Đất Phật

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Vu Lan Bồn
[/b]
TVĐĐ - 09/08/2009[/font]


A. Mở Ðề
1. Công ơn sanh thành dưỡng dục rất lớn lao:
Chúng ta thương nghe câu ca dao:

"Công cha như núi Thái sơn;
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra".

(Công ơn cha mẹ thật quá lớn lao như núi cao, bể cả).

Mẹ thì chín tháng cưu mang, ba năm cho bú mớm, suốt đời chỉ biết hy sinh cho con. Khi đang ăn cũng như khi ngủ nghỉ, hễ con cần đến là có mẹ ở bên cạnh. Con lỡ đại, tiểu tiện ở trên mình, mẹ vẫn vui cười không chút hờn giận. Gặp cảnh nghèo hèn, mẹ nhịn bớt cơm cho con ăn, dành chỗ khô ráo cho con nằm (bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn). Rủi khi con đau ốm, mẹ ngồi bên cạnh, năm canh thao thức lo âu; chỉ khi con khỏe mạnh tươi cười, mẹ mới vui tươi hớn hở. Ca dao có câu:

" Lên non mới biết non cao, Nuôi con mới biết công lao mẫu từ".

Còn cha mẹ phải lo làm lụng vất vả để nuôi con. Nếu gặp cảnh nghèo khó, cha phải làm thuê, ở mướn, mua tảo bán tần, đổ mồ hôi lấy bát cơm, manh áo cho con. Ngoài ra cha còn dạy dỗ cho con học hành, ngày đêm lo lắng đào tạo cho con thành người hữu dụng, khôn ngoan, khỏi thua chúng kém bạn. Công ơn cha mẹ nói ra bao nhiêu cũng không cùng.

2. Vậy làm con phải báo đền ơn cha mẹ:
Bất luận luân lý đạo đức nào, Ðông hay Tây, xưa hay nay; đều lấy cữ:Hiếu" làm đầu. Một người con đã bất hiếu với cha mẹ, thì không còn việc xấu xa gì mà không làm được. Một kẻ vong ơn bội nghĩa như thế, thì không còn biết nhân nghĩa, bác ái, công bằng là gì nữa. Bởi vậy cho nên, người xưa có câu:

"Thiên kinh vạn quyển, Hiếu nghĩa vi tiên",
(Ngàn quyển kinh, vạn quyển sách, đều lấy Hiếu làm đầu).

Kinh Thi có nói một câu rất cảm động:

" Phụ hề sanh ngã, mầu hễ cúc ngã, Ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù lao, Dục báo thâm ân, hiệu thiên võng lạc".

Nghĩa là cha sanh ta, mẹ nuôi ta. Hỡi ôi, cha mẹ sanh ta cực nhọc. Muốn đền đáp ân đức của cha mẹ, như vói lên trời cao chẳng cùng.

Phật cũng dạy:

"Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế".

Nghĩa là cha mẹ còn sinh tiền, cũng như Phật còn ở đời. Xem thế, Phật đã đề cao biết bao sự hiện diện quí trọng của cha mẹ. Vì cha mẹ quí trọng như thế, nên Ngài dạy thêm:

" Hiếu vi vạn hạnh chi tiên".
(Hiếu thảo đứng đầu trong mọi việc).

Ðể Phật tử làm tròn nhiệm vụ hiếu đạo, nên đức Phật dạy pháp Vu Lan Bồn dưới đây.

B. Chánh Ðề

Vu Lan Bồn là một phương pháp báo hiếu có hiệu quả nhất. Nhưng trước tiên, chúng ta hãy hiểu nghĩa Vu Lan Bồn thế nào đã.

I. Ðịnh Nghĩa

Vu Lan Bồn là phiên âm theo tiếng Phạn. Người Trung Hoa dịch là: " giải đảo huyền", nghĩa đen là cởi trói người bị treo ngược; nghĩa bóng là cứu vớt những kẻ đau khổ nặng nề như đang bị treo ngược.


II. Nguyên Nhân Phật Dạy Pháp Vu Lan Bồn

Ngài Ðại hiếu Mục Kiền Liên, sau khi tu hành chứng được 6 phép thần thông, ngậm ngùi nhớ đến công ơn cha mẹ, Ngài tìm cách báo đáp. Dùng đạo nhãn xem trong thế gian, Ngài nhận thấy mẹ mình sanh làm loài ngạ quỷ, thân thể ốm gầy, da bọc xương, thân hình tiều tụy, bụng lớn, đầu to, cổ nhỏ như ống chỉ, đói khát suốt năm không được ăn uống. Thương xót quá, Ngài liền đem bát cơm đang ăn dâng mẹ. Ngài vận thần thông, bưng bát cơm đi đến chỗ mẹ ở. Bà mẹ khát khao, nên khi được cơm, lòng tham nổi lên, sợ người cướp giựt, lấy tay trái che giáu bát cơm, tay mặt bốc ăn. Bởi lòng tham lam độc ác trong tiền kiếp trước nổi bừng lên, nên cơm mới đưa vào miệng, thì hóa thành ra lửa, bà chẳng ăn được. Ngài Mục Kiền Liên thấy thế, hết sức đau buồn kêu khóc thảm thiết. Ngài liền trở về bạch Phật, thuật lại như trên và cầu Phật chỉ dạy cho phương pháp cứu độ thân mẫu.

