PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Tiểu luận 0 (tiếp)

- Phía trước đã trích đoạn kinh này, tại đây trích lại để chúng ta cùng “tỉnh thức” trước tác và theo dõi trước tác tập luận này đến khi Quán vào Đạo..


“… Lại nữa, hành giả kia ở trong định, thấy sắc ấm đã hết, thọ ấm tỏ rõ, do đắm trước cái thể tánh sáng suốt rỗng rang, ăn sâu vào xương tủy, bỗng nhiên phát sinh tâm ái vô hạn. Tâm ái cực mạnh thì phát điên, trở thành kẻ tham dục. Đó là do cảnh giới định thâm sâu mà không có trí tuệ để tự giữ gìn, nên lầm nẻo sa vào đường dục, chứ không phải là đã chứng thánh; biết rõ thì không có lỗi gì. Nếu lầm tưởng cho rằng mình đã chứng thánh, liền bị giống ma tham dục xâm nhập vào lòng, một mực bảo rằng tham dục chính là đạo Bồ-đề; lại dạy hàng cư sĩ đồng đều hành dục, gọi những người hành dâm là pháp tử nối dòng. Hạng hành giả như vậy, ở trong đời mạt pháp, nhờ có sức quỉ thần tà ma mà nhiếp phục được những kẻ phàm phu ngu muội, con số đến một trăm, hai trăm, hoặc năm, sáu trăm, thậm chí nhiều đến ngàn, vạn; khi tà ma đã chán, rời bỏ thân thể, thì uy đức liền mất, bèn sa vào lưới pháp luật của quốc gia, còn tội gây nghi ngờ mê lầm cho chúng sinh thì sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián. Như thế là hành giả đã mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

Này A Nan! Mười cảnh tượng như thế thường hiện ra trong lúc thiền định, đều do vì thọ ấm chưa trừ, dụng tâm chưa đúng mức, để cho lí tính và dục tính giao chiến, tranh nhau hơn thua, nên hiện ra các việc đó. Chúng sinh mê muội, không tự xét tự lượng, gặp những cảnh tượng ấy thì nhầm lẫn không biết rõ, cho mình đã chứng quả thánh, thành ra mắc tội đại vọng ngữ, phải đọa địa ngục Vô-gián! Sau khi Như Lai diệt độ, quí thầy nên y theo lời dạy này, tuyên bày nghĩa lí cho chúng sinh trong đời mạt pháp được tỏ ngộ; không để cho thiên ma có dịp quấy phá; đó là cách giữ gìn chánh pháp, che chở cho người tu hành thành đạo Vô-thượng.

Này A Nan! Hành giả kia tu định, khi thọ ấm đã hết rồi, tuy chưa trừ sạch các lậu hoặc, nhưng tâm có thể rời khỏi hình hài, như chim ra khỏi lồng. Giai đoạn này đã thành tựu rồi, từ thân phàm phu đây tiến lên, trải qua sáu mươi thánh vị Bồ-tát, được ý-sinh-thân(232), tùy ý đến đi, không còn ngăn ngại. Ví như có người ngủ mê nói mớ, người ấy tuy không biết gì, nhưng lời nói đã thành âm vận thứ tự, những người đang thức đều hiểu được. Tuy nhiên, trong trường hợp này, hành giả dù được “ý-sinh-thân”, nhưng thật sự vẫn chưa thân chứng, vì vẫn còn bị tưởng ấm hạn chế ngăn che.

Nếu hết động niệm, vọng tưởng tiêu trừ, thì nơi tâm giác ngộ sáng suốt như được quét sạch bụi dơ; cả một dòng sinh tử, từ đầu chí cuối đều chiếu soi rõ ràng. Đó là lúc tưởng ấm đã hết, người tu hành bấy giờ mới có thể vượt khỏi phiền não trược. Như vậy, xét kĩ lại nguyên do của tưởng ấm, thì gốc rễ chính là vọng tưởng dung thông, đan dệt nhau vọng thành.

