Góp nhặt những chuyện luân hồi cổ kim

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Hình đại diện của thành viên
tuanlm_fpt
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 575
Tham gia: 15:22, 02/03/10

TL: Góp nhặt những chuyện luân hồi cổ kim

Gửi bài gửi bởi tuanlm_fpt »

Thưa chú! Chú cho con vài lời đi [-O< ! :D
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Góp nhặt những chuyện luân hồi cổ kim

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

1/ Mạnh Phu Nhân

Điền Canh Dã, quan Đề đốc tỉnh Quảng Tây, có bà vợ là Mạnh Phu nhân, bẩm tính hiền lương nhưng chẳng may mất sớm.
Khi Điền Công thuyền quan ở trấn Lương Châu, đêm trăng ngồi một mình nơi Nha dinh, bỗng mơ màng như vào mộng thấy Phu nhân dung mạo cực đẹp, từ trên ngọn cây phới phới bay xuống. Công mừng rỡ, cùng nhau hỏi chuyện hàn huyên như thuở sanh bình. Phu nhân bảo: “Thiếp vốn là một vị Thiên nữ do túc duyên trước nên nay làm bạn với tướng công, duyên trần đã mãn, lại trở về ngôi cũ. Nay bởi còn chút duyên thừa nên mới đến viếng thăm”.
Công hỏi: “Tôi kết cuộc ở quan tước nào?”
Đáp: “Quan vị còn tăng không phải chỉ chừng ấy mà thôi”.
Hỏi: “Tôi thọ được bao lâu?”
Đáp: “Cơ trời khó nói, tướng công lúc chết không về nơi hương lý, không ở chốn quan nha, không tại quán dịch bên đường, cũng không mất ở giữa chiến trận, thời đến sẽ tự rõ”.
Hỏi: “Sau khi tôi chết, còn được thấy nhau nữa chăng?”
Đáp: “Việc này đều bởi tướng công nếu cố gắng tu, khi sanh lên cõi trời tất sẽ được gặp, bằng không chắc khó hy vọng”.
Sau Điền Công đi chinh phạt giặc Miêu trở về già, yếu chết dưới trướng binh.

2/ Lai Tinh Hải

Lai Tinh Hải ngoại danh Lai Phục, người ở Tam Nguyên xứ Hiệp Tây. Ông thi đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Mùi, niên hiệu Vạn Lịch, cha ông là Lai Thiếu Sâm, tánh tình điềm đạm khiêm nhường, cũng là một bậc Tiến sĩ.
Khi Tinh Hải chưa sanh, trong làng có một vị Tăng pháp danh Lai Phục, dốt chữ, chỉ nhờ người dạy học thuộc lòng được phẩm Phổ Môn và Bát Nhã tâm kinh, ngoài ra không biết chi cả. Cách làng hơn mười dặm, có khoảng sông cạn đầy cát, đến mùa mưa nước tràn ngập, người đi lại rất lấy làm khổ sở. Sư Lai Phục không nề nhọc nhằn, tự thân đứng ra đắp đường làm cầu, có ai quyên trợ cũng đều từ tạ. Do đấy, xa gần đều gọi sư là Phật Hòa thượng. Có người thấy sư khổ hạnh, dốt nát, gọi là Chuyết Hòa thượng (Hòa thượng quê vụng). Cũng có kẻ hiềm sư không chịu đi đám tụng Kinh, nên gọi là Lại Hòa thượng (Hòa thượng làm biếng). Duy Tiến sĩ Lai Thiếu Sâm kính trọng sư, nên gọi là Hữu Hạnh Hòa thượng.
Sư tánh không thích cầu cạnh người, Lai Công biết ý, thỉnh thoảng đến chùa nghe sư tụng hai thứ kinh và cúng dường vải gạo cùng các thức ăn.
Một hôm, Lai Công đang ngồi ở thính đường xử việc chợt thấy Lai Phục đi qua. Công vội vã đứng lên đón rước, nhưng sư không đoái đến, đi thẳng vào nhà trong; kêu hỏi cũng chẳng đáp. Công đang lấy làm lạ thì giây lát có tin truyền ra là Phu nhân sinh được một đứa bé trai. Thiếu Sâm vội sai người đến chùa hỏi thăm, mới hay sư vừa tọa hóa. Công biết sư đã thác sanh làm con mình, nên đặt ký danh là Lai Phục.
Thuở thiếu niên, Phục cực thông minh, đọc rất nhiều sách, tinh cả nghề thuốc và bách công kỹ nghệ. Lớn lên thi đỗ đi làm quan các nơi, kẻ nghe biết đến cầu trị bịnh, cứu được rất nhiều người. Khi tuổi lớn, ông cáo bệnh về quê, thường bảo người rằng: “Ta vốn là kẻ xuất gia, đi trên đường hoạn lộ đã lâu; e quên mất tánh bản lai, biết làm sao?”
Lúc sắp chết ông lại nói: “Nay ta muốn trở về để nối thành công nhiệp cũ”.
Nói xong liền qua đời.

3/Hạ Phùng Thánh

Quan tướng quốc đời Minh là Hạ Phùng Thánh, trong niên hiệu Sùng Trinh, cùng gia nhân từ miền quê lên Kinh sư. Thuyền vừa đến mũi tầm ngư thuộc dòng Cửu Giang, sóng to gió lớn chợt nối lên. Hạ Công vội mặc triều phục cầm hốt ra trước thuyền khấn vái. Khi ấy người trên thuyền thấy giữa hư không có vị thần mặc áo lụa đỏ, xách con quỷ đem liệng xuống nước. Liền đó, sóng gió dừng lặng. Công cho thuyền ghé vào bờ, thiết lễ cúng nơi miếu Đại vương ở bên sông, để đáp ơn thần phò hộ. Do duyên sự này, từ đó về sau dân chúng càng tin tưởng, đem hương đèn dê lợn dâng cúng nơi miếu mỗi ngày thêm nhiều.
Năm Sùng Trinh thứ mười ba, Kỳ Thân vương muốn phục hưng đạo tràng Quy Ngưỡng, cho rước Tam Muội Quang Luật sư vào đất Sở. Thuyền qua Cửu Giang, Luật sư mơ thấy một vị áo mão trang nghiêm đến thưa rằng: “Tôi là Tống Đại vương, thủy thần ở sông Cửu Giang. Kiếp trước tôi cùng Luật sư và Hạ Tướng Công, ba người là bạn đồng tu ở chốn thâm sơn. Luật sư không mê là chính nhân, nên đời này là bậc cao Tăng. Hạ công do phước duyên, lên đến ngôi tể tướng. Còn tôi, vì một niệm sai lầm, trở thành vị thần hưởng huyết thực. Trước đây, Hạ Công bị con yêu nơi cây đại thọ ở mũi Tầm Ngư nổi sóng muốn lật thuyền, tôi vì nghĩ đến tiền duyên nên ra tay giúp đỡ. Không ngờ do sự việc đó mà dân chúng sát sinh đến cúng tế ngày càng thêm nhiều, e rằng tương lai tất bị đọa vào Vô gián Địa ngục. Ngày mai Luật sư đi ngang qua đây, xin ghé vào miếu từ bi thọ ký cho. Lại xin công bố việc này cho bốn phương hay biết, để về sau dân chúng đừng sát sanh cúng tế nữa. Như thế, niềm hân cảm, mối thâm ân sẽ vô hạn!”. Sau khi tỉnh dậy Luật sư ghi nhớ và nhất nhất làm y theo lời.
Từ đó về sau, giang thuyền qua lại mũi Tầm Ngư, quanh năm đều được yên ổn, kẻ lữ hành chỉ dùng trai thực hoa quả cúng tế mà thôi. Chuyện này cùng với việc thần hồ Cùng Đinh Thác mộng cho vị sư con vua nước An Tức cầu cứu độ, có phần tương đồng.
(Trích lục Trì Bắc Ngẩu Đảm)

4/Chuyện vị lão tăng

Thế gian diễn hứa bi hoan sạ
Dục nhập tham thiền vạn kiếp không.