III. Phật Dạy Pháp Vu Lan Bồn Cho Ngài Mục Kiền Liên

Sau khi nghe Ngài Mục Kiền Liên thỉnh cầu phương pháp báo hiếu, Phật dạy rằng: -" Nầy Mục Kiền Liên! Mẹ của ông do lòng tham lam, độc ác đã tạo ra tội lỗi nặng nề trải qua nhiều kiếp, nay sanh trong ác đạo, làm loài ngạ quỷ nên không thể một mình ông cứu độ được. Mặc dù lòng hiếu thảo của ông vô cùng lớn lao, cũng không sao chuyển được hoàn cảnh, chẳng khác gì chiếc thuyền con, không thể chở được tảng đá lớn. Vậy ông phải nhờ oai thần của chúng Tăng trong mười phương, đức lớn như biển, mới cứu độ mẹ ông được giải thoát. Ta nay sẽ vì ông, chỉ dạy phương pháp cứu rỗi, khiến cho mẹ ông xa lìa được các điều tội lỗi. Nầy Mục Kiền Liên ! Ngày rằm tháng 7 là ngày Tự Tứ của chư Tăng trong mười phương, sau ba tháng an cư kiết hạ, sách tấn tu hành. Ngày ấy cũng là ngày hoan hỷ của các chư Phật , vì thấy chư Tăng sau ba tháng an cư kiết hạ, đã tiến bộ rất nhiều trên đường tu học, các nghiệp được thanh tịnh, ba món vô lậu học được tăng trưởng, công đức thêm nhiều và đến ngày viên mãn. Vậy ông nên nhân ngày ấy làm lễ Vu Lan Bồn để báo hiếu cho mẹ ông. Ông hãy sắm đủ các món trai diên trăm mùi, năm thứ trái, cùng hương dầu đèn nến, giường chõng, chiếu chăn, mùng mền, quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay; tóm lại là đủ bốn món cúng dường quí báu trong đời. Rồi ông phải thân hành đi rước các vị Ðại Ðức Tăng trong mười phương, hoặc những vị thiền định trong núi rừng, chứng được bốn quả Thánh, hoặc có vị kinh hành dưới cội cây được sáu phép thần thông tự tại hàng Thanh Văn, Duyên Giác, các vị Thánh Tăng, hoặc các vị thập địa Bồ Tát thị hiện làm thầy Tỳ kheo v.v...Ông phải thành tâm kính lễ trai Tăng cúng dường và thỉnh cầu chư Tăng chú nguyện cho vong linh mẹ ông được thoát khổ. Nhờ công đức chí thành chú nguyện, vong linh mẹ ông sẽ được siêu thoát. Cũng như tảng đá dù nặng trăm cân, song có nhiều người khiêng, thì dời đi đâu cũng được".

Ngài Mục Kiền Liên vâng lời Phật dạy, đến ngày rằm tháng 7 làm lễ Vu Lan, sắm đủ các vật liệu, rước chư Tăng trong mười phương thành tâm kính lễ trai Tăng cúng dường, nên vong mẫu của Ngài được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, sanh về cảnh giới lành.

IV. Ngài Mục Kiền Liên Hỏi Phật Các Hàng Phật Tử Ðời Sau Có Thể Làm Lễ Vu Lan Bồn Ðược Không?

Sau khi thấy thân mẫu được thoát khổ, Ngài Mục Kiền Liên hết sức vui mừng, liền đến trước Phật chấp tay bạch rằng: Bạch Thế Tôn! Thân mẫu của con được nhờ công đức Tam Bảo và oai thần của chư Tăng, nên được thoát ly kiếp ngạ quỷ khổ não. Vậy về đời sau, trong hàng Phật tử , nếu có người muốn làm lễ Vu Lan Bồn nầy, để cứu độ cha mẹ hiện tại cũng như cha mẹ nhiều kiếp trước, chẳng biết có được không?

Phật dạy rằng:

-"Quý lắm! Nầy Mục Kiền Liên! Ðời sau, nếu các thầy Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, vua, Thái Tử, các quan tể tướng, những hàng tam công cho đến tứ dân, vì lòng hiếu thảo muốn đền đáp công ơn cha mẹ hiện tại hay quá khứ, thì cứ ngày rằm tháng 7 là ngày "Phật hoan hỷ", làm lễ Vu Lan nầy, để cúng dường trai Tăng. nhờ công đức của chư Tăng chú nguyện, cha mẹ hiện tại được tăng long phước thọ, khỏi những điều tai hoạn, khổ não,, còn cha mẹ bảy đời trước thì khỏi bị khổ ngạ quỷ, được sanh trong cõi nhơn thiên, hưởng phước vui vẻ không cùng".

Khi đó Ngài Mục Kiền Liên và bốn chúng Ðệ tử hoan hỷ vâng làm. Và từ đó về sau, mỗi năm cứ đến ngày Rằm tháng 7, các hàng Phật tử chí hiếu, đều có làm lễ Vu Lan để đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ.



V. Ý Nghĩa Ðứng Ðắn Và Ðầy Ðủ Của Sự Báo Hiếu Theo Quan Niệm Ðạo Phật

Tất nhiên sự báo hiếu không những chỉ nhắm vào một lễ Vu Lan. Không phải mỗi năm chỉ tổ chức một lễ Vu Lan, là đã tự cho mình là người con chí hiếu vì đã làm đầy đủ hiếu đạo. Như trên đã nói, công ơn cha mẹ rộng như trời bể, làm con suốt đời báo ơn cha mẹ vẫn chưa vừa. Nhưng trong lúc báo hiếu, phải có quan niệm sáng suốt, đúng đắn mới thật có lợi ích và hiệu quả. Báo hiếu có nhiều cách, nhưng không ngoài hai phương diện: vật chất và tinh thần.

1. Báo hiếu về vật chất: Người Phật tử phải hầu hạ vâng thờ, thay làm các việc nhọc săn sóc miếng ăn thức uống, áo quần, chiếu giường, chỗ nghỉ ngơi, không để cho cha mẹ thiếu thốn, lo nghĩ. Song người Phật tử phải sáng suốt trong khi báo hiếu, không nên quá chiều theo ý muốn của cha mẹ mà tạo những nghiệp dữ, như sát nhân, hại vật, gây tội lỗi để làm cho cha mẹ sung sướng trong vật chất. Làm như thế không phải là báo hiếu mà chính là bất hiếu, vì đã gây tạo tội lỗi thêm cho cha mẹ và cho mình. Vả lại, báo hiếu về vật chất, dù đầy đủ cho mấy đi nữa, cũng chẳng qua làm việc cho cha mẹ được vui vẻ thỏa mãn trong một kiếp hiện tại mà thôi. Cái vui vật chất là vui giả tạm, vui trong vòng sanh tử luân hồi. Vậy sự báo hiếu về vật chất chưa phải là đủ.