Này A Nan! Hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng, yêu thích sự sáng suốt tròn đầy, tư duy tinh nhạy, tham cầu thiện xảo. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu thiện xảo kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp. Trong chốc lát, người ấy biến hóa nhiều hình dạng cho vị hành giả kia thấy: lúc thì hiện thân tì kheo, lúc thì hiện thân Đế Thích, lúc thì thân phụ nữ, lúc thì thân tì kheo ni, lúc thì ở trong nhà tối mà thân có hào quang sáng ngời. Hành giả kia mê dại, lầm cho đó là Bồ-tát, tín cẩn nghe lời dạy bảo, chánh tâm bị lay chuyển, phá hủy luật nghi của Phật, trong tối tăm làm chuyện tham dục. Miệng người ma ưa nói những chuyện cát hung quái đản: lúc thì nói có đức Như Lai ra đời chỗ nọ chỗ kia, lúc thì nói sắp có nạn đao binh xảy ra, cốt làm cho người ta sợ hãi, khiến cho gia sản vô cớ mà hao tán. Đó là giống quái quỉ sống lâu năm thành ma, quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, này A Nan! Hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng yêu thích thần thông du hí tự tại, phấn chấn tinh thần, tư duy nghiên cứu, tham cầu kinh lịch các quốc độ. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu du hí kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp. Người ấy thân hình không biến đổi, nhưng vị hành giả nghe pháp kia bỗng nhiên thấy mình ngồi trên hoa sen báu, toàn thân hóa thành sắc vàng tía sáng chói; tất cả thính chúng, mỗi mỗi cũng thấy như vậy, đều cho là việc chưa từng có. Hành giả mê dại, lầm tưởng người ma kia là Bồ-tát, bèn tín cẩn nghe lời dạy bảo, tâm buông lung giong ruổi, phá hủy luật nghi của Phật, trong tối tăm làm chuyện tham dục. Miệng người ma ưa nói những chuyện quái đản, như nói chư Phật sẽ ứng hiện ra đời, hoặc nói người đó ở chỗ đó là hóa thân của đức Phật đó, người kia sắp đến đây tức là vị Bồ-tát kia đến để giáo hóa nhân gian. Hành giả nghe thế thì sinh lòng khát ngưỡng, tà kiến kín đáo nổi lên, trí tuệ tiêu mất. Đó là giống bạt quỉ sống lâu năm thành ma, quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng yêu thích khế hợp kín đáo, bèn lắng đọng tinh thần, dứt bặt tư duy, tham cầu khế hợp. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu khế hợp kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp. Thân hình người ấy cùng với những người nghe pháp, bề ngoài không có gì biến đổi, nhưng lại khiến cho thính giả, trước khi nghe pháp, tâm tự nhiên khai ngộ, niệm niệm dời đổi: hoặc được túc mạng thông, hoặc được tha tâm thông, hoặc thấy cảnh địa ngục, hoặc biết rõ các việc tốt xấu ở nhân gian, hoặc miệng nói kệ, hoặc tự tụng kinh, mỗi mỗi đều vui vẻ, được điều chưa từng có. Hành giả kia mê dại, lầm tưởng đó là Bồ-tát, tâm sinh luyến ái triền miên, tín cẩn nghe lời dạy bảo, phá hủy luật nghi của Phật, trong tăm tối làm chuyện tham dục. Miệng người ma ưa nói những chuyện quái đản: như nói Phật có lớn có nhỏ, hay Phật này là Phật trước, Phật kia là Phật sau, rồi lại có Phật thật Phật giả, Phật nam Phật nữ; Bồ-tát cũng vậy. Hành giả kia thấy thế thì rất tín mộ, bỏ mất bản tâm tu tập, rơi vào tà kiến. Đó là giống mị quỉ sống lâu năm thành ma, quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng muốn biết tận tường gốc rễ, muốn xét rõ thỉ chung của sự biến hóa nơi sự vật, bèn phấn chấn tinh thần, đem hết tâm lực tham cầu phân tích biện biệt. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu biết nguồn cội kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp. Người này có uy thần, khuất phục ngay những người cầu nghe pháp, khiến cho họ, tuy chưa nghe pháp mà tự nhiên tâm đã kính phục. Người đó bảo rằng: “Bồ đề, niết bàn và pháp thân Phật chính là nhục thân của chúng ta đây; cha cha con con đời đời sinh nhau không dứt, đó chính là pháp thân thường trú; cảnh giới hiện tại trước mắt đây chính là Phật quốc, chứ không có cõi tịnh cư hay tướng sắc vàng nào khác ở đâu cả.”. Hành giả kia tín thọ lời dạy của ma, bỏ mất bản tâm tu tập, đem thân mạng qui y tà ma, cho là được điều chưa từng có. Cả bọn đó đều mê dại, lầm tưởng ma là Bồ-tát, suy xét tâm mình để thuận theo lời dạy bảo, phá hủy luật nghi của Phật, trong tăm tối làm chuyện tham dục. Miệng người ma ưa nói những lời quái đản, như nói mắt tai mũi lưỡi đều là tịnh độ; hai căn nam nữ là nơi chân thật của bồ đề niết bàn. Nhưng hành giả kia không biết đó là những lời nói dơ dáy, cứ một mực tin theo. Đó là giống cổ độc và yểm thắng ác quỉ sống lâu năm thành ma, quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng yêu thích sự cảm ứng huyền nhiệm, bèn để hết tâm lực nghiên cứu tinh tế biến khắp mọi hiện tượng, mong cầu thánh duyên cảm ứng. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu cảm ứng kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp; khiến cho thính chúng nhất thời thấy thân ông ta như từng sống lâu đến trăm ngàn tuổi, tâm sinh yêu mến không thể rời xa; nguyện đem thân mình làm nô bộc cho ông ta, cúng dường đầy đủ các thứ cần dùng mà không biết mệt mỏi. Người ấy lại khiến cho tâm mỗi người nghe pháp đều biết ông ta là bậc tiên sư, là vị thiện tri thức của họ, yêu quí lời dạy bảo, khắng khít như keo sơn, được điều chưa từng có. Hành giả kia mê dại, lầm tưởng đó là Bồ-tát, gần gũi tâm ma, phá hủy luật nghi của Phật, trong tăm tối làm chuyện tham dục. Miệng người ma ưa nói những chuyện cát hung quái đản, như nói: “Ta kiếp trước sinh ở chỗ đó, trước độ cho người đó, đương thời là thê thiếp anh em của ta. Nay ta cùng các ngươi cũng vốn có túc duyên, nên đặc biệt đến đây độ cho nhau; ta sẽ cùng các ngươi đi về thế giới kia, cúng dường đức Phật kia.” Hoặc người ma đó nói rằng, đặc biệt có cõi trời Đại-quang-minh, là nơi cư trú nghỉ ngơi của chư Phật. Hành giả kia không biết gì, cứ tin vào những lời nói dối gạt ấy, bỏ mất bản tâm tu tập của mình. Đó là giống lệ quỉ sống lâu năm thành ma, quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng yêu thích sự khế nhập sâu xa, bèn ép mình khắc khổ, thích ở chỗ u tịch, tham cầu sự tĩnh mịch. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu tĩnh mịch kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp; khiến cho những người nghe, mỗi người đều tự biết nghiệp đời trước của mình, rồi bảo một người ở ngay nơi đó rằng: “Ngươi nay chưa chết mà đã làm súc sinh!” Nói thế xong, lại bảo một người khác đạp lên cái đuôi ở đằng sau người này, khiến cho người này đứng dậy không được. Thấy vậy, cả thính chúng đều hết lòng khâm phục; ai vừa khởi tâm gì, người ma ấy biết ngay. Nó dối hiện như người tu hành nghiêm cẩn, ngoài luật nghi của Phật, còn tỏ ra rất tinh cần khắc khổ; rồi chê bai chư vị tì kheo, mắng chửi đồ chúng, phô bày việc xấu của người khác, không tránh hiềm khích. Miệng ma ưa nói những việc họa phúc chưa xảy ra, và đến khi xảy ra thì mảy may không sai. Đó là giống đại lực quỉ sống lâu năm thành ma, quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng yêu thích sự thấy biết sâu rộng, bèn ra sức nghiên cứu tìm tòi, cầu biết túc mạng. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu biết túc mạng kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp. Ở nơi thuyết pháp đó, bỗng nhiên người ma ấy có được viên ngọc báu lớn; rồi biến hóa làm súc sinh, miệng ngậm viên ngọc kia cùng các thứ như châu báu đủ màu, tín phù, sách viết trên thanh tre hay thanh gỗ, và nhiều vật kì lạ khác; trước đem trao cho vị hành giả kia, sau thì đeo nơi mình. Người ma ấy lại khoe với thính chúng, có hạt châu minh nguyệt chôn ở dưới đất, đang chiếu sáng chỗ đó; thính chúng cho là điều chưa từng có. Ma thường ăn dược thảo, không ăn cơm, có lúc mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè hoặc một hạt lúa, nhưng nhờ sức ma duy trì mà thân hình vẫn béo tốt. Ma lại chê bai chư vị tì kheo, mắng chửi đồ chúng, không tránh hiềm khích. Miệng người ma ưa nói những chuyện quái đản như có nhiều kho báu ở các phương khác, hoặc chốn ẩn cư của các bậc hiền thánh mười phương. Những người đi theo sau ma, thường thấy nhiều người kì lạ. Đó là những loại quỉ thần ở sông núi, hay thổ địa thành hoàng nơi núi rừng, sống lâu năm thành ma, khi thì cổ võ cho sự dâm dục, phá giới luật của Phật, trong tăm tối cùng kẻ thừa sự cùng vui hưởng ngũ dục; có lúc lại chuyên cần tinh tấn, ăn thuần cỏ lá, hành sự không nhất định, cốt quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng yêu thích sức thần thông biến hóa, bèn nghiên tầm suy cứu nguồn gốc của sự biến hóa để mong thủ đắc thần lực. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu thần thông kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp. Người ma ấy một tay cầm ngọn lửa, tay kia bốc lửa chia để trên đầu từng người nghe pháp; ngọn lửa trên đầu mỗi người đều cao đến vài thước, nhưng đầu không bị cháy, cũng không cảm thấy nóng. Người ấy lại đi trên mặt nước như đi trên đất bằng; hoặc ngồi yên bất động trên hư không; hoặc vào trong chiếc bình; hoặc ở trong cái đãy; hoặc vượt cửa sổ, đi xuyên qua tường mà không bị ngăn ngại; chỉ đối với đao binh thì không được tự tại. Người ấy cũng tự bảo mình là Phật, thân mặc áo trắng, nhận sự lễ bái của các tì kheo, chê bai pháp môn tu thiền và hành trì giới luật, mắng chửi đồ chúng, bươi móc chuyện xấu của người, không tránh hiềm khích. Miệng người ma ưa nói những chuyện mê hoặc, như nói những chuyện về thần thông tự tại, hoặc khiến cho mọi người thấy Phật độ ở ngay bên cạnh. Đó là do ma lực mê hoặc người, hoàn toàn không chân thật. Người ma ấy chuyên ca ngợi sự hành dâm, làm toàn những việc thô tục, đem những hành động bỉ ổi sàm sỡ gọi đó là truyền pháp. Đó là những loài có sức lớn trong trời đất như sơn tinh, hải tinh, phong tinh, hà tinh, thổ tinh; hoặc những loài cây cỏ kì dị sống trải bao đời kiếp, hấp thụ tinh hoa của trời đất mà hóa thành tinh mị; hoặc các loài rồng hóa thành yêu mị; hoặc các tiên nhân chết rồi sống lại làm yêu mị; hoặc các tiên nhân quả báo đã hết, đến ngày đáng lẽ phải chết, nhưng hình hài không tiêu, bị loài yêu quái khác nhập vào, hóa thành yêu nghiệt; tất cả những giống ấy sống lâu năm thành ma, quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng yêu thích vào chỗ tịch diệt, bèn nghiên cứu tinh tường cùng cực cái thể tánh của vạn hóa, mong cầu cái rỗng không sâu nhiệm. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu rỗng không kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp. Ở trong thính chúng, người ấy bỗng nhiên biến mất thành không, cả chúng không ai thấy gì; rồi từ không đột nhiên lại hiện ra; muốn có muốn không đều tự tại. Người ấy còn biến hiện thân mình trong suốt như ngọc lưu li, hoặc duỗi tay chân phát ra mùi hương chiên đàn, hoặc đại tiểu tiện ngọt và cứng chắc như đường phèn; rồi còn chê bai giới luật, khinh rẻ người xuất gia. Miệng người ma ưa nói những điều mê hoặc, như nói không nhân không quả, chết là vĩnh viễn đoạn diệt, không có thân sau; hoặc nói chư vị thánh phàm tuy chứng được không tịch, vẫn hành dâm vô ngại, những người hưởng thụ tham dục cũng được tâm không; cũng bác không có nhân quả. Đó là mặt trời mặt trăng, trong lúc che khuất nhau, tinh khí thấm vào đất, những loại như vàng, ngọc, cỏ chi, lân, phụng, rùa, hạc hấp thụ được, có thể sống lâu trải ngàn vạn năm mà trở thành tinh linh, sinh ra trong cõi nước, lại sống lâu năm thành ma, quấy phá người tu hành; khi quấy phá chán rồi, bèn rời khỏi thân người bỏ đi, thì cả thầy lẫn đệ tử đều bị rơi vào lưới pháp luật của quốc gia. Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Lại nữa, hành giả kia ở trong cảnh giới đã hết thọ ấm, không còn mắc phải tà lự, diệu định viên thông phát sáng; bỗng nhiên ở trong tâm định khởi lên niệm tưởng muốn được trường thọ, bèn khổ công nghiên cứu, mong cầu sống mãi; dứt bỏ đời sống phần đoạn(233), chóng được đời sống biến dịch(234), được thân tướng vi tế thường trụ. Thiên ma chỉ chờ có được cơ hội này để khuấy phá, bèn gá tinh thần vào thân một người nào đó, miệng nói kinh pháp. Người này không biết mình bị ma nhập, tự cho rằng mình đã chứng được niết bàn vô thượng, liền đi đến chỗ vị hành giả cầu trường thọ kia, trải pháp tọa ngồi thuyết pháp. Người ma ấy nói, có thể đi đến một phương nào thật xa rồi trở về không trở ngại; dù nơi xa vạn dặm, chỉ trong nháy mắt có thể đến đó lấy một vật đem về. Hoặc ở một nơi nào đó, trong một căn nhà rộng chỉ vài bước, người ma ấy bảo một người nào đó đi thử từ vách phía Đông sang vách phía Tây, người này đi thật nhanh mà cả năm không tới. Hành giả thấy thế rất tin phục, nghĩ rằng người ma kia là Phật hiện tiền. Miệng người ma ưa nói những điều mê hoặc, như nói “Mười phương chúng sinh đều là con của ta; ta sinh ra chư Phật; ta sinh ra thế giới; ta là đức Phật đầu tiên, tự sinh ra đời, không phải do tu hành mà đắc đạo.” Đó là thiên ma ở cõi trời Tha-hóa-tự-tại sai khiến bọn quyến thuộc chưa phát thiện tâm, như dịch sử quỉ Giá Văn Trà, hay quỉ Tì Xá Già thuộc cõi Tứ-vương thiên, bọn này nhân lúc người tu hành được tâm định rỗng không sáng suốt nhưng phát sinh tà kiến, bèn tới ăn tinh khí. Hoặc không phải do người ma nọ, mà chính vị hành giả kia nhìn thấy ma vương hiện thân, miệng khoe nắm được thuật cường tráng như kim cương, ban cho hành giả sự trường thọ; rồi lại hiện thân mĩ nữ, cám dỗ hành giả hành sự dâm dục, chưa đến một năm thì gan óc khô kiệt, miệng nói lầm bầm một mình, nghe như yêu mị. Như trước kia vì không rõ ông thầy thuyết pháp là người bị ma nhập, nên khi ma chán bỏ đi thì thầy trò phải sa lưới pháp luật; còn giờ đây, hành giả không do ông thầy ma mà tự mình tham hành dâm dục với gái đẹp, thì chưa đợi bị hình phạt của pháp luật, mà đã phải chết khô trước rồi! Thế là ở cả hai trường hợp, người tu hành đều bị ma vương phá hoại, đến nỗi mất mạng! Hành giả nếu biết trước đó là ma để không bị mê hoặc, thì không bị rơi vào vòng luân hồi; nếu mê muội không biết, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục Vô-gián.

