-cư trên, không sanh lại cõi cũ hoặc cõi thấp hơn. Riêng Phạm Thiên Sắc Cứu Cánh sẽ không sanh lại nữa. Tức Níp- Bàn tại chính cõi ấy, điều này cho thấy rằng: Phạm Thiên Sắc Cứu Cánh có ân Đức thù thắng về giới, định, tuệ hơn các Phạm Thiên hữu sắc.
Trong 5 cõi Tịnh-cư, không chia thành từng bậc như cõi Sơ-thiền, Nhị-thiền... cõi Vô-phiền chỉ có duy nhất là Phạm Thiên Vô-phiền, các cõi Vô-nhiệt, Thiện-hiện, Thiện-kiến, Sắc Cứu Cánh cũng y như vậy. Vì rằng: Thọ lượng của Chư Phạm Thiên mỗi cõi đều như nhau, đều có khả năng thấy nhau được. Do nhân này, mới không chia mỗi cõi ra thành 2 hoặc 3 hạng. Người sanh vào cõi Tịnh-cư này phải là bậc Bất-lai, dù đó là người, Chư Thiên hay Phạm Thiên cũng vậy, và phải chứng đắc Ngũ-thiền.
Sở dĩ Ngũ-tịnh-cư có 5 cõi, là do mãnh lực của 5 quyền:
- Vị có Tín quyền mạnh hơn 4 quyền kia, sẽ sanh về cõi Vô-phiền.
- Vị có Tấn quyền trội hơn, sẽ sanh về cõi Vô-nhiệt.
- Vị có Niệm quyền mạnh hơn cả, sẽ sanh về cõi Thiện-hiện.
- Vị có Định quyền mạnh hơn cả, sẽ sanh về cõi Thiện-kiến.
- Vị có Tuệ quyền mạnh hơn cả, sẽ sanh về cõi Sắc Cứu Cánh
Được cảm ơn bởi: hey
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
Nơi Đáng Cúng Dường Trong Sắc Cứu Cánh
Trong cõi Tam-thập-tam có chỗ đáng cúng dường là Bảo-tháp Cūḷamaṇī là nơi tôn trí răng nhọn bên phải và tóc của Bồ-tát cắt bỏ khi xuất gia.
Nơi Sắc Cứu Cánh này cũng có nơi đáng cúng dường quan trọng như là: Bảo-tháp Dussa, tôn trí những trạng phục của Bồ-tát mang trên người, lúc rời kinh thành đi xuất gia. Khi Ngài cởi bỏ những trang phục ấy, Phạm Thiên Ghātikāra từ cõi Sắc Cứu Cánh đi xuống, mang theo 8 món tư cụ bậc xuất gia đến dâng cho Bồ-tát và nhận lại những trang phục ấy, đem về tôn trí trong Bảo-tháp Dussa. Bảo-tháp này cao 12 do tuần.
Nói Về Thiên Sản Của Phạm Thiên
Như đã trình bày, trong sáu cõi trời dục, mỗi cõi có Thiên sản khác nhau như: Thiên cung, vườn hoa, ao, hồ, cây phát sanh tịnh thực cùng các vật khác, mỗi cõi có khác nhau.
Thiên sản trong cõi Phạm Thiên cũng có như cõi dục, nhưng có sự khác nhau là: Không có cây phát sanh tịnh thực. Và các Thiên cung, vườn hoa, ao, hồ ... đều thù thắng hơn Dục-giới Thiên.
Lại nữa, tuy Phạm Thiên có sự hoan hỷ với Thiên cung và vườn hoa của mình, nhưng tham dục triền cái không có, vì khi còn là nhân loại, đã tu tập pháp ly tham dục. Lại nữa, Phạm Thiên không hiện bày nam tướng hay nữ tướng, nhưng sắc tướng thì giống như nam nhân.
Đời sống của vị Phạm Thiên, có tu tiến 4 phạm trú, có vị nhập định, còn bậc Thánh thì nhập thiền quả.
Câu Chuyện Phạm Thiên Sahampati
Sau khi đấng Đạo-sư đạt được Vô-thượng Chánh-giác-tuệ, có Đại Phạm Thiên Sahampati từ cõi Phạm Thiên xuống cung thỉnh Ngài từ bi thuyết pháp tế độ chúng sanh. Có câu hỏi rằng: Vị Phạm Thiên này ở cõi nào?.
Đáp rằng: Đại Phạm Thiên Sahampati này ở tầng thứ ba cõi Sơ-thiền.