2. Báo hiếu về tinh thần: Người Phật tử phải tiến lên một tầng nữa, là lo báo hiếu về tinh thần. Báo hiếu về tinh thần là làm sao cho tinh thần của cha mẹ được nhẹ nhàng, cao thượng và đi dần đến chỗ giải thoát. Phật tử phải khuyên cha mẹ tin nhơn quả tội phước và quy y Tam Bảo, bố thí phóng sinh, niệm Phật , làm các việc lành, giữ giới và tu nhơn giải thoát. Có như thế, thì không những trong hiện tại cha mẹ được yên vui, thanh tịnh và đời sau cũng được nhiều phước báo, và sinh trong cảnh giới sáng sủa nhẹ nhàng.

VI. Quyết Nghi

1. Có người nghi: Chư Tăng chỉ tụng kinh chú nguyện làm sao vong linh được siêu độ?

Ðáp: Tinh thần của người ta rất mạnh, mỗi khi chúng ta tập trung tư tưởng, chăm chú vào một việc gì, thì sẽ thấy sức mạnh của nó phi thường. Kinh nói: "Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện"; nghĩa là: để tâm định lại một chỗ, thì không việc gì làm không thành tựu. Chúng ta thấy như các nhà thôi miên, dùng tinh thần sai sử người đi, đứng, nằm, ngồi, v.v...đều được cả. Người thế gian dụng tâm còn được như thế, huống chư Tăng trị trai giữ giới thanh tịnh tu hành, tất nhiên tinh thần phải sáng suốt, mạnh mẽ hơn. Như thế mà các vị lại tập trung tư tưởng, thành tâm chú nguyện thì vong linh quyết nhờ sức mạnh của chư Tăng mà được siêu sanh. Laiĩ nữa, Phật và Bồ Tát sẵn có làng từ bi tế độ, thương tất cả chúng sanh như mẹ thương con. Chúng ta cảm, thì lo gì các Ngài không ứng hiện? Cúng như mặt trăng luôn luôn sẵn có ánh sáng, nếu nước hồ không xao động và lóng trong , thì trăng kia sẽ chiếu xuống tận đáy hồ.

2. Có người hỏi: "Y như lời Phật dạy trong kinh Vu Lan, thì phải sắm cho đủ các thứ thực phẩm và vật dụng quý báu để cúng dường chư Tăng. Như thế đối với những người nghèo hèn thì sao?

Ðáp: Bổn ý của Phật dạy chúng ta là phải chí thành và tận lực trong việc lo sắm đủ những thứ ấy. Ðối với những kẻ nghèo khó, nếu họ đã tận lực mà chỉ mua được một nén hương hay đĩa quả, nhưng có lòng chí thành, thì cũng đủ lắm rồi. Trái lại, nếu có người sắm dư giả các vật mà chưa chí thành, thì cũng chưa có thể gọi là đầy đủ.

3. Có người hỏi: Ngài Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất, tự mình có thể cứu vớt cha mẹ được, cần gì phải nhờ đến chư Tăng. Cũng như các ông quan lớn trong xứ, đủ thế lực, có thể cứu bà con có tội được rồi, cần gì phải nhờ đến các quan khác?

Ðáp: Bà Thanh Ðề bị tội khổ, do trước kia tâm bà gây nên. Hôm nay nhờ Ngài Mục Kiền Liên là con hiếu thảo, sắm các lễ vật cúng dường Phật , Tăng, lúc ấy bà sanh lòng hoan hỷ cũng muốn cúng dường Phật , Tăng. Do đổi niệm bỏn sẻn, trở lại tâm rộng rãi, mà bà được giải thoát. Nếu như chỉ nhờ đức chúng Tăng mà tâm bà không hoan hỷ mở rộng, thì cũng khó mà cứu vớt được.

C. Kết Luận Chúng ta đã rõ biết hiệu quả tốt đẹp của lễ Vu Lan. Vậy chúng ta nên noi theo gương của Ngài Ðại hiếu Mục Kiền Liên mà báo hiếu, thì chắc chắn cha mẹ hiện tại và bảy đời trước đều được thoát khổ ngạ quỷ u đồ, và hưởng vui giải thoát. Chuyện "Mục Liên, Thanh Ðề" không có gì là hoang đường, huyền bí, mà là một hiện tượng có thể giải thích được. Ðó là do lòng hiếu thảo chí thành của người con và công đức trì trai, giữ giới thanh tịnh trong ba tháng hạ, thúc liễm tu hành của chư Tăng, thành tâm chú nguyện, nên có sức mạnh cảm thông và kích thích đên tâm hồn người đau khổ, làm cho họ thức tỉnh cơn mê, xoay chuyển tâm niệm ác, hướng về nẻo thiện. Nhờ sự chuyển hướng của cái tâm này, mà họ thoát khỏi sự hình phạt đau khổ mà trước kia chính cũng do cái tâm ấy tạo ra. Trong kinh có nói: "Tâm có thể tạo nghiệp, mà tâm cũng có thể chuyển nghiệp". Kìa, như nhà thôi miên học, chỉ tập trung tư tưởng mà còn có thể xoay chuyển sự vật được , huống chi sự chú nguyện của chư Tăng, là kết tinh của bao nhiêu phước đức trí huệ, thanh tịnh, lại không thông cảm đến người ở chốn tội khổ hay sao? Nghiệp lực sâu thẳm vô biên, thì tự lực và nguyện lực cũng dõng mãnh vô lượng, có thể chuyển được tâm người tạo nghiệp, đập vỡ được lao ngục xiềng xích khổ hình ở chốn u đồ. Pháp Vu Lan nầy chính là phương pháp thần diệu để cứu rỗi vong linh cha mẹ trong cảnh khổ tối tăm. Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng: báo hiếu không phải chỉ đợi khi cha mẹ đã khuất bóng và mỗi năm chỉ một lần cử hành lễ Vu Lan là đủ. Người con chí hiếu, bao giờ cũng vui sướng khi thấy cha mẹ còn ở bên mình và tận lực phụng dưỡng cha mẹ, để cha mẹ được thảnh thơi về cả hai phương diện vật chất và tinh thần. Như thế mới khỏi hối hận và than thở như Thầy Tử Lộ: "Mộc dục tịnh nhi phong bất đình ! Tử dục dưỡng nhi thân bất tại". (Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng ! Con nuôi dưỡng báo hiếu mà cha mẹ chẳng còn sống).