Này A Nan! Thầy nên biết, mười giống ma đó, ở trong đời mạt pháp, có thể giả làm người xuất gia tu hành trong giáo pháp của Như Lai, hoặc gá nhập vào thân xác người ta, hoặc tự hiện nguyên hình, đều tự xưng là đã thành bậc Chánh Biến Tri Giác, ca ngợi sự dâm dục, phá luật nghi của Phật. Cả ma thầy và ma đệ tử đều lấy sự dâm dục truyền thọ cho nhau; cứ như thế, yêu tinh tà mị mê hoặc lòng dạ, ít thì cũng trải chín đời, nhiều thì trăm đời, khiến cho những người tu hành, dù cho chân chánh, rốt cuộc cũng đều trở thành quyến thuộc của ma vương; sau khi mạng chung phải làm dân ma, mất hết chánh trí, đọa vào địa ngục Vô-gián.

Thầy chưa nên vội an hưởng niết bàn tịch diệt ngay bây giờ. Dù chứng được quả vị Vô-học, thầy cũng nên giữ tâm nguyện vào trong đời mạt pháp, phát khởi tâm đại từ bi cứu độ chúng sinh, khiến cho họ có được tâm địa chân chánh, có được lòng tin sâu sắc nơi Phật pháp, không mắc vào lưới ma, được chánh tri kiến. Nay Như Lai đã độ thầy thoát khỏi sinh tử, thầy hãy vâng lời Phật dạy, thế gọi là báo đáp ơn Phật.

Này A Nan! Mười cảnh ma như thế hiện ra trong thiền định, đều do tưởng ấm ngăn che mà sinh ra. Sức quán chiếu và vọng tưởng giao chiến nhau trong tâm, vì vọng tưởng thắng nên sinh ra những cảnh tượng ấy. Chúng sinh ngu muội, ngoan cố, không tự xét tự lượng, gặp những cảnh tượng ấy thì nhầm lẫn không biết rõ, cho mình đã chứng quả thánh, thành ra mắc tội đại vọng ngữ, phải đọa địa ngục Vô-gián! Sau khi Như Lai diệt độ, quí thầy nên y theo lời dạy này, tuyên bày nghĩa lí cho chúng sinh trong đời mạt pháp được tỏ ngộ; không để cho thiên ma có dịp quấy phá; đó là cách giữ gìn chánh pháp, che chở cho người tu hành thành đạo Vô-thượng.”

- Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh -Q9!
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Chúng ta phải luôn khắc ghi 50 ma sự này - kể từ bắt đầu bước chân lên con đường. Khi theo con đường trước tác quán vào đạo này thì phải thấy mỗi ngày đều đã tự chứng thấy “cước bộ” hay “cước tác” nằm ở trong Đạo Đức Thế Tôn và phải chứng được thấy cước bộ của mình ở hiện thực đời - tức là sự tu tập theo được cước tác quán tác. Không nên tưởng niệm - để cho “khách trần” trước tác này vào trong ngôi nhà tâm của mình làm chủ. Điều này, chỉ là ma sự mà thôi. - Tức là “không hành trì, ngồi tưởng”.



Không ai biết được người trước tác là ma hay là người đang tu Quán vào Đạo, tu đến đâu trước tác đến đấy, trước tác đến đâu tu đến đấy. Nên tự mỗi người, kể cả người trước tác lẫn người theo trước tác - Tự cần luôn luôn tỉnh thức. “Phải tự đốt đuốc, không ai ở bên ngoài giúp được”.

Chỉ ngồi tưởng, đảm bảo là gặp ma sự. Nên cần rất tỉnh thức!




Đừng ai tự cho rằng: Cảm - Ứng là thứ gì đó mà mình cũng có thể làm được. - Và cố làm với sự “hướng tâm” ở khi này - mà khi này, người trước tác còn lâu mới cô đọng ra được viên bi tâm như đã nói để mà hướng tâm.

Ma tưởng đó!

Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Tiểu luận 207: Tự thuật


Đến đây người viết giới thiệu một số pháp về tác giả luận tác này:


1/ Giới định tuệ không thể tự nhiên mà tu tập được. Muốn tu tập được giới định tuệ ba thứ vô lậu học này thì lại phải dùng phương tiện văn tư tu ở thế (ba thứ hữu lậu học) . Văn với tác giả mất khoảng 30 năm, tư tu chưa rõ, nhưng có lẽ thời gian cũng không ít. Sau khi thấy văn thì tác giả có nhận xét cá nhân: Không cần dùng nhiều thời gian như vậy nếu như có tia minh. Hoàn toàn có thể vừa văn vừa tư vừa tu - là cách trực diện nhất… và nó cũng chính là lý do trước tác này ra đời theo thể loại văn ký.