Thời Trung Hoa Dân Quốc, cư sĩ Uông Hiểu Viên một hôm ra chợ, thấy vị lão Tăng đứng ngó sững vào hàng thịt rưng rưng nước mắt, cư sĩ lấy làm lạ hỏi duyên cớ. Lão Tăng đáp.
Câu chuyện rất dài xin lược thuật phần đại khái. Tôi nhớ được việc hai kiếp về trước. Đời thứ nhất, tôi là một tên đồ tể. Hơn ba mươi tuổi mãn phần, hồn bị người bắt trói đưa đi. Minh quan trách là nghiệp sát nặng, cho quỉ áp giải đến ty Chuyển luân để thọ ác báo. Lúc bị xô xuống con sông đen tối, tâm thức tôi hoảng hốt mơ màng, thoạt tiên thật nóng như lửa đốt khó nhẫn, kế đó là cảm hơi mát mẻ; tỉnh ra thì mình đã sinh làm kiếp súc vật trong chuồng heo. Sau khi dứt sữa, thấy thức ăn không được sạch, lòng cũng biết nhàm gớm nhưng vì đói quá gan ruột cồn cào, nên bất đắc dĩ phải nhắm mắt nuốt vào. Sau lần lần thông tiếng nói của loài heo, thường cũng hỏi han nhau, trong đồng loại cũng lắm kẻ nhớ biết kiếp trước của mình, song không thể nói cho người hiểu được. Đại để đều nhận thức mình sẽ bị giết, nên có lúc rên rỉ, đôi mắt ướt, là tỏ dấu bi sầu. Loài heo thân thể thô nặng, vào mùa hạ rất nóng khổ chỉ tìm đống bùn nằm vùi mới đỡ, song cũng không thường có được. Bởi lông thưa và cứng, nên mùa đông lại khổ vì lạnh, thân thể giá buốt, thấy loài dê chó lông nhuyễn dầy, hằng mơ ước, xem như loài thú tiên. Đến lúc bị bắt tự biết mình không khỏi, nhưng sợ quá nhảy chạy càn, mong kéo hưỡn mạng sống được phút nào hay phút nấy. Khi bị trói rút bốn chân khiêng đi, dây huyết đau đến tận xương. Lúc người bỏ lên xe chạy về, thân hình cùng đồng loại chồng chất đè lên nhau, máu huyết ứ đọng, gần như muốn đứt. Khi đến nhà lò, bị liệng xuống đất, gan ruột tựa hồ tan nát. Nhìn thấy dao bén chảo vạc để hai bên, lòng bắt run sợ, không biết đến khi bị giết sẽ đau đớn như thế nào? Lúc thọc huyết, thân tâm sảng sốt rụng rời, thấy ánh đao chớp lên liền nhắm mắt không dám nhìn thẳng. Khi đồ tể ấn lưỡi dao vào cổ, rung lắc mạnh cho huyết chảy xuống bồn, ban đầu còn kêu la, sau chỉ rên nhỏ trong cổ họng, cho đến máu chảy đến tắt hơi, sự đau khổ thật không thể hình trạng! Bấy giờ hoảng hốt mê ly như say như mộng, chừng tỉnh dậy thấy mình đã thành hình người. Minh quan xét thấy kiếp trước còn có nghiệp lành, nên cho chuyển sinh làm người, tức là thân đời nay đây. Vừa rồi tôi thấy loài heo bị giết thương nó đau đớn, nhớ lại kiếp trước mình đã chịu khổ độc, rồi tiếc cho người đồ tể tương lai cũng bị nỗi khổ đó, ba mối niệm giao cảm, bất giác thương tâm không biết rơi lệ từ lúc nào!.
Nói xong, quay mặt bỏ đi. Lúc ấy người xung quanh nghe nói, chỉ trỏ bàn tán phân vân. Bác hàng thịt được biết câu chuyện, sanh lòng sợ hãi, từ đó về sau đổi nghề đi bán rau đậu.

(Trích lục Phật Học Chỉ Nam)

5/ Thái Thú Họ Ngưu

Miền Tích Châu, có Uông Tả Viên tiên sinh, biệt hiệu là Sĩ Khan. Trong liên hiệu Gia Khánh, Uông thi đỗ Tiến sĩ, được bổ làm huyện lệnh ở Tứ Xuyên. Dưới quyền quản lãnh của tiên sinh có viên Thái thú họ Ngưu, vốn là hàng đồng niên và đã chiếm Á nguyên ở bản tỉnh.
Quan Thái thú này, bàn tay mặt là tay người, còn bên trái lại là móng ngựa. Ông nhớ rõ việc ba kiếp trước, từng thuật với tiên sinh rằng:
Đời trước tôi là một vị tướng, vì đánh giặc Miêu tàn sát quá nhiều, nên Minh quan phạt cho chuyển kiếp làm ngựa. Khi sanh ra đã đổi thành thân ngựa ở trong tàu, tự bị thường la ré nhảy cắn, không ăn mà chết. Minh ty quở là cưỡng lệnh, đánh phạt, rồi cũng cho chuyển sanh làm ngựa như cũ. Lần này, vì sợ bị trách phạt, nên không giám cầu chết. Khi lớn lên được một vị tướng quan chọn lựa để cưỡi. Viên tướng này tánh tình nóng nảy hung bạo, nên thân mình hằng bị roi vọt, trăm điều thống khổ.
Một hôm vị tướng đánh giặc thua quân địch đuổi theo rất gấp. Tôi chở chủ tướng bôn đào, thoạt chạy đến một khe núi rộng ước hơn trượng, bờ bên kia đá nhọn dựng chập chồng. Lúc ấy tôi nghĩ: “Nếu nhảy qua mình sẽ phải chết, song chủ tướng có thể đào sanh. Như không vượt qua, tất chủ bị binh giặc theo giết”. Nghĩ xong, liều mình cố hết sức nhảy qua khe núi, bụng bị đá nhọn đâm, rách ruột mà chết. Vị tướng nhờ đó mà thoát nạn.
Sau khi tôi chết, Minh ty khen là trung nghĩa, hứa cho chuyển thân người lại là văn quan, lên đến bậc tứ phẩm. Trước khi lúc tôi sắp làm ngựa, quỉ tốt lấy da ngựa khoác vào mình; đến khi trở lại làm người, lại lột da ngựa ấy đi. Nhưng vì tôi đã hai kiếp làm ngựa, da dính khắn vào thân, quỷ dùng dao lột da, đau đến tận xương tủy. Khi dao rạch đến móng lại càng đau đớn không thể nhẫn, nhân mới lén lút giấu móng chân đằng trước. Quỷ tốt cũng không để ý phát giác. Cũng ngờ vì duyên cớ đó, mà lúc chuyển sanh, bàn tay trái lại thành móng ngựa.
Kể chuyện xong, Thái thú bảo Uông Tả Viên rằng: “Lộc vị của tôi chỉ đến chừng này, mạng sống cũng chẳng còn bao lâu, đến ngày tháng ấy... sẽ từ trần”. Sau việc quả nhiên đúng như thế.
(Dung ai bút ký)

6/ Giết Dê Hại Vợ

Lưu Đạo Nguyên làm quan huyện tại Bông Khê, lúc giải chức trên đường về ở trọ nhà họ Tần. Đêm ấy ông mộng thấy một thiếu phụ đến khóc thưa: “Tôi vốn là vợ họ Tần nhà này. Vì lỡ tay đánh chết người thiếp. Nên bị Minh quan xử phải đền mạng, lại phạt làm dê. Nay tôi đang ở trong chuồng, sáng sớm sẽ bị giết để đãi ông. Tôi chết vẫn không tiếc, nhưng vì trong bụng hiện mang thai dê con. Nếu nó nhân đó mà chết theo, thì tội lỗi càng thêm nặng”.
Lưu Đạo Nguyên đợi đến sáng thuật lại, thì dê cái đã bị giết. Cả nhà nghe nói khóc rống, nhét dê con trở vào bụng dê cái rồi đem đi chôn.