HT Thích Thiện Hoa





Nguồn : thegioivohinh
Tập tin đính kèm
359741.jpg
359741.jpg (34.3 KiB) Đã xem 1070 lần
Được cảm ơn bởi: hey, tigerstock68
Đầu trang

hey
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 255
Tham gia: 16:15, 24/02/11

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi hey »

*****************
Tập tin đính kèm
4bea3e9b_6d2fbaac_0905091656d72da572f60b9b8c_resize.jpg
4bea3e9b_6d2fbaac_0905091656d72da572f60b9b8c_resize.jpg (215.03 KiB) Đã xem 1065 lần
Được cảm ơn bởi: cloudstrife
Đầu trang

hey
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 255
Tham gia: 16:15, 24/02/11

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi hey »

TINH THẦN BÁO HIẾU THEO ĐẠO PHẬT

Hàng năm cứ mỗi độ mùa Vu Lan Báo Hiếu trở về là dịp cho chúng ta càng nhớ lại bổn phận của một người con hiếu đạo, tìm cách đền đáp ân đức sanh thành đối với mẹ cha, noi gương hiếu hạnh của ngài Mục Kiền Liên và tiếp nối truyền thống cao đẹp, uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt nam.

Ngày nay, đại lễ Vu Lan không còn là ngày lễ riêng của người Phật tử, mà nó đã trở thành ngày lễ hội chung của dân tộc. Vì thế không riêng gì những người con Phật, mà hầu như mọi người Việt Nam nói riêng một số dân tộc Á Đông nói chung đều lấy ngày này làm ngày lễ thiêng liêng để tưởng nhớ đến những bậc cha mẹ, những người đã sanh thành và dưỡng dục họ thành người.

Đức Phật thường dạy: “Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế”,hay là: “Thiên kinh vạn điển hiếu hạnh vi tiên”, những lời dạy đó đã phần nào đánh thức được cội nguồn sâu xa trong tâm hồn của hàng vạn người con còn mẹ còn cha biết quay lại với chính mình, nhận ra tinh thần hiếu đạo để sống cho thích hợp. Chính điều đó đã chỉ bày cho chúng ta những phương pháp báo hiếu ân đức cha mẹ qua ngày lễ Vu Lan, bao gồm bốn phương thức:

a.Hiếu Đạo: Xưa kia đức Mục-kiền-liên chứng đắc lục thông, Ngài dùng thiên nhãn thông thấy mẹ mình bị đọa trong địa ngục A-tỳ. Với lòng thương xót cảnh đói khát, Ngài đã vội đem cơm dâng mẹ, nhưng do nghiệp báo của mẹ quá nặng nên không ăn được. Mặc dù Ngài được xưng danh là người có thần thông siêu phàm nhưng cũng không thể cứu mẹ thoát khỏi cảnh khổ đau của địa ngục. Ngài bèn bạch với đức Phật chỉ bày phương pháp cứu mẹ thoát khỏi cảnh Tam đồ. Đây chính là lòng hiếu đạo. Như vậy,hiếu đạo có nghĩa là lòng chí thành chí thiết của con cái đối với cha mẹ, tìm cách cứu độ ông bà cha mẹ, cửu huyền thất tổ ra khỏi ác đạo. Đó là thực hành hạnh hiếu đúng với tinh thần của đạo Phật, ngoài ý nghĩa này ra thì đều là cách báo hiếu của thế gian.

b.Hiếu Dưỡng: Chữ Dưỡng có nghĩa là nuôi,chúng ta nuôi dưỡng cha mẹ đầy đủ về các mặtvật chất, như cung cấp cơm ăn, áo mặc, thuốc thang… không thiếu thứ gì, mùa nào thì có đồ ăn thức uống, áo quần phù hợp với thời tiết mùa đó, như vậy là chúng ta đang hiếu dưỡng với cha mẹ.Nhưng sự quan tâm, chăm sóc nuôi dưỡng này phải xuất phát từ lòng từ hoan hỷ, chứ không phải phát xuất từ ý tưởng xem việc nuôi dưỡng cha mẹ là phận sự phải làm, là điều bắt buộc, là vì phận làm con phải có trách nhiệm… Những ý tưởng như trên đều không đúng với hiếu dưỡng của người con Phật.

Trong kinh Tăng Chi I, số 751, đức Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo có hai hạng người, ta nói không thể trả ơn được; thế nào là hai? Đó là cha và mẹ. Nếu một bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ, làm như vậy suốt một trăm năm cho đến khi cha mẹ trăm tuổi. Như vậy này các Tỳ-kheo, cũng chưa đủ để trả ơn cho cha và mẹ.Nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội và dù tại đấy, cha mẹ có vãi đại tiện, tiểu tiện, dù như vậy, các Tỳ-kheo cũng chưa làm đủ để trả ơn cha và mẹ.”

c.Hiếu Hạnh: Có nghĩa là người con luôn luôn giữ mình trong mọi hành động, lời nói và ý tưởng, không bao giờ làm điều gì để người khác chê bai là đứa con hư hỏng, xấu xa. Những lời chê bai, chửi mắng, nói xấu nếu để đến tai cha mẹ thì điều đó sẽ làm cho cha mẹ buồn rầu trở thành những hành vi bất hiếu. Bởi vậy, những việc làm của chúng ta trong hiện tại nếu sống thích hợp, đem lại tiếng tốt cho cha mẹ thì đó sẽ là sự báo hiếu. Sự kính trọng, nể phục của người khác đối với cha mẹ mình đôi khi tùy thuộc vào hành vi, cử chỉ, nói năng giao tiếp của chính những người con. Cho nênngười con hiếu hạnh phải biết gieo những điều tốt đẹp với những người xung quanh, để gây uy tín, tiếng thơm cho cha mẹ của mình.

d.Hiếu Tâm: Có nghĩa làkhi chúng ta vì hoàn cảnh hay vì một nguyên do gì đó mà phải sống xa quê hương, xa cách cha mẹ, nhưng tâm tư của chúng ta vẫn luôn luôn hướng về cha mẹ, không khi nào quên những gì cha mẹ từng chỉ dạy khi còn ở gần. Những ý tưởng như vậy gọi là hiếu tâm.