Chỉ có dùng văn tu tư (trang nghiêm đại thừa) mới bắt đầu tu được giới định tuệ một cách chánh pháp… Nếu không dùng văn tu tư thì giới định tuệ không bao giờ được viên mãn cả 3 - lịch sử đến giờ ai cũng có thể tự thấy rõ.


2/ Khi bắt đầu thực hành Đạo Đức Thế Tôn (bắt đầu trước tác sáng tác tập luận này):

+ Pháp hành lý (Chánh Pháp tu căn cơ): Quán niệm hơi thở
+ Pháp trang nghiêm: Đảnh thủ lăng nghiêm
+ Pháp hành sự: Toàn bộ 37 trợ đạo
+ Giới: Giới Bồ Tát cư sĩ: 5 giới cơ bản
+ Định: Định niệm hơi thở
+ Tuệ: Tia minh lấy từ tia sáng của tâm từ bi loé ra


3/ Pháp sử dụng phương tiện:

+ Sử dụng việc thực tập an trú tâm trong chánh niệm để Quán chánh niệm hành.
+ Sử dụng kinh hành để thực tập duy trì sự chú tâm (tỉnh thức).
+ Sử dụng Niệm “Nam mô A Di Đà Phật” để nhiếp tâm ban đầu - chủ yếu trong khoảng 15 năm khi chỉ tập văn. Có như vậy, mới có ngày viết ra được “sáng tác” này chứ lúc đó tác giả đâu có tu gì, mà văn thì như trời biển. Nếu không có câu phong ấn nhiếp tâm này, tác giả tự thấy: Khả năng loạn thần và bị điên… khoa học hiện đại gọi là: Tâm thần, stress, đa nhân cách, điên, khùng..vv.. - Tuy rằng, tác giả đã không lựa chọn pháp này là chánh pháp tu căn cơ nhưng tác giả thấy: Đây là 1 pháp căn cơ nhiệm màu mà ai cũng nên thực hành.
+ Sử dụng “Tác ý” để nhiếp tâm ban sau. Ví dụ như khi bắt đầu đi tác giả tác ý: “Khi tôi đi tôi biết tôi đi, tôi đi trong chánh niệm tỉnh thức. Tâm tôi an trú trong chánh niệm. Các tri giác tỉnh giác để thực hành chánh niệm. Tâm tỉnh thức để không mất chánh niệm”. Tôi đi xe, không đi bộ. Tất nhiên đi bộ sẽ rèn luyện sức khoẻ nhưng giờ đi xe vừa quán được nhiều mà các tri giác và sức tỉnh thức lại được tu tập tỉnh giác hơn rất nhanh và nhiều so với đi bộ. Vì đi xe chỉ cần mất tỉnh giác, tỉnh thức kém là mất chánh niệm và… không cẩn thận là mất thân ngay. - Đức Thế Tôn nói: Hãy tinh tấn tu tập như kiểu cái chết cận kề. - Tuy nhiên, mọi người sẽ sớm chứng thấy: Khi kinh hành càng tiến tới đạt kết quả chánh niệm tỉnh thức thâm sâu thì tốc độ đi sẽ lại càng giảm…
+ Sử dụng tia minh từ bi để tu tập trường tâm từ: Đã thấy chúng sinh hữu tình thì không nổi tâm sát hại hay làm thương tổn nó, kể cả nó có làm hại mình hay không. - Nếu nó đang làm hại thì Nên nói chuyện với nó 1-2 câu với tâm từ và đưa nó đi ra chỗ khác hoặc mình đi chỗ khác.
+ Vọng niệm khi xuất hiện: Hoặc đưa vào Quán hoặc đưa tâm vào chánh niệm để dứt.
+ Không ép tâm tác ý bất cứ thứ gì khi chưa quán rõ lý
+ Hạn chế nói. Nếu có nói nên nói Pháp Phật. Nhưng cũng không nên nói. Trước tác này là ma thuyết là vậy.
…. (Nói chung quá nhiều, không ví dụ hết được và nó thay đổi như thay áo ấy mà)

4/ Tông thừa:

Nói chung: Người trước tác đến đây thì ai cũng thấy đã tự nhận: Là người thực tập hành theo Bồ Tát thừa.


Có nghĩa người này còn nói pháp cho đến khi thành Đạo dù có còn được viết ra ở đây hay không. Trong hệ thống giới Kinh, ai cũng thấy rồi, người viết sau bao năm tập văn cũng thấy: Các Chư Vị Bồ Tát họ nói những pháp kéo dài vô lượng đời - Kinh gọi là bố thí vô lượng pháp cho vô lượng chúng sinh (chủ yếu cho vô lượng chúng sinh ở ngay “quốc độ” thân tâm tác giả chứ là con người thì có mấy ai để ý mà để có được vô lượng. Thực tế, tập luận này trước tác đến đây đã thể hiện rõ việc thực tập của tác giả.


5/ Người viết thấy: Thực tế văn tu tư chính là quán tưởng khi đạt về lượng thì biến đổi về chất sang quán thấy.

6/ Rất rõ, với lượng tập văn (chưa nói đến các lĩnh vực triết học duy vật biện chứng, duy tâm, khoa học thường nghiệm (huyền bí) .v.v..) - với lượng niệm tưởng nhiều như thế này thì còn lâu người viết mới đạt một cái gì đó. Tuy vậy, người viết cũng đang tự thấy: Cước bộ trước tác có vẻ nhanh, đặc biệt đến chỗ trang nghiêm an trú tâm trong chánh niệm thì bước rẽ hiển hiện rõ. . (Tưởng): Biết đâu đấy, cứ viết chuyện thế này, viết được khoảng 10-15 năm nữa khi thấy giới cụ túc thì luân 6 mở ra, niệm hơi thở tự dừng, ý không còn tác, tay không còn gõ phím… chỉ còn hướng tâm thích làm gì thì làm, tâm tác…


7/ Dù sao, không có 1 quy chuẩn cho tất cả nhưng luôn có đủ pháp phương tiện cho tất cả. Mấy điều trên chỉ là ví dụ thôi. Ai mà suy tưởng được ra đúng hay sai, có hiệu quả hay không, Ma hay Phật…


Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

(95 tiếp)


Như vậy, chúng ta đã thấy Đạo và Đời không tách rời nhau. Ở một khía cạnh nhất định: Đạo là đời, đời là Đạo. Thánh và Phàm không hai. Phật và Ma chỉ là nhất niệm… - nhưng chúng ta dùng nghĩa lý này làm tri kiến để cho rằng “tôi” thì khác gì luân hồi.