7/ Phạm Dâm Trả Quả

Trần Sinh ở Động Đình nhà rất nghèo, nên đem vợ và em trai di cư đến Châu Kinh. Nơi đây thương khách tới lui tấp nập. Trần tánh hay chiều chuộng nịnh bợ lại khéo mua bán, nên chẳng mấy năm gia tư có đến ngàn lượng vàng.
Một hôm, ông bỗng vướng bệnh nằm liệt vài ngày, rồi trỗi dậy bảo vợ và em rằng: “Ba người chúng ta kiếp trước đều là Tu sĩ, chung nhau gian dâm một thiếu phụ, rồi giết người chồng. Kẻ cầm giao giết chính là tôi. Nay Minh vương cho quỷ đến bắt, oan trái tất phải đền trả. Bây giờ tôi đi trước còn hai người chắc chắn cũng không thoát khỏi đâu”. Nói xong tự nhổ râu tóc, lấy dao cắt lưỡi mình; lại dùng lấy hai ngón tay móc đôi tròng mắt lôi ra, giây phút liền tắt thở.
Cô vợ và người em mấy ngày sau cũng chết.

8/ Bất Hiếu Đọa Làm Heo

Hầu Nhị ở Kim Đơn vốn là kẻ bất hiếu. Bà mẹ đem gạo giúp đỡ người ăn xin, Hầu Nhị trông thấy nổi giận đánh mẹ và đuổi ra khỏi nhà, vợ con khóc lóc can gián, y cũng không nghe. Chẳng bao lâu khắp mình Nhị sinh ghẻ độc lở lói, hành hạ đau nhứt cho đến lúc y mãn phần.
Sau khi chết, Hầu Nhị về ứng mộng cho con thấy, bảo rằng: “Cha do ngỗ nghịch bất hiếu nên bị phạt đọa làm heo ở nhà Trương Nhị nơi cửa Tuyên Võ tại Kinh sư. Con nên qua đó mà chuộc mạng cha, nếu để trễ e không kịp!”.
Thức dậy đứa con y theo lời tìm đến nhà Trương Nhị, quả có heo nái vừa sinh ra mấy heo con. Trong đó một heo con hình thú mặt người, có râu mép, trạng mạo giống cha mình. Đứa con thương khóc thuật lại duyên cớ, nguyện đưa ra mười lạng vàng xin chuộc đem về. Nhưng Trương Nhị không nghe đem heo con ra giết.
Việc này xảy ra vào niên hiệu Khang Hy thứ 39 đời Thanh.

9/ Vùi Trong Bếp Lửa

Bên nhà một phú ông ở Hoa Đĩnh có thân cây khô rất to. Ông sắp đốn, thì đêm lại mộng thấy một lão nhân dẫn nhiều người tới, xin hãy thong thả chậm lại ít hôm cho dời đi. Phú ông biết trong cây có vật lạ, sai người trèo lên nhìn xem, thì thấy cây đó bọng ruột. Trong bọng cây có vô số rắn lạ nằm khoanh. Ông liền bảo đầy tớ chất củi đổ dầu đốt cháy cây ấy. Lúc đó hơi tanh hôi bay xa cả dặm, phú ông đắc ý vỗ tay cả cười.
Không bao lâu, ban đêm phú ông thấy có đám lửa to bay vào nhà. Ông gọi gia nhân thức dậy đến cứu chữa, nhưng lại tịnh nhiện không có chi cả. Việc như thế xảy ra nhiều lần rồi đều lặng lẽ, cả nhà không thấy làm lạ. Đem nọ đứa tớ gái trộm củi đem nấu đồ riêng, bỗng lửa phát cháy đỏ, phú ông và tất cả gia nhân đều cho là trạng thái cũ, nằm nghỉ luôn không thức dậy. Nhưng lần này nhà cháy thật, cả gia quyến đều bị vùi thân trong lửa.
(Các câu chuyện trên đăng trong phần phụ lục Kinh Nhân quả ba đời)
Được cảm ơn bởi: smile., Ncarter, cloudstrife, phoenix18, cunconhamchoi, mrDnguyenD, kimtudon, mitmitnana, Kintun
Đầu trang

Ncarter
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 57
Tham gia: 22:41, 26/01/10

TL: Góp nhặt những chuyện luân hồi cổ kim

Gửi bài gửi bởi Ncarter »

Mụt Ghẻ Mặt Người
(Trích "Truyện cổ Phật giáo")

Ðời Ðường vua Ý Tôn ở đất Trường An có một nhà sư mắc phải bệnh cùi, hằng ngày thất tha thất thiểu trong bộ quần áo lang thang, mặt mày khô đét, thân hình gầy còm, tay chân lở lói, ai trông thấy cũng gớm nhờm. Thỉnh thoảng, một vài người vì động lòng trắc ẩn, biếu cho chút ít quà bánh không đáng giá, ngoài ra không ai buồn đả động đến, hoặc hỏi han điều gì cả, vì vậy chẳng ai biết nguyên quán nhà sư ở đâu. Một hôm, trên con đường lớn xuôi về cổng chùa An Quốc, nhà sư tình cờ gặp Ngộ Ðạt, lúc ấy chưa phải là một tu sĩ nổi danh.

Thấy người đồng đạo trong cơn hoạn nạn, Ngộ Ðạt quá đau thương cố thỉnh về ở với mình. Trước tâm tình chân thật, lời lẽ thiết tha của Ngộ Ðạt, nhà sư nhận chịu. Ngộ Ðạt rước về chùa, kính như bậc thầy, hết lòng cung phụng. Mỗi ngày sáng dậy, Ngộ Ðạt lấy nước nóng, rửa lau ghẻ lở, tuyệt đối không tỏ vẻ gì nhờm gớm cả. Sau một thời gian khá lâu, nhà sư từ giã ra đi, Ngộ Ðạt tỏ lòng quyến luyến, cầm cọng lắm lời, nhưng nhà sư không đổi ý. Thấy thế Ngộ Ðạt thiết tha xin theo để sớm hôm giúp đỡ, nhà sư cũng từ chối nốt, bảo rằng: “Trên đường danh đức, ông ngày sau sẽ được hiển đạt, ông nên ở lại, đừng nghĩ việc theo tôi mà phải trôi nổi bình bồng, mai một khả năng siêu tuyệt của mình”. Nhưng điều này nên để dạ: “Hãy cẩn thận trong khi hưởng thụ những phần hưởng danh dự, vì nó có thể làm tổn thương đạo niệm của mình. Tôi hết sức cảm nghĩa tốt của ông, vậy nếu sau nầy có bị tai nạn gì hãy nhớ qua đất Tây Thục, xứ Bành Châu, núi Trà Lung mà tìm tôi. Cứ đến lưng chừng núi, chỗ có hai cây tòng to tục gọi là “Song tòng lãnh” chúng ta sẽ gặp nhau”.

Dặn dò xong, nhà sư từ biệt, Ngộ Ðạt rơm rớm nước mắt, trông theo đến khi khất bóng mới quay gót trở về.

Ngày qua tháng lại, Ngộ Ðạt đến thời kỳ hiển đạt. Bấy giờ ở kinh đô, người người đều quen biết và khâm phục danh đức của Ngài. Một vị sư có tài, có đức, giảng pháp hay, hiểu biết rộng, tiếng tăm vang dậy khắp nơi.

Vua Ý Tôn qua nhiều lần thăm dò, trải bao cơn thử thách, mới chịu thỉnh Ngài vào cung giảng đạo. Cách ít lâu lại phong Ngài lên làm Quốc sư và ban cho một pháp tòa bằng gỗ trầm thơm quí. Danh vọng này còn danh vọng nào hơn! Một hôm, nhân lên ngồi trên ghế trầm, nghĩ mình tài đức ai bằng, vua kiêng, quan phục, trăm họ kính nhường, Ngộ Ðạt thấy thật không còn nấc thang nào cao hơn nữa. Lòng tự đắc dâng lên tột độ, bỗng nghe xây xẩm mặt mày, Quốc sư vội bảo đồ đệ dìu vào phương trượng, nằm mê man suốt hai ba giờ mới tỉnh lại. Cảm nghe trong mình khó chịu biết đã thọ bịnh, chợt rờ xuống gối nghe đau vén quần lên, thật là hết sức kinh ngạc. Một mụt ghẻ giống tạc như mặt người, có mày mắt, miệng, tai, mũi đủ cả. Ghê tởm quá! Kinh sợ quá! Quốc sư ngất đi, các đồ đệ kêu vực mãi mới mở mắt, bỗng nghe dưới mụt ghẻ nghiến răng, đau buốt thấu xương, khổ sở quá không phương gì cứu chữa. Các danh y và Quốc y đều được vua mời đến chữa cho Ngài, mà mỗi lần thoa thuốc men là mỗi lần chết giấc chớ không thấy thuyên giảm phần nào cả. Nhưng lạ, hễ mỗi lần đút thịt vào thì lại thấy mụt ghẻ ăn ngay và lại nghe trong mình êm ái dễ chịu. Thật là một quái bệnh xưa nay chưa từng thấy. Các danh y, quốc y đều thúc thủ lăn lóc chịu khổ sở mãi như thế đến hơn tháng trời, nằm nghĩ cuộc đời chả ra chi, thân như bọt nước thoạt có, thoạt không, thoạt còn, thoạt mất, đáng ghê sợ. Nhân nhớ đến vị sư bịnh khi xưa, ôn lại những lời dặn dò thiết yếu, Quốc sư sực tỉnh, bèn cố gắng một thân bị đau nhức, cắn răng lần mò qua đất Tây Thục, xứ Bành Châu.