Là người Phật tử, phải trả hiếu cho cha mẹ mình bằng tinh thần hiếu đạo thì mới mong báo đáp ân đức sanh thành của cha mẹ đúng theo những lời dạy của đức Phật. Cho nên đãlà người con hiếu thảo thì không nên quá nuông chiều theo những ý muốn của cha mẹ để làm những việc sai trái, lỗi lầm đem lại tai hại cho bản thân hay người xung quanh. Vì làm như vậy, vô tình chúng ta đã tạo thêm nghiệp xấu cho cha mẹ, làm cho cha mẹ phải nhận lấy quả báo xấu đọa lạc các cõi không tốt trong tương lai.

Nếu cha mẹ còn sanh tiền, bổn phận làm con phải khuyên cha mẹ tin luật nhân quả, khuyên cha mẹ quy y Tam bảo, tránh dữ làm lành, tu nhơn tích đức, thực hành mọi điều thiện trong đời này, hoặc giả lúc cha mẹ lâm chung thì không nên tổ chức đám đình tốn kém, mà phải tạo phước đức cho cha mẹ bằng cách bố thí, phóng sanh… tùy khả năng của mình, tự mình làm hay người thân trong gia đình làm lễ cầu siêu cho hương linh của ông bà cha mẹ, cầu nguyện cho cha mẹ được sanh về cảnh giới an vui; hay thỉnh cầu chư Tăng giới đức, chú nguyện tụng kinh niệm Phật, hồi hướng cho hương linh siêu thăng tịnh độ. Trong thời gian này không nên sát sanh mà hãy mở rộng lòng thương nghĩ đến những người cô thế, tàn tật để giúp đỡ hầu đem phước thiện này hồi hướng cho người thân và cho tất cả chúng sanh. Đó là việc làm đúng đắn của người con có hiếu.

Hôm nay các đệ tử Phật may mắn được tu học trong giáo pháp, nghe được những lời dạy vàng ngọc từ kim khẩu của đức Phật, được thấy những gương báo hiếu đền đáp của Ngài đối với đấng sanh thành không chỉ trong kiếp hiện tại mà còn trải qua vô lượng kiếp phụng dưỡng, không có tấm gương hiếu hạnh nào có thể so sánh được với Ngài.

Vu Lan trở lại, nhắc nhở hàng Phật tử chúng ta dù xuất gia hay tại gia, hãy luôn lo nghĩ để đền đáp ân đức sanh thành của ông bà cha mẹ còn hiện tại hay đã quá vãng. Tuy thế, chúng ta không phải đợi đến ngày Vu Lan mới cầu nguyện, mới cúng dường trai Tăng, mới nhớ nghĩ đến cha mẹ mà lúc nào chúng ta cũng phải luôn nhớ đến việc báo ân cha mẹ. Cho nên mỗi độ Vu Lan về là mỗi lần nhắc nhở lòng hiếu của người con Phật chúng ta, chứ không phải đợi tới ngày hội Vu Lan thiêng liêng mới thể hiện tinh thần báo hiếu.

Phật dạy: “Thiện cùng cực không gì hơn hiếu, ác cùng cực không gì hơn bất hiếu”.Qua đó thấy được tinh thần hiếu hạnh của đạo Phật là vô cùng cao cả. Nếu loài người không thực hành gương hiếu hạnh thì xã hội loài người sẽ hết sức man rợ; gia đình không có những người con có hiếu thì những gia đình đó sẽ không bao giờ có hạnh phúc; xã hội thiếu những người con hiếu thảo thì xã hội đó sẽ mất trật tự, an ninh, đâm thuê chém mướn… Chừng đó đủ thấy được tầm quan trọng của việc hiếu nghĩa như thế nào! Cho nên, Phật tử chúng ta cần phải hiểu rõ ràng để báo đáp ân đức sanh thành của cha mẹ mình đúng với chính pháp, xứng đáng là người con hiếu thảo, xứng đáng là đệ tử chân chánh của đức Phật, như Ngài đã dạy: “Nếu ở đời không có Phật thì hãy khéo phụng thờ cha mẹ cũng như khéo phụng thờ chư Phật”.

Trí Tài

Được cảm ơn bởi: cloudstrife
Đầu trang

hey
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 255
Tham gia: 16:15, 24/02/11

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi hey »

************
Tập tin đính kèm
mucliencuume.jpg
mucliencuume.jpg (47.09 KiB) Đã xem 1059 lần
Được cảm ơn bởi: cloudstrife
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Hỏi: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chỉ do một niệm vô minh bất giác thành chúng sanh, vậy tu để làm gì?


Đáp :

Trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “vô lão tử diệc vô lão tử tận” , vốn chẳng già chết, do sự cảm giác sai lầm cho là có sanh tử, nên phải tu để giải thoát sanh tử, gọi là Niết bàn. Thật ra, như Kinh Viên Giác nói “Tất cả chúng sanh đều đã thành Phật” .Ngoài ra, Đức Phật còn dẫn chứng thêm với thí dụ quặng vàng:

- Trong quặng, vàng đã thành sẵn, chỉ là lẩn với đất cát tạp chất, nay luyện bỏ đất cát thì vàng thiệt hiện ra. Nếu trong quặng không có vàng sẵn thì dù luyện thế nào cũng đâu có?

Ấy là lời thí dụ phương tiện của Phật, Phật tánh không thể giảm bớt gián đoạn, thì bây giờ cũng đã sẵn, chỉ đừng nổi lên tâm này tâm kia như: Muốn tu thành Phật, muốn bỏ vọng tưởng, muốn trừ nghiệp chướng, chứng Bồ đề… vì những thứ đó ở trong Thiền tông đều gọi là vọng tưởng.

Do vọng tưởng của sự đang suy nghĩ, nên mới có câu hỏi này. Chính câu hỏi đã là vọng, nếu tôi giải đáp theo sư thì câu trả lời cũng sai theo. Nay tham thiền cứ nhìn vào chỗ chưa nổi một niệm nào hết. Chính do tâm mình cứ nổi lên niệm này niệm kia, nên trong cuộc sống hằng ngày đều ở trong nhất niệm vô minh. Ngài Nguyệt Khê giải thích thế nào là nhất niệm vô minh: Cho cái tách này là tách, cũng là nhất niệm vô minh; cho cái bình này là bình, cũng là nhất niệm vô minh; cho Phật tánh là Phật tánh, cũng là nhất niệm vô minh; cho chúng sanh là chúng sanh, cũng là nhất niệm vô minh… chẳng có niệm nào không nằm trong nhất niệm vô minh.