Tương truyền rằng trong thời giáo pháp của Đức Phật Kassapa, có hai vị Tỳ khưu bạn. Một vị hoan hỷ với pháp học, còn vị kia thì hoan hỷ với pháp hành. Vị pháp hành nổ lực tu tiến chỉ và chứng đạt được Sơ-thiền. Sau khi mệnh chung được tái sanh về cõi Sơ-thiền là Đại Phạm Thiên, có tên là Sahampati. Vị Tỳ khưu hoan hỷ với pháp học, sau khi mệnh chung được sanh về cõi Dục-giới Thiên và trở thành bậc Đạo-sư Chánh-đẳng-giác của chúng ta, có hồng danh là Gotama.
Dứt Phần Trình Bày 16 Cõi Phạm Thiên
Trong cõi Tam-thập-tam có chỗ đáng cúng dường là Bảo-tháp Cūḷamaṇī là nơi tôn trí răng nhọn bên phải và tóc của Bồ-tát cắt bỏ khi xuất gia.
Nơi Sắc Cứu Cánh này cũng có nơi đáng cúng dường quan trọng như là: Bảo-tháp Dussa, tôn trí những trạng phục của Bồ-tát mang trên người, lúc rời kinh thành đi xuất gia. Khi Ngài cởi bỏ những trang phục ấy, Phạm Thiên Ghātikāra từ cõi Sắc Cứu Cánh đi xuống, mang theo 8 món tư cụ bậc xuất gia đến dâng cho Bồ-tát và nhận lại những trang phục ấy, đem về tôn trí trong Bảo-tháp Dussa. Bảo-tháp này cao 12 do tuần.
Nói Về Thiên Sản Của Phạm Thiên
Như đã trình bày, trong sáu cõi trời dục, mỗi cõi có Thiên sản khác nhau như: Thiên cung, vườn hoa, ao, hồ, cây phát sanh tịnh thực cùng các vật khác, mỗi cõi có khác nhau.
Thiên sản trong cõi Phạm Thiên cũng có như cõi dục, nhưng có sự khác nhau là: Không có cây phát sanh tịnh thực. Và các Thiên cung, vườn hoa, ao, hồ ... đều thù thắng hơn Dục-giới Thiên.
Lại nữa, tuy Phạm Thiên có sự hoan hỷ với Thiên cung và vườn hoa của mình, nhưng tham dục triền cái không có, vì khi còn là nhân loại, đã tu tập pháp ly tham dục. Lại nữa, Phạm Thiên không hiện bày nam tướng hay nữ tướng, nhưng sắc tướng thì giống như nam nhân.
Đời sống của vị Phạm Thiên, có tu tiến 4 phạm trú, có vị nhập định, còn bậc Thánh thì nhập thiền quả.
Câu Chuyện Phạm Thiên Sahampati
Sau khi đấng Đạo-sư đạt được Vô-thượng Chánh-giác-tuệ, có Đại Phạm Thiên Sahampati từ cõi Phạm Thiên xuống cung thỉnh Ngài từ bi thuyết pháp tế độ chúng sanh. Có câu hỏi rằng: Vị Phạm Thiên này ở cõi nào?.
Đáp rằng: Đại Phạm Thiên Sahampati này ở tầng thứ ba cõi Sơ-thiền.
Tương truyền rằng trong thời giáo pháp của Đức Phật Kassapa, có hai vị Tỳ khưu bạn. Một vị hoan hỷ với pháp học, còn vị kia thì hoan hỷ với pháp hành. Vị pháp hành nổ lực tu tiến chỉ và chứng đạt được Sơ-thiền. Sau khi mệnh chung được tái sanh về cõi Sơ-thiền là Đại Phạm Thiên, có tên là Sahampati. Vị Tỳ khưu hoan hỷ với pháp học, sau khi mệnh chung được sanh về cõi Dục-giới Thiên và trở thành bậc Đạo-sư Chánh-đẳng-giác của chúng ta, có hồng danh là Gotama.
Dứt Phần Trình Bày 16 Cõi Phạm Thiên
Được cảm ơn bởi: hey
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
TRÌNH BÀY 4 CÕI VÔ SẮC
Định nghĩa:
1- Ākāsānañcāyatanassa bhūmi = Ākāsānañcāyatanabhūmi. Cõi của Thiền Không-vô-biên, Gọi là cõi Không-vô-biên xứ.
2- Viññāṇañcāyatanassa bhūmi = Viññāṇañcāyatanabhūmi. Cõi của Thiền Thức-vô-biên, Gọi là cõi Thức-vô-biên xứ.