Vất vả khổ sở suốt mấy tuần mới đến chân núi Trà Lung. Bởi đường dốc quanh co, nên mãi đến lúc hoàng hôn mới tìm ra được dấu. Kìa hai cây tòng đà lộ bóng, nhưng vị sư đâu chẳng thấy hình dạng; nếu không tìm gặp, thì đêm nay không khỏi dả thú nhai xương giữa chốn rừng núi hoang vu, không một bóng người thấp thoáng. Ngộ Ðạt đang ngơ ngác đoái nhìn bốn phía, lòng những lo sợ bồi hồi, thì may quá, hình bóng thân yêu và quen thuộc khi xưa của vị sư, bỗng hiện ra trong một gộp đá gần đấy. Một tiếng kêu rú thất thanh vì mừng, Ngài Ngộ Ðạt bất chấp đau đớn, chạy lại và leo nhanh lên gộp đá, ôm choàng lấy vị sư hỏi han rối rít. Khi bộc lộ hết những nổi vui mừng, khao khát của mình rồi, Ngài bèn kể bằng nước mắt sự khổ sở đau đớn của mình cho vị sư nghe. Vị sư thốt lời an ủi và dìu dẫn Ngộ Ðạt về Thảo am trên lưng chừng núi, Ngộ Ðạt thưa:

- Bạch Thầy, kẻ đệ tử đang lâm vào cơn khốn nạn, bức bách, khổ sở không còn bút mực nào tả xiết, xin thầy rủ lòng từ bi ra tay tế độ giúp cho đệ tử thoát nạn, ơn đức Thầy thật vô lượng vô biên.

Không hại gì, vị sư đáp, oan oan nghiệp chướng của ông đã vay từ nhiều đời về kiếp trước, ngày nay phải đến thời kỳ đền trả. Ông phải ẩn nhẫn trả xong mối nợ máu tiền kiếp ấy, mới có thể giải thoát được. Ðức Thế Tôn ta khi xưa còn thị hiện nạn gươm vàng đâm vế, ăn lúa ngựa thay, huống chúng ta là hạng người phàm phu làm sao mà thoát được. Nợ mình đã trả thì sẽ hết, nhưng cần thiết là đừng nên vay nữa mới được.

- Thưa thầy, thầy nói nợ máu là thế nào đệ tử không hiểu ra sao cả, xin thầy hoan hỷ giảng cho.

- Chuyện ấy rồi ông tất sẽ rõ, vì đã có người sẽ nói cho ông nghe giờ khắc rất gần đây.

Rạng ngày hôm sau, nhà sư dạy đồng tử dẫn Ngộ Ðạt xuống ngọn suốt dựa triền, lấy nước rửa ghẻ. Ðồng tử vừa toan khoát nước thì thoạt nghe tiếng thét từ trong ung thư phát ra: “Khoan, hãy khoan đã, ta có việc cần muốn nói với ông”.

Ngộ Ðạt và đồng tử đang cơn kinh ngạc, thì mụt ghẻ tiếp lời:

- Tiếng đồn ông là người học rộng, vậy ông đã từng đọc sách Tây Hán chưa?

- Ðã có xem qua vài lượt, Ngộ Ðạt đáp.

- Vậy ông có nhớ chuyện người Viên Án dèm tâu với vua Cảnh Ðế chém chết Triệu Thố ở phía đông chợ chăng?

- Nhớ lắm, nhớ lắm. Nhưng hỏi thế để làm gì?

- Chính ông là Viên Án còn Triệu Thố là tôi, ông giết tôi oan đến dường nào, ông có biết chăng? Thù ấy, oan ấy, thâm xương thấu cốt tôi đã từng mười đời theo dõi bên ông để tìm dịp báo oán, nhưng suốt mười đời ông luôn luôn làm bực cao tăng, tinh nghiêm giới luật, tôi đành ôm hận, nhưng quyết theo mãi, đến khi nào trả xong mối thù, đòi xong món nợ máu mới thôi. Mới vừa rồi, được dịp thuận tiện, ông vì vua kính chuộng, ban cho tòa trầm hương, phong làm đến Quốc sư, vinh quang hiển hách, do đó tâm danh lợi nổi lên, khí kiêu căng bừng khởi, khuyết phần đức hạnh, tôi mới nhân cơ hội đó làm hại ông để đòi món nợ nần trên. Ngày nay, nhờ Ngài Ca Nặc Ca Tôn Giả thương xót ra tay cứu giải cho ông, lại cho dùng nước Tam muội rửa tội, nhờ thần lực của Ngài khiến cho ông và tôi, từ đây oán hận không còn, cừu thù tan mất, vậy kính khuyên ông, hãy cố gắng tinh tấn tu hành và chúc ông vuông tròn đạo nghiệp. Tôi xin chào vĩnh biệt.

Ngộ Ðạt nghe xong, đầy mình mộc ốc. Ðồng thời với tay khoát nước rửa mụt ghẻ, nước vừa chạm đến thịt, Ngộ Ðạt nghe đau buốt thấu xương, ngất lịm hồi lâu. Khi tỉnh lại, mụt ghẻ đã lành da thịt liền lại như xưa, không chút vết sẹo nào. Quốc sư mừng quá đến chảy nước mắt, vội trở lên núi cảm tạ ơn dày của Tổ, tự thệ từ đó tinh tiến tu hành không dám chậm trễ nữa.

Tương truyền bộ Thủy sám ba quyển vốn tự tay Ngộ Ðạt viết ra để làm pháp sám sau khi lành bệnh.
Được cảm ơn bởi: Tây Đô đạo sĩ, cloudstrife, phoenix18, Hoả Kỳ Lân, kimtudon, mitmitnana
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Góp nhặt những chuyện luân hồi cổ kim

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

Rùng rợn chuyện tóm sống 'rắn thần'...
Dưới gốc đa giữa làng Kính Nỗ (xã Uy Nỗ, Đông Anh, Hà Nội) có một ngôi miếu thờ rắn thần. Ngôi miếu mới được xây dựng cách đây chừng nửa năm. Người dân trong xã đến nay vẫn rỉ tai nhau những câu chuyện ly kỳ, rùng rợn quanh miếu “rắn thần” với thái độ thành kính và… sợ hãi!