Khi chưa khởi một niệm nào, gọi là vô thỉ vô minh. Khi nào hết nhất niệm vô minh, chẳng còn một niệm nào là lọt vào vô thỉ vô minh, cũng gọi là thoại đầu, cũng gọi đầu sào trăm thước, phải từ đầu sào trăm thước tiến thêm một bước, tư tưởng không còn, mới là triệt để, mới được gọi là kiến tánh. Phật nói “Phàm là lời nói đều không có nghĩa thật” ,cho nên, câu trả lời của tôi cũng là nhất niệm vô minh, nay dẫu cho bỏ hết nhất niệm vô minh, cũng còn lọt vào vô thỉ vô minh.


Nguồn : tosuthien.com
Được cảm ơn bởi: hey
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Hiểu Niết Bàn cho đúng và dứt nghi ngờ


Trong kinh Udana [7], Phật dạy:

"Cũng như, nầy chư Tỳ khưu, mặc dầu bao nhiêu nước từ sông ngòi kênh rạch và các trận mưa to từ trên trời đổ xuống chảy dồn về biển cả, nhưng không vì thế mà mực nước biển dâng nên quá cao hay xuống quá thấp. Cũng dường thế ấy, không vì lẽ có nhiều vị Tỳ khưu nhập Đại Niết Bàn mà Niết Bàn quá đông đúc hay quá thưa thớt."

Do đó Niết Bàn không phải một cảnh trời nào đó dành riêng cho một cá thể xuất chúng mà là một pháp, một sự thành tựu, mà mọi chúng sanh đều có thể đạt đến.

"Cũng như lửa, không phải được tích trữ ở một nơi đặc biệt nào, nhưng khi hợp đủ điều kiện thì lửa phát sanh. Cùng thế ấy ta không thể nói Niết Bàn ở đâu, nhưng khi Đạo đủ duyên đầy, thì Quả Niết Bàn được thành tựu."











KINH TÌ KHEO NA TIÊN


39. Niết Bàn ở đâu?

Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, thật có Niết Bàn không?

-- Tâu Ðại vương, có.

-- Ðại đức có thể cho biết hiện Ðức Phật đang an trú ở chỗ nào trong cõi Niết Bàn ấy không?

-- Phật đã vào Niết Bàn, mà Niết Bàn là tịch diệt thì làm sao chỉ được!

-- Xin cho ví dụ.

-- Ví như có người đốt lên một đám lửa lớn. Sau khi lữa tắt, có thể chỉ ngọn lửa ấy hiện đương ở chỗ nào không?

-- Thưa không, vì ngọn lửa đã dứt.

-- Cũng như thế đó, làm sao chỉ được Ðức Phật hiện đang an trú ở chỗ nầy hay ở chỗ kia trong Niết Bàn. Duy chỉ có pháp thân của Ngài, tức giáo pháp do Ngài truyền lại là có thể chỉ được mà thôi.





Nguồn : thegioivohinh.com
Được cảm ơn bởi: hey
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

GỌI PHẬT BẰNG BẠN

(Phỏng thuật theo kinh Giới Phân Biệt)

Một mùa an cư, sau khi mãn hạ, đức Thế tôn du hành một mình thăm viếng các trú xứ của những tỳ kheo, để biết lối sống của họ, việc tu hành tiến thoái của họ. Chính nhân những cuộc du hành này mà có lần Ngài đã tâm sự với thị giả Nàgita:

- Này Nàgita, mỗi khi đi ngang một làng mạc mà thấy một am cốc của tỳ kheo, thì dù vị ấy đang ráo riết thiền tọa, Như Lai cũng không hài lòng về trú xứ của vị ấy. Vì sao? Vì vị ấy có thể bị phụ nữ, trẻ con, người lớn trong làng đến phiền nhiễu, tán chuyện làm cho vị ấy không thể chứng đắc những pháp chưa chứng, và có thể thối thất những pháp đã chứng. Trái lại, mỗi khi trông thấy một vị tỳ kheo ở trong rừng, dưới gốc cây, thì dù vị ấy đang tựa gốc cây mà ngủ gục, Như Lai vẫn hài lòng, nghĩ rằng: tỳ kheo này sau khi hết cơn buồn ngủ, có thể tiếp tục tọa thiền không bị ai quấy rối. Y sẽ chứng đắc những pháp chưa chứng đắc.

Trong cuộc du hành chúng ta đang nói đến, khi đức Thế tôn đi ngang một làng nọ thì trời sẩm tối. Ngài ghé vào nhà một người thợ gốm xin trú ngụ. Không ai biết đấy là Ðấng giác ngộ, vì Ngài làm như một tỳ kheo thông thường giản dị, không có tùy tùng thị giả. Ngài ngỏ lời với thợ gốm:

- Này thợ gốm, tôi có thể nghỉ tại nhà người một đêm không ?

Thợ gốm nhìn Ngài đáp:

- Sa môn muốn ở lại cũng được, nhưng đã có một vị đến trước cũng đang nghỉ tại đây. Xin hiền giả (tiếng xưng hô với những vị tỳ kheo còn trẻ) hãy ngỏ lời với vị ấy, nếu ông ta đồng ý thì xin hiền giả cứ tự tiện.

Ðức Thế tôn bước vào. Gặp một vị tỳ kheo trẻ đang ngồi, Ngài hỏi:

- Hiền giả, tôi muốn ở lại đây một đêm, có phiền gì cho người chăng?

- Ồ thưa hiền giả, không có gì phiền. Nhà thợ gốm rất rộng.

Thế tôn bèn trải thảm cỏ ngồi kiết già. Vị tỳ kheo cũng ngồi thiền đến quá nửa đêm. Ðức Thế tôn quán sát cử chỉ tỳ kheo thanh niên ấy, lấy làm hài lòng. Ngài nghĩ: "Thanh niên này có những cử chỉ tín thành. Ta hãy hỏi chuyện y". Và Ngài mở lời:

- Này bạn, nhân danh ai mà bạn đã từ bỏ gia đình, sống đời khất sĩ? Ai là thầy của bạn?