3- Ākiñcaññāyatanassa bhūmi = Ākiñcaññāyatanabhūmi. Cõi của thiền Vô-sở-hữu, Gọi là cõi Vô-sở-hữu xứ.
4- Nevasaññānāsaññāyatanassa bhūmi= Nevasaññānāsaññāyatanabhūmi. Cõi của thiền Phi-tưởng-phi-phi-tưởng, Gọi là cõ Phi-tưởng-phi-phi-tưởng xứ.
Trong 4 cõi Vô-sắc này, mặc dù Gọi là 4, nhưng cõi này không hiện bày bất luận một hình dạng nào. Vì cõi này chỉ là hư không trống rỗng mà thôi. Phạm Thiên Vô-sắc là vị Phạm Thiên chỉ có 4 danh uẩn, không có sắc uẩn. Tứ danh uẩn ấy sanh diệt nối tiếp nhau không gián đoạn, kể từ khi tái tục đến khi mệnh chung.
Sở dĩ bốn cõi Vô-sắc Gọi là cõi, vì có nhóm tà ngữ nói rằng: "Nếu người không có sắc, chỉ có danh, trú xứ người ấy không gọi là cõi". Do vậy, Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới trình bày là: Cõi Không-vô-biên xứ... nhằm xóa tan quan niệm của nhóm tà ngữ ấy.
Về điều này, lại có một số vị hiểu sai, cho rằng: Vị Phạm Thiên Vô-sắc, tuy không có sắc, nhưng trong cõi ấy cũng có Thiên cung, vườn tược, ao hồ, cây cảnh như cõi trời sắc giới. Đây cũng là tri kiến sai lầm, thật ra các Phạm Thiên Vô-sắc sanh lên do mãnh lực tu tiến ly tham hoan hỷ trong sắc (Virāgabhāvanā- tu tiến ly tham), vì cớ đó nên lãnh vực của Phạm Thiên Vô-sắc mới không có sắc hiện bày.
- Khoảng cách giữa cõi nhân loại và địa ngục Vô-gián là 120.000 do tuần.
- Nhân loại cách cõi Tha-hóa-tự-tại là 252.000 do tuần.
- Nhân loại với cõi Phi-tưởng-phi-phi-tưởng là 71.856.000 do tuần.
- Giữa Địa đại ngục Vô-gián và cõi Phi-tưởng-phi-phi-tưởng là 71.876.000 do tuần.
Dứt phần trình bày 4 cõi vô sắc
Định nghĩa:
1- Ākāsānañcāyatanassa bhūmi = Ākāsānañcāyatanabhūmi. Cõi của Thiền Không-vô-biên, Gọi là cõi Không-vô-biên xứ.
2- Viññāṇañcāyatanassa bhūmi = Viññāṇañcāyatanabhūmi. Cõi của Thiền Thức-vô-biên, Gọi là cõi Thức-vô-biên xứ.
3- Ākiñcaññāyatanassa bhūmi = Ākiñcaññāyatanabhūmi. Cõi của thiền Vô-sở-hữu, Gọi là cõi Vô-sở-hữu xứ.
4- Nevasaññānāsaññāyatanassa bhūmi= Nevasaññānāsaññāyatanabhūmi. Cõi của thiền Phi-tưởng-phi-phi-tưởng, Gọi là cõ Phi-tưởng-phi-phi-tưởng xứ.
Trong 4 cõi Vô-sắc này, mặc dù Gọi là 4, nhưng cõi này không hiện bày bất luận một hình dạng nào. Vì cõi này chỉ là hư không trống rỗng mà thôi. Phạm Thiên Vô-sắc là vị Phạm Thiên chỉ có 4 danh uẩn, không có sắc uẩn. Tứ danh uẩn ấy sanh diệt nối tiếp nhau không gián đoạn, kể từ khi tái tục đến khi mệnh chung.
Sở dĩ bốn cõi Vô-sắc Gọi là cõi, vì có nhóm tà ngữ nói rằng: "Nếu người không có sắc, chỉ có danh, trú xứ người ấy không gọi là cõi". Do vậy, Ngài giáo thọ sư Anuruddha mới trình bày là: Cõi Không-vô-biên xứ... nhằm xóa tan quan niệm của nhóm tà ngữ ấy.