Chuyện kể rằng, cách đây hơn một năm, ông Nguyễn Văn Thảo, người thôn Kính Nỗ có bắt được một con rắn màu xám, to bằng bắp tay. Điều đặc biệt là trên đầu nó có cái mào đỏ chót như mào gà. Ông Thảo sợ con rắn cắn nên đã lấy kim chỉ khâu miệng rắn lại rồi mang ra chợ bán.
Nhưng kì lạ là dù đã rao bán khắp nơi, nhưng không một ai mua con rắn của ông. Một số người buôn rắn xem xong rồi lắc đầu quay đi. Một số tay buôn rắn lâu năm ngắm nghía con rắn xong rồi khuyên ông lên thả con rắn đi. Theo họ, loài rắn có mào thường là loại rắn thần bảo vệ đình, miếu, không lên động vào.
Nhà ông Thảo, nơi anh Toàn “hóa rắn”. Nghe những lời khuyên rùng rợn như vậy, ông Thảo đâm hoảng. Ông liền xách con rắn về nhà và thả con rắn ra cái nơi mà ông đã bắt được nó. Tuy nhiên, ông đã quên làm một việc, đó là tháo chỉ khâu miệng nó ra.
Tưởng việc thả con rắn đến đấy là xong, nhưng cũng từ đó, gia đình ông gặp rất nhiều chuyện kỳ lạ, khiến ông tin rằng: Mình đã bắt nhầm phải Thần Rắn!
Một ngày cuối năm 2010, người con trai lớn của ông Thảo tên Toàn năm nay đã gần 30 tuổi bỗng dưng có biểu hiện lạ kiểu bị “ma nhập”. “Anh bỗng dưng không nói không rằng mà cứ bò trườn khắp nhà như con rắn. Bò xong anh lại cuộn tròn người nằm dưới gầm tủ, mắt trợn tròn, đỏ lòm, lưỡi thè dài ra. Rồi anh đòi ăn trứng gà sống”, chị Hoa, vợ anh Toàn vẫn nổi da gà khi kể lại câu chuyện hãi hùng của chồng mình.
Người nhà đưa ra quả trứng gà nào là anh Toàn trườn tới, dùng miệng cắn nát quả trứng rồi nuốt chửng, ngon lành như một con rắn. Ăn xong anh Toàn lại bò khắp nhà, rồi miệng không ngừng nói: “Ta là rắn thần đây, sao chúng mày dám khâu miệng ta lại”. Người nhà ông Thảo sợ quá, liền cho người đi gọi bà Còng - một bà lão đồng cốt ở làng bên đến để cúng giải hạn.
Vừa mới đến nơi, bà Còng đã hốt hoảng: “Chết rồi, nhà ông làm việc gì phạm phải Thần Rắn rồi!”. Lúc này ông Thảo mới giật mình nhớ tới chuyện bắt được con rắn có mào đỏ, thả nó đi mà quên chưa tháo chỉ ở miệng cho rắn, nên bây giờ thần rắn mới “nhập” về con trai ông báo oán!
Chuẩn bị đồ nghề cúng bái xong gồm 10 quả trứng sống, muối, gạo, rượu trắng, tiền vàng lễ và một số thứ vàng mã khác, bà Còng bắt đầu cúng giải hạn, xin “Thần Rắn” buông tha khỏi người anh Toàn.
Anh Thành – công an viên xác nhận chuyện xây miếu Long Thần là có thật. Cúng bái suốt cả buổi, người anh Toàn không còn bò trườn nữa mà nằm mềm ra như bún. Anh dần tỉnh táo trở lại. Mọi người hỏi chuyện anh có nhớ mình vừa làm gì không thì anh lắc đầu kêu không nhớ, chỉ kêu mệt và… buồn nôn. Sau đó anh nôn ra toàn dịch trứng gà sống! Chuyện gia đình ông Thảo kể như thế, còn thực hư ra sao, thần thánh ma quỷ thế nào, thì chưa kiểm chứng được.
Theo lời ông Thảo, tưởng cúng bái như thế là thoát nạn, nhưng có vẻ “Thần Rắn” vẫn chưa buông tha anh Toàn. Thỉnh thoảng anh Toàn lại giở chứng, bò khắp nhà và đòi ăn trứng gà sống. Ông Thảo biết “rắn thần” lại đang đói. Vì miệng “rắn thần” chưa được cởi bỏ nên không thể kiếm được thức ăn. Và cứ lúc đói thì “rắn thần” lại “nhập” vào người anh Toàn để phạt vạ! Cả gia đình ông liền kéo đến điện thờ của bà Còng khấn vái, mong “thần rắn” buông tha cho gia đình ông.
Rùng rợn ngôi miếu Long Thần
Hôm ấy, cả gian điện thờ của bà Còng chật cứng người đến xem cảnh anh Toàn “hóa rắn”. Sau khi bà Còng cúng xong, anh Toàn lại bị “thần rắn nhập vào”, bò trườn khắp điện khiến ai cũng hoảng hồn.
Sau khi cho anh Toàn ăn trứng gà sống, người anh Toàn bỗng biến sắc, anh ngồi dậy và phán: “Ta là Thần coi làng ở đây đã bao năm nay. Con rắn thần của ta đã trông giữ cho cả cái làng này, vậy mà các ngươi dám khâu miệng nó lại… Bây giờ phải lập Miếu thờ nó”.
Ngôi miếu Long Thần. Người nhà ông Thảo hốt hoảng hỏi muốn lập miếu ở nhà, ở chùa, “ngài” đều không đồng ý. Theo ý “Thần” thì Miếu phải xây ở gốc cây đa ở giữa làng, cũng chính là nơi mà ông Thảo đã bắt được con rắn có mào.
Sau khi được sự đồng ý của chính quyền địa phương cũng như tham khảo ý kiến của các vị cao niên trong làng, gia đình ông Thảo tiến hành xây miếu thờ tại vị trí gốc đa giữa làng, nằm liến kề trên đất của nhà văn hóa thôn.
Chúng tôi đã trao đổi với anh Nguyễn Văn Thành, công an viên phụ trách thôn về câu chuyện trên. Anh Thành vốn không tin vào chuyện ma quỷ, mê tín dị đoan. Tuy nhiên, anh cũng như bất kì người dân nào trong thôn đều có thể xác nhận câu chuyện anh Toàn biến thành “rắn” là có thật. Rồi anh đưa chúng tôi ra tận nơi xem miếu Long Thần.
Ngôi miếu có chiều cao 2,50m, rộng 1,8m sâu 0,8m. Miếu nằm dưới gốc cây đa cổ ở giữa làng đúng như yêu cầu của “thần rắn”.
Bên trong Miếu lúc nào cũng có trứng gà. Vào buổi khánh thành ngôi miếu, lúc mọi người vừa cúng vái nhập thần xong, thì bỗng từ đâu, một con rắn rất to bò đến khiến mọi người vô cùng hoảng sợ. Con rắn trườn quanh ngôi miếu một lượt rồi bò lên nóc. Ông Thảo cùng mọi người càng ngạc nhiên hơn khi trông thấy trên miệng con rắn vẫn còn vương những sợi chỉ mảnh mà ông Thảo đã khâu trước đó, khiến mọi người càng tin sự linh thiêng của rắn thần. Ngôi miếu được đặt tên là miếu Long Thần với sự kính cẩn và khiếp sợ của người dân trong làng.
Kể từ ngày xây Miếu đến nay, nhà ông Thảo vẫn thường xuyên trông nom việc thờ cúng miếu Long Thần. Trong không gian nhỏ của gian Miếu ngoài tiền vàng, hương hoa, lúc nào cũng có 10 quả trứng gà sống, 1 đĩa gạo và một đĩa muối trắng. Thỉnh thoảng, những quả trứng trong miếu bị mất dần, người ta đồn nhau là do “rắn thần” đến ăn.
Theo như câu chuyện của các cụ cao niên trong làng thì rắn có mào là loài rắn thần, còn được gọi là Rồng, có nguồn gốc rất thần bí. Rắn chỉ xuất hiện ở những nơi linh thiêng hoặc những nơi đất lành... Vì thế, không ai được phép xâm hại đến loài rắn thần này cả.
Cho đến nay, câu chuyện về miếu Long Thần vẫn được người dân xã Uy Nỗ rỉ tai nhau một cách kính cẩn và hoang mang sợ hãi.