Tỳ kheo đáp:

- Ồ bạn ơi, có sa môn dòng họ Thích Ca đã từ bỏ ngai vàng để trở thành một ẩn sĩ. Thiên hạ đồn rằng Ngài đã đạt chánh giác, được tôn xưng là Phật, Thế tôn. Chính nhân danh Con Người cao cả đó mà tôi đã xuất gia. Bậc Thế tôn ấy là đạo sư của tôi. Tôi thích sống như Người.

- Vậy con người cao cả đó, đức Phật, Thế tôn ấy, bây giờ ở đâu?

- Này bạn, có một đô thị ở phía Bắc gọi là Xá vệ, chính nơi đó đức Thế tôn đang ngự tòa.

- Bạn có khi nào thấy Ðấng Thế tôn ấy chưa? Bạn có nhận ra Ngài nếu gặp Ngài không?

- Bạn ơi! Làm sao tôi có được cái diễm phúc ấy? Tôi chưa bao giờ trông thấy Ngài, chỉ mới nghe danh Ngài thôi. Nhưng chính nhờ Ngài mà tôi bỏ tục xuất gia, sống đời không nhà. Tôi chưa được gặp Ngài thì làm sao nhận ra Ngài được?

Ðức Thế tôn suy nghĩ: "Thanh niên này đã nhân danh ta mà xuất gia. Vậy ta hãy thuyết pháp cho y". Rồi Ngài dạy:

- Hỡi khất sĩ, tôi sẽ giảng pháp cho bạn, hãy lắng nghe.

- Ðược, bạn cứ nói đi.

Ðức Thế tôn thuyết pháp cho vị tỳ kheo ấy về cấu tạo của con người gồm bốn đại, năm uẩn, trong đó không có cái gì là ta hay của ta, toàn là những kết hợp vay mượn từ bên ngoài, biến chuyển luôn luôn để đi đến hoại diệt. Do nhận thức chân chính ấy, khi mắt tiếp xúc với sắc, tai với âm thanh v.v... phát sinh ra cái thấy cái nghe, v.v... và những cảm thọ như dễ chịu, khó chịu v.v..., vị tỳ kheo không tham đắm, không ghét bỏ vì quán sát những cảm thọ ấy không phải là ta không phải của ta. Vị ấy có thái độ "huệ xả" (giải thoát nhờ trí tuệ), không còn vọng tưởng, được sự bất động. Khi dứt được những vọng tưởng như vậy, vị tỳ kheo ấy được gọi là ẩn sĩ tịch tịnh.

Ðức Thế tôn dùng âm thanh vi diệu như tiếng hót chim Ca lăng tần già để thuyết pháp cho vị tỳ kheo ấy; khích lệ ông, làm cho ông hân hoan phấn khởi với những lời pháp của Ngài, như thể được nếm vị cam lồ bất tử. Nghe xong thời pháp của Thế tôn, vị tỳ kheo biết ngay đấy chính là Ðấng A La Hán chánh đẳng giác ông đang ngưỡng mộ tôn thờ. Ông sửa lại y, quỳ gối chắp tay bạch:

- Bạch Thế tôn, con thật ngu si đã gọi Ngài là bạn. Xin Thế tôn cho con sám hối tội lỗi.

- Này tỳ kheo, vì ngươi không biết nên không gọi là tội lỗi.

LỜI BÀN:

Qua giai thoại này, ta thấy rõ khi vị tỳ kheo lắng nghe đức Phật và lãnh hội lời dạy của Ngài, ông không biết người đang nói với mình là ai, đấy là giáo lý của ai, nhưng ông thấy được chân lý qua những lời dạy ấy. Như thuốc hay thì bệnh sẽ lành, không cần phải biết ai làm nên vị thuốc hoặc nó từ đâu lại.
__________________



Theo Cửu Phẩm Liên Hoa - thegioivohinh




Ý kiến cá nhân :


Đây mới là chân lý đúng đắn , là Pháp đích thực ..... Nếu vị tỳ kheo kia nghe Pháp sau khi biết người mà mình đang gọi là " bạn " thật ra là Đấng giác ngộ , thì người ấy tin Kinh Pháp chỉ vì : " Không lẽ lời dạy của Đấng giác ngộ lại sai ? " Vị tỳ kheo ấy sẽ tin Pháp vì chấp vào Phật chứ không phải vì đó là chân lý đúng đắn , là Diệu Pháp ....
Được cảm ơn bởi: hey, tigerstock68
Đầu trang

hey
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 255
Tham gia: 16:15, 24/02/11

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi hey »

Còn sát hại sinh linh,
Ðâu được gọi Hiền thánh.
Không hại mọi hữu tình,
Mới được gọi Hiền Thánh
Tập tin đính kèm
4d7a2814_4395c07a_149698_117108971686409_100001619195577_115272_5288439_n.jpg
4d7a2814_4395c07a_149698_117108971686409_100001619195577_115272_5288439_n.jpg (28.21 KiB) Đã xem 1033 lần
Được cảm ơn bởi: cloudstrife
Đầu trang

hey
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 255
Tham gia: 16:15, 24/02/11

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi hey »

Phật Nói Kinh Hiếu Tử

Đức Phật liền hỏi các vị Sa môn: cha mẹ sinh con: mười tháng mang thai, thân như trọng bệnh; tới ngày sinh sản, mẹ nguy, cha sợ. Với tình cảnh ấy, khó nói hết được. Sau khi sinh rồi, sê con chỗ ráo, mẹ nằm chỗ ướt. Tinh thành rất mực huyết hóa thành sữa. Lau chùi, tắm giặt, đầy đủ ăn mặc; dạy dỗ bảo ban, lễ biếu thầy, bạn, dâng cống quân trưởng. Mặt con tươi tỉnh, cha mẹ vui mừng nếu con buồn rầu, lòng cha mẹ héo. Khi ra ngoài cửa, vẫn nhớ mến con, bước vào trong nhà, thấy con, yên dạ. Tâm thường lo lắng, sợ việc chẳng lành. Ơn cha mẹ thế, lấy gì báo đáp?