Về điều này, lại có một số vị hiểu sai, cho rằng: Vị Phạm Thiên Vô-sắc, tuy không có sắc, nhưng trong cõi ấy cũng có Thiên cung, vườn tược, ao hồ, cây cảnh như cõi trời sắc giới. Đây cũng là tri kiến sai lầm, thật ra các Phạm Thiên Vô-sắc sanh lên do mãnh lực tu tiến ly tham hoan hỷ trong sắc (Virāgabhāvanā- tu tiến ly tham), vì cớ đó nên lãnh vực của Phạm Thiên Vô-sắc mới không có sắc hiện bày.
- Khoảng cách giữa cõi nhân loại và địa ngục Vô-gián là 120.000 do tuần.
- Nhân loại cách cõi Tha-hóa-tự-tại là 252.000 do tuần.
- Nhân loại với cõi Phi-tưởng-phi-phi-tưởng là 71.856.000 do tuần.
- Giữa Địa đại ngục Vô-gián và cõi Phi-tưởng-phi-phi-tưởng là 71.876.000 do tuần.
Dứt phần trình bày 4 cõi vô sắc
Được cảm ơn bởi: taijiquan, hey
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
Đao Lợi & Đâu Xuất
HỎI: Xin quý Báo cho biết đại lược về cung trời Đao-lợi và Đâu-suất. Tu tập nhân hạnh nào thì được sanh về Tịnh độ Đâu-suất?(TỪ HÒA, Đồng Tháp; NGUYÊN SÁNG, Bà Rịa-Vũng Tàu).
ĐÁP:
Bạn Từ Hòa và Nguyên Sáng thân mến!
Từ điển Phật học Huệ Quang (tập II, tr.1391) ghi: Trời Đao-lợi (S.Trayastrimsa, P.Tavatimsa, Hán. Đao-lợi thiên, Tam thập tam thiên), là tầng trời thứ 2 trong 6 tầng trời ở cõi Dục.
Theo vũ trụ quan Phật giáo, trời Đao-lợi nằm trên đỉnh núi Tu-di, bốn phía đỉnh núi, mỗi phía đều có 8 thiên thành, thành Thiện kiến hay Hỷ kiến (Sudassana) ở giữa là cung điện của vua trời Đế-thích (Sakka), tất cả gồm 33 nơi nên gọi Tam thập tam thiên.
Kinh Trường A-hàm, phẩm Đao-lợi thiên, ghi: Chư thiên ở trời Đao-lợi cao 1 do-tuần, thọ trung bình 1.000 tuổi, ăn uống như loài người nhưng thực phẩm thanh tịnh hơn. Ở Đao-lợi cũng có việc dựng vợ gả chồng nhưng không ân ái, thiên nam và thiên nữ chỉ dựa vào nhau là thành tựu việc âm dương. Lúc mới sinh ra, chư thiên sơ sinh có vóc dáng tròn trịa, bằng đứa bé 6 tuổi ở thế gian, tự có y phục. Cõi trời này có đầy đủ các thứ báu tốt đẹp, đền đài, lầu các, cảnh vật đều thù thắng, trang nghiêm.
Sinh về cõi trời Đao-lợi, làm con dân của Đế-thích là tín ngưỡng lâu đời của người Ấn Độ xưa. Thánh mẫu Ma-da sau khi chết sinh về cõi trời này. Đức Phật Thích Ca đã có lần thuyết pháp cho Thánh mẫu và chư thiên ở trời Đao-lợi trong 3 tháng (ảnh).
Về trời Đâu-suất, Từ điển Phật học Huệ Quang (tập II, tr.1474) ghi: Trời Đâu-suất (S&P.Tusita, Hán. Đâu-suất thiên, Hỷ lạc thiên), là tầng trời thứ 4 trong 6 tầng trời ở cõi Dục, ở giữa trời Dạ-ma (tầng trời thứ 3) và trời Hóa lạc (tầng trời thứ 5).
Chư thiên ở cõi trời này luôn sống trong hỷ lạc, vật chất sung mãn, tinh tấn tu tập Bát chánh đạo nên gọi là Hỷ lạc thiên. Các Bồ tát giáo hóa ở cõi này thường tu tập hỷ (một trong bốn tâm vô lượng) nên còn gọi là Hỷ túc thiên.
Chư thiên ở Đâu-suất thân cao 4 do-tuần, tuổi thọ trung bình 4.000 tuổi. Các vị thiên ở cõi trời này khi khởi dục chỉ cần nắm tay nhau liền được thọ dụng như ý.
Cõi trời này có hai viện, Đâu-suất ngoại viện và Đâu-suất nội viện.