Theo :http://baodatviet.vn
Được cảm ơn bởi: smile., Ncarter, cloudstrife, phoenix18, cunconhamchoi, kimtudon, mitmitnana, Kintun
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
smile.
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2016
Tham gia: 15:47, 04/01/10

TL: Góp nhặt những chuyện luân hồi cổ kim

Gửi bài gửi bởi smile. »

Đọc câu chuyện này, sao cháu cứ có cảm giác quen quen như từng nghe hoặc từng mơ thấy sao đó, có cảm giác rờn rợn, cảm giác này là sao nhỉ? Lúc trước cháu cũng rất hay mơ thấy rắn - rắn 3 đầu, thậm chí là có cảm giác nhiều lần mơ cùng 1 giấc mơ, và trong mơ cháu còn tự nhắc mình - lúc trước mình đã từng mơ như thế.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
volam078
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1937
Tham gia: 09:43, 29/08/09
Liên hệ:

TL: Góp nhặt những chuyện luân hồi cổ kim

Gửi bài gửi bởi volam078 »

smile. đã viết:Đọc câu chuyện này, sao cháu cứ có cảm giác quen quen như từng nghe hoặc từng mơ thấy sao đó, có cảm giác rờn rợn, cảm giác này là sao nhỉ? Lúc trước cháu cũng rất hay mơ thấy rắn - rắn 3 đầu, thậm chí là có cảm giác nhiều lần mơ cùng 1 giấc mơ, và trong mơ cháu còn tự nhắc mình - lúc trước mình đã từng mơ như thế.
Hông bít, bữa trước anh ngã xe, dãn dây chằng bả vai trái, ko giơ được cánh tay lun, cũng ko đi viện,sau này nó tự đỡ nhiều nhưng vẫn cảm thấy óc ách khó chịu, kế đó tự nhiên một đêm, nằm mơ thấy 2 con rắn lao bổ vào mổ vào bả vai trái, giật mình tỉnh dậy thấy tay trái co giật đùng đùng lun, nhưng từ đó thoải mái lun, hông khó chịu gì nữa :)
Được cảm ơn bởi: smile.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
kimtudon
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2185
Tham gia: 02:12, 16/06/11

TL: Góp nhặt những chuyện luân hồi cổ kim

Gửi bài gửi bởi kimtudon »

cháu mong được đọc thêm những bài viết của bác. nghĩ đến những gì mà những sinh linh phải chịu, những gì mình đã gây ra từ tiền kiếp cho những người khác, chỉ khi trải qua đau khổ mới thấu hiểu những gì người khác đã phải chịu, tự thấy bản thân hối hận vô cùng. cuộc sống hiện tại, cháu cũng hay đọc các bài viết về hình sự, TNGT... con người dường như cứ gây oan nghiệt cho nhau, chẳng biết bao giờ mới chấm dứt những điều đáng buồn.
Nhất là thế hệ trẻ, đâm chém nhau không hề coi trọng sinh mạng của người khác và của chính mình, nếu sớm được thức tỉnh thì sẽ giúp ích được nhiều cho đất nước và xh
Được cảm ơn bởi: Ncarter, Tây Đô đạo sĩ, mitmitnana
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Góp nhặt những chuyện luân hồi cổ kim

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

Nghiệp cũ

Ngày xưa tại Kashmir có một tu sĩ Phật giáo tên Mirathi. Nhờ tu tập thiền định lâu ngày, Mirathi có một số năng lực đặc biệt. Học trò của Mirathi kể là ông có thể đứng trên không và xuất hiện một lúc ở nhiều nơi khác nhau. Ông có tài đọc ý nghĩ của người khác, kể tiền kiếp của người ta ra hoặc đoán biết những gì sắp xảy ra.
Mirathi kiên trì giữ qui định của tu sỹ Phật giáo là bất bạo động, ăn chay trường. Sau buổi trưa Mirathi không ăn bất cứ thứ gì nữa cho đến sáng ngày hôm sau.
Một ngày nọ Mirathi nhóm bếp trong túp lều của mình và đổ vào đó các loại đất đỏ, đất vàng để làm màu nhuộm áo. Vị tu sỹ già đang ngồi khuấy nồi nước thì có một đám nông dân đi qua, tìm hỏi một con bò chạy lạc.
Một nông dân nhìn nồi nước và la lên: "Bây có thấy mấy miếng thịt đỏ, thịt vàng này không. Tên già này đã bắt con bò làm thịt và đang nấu nồi xúp”.Các nông dân khác không cần hỏi dài dòng, chụp đầu Mirathi đang im lặng không nói lời nào và lôi cổ ông về làng.
Vị liên trưởng trong làng kết tội Mirathi ngay đêm hôm đó, không cần biết đầu đuôi. Người tu sĩ bị xiềng hai chân, nhốt trong căn hầm tối tăm. Mặc dù học trò của Mirathi kêu oan nhưng người ta vẫn xem là có tội, vì ông không nói lời gì minh oan, rõ là một sự thú nhận.
Vài ngày sau, một kẻ chăn trừu tìm được con bò bị thất lạc. Một đám đông ồn ào lập tức tới nhà niên trưởng đòi thả ngay Mirathi. Vị niên trưởng né tránh trách nhiệm, giao cho cấp dưới thi hành và cấp dưới cho rằng không phải trách nhiệm của mình rồi lại giao cho người thứ ba, thứ tư. Cứ thế mà không ai giải quyết cả.
Mirathi cứ chịu cảnh tù ngục như thế, các đệ tử nộp đơn kiện đến nhà vua. Sáu tháng sau, một học trò mới gặp được nhà vua và trình bày sự tình, một người vô tội bị giam giữ vì không người nào thấy có trách nhiệm thả ra.
Nhà vua hoảng sợ khi nghe câu chuyện, vì ông là người tin nơi luật Nhân-Quả mà người Ấn Độ gọi là “Karma”. Ông tưởng tượng một vị tu sỹ ngồi tù oan ức, thậm chí chết oan và các người có liên quan phải nhận lãnh hậu quả trăm lần. Vương quốc của ông chắc là phải chịu thiên tai bệnh tật. Ngay tức khắc vua ra lệnh thả vị tu sỹ và đưa về kinh đô.
Mirathi gầy mòn chỉ còn bộ xương, được hai người học trò dìu tới trước mặt vua. Vua đã cho để sẵn ghế ngồi để tu sĩ không quì trước mặt mình. Vua hỏi: "Làm sao chúng ta có thể chuộc lại nỗi lầm này? Làm sao ta có thể xin Ngài tha thứ cho? Hay ta cho tất cả những người liên quan đều chịu lại hình phạt này?
“Không”, Mirathi đáp bằng giọng nói chắc chắn, “Xin Ngài đừng trừng phạt ai cả. Tôi phải chịu trách nhiệm về cái Khổ của tôi và tôi vui lòng chịu đựng. Không ai trốn khỏi Nghiệp đuợc cả. Và như Ngài biết, Khổ chính là kết quả tất nhiên của những hành động sai trái”.
Nhà vua ngạc nhiên hỏi:”Tại sao một tu sỹ cao thượng như Ngài mà còn chịu khổ?”.
Mirathi giải thích với quần thần rằng, trong một kiếp xa xưa, ông là một tên gây nhiều tội nghiệt. Đặc biệt có một lần ông ăn trộm một con bò. Bị dân làng đuổi theo, ông chạy vào sân của một ông già, để bò lại đó và trốn thoát. Ông già bị lên án và bị giam đói sáu ngày liền.
“Vô số đời sống đã trôi qua từ đó”, Mirathi nói, “vô số lần tái sinh đã để ta trả món nợ này. Nhưng chỉ đến đời này, ta mới lấy được vị trí của ông già nọ và để tự mình sống được cái cảm giác vô tội mà bị kết án thì như thế nào. Ác nghiệp của ta như thế đã xong và ta không có gì hơn là lòng biết ơn sâu xa đối với các người liên quan và không bao giờ có cảm giác hận thù ai”.
Nói xong, Mirathi cúi đầu chào và trở lại khu rừng mà cách đó sáu tháng người ta đã bắt ông. Sau đó ông trở thành A-la-hán, là người đã vượt qua tác động của nghiệp và là người không phải thực hiện điều gì trên cõi đời này nữa.