Các vị Sa môn bạch đức Phật rằng: “Lạy đức Thế Tôn, là người con hiếu, chỉ nên làm sao ăn ở hết lễ, từ tâm cúng dường, đền ơn cha mẹ.”

Đức Phật lạy bảo các vị Sa môn: “Con nuôi cha mẹ bằng những thứ này; cam lộ trăm mùi, để thỏa miệng Người, mọi tiếng Thiên nhạc, để thích tai người, aó đẹp tuyệt vời, rực rỡ thân Người, hai vai cõng Người, chu lưu bốn bể, đến hết đời con, trả ơn dưỡng dục gọi là hiếu chăng?”

Các vị Sa môn bạch đức Phật rằng: “Lạy đức Thế Tôn, gọi là đại hiếu, còn gì hơn nữa!”

Đức Phật lại bảo các vị Sa môn: “Tuy được như thế chưa phải là hiếu, là người con hiếu, cần phải thực hành: cha mẹ ngu tối, không kính Tam Bảo; hung ngược, tàn ác, lạm trộm phi lý; dâm dật ngoại sắc; nói dối phi đạo; say sưa hoang loạn, trái lẽ chính chân, hung nghiệt như thế, con hết lòng can, để khai ngộ Người. Nếu còn mê muội, chưa biết tỉnh ngộ, liền đem nhân nghĩa, khai hóa dần dần; hoặc dẫn Người xem lao ngục nhà vua, dẫn giải thí dụ về những hình lục của những tù nhân, thưa cha mẹ rằng: “Những tù nhân này không theo pháp luật, nên thân phải bị mọi sự khổ độc, tự mình vời lấy, mất thân, mệnh mình. Mệnh mất, thần đi, giam vào Thái Sơn, chịu tội nước, lửa, muôn thứ khổ độc, một mình kêu gào ai cứu vớt, vì theo làm ác, phải tội trọng ấy.” Ví dù chưa chuyển, khóc lóc kêu van, tuyệt không ăn uống. Hành động như thế, Người tuy bất minh, nhưng hẳn đau xót vì tình ân ái, sợ con mình chết, sẽ gượng nhẫn nhục, nén lòng sùng đạo. Nếu Người đổi chí, phụng sự Phật Pháp, giữ gìn năm giới: nhân từ không giết, thanh nhượng không trộm, trinh khiết không dâm, thủ tín không dối, hiếu thuận không say. Ở trong tông môn: thân từ, con hiếu, chồng chính, vợ trinh, cửu tộc hòa mục, tôi tớ thuận tòng thấm nhuần khắp cả đến chốn xa xôi, ai ai là chẳng hết lòng chịu ơn. Thập phương chư Phật, Thiên, Long, Qủy thần, nhà vua có đạo, bày tôi trung thần, con dân muôn họ, ai chẳng kính ái, hưởng phúc an lành. Dù rằng có gặp chính trị điên đảo, phụ tá gian nịnh, con ác, vợ yêu, nghìn tà, vạn quái, không làm gì được, đối với cha mẹ, đời thường yên ổn, khi tuổi thọ hết, hồn sinh lên Trời, và được đến nơi chư Phật đồng hội, được nghe nói pháp, đắc đạo độ thế, xa hẳn khổ não.

Đức Phật lại bảo các vị Sa môn: “Đời chưa có gì đáng gọi là hiếu, chỉ có thế này mới là đại hiếu: Làm cho cha mẹ, bỏ ác, làm lành, vâng giữ năm giới, giữ ba tự quy. Được thế, dù rằng buổi sớm vâng giữ, buổi chiều mất đi, ơn ấy trọng hơn vô lượng công ơn: nuôi nấng, bú mớm của cha mẹ mình. Nếu không biết đem giáo pháp Tam Bảo, rất mực khai hóa cho cha mẹ mình, tuy là hiếu dưỡng cũng như bất hiếu. Hơn nữa, không nên lấy vợ cay nghiệt, vì vợ cay nghiệt làm xa người hiền, không cần cha mẹ; nữ tình đa dục, ham sắc không chán, sinh ra những việc ngang trái đạo hiếu, giết hại cha mẹ, quốc chính hoảng loạn, vạn dân lưu vong.

“Bản chí thường làm những việc huệ thí, lễ, giới xét mình, dịu lòng chuộng nhân, luôn luôn tiến đức; tiềm ý tịch mịch, học chí suốt thông, danh lừng chư Thiên, sáng bằng Hiền giả. Nếu tự uế phạm trong hàng thê thiếp, chí lầm nữ sắc, hoang mê tình dục, dáng dấp yêu kiều, biến ra muôn mối, những chàng trí ít, những kẻ thấy gần, thấy họ như thế, bất giác dần dần, chí quay trở lại, dìm mất thân mình; do lời tà sảo, quỷ quái của họ, hoặc nguy cha mẹ, hoặc giết cả vua. Ham sắc tình đãng, giận, ghét, lười, kiêu, tán tâm mờ mịt, làm như điểu thú...Từ xưa đến nay, đều do nữ sắc, giết mất thân mệnh, tiêu diệt tôn tộc. Bởi thế cho nên các vị Sa môn ở riêng một mình, không dám sánh đôi; trong sạch chỉ mình, đạo là việc chính.

“Giữ mình giữ giới ấy: nếu là làm vua, giữ yên bốn bể, làm tôi trọn trung, đem nhân nuôi dân; phép cha phải minh, con phải hiếu từ, chồng tín, vợ trinh. Các Ưu Bà Tắc cùng Ưu Bà Di theo làm như thế, đời đời gặp Phật, thấy Pháp, đắc đạo.

Phật nói như thế, hết thảy đệ tử, ai cũng vui mừng.
Được cảm ơn bởi: cloudstrife
Đầu trang

hey
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 255
Tham gia: 16:15, 24/02/11

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi hey »

Lửa nào bằng lửa tham!
Chấp nào bằng sân hận!
Lưới nào bằng lưới si!
Sông nào bằng sông ái!
Tập tin đính kèm
4c74b46e_535cb64a_tieudien%20demo.jpg
4c74b46e_535cb64a_tieudien%20demo.jpg (79.53 KiB) Đã xem 1029 lần
Đầu trang

Trả lời bài viết