Đâu-suất ngoại viện là nơi cư trú của chư thiên hưởng thọ nhiều dục lạc, rất ít khi được nghe thuyết pháp.
Đâu-suất nội viện là trụ xứ của Bồ tát Di Lặc, còn gọi là Tịnh độ Đâu-suất. Bồ tát Di Lặc hiện đang giáo hóa các Bồ tát ở đây, đương lai sẽ hạ sanh thành Phật. Phật Thích Ca, trước khi giáng xuống cõi Ta bà cũng ở Đâu-suất nội viện này.
Vãng sanh Tịnh độ Đâu-suất (Đâu-suất nội viện), được Bồ tát Di Lặc giáo hóa là một trong những mục tiêu quan trọng của Phật giáo đồ, thịnh hành và phổ biến ở Ấn Độ và Trung Hoa.
Theo Đảo sử, vua Dutthagamani của Tích Lan, trước khi lâm chung được nghe một vị Tỷ kheo nói về Bồ tát Di Lặc và Tịnh độ Đâu-suất liền phát sinh lòng tin và được vãng sanh về cõi này. Các Tổ sư Duy Thức tông như Vô Trước, Thế Thân đều phát nguyện và được vãng sanh Tịnh độ Đâu-suất (Theo Đại Đường Tây Vực ký).
Ở Trung Quốc, từ thời Đông Tấn về sau, tín ngưỡng Tịnh độ Đâu-suất rất thịnh hành. Các cao tăng như Đạo An, Huyền Trang, Khuy Cơ, Hư Vân, Thái Hư, Từ Hàng v.v… cũng đều phát nguyện và thành tựu vãng sanh Tịnh độ Đâu-suất.
Về nhân hạnh tu tập để vãng sanh Tịnh độ Đâu-suất, theo kinh Di Lặc thượng sanh: Sanh lên Thượng phẩm gồm 6 hạnh: Siêng tu công đức, đầy đủ oai nghi, quét tháp đắp đường, cúng dường hoa hương, trụ tâm nhập định, đọc tụng kinh điển. Sanh lên Trung phẩm gồm 3 hạnh: Tâm hoan hỷ, lời nói cung kính, thân lễ bái. Sanh lên hạ phẩm gồm 11 hạnh: Sám hối, nghe danh hiệu, tạo hình tượng, cúng hương, cúng hoa, cúng y phục, cúng lọng, cúng cờ, cúng phướn, thân thường lễ bái, tâm miệng chuyên niệm.
Ngoài ra, những người tu tập giữ 5 giới, 8 giới (Bát quan trai), 10 giới (Thập thiện) là nhân hạnh sanh lên Đâu-suất ngoại viện, hưởng phước thiên giới.
Chúc các bạn tinh tấn!
HỎI: Xin quý Báo cho biết đại lược về cung trời Đao-lợi và Đâu-suất. Tu tập nhân hạnh nào thì được sanh về Tịnh độ Đâu-suất?(TỪ HÒA, Đồng Tháp; NGUYÊN SÁNG, Bà Rịa-Vũng Tàu).
ĐÁP:
Bạn Từ Hòa và Nguyên Sáng thân mến!
Từ điển Phật học Huệ Quang (tập II, tr.1391) ghi: Trời Đao-lợi (S.Trayastrimsa, P.Tavatimsa, Hán. Đao-lợi thiên, Tam thập tam thiên), là tầng trời thứ 2 trong 6 tầng trời ở cõi Dục.
Theo vũ trụ quan Phật giáo, trời Đao-lợi nằm trên đỉnh núi Tu-di, bốn phía đỉnh núi, mỗi phía đều có 8 thiên thành, thành Thiện kiến hay Hỷ kiến (Sudassana) ở giữa là cung điện của vua trời Đế-thích (Sakka), tất cả gồm 33 nơi nên gọi Tam thập tam thiên.
Kinh Trường A-hàm, phẩm Đao-lợi thiên, ghi: Chư thiên ở trời Đao-lợi cao 1 do-tuần, thọ trung bình 1.000 tuổi, ăn uống như loài người nhưng thực phẩm thanh tịnh hơn. Ở Đao-lợi cũng có việc dựng vợ gả chồng nhưng không ân ái, thiên nam và thiên nữ chỉ dựa vào nhau là thành tựu việc âm dương. Lúc mới sinh ra, chư thiên sơ sinh có vóc dáng tròn trịa, bằng đứa bé 6 tuổi ở thế gian, tự có y phục. Cõi trời này có đầy đủ các thứ báu tốt đẹp, đền đài, lầu các, cảnh vật đều thù thắng, trang nghiêm.