Theo sách: Sư tử tuyết bờm xanh
Việt dịch: Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách
Được cảm ơn bởi: smile., Ncarter, cloudstrife, DNTS, thuquanvn, cunconhamchoi, yellowandwhite20, mrDnguyenD, Hoả Kỳ Lân, kimtudon
Đầu trang

Ncarter
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 57
Tham gia: 22:41, 26/01/10

TL: Góp nhặt những chuyện luân hồi cổ kim

Gửi bài gửi bởi Ncarter »

Có một vị tăng lữ cao niên, mỗi lần đi ngang lò sát sanh, lão đều tự dưng sa lệ, và rồi nhắc đến chuyện tiền kiếp của mình:

Câu chuyện hơi dài dòng, tôi chỉ nhớ có hai tiền kiếp. Kiếp thứ nhất, tôi làm đồ tể chuyên sát sanh, hơn 30 tuổi thì qua đời. Linh hồn tôi bị mấy sứ giả âm phủ tóm đi, bỏ vào địa ngục. Quan thẩm phán trách tôi tội sát sanh quá nặng, giải hồn tôi đến chuyển luân của âm phủ nhận quả báo ác khổ. Tôi chỉ thấy mơ mơ màng màng, thần thức đâu đó, như say rượu, như nằm mơ, đầu óc nóng vô cùng, vừa cảm thấy mát mẻ đôi chút, thì đã nằm trong chuồng lợn, chuyển kiếp thành con heo.

Từ lúc dứt sữa, chỉ thấy người ta cứ đem thức ăn dư hôi thối cho ăn. Trong lòng tuy biết những thứ này dơ bẩn, muốn nhịn không ăn, nhưng lại đói quá chịu không nổi, ngũ tạng lục phủ như bị thiêu đốt rất khó chịu, bất đắc dĩ phải ăn để sống. Rồi tôi dần dần hiểu được ngôn ngữ của heo, nói chuyện với các bạn heo, mới biết rất nhiều heo vẫn nhớ tiền kiếp của mình, chỉ vì làm thân súc sanh, ngôn ngữ bất đồng với loài người, không thể câu thông vậy thôi. Lúc sắp bị làm thịt, cũng hiểu được phần nào, đa số phát ra những tiếng kêu sầu khổ, nước mắt tuôn tràn.

Thân thể của heo nặng nề và khó đi. Mùa hạ rất sợ nóng, phải ngâm mình trong sình để được mát. Tuy nhiên nguyện vọng này cũng thường không được hưởng trọn. Lông dầy, cứng và thưa, mùa đông rất sợ lạnh, nhìn những con chó hoặc cừu có lông dày như tấm thảm, thật sướng như tiên còn gì.

Đến sắp lúc bị tóm đi làm thịt. Tuy biết là khó tránh cái chết, nhưng cứ vùng vẫy, muốn kéo dài thời gian tử hình. Chẳng mấy chốc bị đồ tể tóm được, bị đạp lên mình, cổ họng bị cột lại, bốn cái giò bị cột bằng dây, xiết chặt đến tận xương, đau như dao cắt. Rồi chúng tôi được đưa đi bằng thuyền hoặc xe, nhiều con heo chen chúc nhau, xương sườn đụng nhau như bị gẫy, mạch máu chảy không điều hòa, bụng phình như sắp bị tung ra. Có khi mấy con bị sâu lưng lại bằng cây tre và khiêng đi, đau muốn chết.

Đến lò sát sanh liền bị vứt dưới đất. Tôi thấy thớt dao bày bên tay trái, nồi nước sôi lớn đang bốc khói bên tay phải. Nghĩ đến những con dao và nước sôi tát lên mình sẽ đau khủng khiếp, cả người tôi run rẩy lên. Có khi nghĩ đến mình sắp bị chặt ra thành từng mảnh, không biết sẽ biến thành nồi canh của nhà bếp nhà nào, thật thảm thiết tuyệt vọng.

Lúc tôi sắp bị làm thịt, cảm thấy kinh hãi và xây xẩm khi bị đồ tể tóm lấy. Bốn cẳng đều mềm nhũng, tâm rúng động, hồn phách như sắp bay ra từ đỉnh đầu. Khi tôi được đặt trên miếng thớt, thấy lưỡi dao óng ánh, không dám nhìn thẳng vào nữa, chỉ nhắm mắt chờ bị giết. Đồ tể lấy dao rạch ở cổ trước, đâm lưỡi dao vào cho máu đổ ra trong thau, thật đau đớn không ngôn ngữ nào tả xiết, muốn chết ngay cũng không được, chỉ biết kêu la thê thảm, đến máu chảy hết, bị đâm một phát vào tim, đau nhói đến tâm can, không còn phát ra tiếng kêu được nữa, thần thức từ từ rời xa và trở nên ngẩn ngơ, như lúc mới chuyển kiếp, say mê như nằm mơ.

Phải qua một thời gian rất lâu, nhìn lại thấy hồn phách mình thì đã đến âm phủ rồi. Quan thẩm phán thấy trong quá khứ hãy còn có làm một số việc lành, mới xử cho làm người trở lại. Cho nên kiếp này, gặp con heo này sắp bị mổ, tôi thấy rất thương tiếc, nghĩ đến người giết nó sau này cũng sẽ chịu số mệnh bị giết lại; và nhớ đến những đau khổ mình đã gánh chịu trong quá khứ, ba thứ ưu tư triền miên trong tâm thức, chả biết vì sao nước mắt đã tuôn rơi tự bao giờ.

Ông đồ tể nghe lão nói đến đây, tức thì vứt bỏ lưỡi dao, đổi làm nghề bán rau.

Nguồn: http://niemadidaphat.blogspot.com/20...#ixzz0i6kTMMQz" target="_blank
Được cảm ơn bởi: Tây Đô đạo sĩ, cloudstrife, cunconhamchoi, yellowandwhite20, Hoả Kỳ Lân, kimtudon
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Góp nhặt những chuyện luân hồi cổ kim

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

TÁI SINH Ở PHƯƠNG TÂY
(Reborn in the West, tác giả Vicki Mackenzie.
Nguyên Ngọc chuyển Việt ngữ.
Nguồn: Đặc san Hoa Nghiêm, Mừng Vu Lan, PL. 2554 - 2010)

Một năm sau khi Penoir Rinpoche gặp Jetsunma, bà thấy nhớ vị thầy, người đã ảnh hưởng sâu đậm đến cuộc đời của bà. Bà quyết định đến Ấn Độ viếng tu viện Bylakuppe của thầy ở bang Karnataka. Đối với một con gái quê quán ở Brooklyn chưa hề bước chân ra khỏi nước Mỹ, khi máy bay hạ cánh ở Bombay, bà ngỡ ngàng nhìn quanh cảnh hỗn độn, nhiều màu sắc và hình ảnh đời sống quá nghèo nàn ở đây; nhưng những gì bà trải nghiệm sau này càng lạ lùng hơn.

Khi gặp lại thầy ở tu viện, bà xin thầy được thọ giới Bồ tát. Người thọ giới nguyện suốt đời phục vụ người khác, bà xin thầy chọn cho bà một pháp danh. Người thọ giới Bồ tát thường được thầy cho một tên riêng.

"Bây giờ chưa phải lúc", Penoir Rinpoche trả lời.

"Bao giờ mới phải lúc", Jetsunma hỏi thúc, tỏ rõ tánh nôn nóng của người Tây phương.

"Đến ngày ấy, thầy sẽ cho con biết", Penoir Rinpoch nói.

"Ngày ấy là ngày nào vậy thầy?", Jetsunma vẫn dai dẳng hỏi.

"Ngày ấy là cái ngày do thầy quyết định", Penoir Rinpoche dằn giọng. Lúc bây giờ Jetsunma mới thôi.

Rồi đến một ngày khi mà mặt trăng ở vào một điểm nào đó trên thiên giới, Penoir Rinpoche gọi Jetsunma đến và tuyên bố: "Hôm nay ta sẽ đặt tên cho con đây". Ông viết tên vào một mảnh giấy, cuộn lại, ấn con dấu riêng của mình lên, lấy một giải khăn lụa trắng, biểu tượng cho sự kính trọng, bọc lại rồi trao cho Jetsunma. Ông nói: "Tên con là Ahkon Norbu Lhama".

Không có một sự kiện gì đặc biệt xảy ra đánh dấu giây phút đáng nhớ này, không một hình ảnh huyền bí gì hiện ra, không một thoáng nhớ lại cảnh giới nào, thời điểm nào đó, hay một người nào đó. Cả không có một chút ngạc nhiên hay kinh hoảng gì. Chỉ là một cảm giác quen thuộc. Nhớ lại sự kiện này Jetsunma nói lúc ấy bà như lại thấy một cảnh cũ (déjà vu). "Cái tên nghe rất quen thuộc, tôi xin thầy nói lại cái tên ấy. Cái tên nghe ngọt như sữa".