Rất giống như: Phiền não trược - thứ phiền não là thứ pháp mà bao nhiêu người xưa nay giảng giải, dẫn độ, hướng dẫn vô lượng người tu tập: Để bỏ phiền não đi, bỏ hết phiền não đi là niết bàn hiện tại, đời tự tại an nhiên,v,,v,v

Giảng hay không? - Quá hay.
Giảng đúng không? - Quá đúng.
Hợp lý, hợp thế, hợp tình, thấy mình trong đó không? - Làm gì có từ sai ở đây…


Nhưng khi chúng ta đã có tia minh, đã có đủ văn tu tư để Quán cả 1 hệ thống giới kinh đến quán vô lượng pháp trần khác thì… điều trên lại hoá ra ma tưởng. Là ma chứ đâu là Phật.

Bởi vì sao?

Kinh Đảnh thủ lăng nghiêm, những đoạn trích mấy lần trong tập luận này đều chỉ rõ: Không thể nào tu được hết phiền não khi mà chưa tu những cái khác

Cái khác nào? - Ở Kinh Đức Thế Tôn đã nói rõ: Phải cởi nút thắt kiếp trược trước tiên. Kiếp trược là cởi nút thắt sắc ấm. Cởi xong nút thắt sắc ấm - một vọng tưởng được Đức Thế Tôn gọi là vọng tưởng kiên cố, lại tiếp tục cởi nút thắt kiến trược - tức là vọng tưởng hư không.

Cởi xong 2 nút thắt này mới có cơ hội cởi nút thắt phiền não trược.

Ví dụ về chiếc khăn thắt 6 nút của Đức Thế Tôn đã chỉ rõ: Làm sao mà cởi được nút bên trong trong khi không cởi nút bên ngoài?

Không có văn tu tư - không có Quán: Tu muôn kiếp Đại Thừa trang nghiêm cũng làm sao mà có quả gì. Trong khi kiến giải thì ai ai cũng thấy hay. Vấn đề là thực tế, không thể làm được. Rốt cục lại đi cãi nhau: Tiểu thừa - Đại thừa.v.v. - Mà bản chất, đó là một. Không thể tách rời.


Như ví dụ trên: Chúng ta sẽ không bao giờ tu được hết phiền não trược bằng mọi pháp tu chánh pháp Phật nếu như không tu đạt kiếp trược và kiến trược.


Vô lượng các kết quả khác cũng thế. Làm sao mà tu được ra quả gì nếu như không cởi nút thắt dây theo thứ lớp.

Kiểu như: Tôi tu vô niệm. Mọi thứ đều tuỳ hết. Cái gì cũng tuỳ, kệ, thuận, theo, chịu, tuỳ hết. Tuỳ pháp vô niệm…v.v.v - Đúng! Nhưng làm sao có được kết quả nếu như không tu theo thứ lớp, cởi nút thắt dây lần lần.

Tất cả đều sẽ không dẫn đến những kết quả thù thắng và sớm muộn rơi vào đường ma sự…



Như vậy: Đạo và đời là gì? - Muốn tu Đạo thì phải đi từ đời. Nút dây đời là nút đầu tiên. Nên người thực tập theo Bồ Tát thừa mới được Đại Thừa trang nghiêm viết trong hệ thống Giới Kinh là kết quả sẽ thù thắng vi diệu nhất rồi mãi đến cuối cùng ở hội Pháp Hoa mới thọ ký cho tất cả. Như vậy, có trước có sau là vậy.



Vậy, Đạo và Đời lẫn lộn là gì? - Là ở đời, tu Đạo nhưng lại để phục vụ đời. Đây là lẫn lộn. Đạo là Đạo, đời là đời.

Vậy, Đạo và Đời không khác, Đạo là đời, đời là Đạo nghĩa là gì? - Là ở đời, tu Đạo để giải thoát đời.



Gọi là đời là gọi vắn tắt. Nó bao hàm nghĩa thế giới (cõi) Dục Giới (bao hàm cõi trời dục giới) đều là đời - vẫn chịu luân hồi.


Chúng ta dù chẳng hiểu mô tê gì nhưng phải xác định: Tu Đạo là để giải thoát. Giải thoát khỏi cõi này. . . Đây là tu Đạo bởi vì Đạo là thứ không vô thường, không tù ngục.v.v. Nó thường hằng, chân như, tự do tự tại.v.v.v


Vì chúng ta đang ở đời (cõi dục giới) chúng ta tu Đạo để thoát khỏi đời. Thì khi tu, khi chưa qua cửa Đạo, chúng ta vẫn ở đời nên chúng ta ở đời tu Đạo là vậy. Không lẫn lộn là vậy. Chúng ta không bỏ được đời để 1 bước vào Đạo. Còn ai bảo họ làm được - đó là việc của họ. Mỗi người tự có phân lượng của họ. Còn chúng ta không thấy chúng ta làm được đâu. Cần phải tự quán thấy điều này.


Nên làm gì có chuyện, tu 1 cái là thành nọ thành kia… còn lâu, tưởng hoặc, mê lầm hết đó. Chúng ta phải biết sự lần lượt. Phải nhẫn để giải quyết sự, lần lượt.

Tưởng rằng, chúng ta cứ “ù lỳ” đi cởi lần cởi lượt từng nút thắt đời là “chậm chạp - không chịu tinh tấn thẳng việc rời bỏ đời mà vào Đạo tu”… Nhưng người nhanh hẩu đoảng chưa chắc đã lên được tới nơi thù thắng kia. - Vì ai cũng ảo tưởng sức mạnh hết!