Sinh về cõi trời Đao-lợi, làm con dân của Đế-thích là tín ngưỡng lâu đời của người Ấn Độ xưa. Thánh mẫu Ma-da sau khi chết sinh về cõi trời này. Đức Phật Thích Ca đã có lần thuyết pháp cho Thánh mẫu và chư thiên ở trời Đao-lợi trong 3 tháng (ảnh).
Về trời Đâu-suất, Từ điển Phật học Huệ Quang (tập II, tr.1474) ghi: Trời Đâu-suất (S&P.Tusita, Hán. Đâu-suất thiên, Hỷ lạc thiên), là tầng trời thứ 4 trong 6 tầng trời ở cõi Dục, ở giữa trời Dạ-ma (tầng trời thứ 3) và trời Hóa lạc (tầng trời thứ 5).
Chư thiên ở cõi trời này luôn sống trong hỷ lạc, vật chất sung mãn, tinh tấn tu tập Bát chánh đạo nên gọi là Hỷ lạc thiên. Các Bồ tát giáo hóa ở cõi này thường tu tập hỷ (một trong bốn tâm vô lượng) nên còn gọi là Hỷ túc thiên.
Chư thiên ở Đâu-suất thân cao 4 do-tuần, tuổi thọ trung bình 4.000 tuổi. Các vị thiên ở cõi trời này khi khởi dục chỉ cần nắm tay nhau liền được thọ dụng như ý.
Cõi trời này có hai viện, Đâu-suất ngoại viện và Đâu-suất nội viện.
Đâu-suất ngoại viện là nơi cư trú của chư thiên hưởng thọ nhiều dục lạc, rất ít khi được nghe thuyết pháp.
Đâu-suất nội viện là trụ xứ của Bồ tát Di Lặc, còn gọi là Tịnh độ Đâu-suất. Bồ tát Di Lặc hiện đang giáo hóa các Bồ tát ở đây, đương lai sẽ hạ sanh thành Phật. Phật Thích Ca, trước khi giáng xuống cõi Ta bà cũng ở Đâu-suất nội viện này.
Vãng sanh Tịnh độ Đâu-suất (Đâu-suất nội viện), được Bồ tát Di Lặc giáo hóa là một trong những mục tiêu quan trọng của Phật giáo đồ, thịnh hành và phổ biến ở Ấn Độ và Trung Hoa.
Theo Đảo sử, vua Dutthagamani của Tích Lan, trước khi lâm chung được nghe một vị Tỷ kheo nói về Bồ tát Di Lặc và Tịnh độ Đâu-suất liền phát sinh lòng tin và được vãng sanh về cõi này. Các Tổ sư Duy Thức tông như Vô Trước, Thế Thân đều phát nguyện và được vãng sanh Tịnh độ Đâu-suất (Theo Đại Đường Tây Vực ký).
Ở Trung Quốc, từ thời Đông Tấn về sau, tín ngưỡng Tịnh độ Đâu-suất rất thịnh hành. Các cao tăng như Đạo An, Huyền Trang, Khuy Cơ, Hư Vân, Thái Hư, Từ Hàng v.v… cũng đều phát nguyện và thành tựu vãng sanh Tịnh độ Đâu-suất.
Về nhân hạnh tu tập để vãng sanh Tịnh độ Đâu-suất, theo kinh Di Lặc thượng sanh: Sanh lên Thượng phẩm gồm 6 hạnh: Siêng tu công đức, đầy đủ oai nghi, quét tháp đắp đường, cúng dường hoa hương, trụ tâm nhập định, đọc tụng kinh điển. Sanh lên Trung phẩm gồm 3 hạnh: Tâm hoan hỷ, lời nói cung kính, thân lễ bái. Sanh lên hạ phẩm gồm 11 hạnh: Sám hối, nghe danh hiệu, tạo hình tượng, cúng hương, cúng hoa, cúng y phục, cúng lọng, cúng cờ, cúng phướn, thân thường lễ bái, tâm miệng chuyên niệm.
Ngoài ra, những người tu tập giữ 5 giới, 8 giới (Bát quan trai), 10 giới (Thập thiện) là nhân hạnh sanh lên Đâu-suất ngoại viện, hưởng phước thiên giới.
Chúc các bạn tinh tấn!
Được cảm ơn bởi: taijiquan, hey
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
Được cảm ơn bởi: hey