Qua người thông ngôn, vị Lạt ma trưởng lão tuyên bố: "Bây giờ tôi long trọng nhìn nhận cô là em gái của Kunzang Sherab. Tên của vị ấy là Ahkon Lhamo. Cô và Kunzang Sherab đã thành lập dòng tu Palyul. Tôi chính thức công nhận cô là hóa thân của bà ấy".

Với mấy lời đơn giản này, Penoir Rinpoche đã làm sáng tỏ cuộc đời khác thường mà Jetsunma tạo cho mình, và giải thích được những khả năng đặc biệt của bà. Ít nhất thì câu chuyện này cũng giúp cho chúng ta hiểu được tại sao một phụ nữ không được học hỏi gì về Phật giáo nói chung, không biết gì về Phật giáo Tây Tạng nói riêng, không sư phụ, không chịu ảnh hưởng của ai, lại tự mình quyết định hành thiền một cách miên mật trong nhiều năm và mở mang được tâm trí cao thâm. Bà còn có tâm nguyện giúp đỡ người khác và có khả năng giúp những người muốn tìm hiểu về đời sống tâm linh được dịp học hỏi về tâm linh.

Trước ngày thọ lễ Bồ tát giới, bà kể cho Penoỉi Rinpoche nghe "giới" bà tự chế để dạy cho học viên của bà:

- Con nguyện suốt đời giúp đỡ cho chúng sanh được giải thoát. Con nguyện xử dụng thân, khẩu, ý để phục vụ cho mọi loài chúng sanh. Con nguyện sẽ trở lại cảnh giới Ta Bà dưới mọi hình thức, dưới mọi hoàn cảnh cho đến khi khổ đau chấm dứt. Cho con tái sanh ở bất cứ nơi nào, bất cứ thời điểm nào để cứu chúng sanh ra khỏi vòng luân hồi sinh tử. Con không màng đến sự an nguy hay hạnh phúc của riêng con, chỉ xin đức Phật từ bi chứng giám cho con được dùng báo thân này để phục vụ tha nhân hầu mong mọi người, mọi loài không còn phải chết, không còn phải đau khổ nữa. Con nguyện vì chúng sanh mà được chứng đắc. Rồi lúc ấy, chỉ với bàn tay và trái tim của con, cầu cho mọi người được giác ngộ và giải thoát.

Penoir Rinpoche ngồi lắc lư khoái chí nghe bà nói chuyện, lâu lâu lại thích thú đánh đốp vào đùi. Giới mà Jetsunma tự chế cho bà đúng là những lời nguyện mà các Lạt ma Tây Tạng thường tụng đọc. Đây là một chứng cớ nữa về thân thế của bà.

Penoir Rinpoche trao cho bà một chứng chỉ chứng nhận bà có đủ thẩm quyền giảng pháp. Ông nói:

- Có người không biết con. Có người nói con không hề học Phật pháp thì làm sao mà giảng pháp được. Với tấm giấy này, không ai còn nghi ngờ rằng con không đủ khả năng nói pháp.

Penoir Rinpoche nói cho Jetsunma biết đại khái về tiền thân của bà. Ahkon Lhamo đời trước là đệ tử ruột của Terton Migyur Dorje, một vị tu hành nổi tiếng đã tiết lộ nhiều điểm bí mật (secret teachings). Bà đạt đến địa vị Thiên nữ (Daikini), ẩn tu cả hàng mấy chục năm trong hang động, bà chỉ xuống núi giúp anh bà ở tu viện thôi. Người ta phải đến hang động của bà xin được chữa bệnh và học pháp.

Tôi hỏi Jetsunma xem bà có tò mò muốn biết thêm về cuộc đời của Ahkon Lahmo hay chính bà có nhớ gì về bà Thiên nữ sống ở Tây tạng năm 1665, người đã cùng người anh thành lập một dòng tu mà đến ngày nay vẫn còn. Bà đáp:

- Tôi được biết rằng bà ấy có vẻ rừng rú, man rợ. Bà giam mình trong hang động, trông bà rừng rú lắm với đầu tóc dài lòa xòa không chải.

Vừa nói Jetsunma vừa túm mấy lọn tóc quăn lộn xộn của bà, Bà tiếp:

- Bà ấy thuộc loại nữ đạo sư gàn. Có nhiều sự kiện không thay đổi được (Jetsunma ám chỉ bà bây giờ cũng là một người gàn! LND). Trong hang động không có nước, và dĩ nhiên bà không hề tắm. Trên người bà quần áo rả rời tơi tả nhưng không có mùi. Những người vào hang động gặp bà thường nói hang động thơm như có nước hoa. Penoir Rinpoche nói nhiều người đến cúng dường vàng, san hộ, ngọc quý nhưng bà không nhận.

Đến đây Jetsunma đùa:

- Có lẽ những thứ đó bà không cần nên bà không nhận. Bà đang chờ một máy sấy tóc! Có lẽ bà đang chờ người ta đem điện vào hang động để bà có thể gắn hệ thống sưởi!

Còn nói về chuyện cá nhân tôi có nhớ gì không thì tôi không muốn nói nhiều. Tôi không muốn kể lại những trải nghiệm cá nhân của tôi. Có thể nói là tôi cũng cảm nhận được đôi điều nhưng cũng mơ hồ lắm. Tôi rất tò mò. Tôi muốn trở về Tây Tạng đi đến xem cái hang động ngày xưa bà ấy đã ẩn tu. Gyatrul Rinpoche, vị hóa thân ngài Kunzang Sharab, hiện đang ở tiểu bang Oregon, nói rằng khi ông đến Tây Tạng, ông nhớ lại nhiều thứ lắm. Chắc nhờ không gian ở bên đó trong lành hơn.

Có một chi tiết có thể xem như một gạch nối giữa vị Bồ tát hiện tại, người con gái xuất thân từ Brooklyn, với vị Thiên nữ Tây Tạng của thế kỷ 17. Người đã tạo ra một trường phái Phật giáo còn tồn tại cho đến ngày nay là cái sọ, hay một phần cái sọ của Ahkon Lhamo nay vẫn còn. Và cái sọ là chứng tích hùng hồn của sự hiển thánh/chứng đắc của bà. Trên đỉnh sọ có hằn sâu một chữ Phạn "Ah" (âm đầu của tên bà Ahkon. LND)

Người ta kể rằng khi vị Ahkon Lhamo ra đời, trước khi viên tịch họ sửa soạn một giàn hỏa để làm lễ trà tì. Khi da thịt cháy hết, cái sọ từ từ bay lên khỏi giàn hỏa trước mắt hàng trăm người, bay đi chừng một dặm rồi nhẹ nhàng rơi xuống tu viện Palyul, dừng lại trước cái ghế bành của anh bà là Kunzang Sherab, vị đồng lập dòng Palyul. Người ta tin rằng bà đã hiển linh cho mọi người thấy công phu tu tập của bà đã thành đạt. Vị Thiên nữ (Daikini) nổi tiếng đã thực hiện nhiều phép mầu khi còn tại thế, một lần nữa cho mọi người thấy rõ thần thông của mình.

Cái sọ trở thành một di vật quý giá và được dùng như một kapala dùng đựng nước cam lồ trong các buổi lễ. Cái sọ được giữ gìn cẩn thận cho đến giữa thế kỷ 20, khi Trung quốc tấn công Tây tạng, phá hoại những kỷ vật tâm linh của Tây Tạng gồm cả cái sọ thiêng ở tu viện Palyul. Một cư dân thấy một mảnh sọ trong đống đồ vỡ vội nhặt, thu vào áo rồi đem về thờ ở một nơi an toàn. Một năm sau Penoir Rinpoche mới biết được câu chuyện mảnh sọ thiêng này.
Sửa lần cuối bởi Tây Đô đạo sĩ vào lúc 14:35, 30/07/11 với 1 lần sửa.
Được cảm ơn bởi: Ncarter, cloudstrife, phoenix18, mitmitnana
Đầu trang

Trả lời bài viết