Như vậy, chúng ta phải biết vị trí chúng ta hiện tại. Cái vị trí mà chúng ta bắt đầu nguyện tu Đạo đây. Phải tự mình biết rõ vị trí của mình, rồi mới biết Đức Thế Tôn đã nói: “Như Lai chỉ là người chỉ đường”. Vấn đề là: Như Lai đã nói vô lượng con đường, rõ hết rồi nhưng chúng ta không biết vị trí của mình nên … làm sao biết đi đường nào để trở về



Khi an trú tâm vào chánh niệm được rồi. Chúng ta mới thấy rõ con đường của mỗi chúng ta đã được Đức Thế Tôn chỉ ra nó rõ mồn một và ánh sáng “đèn đường” sáng rực thế nào (tất nhiên, ánh sáng đèn đường này do chính Đức Thế Tôn và các Chư Vị Tôn Đức đi qua thắp lên còn ảnh tồn tại ở lại mãi mãi mãi”.

Không thấy rõ, chắc chắn đều là: Không biết dùng phương tiện. Đường không lầm nhưng dùng phương tiện xe đạp đi vào đường cao tốc hay phương tiện ô tô đi vào đường mòn nhỏ dành cho đoạn đi dép lê… - làm sao đi về được?




Như vậy, với tia minh về tâm từ (không bao giờ có tia minh khác bởi vì sao: Tâm chỉ có một, tánh cũng chỉ có một. Thứ chân như thường hằng chỉ có một. Thứ tánh này không chứa tánh từ thì không bao giờ là thứ tánh chân như. Như vậy, tia minh giải thoát - hay tia minh tâm, hay tia sáng đối ngược với vô minh - nó phải có tánh từ. Tánh tâm này luôn luôn tồn tại vì nó vốn thường hằng, nên ai cũng có. Ai cũng có, ai cũng có, ai cũng có. Không một ai không có - vô lượng chúng sinh hữu tình, ai ai cũng đều như nhau, đều có tánh này).


Có được tia minh này, đầy người ở xã hội xưa nay, tia này của họ sáng rực rỡ, sáng đến mức mà người tự nhận tu Đạo cũng không thể sáng bằng, ngoại Đạo cũng hàng lố. Không thiếu.



Để đi con đường Đạo Đức Thế Tôn, chúng ta phải nhớ: Dục như ý túc. Khi bắt đầu bước đi, phải luôn nhớ, đây là nguyện rồi: Chỉ còn 1 dục: Giải thoát.


Nên chuyện Đại Thừa Bồ Tát có câu: “Nguyện đem công đức này…. Biến mãn khắp mười phương, đệ tử và chúng sinh…” - Một dục này và chỉ còn 1 dục này.

Như vậy, ngay sau đó, đã hết các dục khác chưa? - Còn lâu, thêm muôn vô lượng thời gian tu tập nữa. Nhưng phải biến nó thành thứ dục mãnh liệt nhất và chính thứ dục này sẽ áp chế hết các thứ dục khác ở đời. . . Chứ theo kiểu sơ sơ cưỡi ngựa xem hoa thì… vô lượng dục vẫn đua nhau đợi thời cơ nảy lên như nấm mọc sau mưa.


Nguyện với 1 dục lớn nhưng “không ép tâm từ bỏ bất cứ thứ gì mà chưa quán thấy rõ lý của nó, dù là lý tưởng, quán tưởng”. - Tức là sao? - Đừng ép tâm “bất hiếu” bỏ cha mẹ mà đi, đừng ép tâm trở thành 1 người cha mẹ ác bỏ con mà đi, đừng ép tâm thành kẻ bạc tình bỏ người thân nhân mà đi..v.vv. - khi chưa quán thấy rõ lý.


Những người giảng giải - khuyến khích sự “ép tâm” bỏ đời - toàn là những người sống ảo tưởng ở đời ấy mà. Vì họ không còn cha mẹ nên mới có khuyến giải không đúng lý, họ không có con nên họ mới khuyến giải không đúng lý. Họ không có tình (vong tình) nên họ mới không biết Bồ Tát là gì và mới khuyến giải sai lý. Tất cả đều là những người sống ở trong tưởng - chưa bao giờ thấy rõ chân như đời là gì… mà lại dạy người đời tu Đạo.



Quán thấy lý là sao?

- Là ở đời: Ví dụ: Còn cha mẹ mà cha mẹ đồng ý hoá duyên với cha mẹ từ đây để đi tu Đạo: - Đây là bỏ cha mẹ đi tu được. Với con, với vợ chồng người thân cũng thế. . Với nhiều (sự hữu tình khác) cũng thế. Lúc này, người này có thể: Xuất gia - Chân chính xuất gia khi đạt được lý ở đời. Còn không đừng bao giờ đã nghĩ về những con đường và phương tiện sai lầm với con đường như ví dụ phía trước.

Có nghĩa sẽ có người tu Đạo mà xuất gia được vì họ đủ duyên.
Cũng có nghĩa: Người tu Đạo mà chưa xuất gia được thì phải đi con đường khác và các phương tiện khác người xuất gia.


Nên không thể ép một cách mù quáng: Ai muốn tu Đạo là cũng phải xuất gia. Và bắt đầu cãi chửi nhau tự cho mình là cao hơn. Đây đều là lầm mê

Tuy nhiên, sự lầm mê lớn nhất ở chỗ: Hướng dẫn hay sử dụng những cái phương tiện tu tập lầm lạc và không đúng cách. Nên Đạo Đời lẫn lộn. Chẳng ai giải thoát.



Người tại gia, phải tu tập những phương tiện tại gia. Và bỏ luôn cái ma thuyết gì gì ngũ thừa gì gì nào đó đi. Đây là ma thuyết, không phải Phật thuyết. Gì mà tu Đạo Đức Thế Tôn để phục vụ nhân thừa, thiên thừa..v.v. - dục cả. Ảo dục cả. Ma cả… Mạt pháp là vậy.


Đạo Đức Thế Tôn: Những phương tiện đó là để cho người có căn cơ (duyên) phù hợp (người chưa thể xuất gia, còn quá nhiều dính mắc)… họ tu Đạo. Họ đi từ Đời vào Đạo. - Những phương tiện thượng thừa và nhiệm màu của Đạo Đức Thế Tôn… vậy mà bị biến thành những phương tiện phục vụ cho những sự dục lạc bằng những cái tên “hoa mỹ” nhân thừa, thiên thừa..v.v.



Nhưng, tại sao lại là “những phương tiện thượng thừa nhiệm màu cho người còn đầy dính mắc nợ nần ở đời” tu? - Bởi vì những người này, khi thực hành sử dụng những phương tiện này sẽ đạt được: Vô lượng phước báu ở đời, nó sẽ hiện thế và đây là thứ mà người tu dùng để trả nợ đời để dần bớt dính mắc, dần hết nợ, dần bước tới nơi kia và tinh tấn…


Để người tu ở đời có được sự tỉnh thức hay không bị lệch lạc con đường Đạo Đức Thế Tôn thì: Ngoài tia minh tâm, Dục như ý túc là thứ cần biến mãn (dục Đạo, duy nhất 1 dục này).


Vì lẽ, chỉ “tâm niệm” một dục này mà khi có thể “an tâm vào chánh niệm hành” - họ sẽ hành ra vô lượng phước ở đời nhưng sẽ không chìm trong phước lạc đời này mà dùng phước lạc này biến mãn cho khắp chúng sinh (thực tế là trả nợ cái duyên cho bản thân, con, cha mẹ, vợ chồng anh em, người thân, người quen, người nợ, người đời, chúng sinh hữu duyên…)


Một người chỉ có dục như ý túc. Khi an trú tâm trong chánh niệm hành (lao động, làm việc, sống, sinh hoạt.v.v.) họ mới tạo ra: Vô lượng phước đời mà không có ý dính mắc tham giữ thủ hữu cầm nắm cái phước đời này… cái phước mới tràn ra khắp xung quanh người đó - để những người xung quanh hưởng phước đời này - từ đây hoá duyên dính mắc trần. Và vì người đó không thủ hữu phước này, coi phước này là vô phước (với họ - vì họ chỉ dục cầu 1 thứ) nên nó mới bị đẩy về phía sau, gặp Phật gặp Pháp và mới có điều kiện để đến cấp cảnh ở mãi sau này trải qua ma sự tưởng này…



Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Như vậy, tất cả chúng ta đã hiểu điều chuẩn bị đọc phía sau đây chưa?


- Đạo Đức Thế Tôn là Đạo không cần điều kiện. Bình đẳng. Bất cứ chúng sinh hữu tình căn tánh nào mà tu Đạo Đức Thế Tôn cũng sẽ được giải thoát. Vì Đạo Đức Thế Tôn là thứ báu xuất thế gian phù hợp với vô lượng con đường, vô lượng căn tánh. Đã tu là giải thoát nhưng phải biết sử dụng phương tiện và rõ đường - cả hai thứ đều cần Quán. Không quán, bằng cách nào để biết sử dụng phương tiện, bằng cách nào để biết đường? - Chưa nói đến rất nhiều nhân duyên khác như thắp đèn, đốt đuốc, minh tâm..v.v. - đều cần quán hết.



1/ Tạm thời bỏ cha mẹ và vợ con đi tu: Phải xem bản thân có theo được Phật Bảo Đức Thế Tôn hay không? - Phải tu thành Phật rồi trở về trả nốt duyên cho những người này từ cha mẹ vợ con tới người thân, huynh đệ (Kiều trần như) … - Đây là dục Đạo lớn nhất và cái Pháp Đức Thế Tôn thành Đạo - con đường ai cũng thấy: Khổ thế nào vì nó ai cũng có thể tưởng ra: Nó chướng ngại ra sao. Đức Thế Tôn lúc đó, tu cũng vậy thôi.

Nên sau khi thành Đạo, Đức Thế Tôn mới tuyên pháp CHUYỂN LUÂN để mọi người có được những dẫn lối chỉ đường, những phương tiện mà hợp với mỗi người hơn.


Vì thế, đệ tử Đức Thế Tôn thì rất nhiều kinh nói có người chỉ vài ngày là đã chứng nọ kia… trong khi Đức Thế Tôn - Con đường của Ngài - một người chắc chắn bất khả tư nghì rồi - dù lúc đó còn đang đi tìm cửa Đạo - cũng phải mất bao năm tu tập mới chứng Đạo. Con đường Đức Thế Tôn đi khó ra sao… giờ chúng ta vẫn thấy rõ như mặt trời. Vô lượng các con đường khác Đức Thế Tôn đã thuyết giảng chỉ cho mọi người - đây là lời của bậc vô thượng trí - mới khiến đệ tử và chúng ta vô lượng chúng sinh có cơ hội vài ngày vài tháng vài năm vài đời vài vô lượng đời thành Đạo. Nếu đi con đường Đức Thế Tôn đi - Liệu gấp vô lượng nhân với bao nhiều lần số cát sông hằng thời gian so với thời gian Đức Thế Tôn tu? - Hay nghĩ trí mình hơn Đức Thế Tôn, sẽ tu nhanh hơn Ngài?



2/ Không bất hiếu cha mẹ: Đại Ca Diếp: Vẫn lấy vợ nghe lời cha mẹ, phụng dưỡng cha me đến khi cha mẹ chết, trong khi đó vẫn tu.

3/ Các Ngài trong thập đại đệ tử như Mục Kiền Liên, A Nan, La Hầu La… và 1250 Chư Vị Tôn Đức Tăng Đoàn - Đều mỗi người có những giai thoại, xuất thân của mỗi người và căn duyên mỗi người.



Đó đều là để chúng ta Quán chiếu Tăng Bảo mà biết căn cơ bản thân, hoặc lựa chọn những pháp tu sơ trước nào đó để hướng căn cơ bản thân tới các vị đó và từ đó cứ thế mà Quy Tăng.


Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

(72 tiếp)


Lưu ý đối với dục như ý túc: Dục như ý túc chỉ có thể từ thực hành tứ chánh cần duyên sinh ra (tác ra) - nhưng các duyên đủ của nó bao gồm cả tia minh tâm. Không có tia minh tâm, rất khó để duy trì được dục như ý túc, bởi:

+ Hoặc nổi hứng lên với sự thúc đẩy của nhân duyên nào đó khiến cho nảy sinh mong muốn giải thoát, nhưng lại không biết cách nào để thực hành nó. Đã là dục thì kiểu gì rồi cũng lại thấy khổ bởi vì muốn thoát khổ đời nhưng không tìm thấy con đường thoát khổ = thọ khổ rồi. Như thế, phải có minh tâm mới duy trì được.

+ Đốt dục như ý túc cháy bùng bùng. Lửa dục mà cháy thì chả có nước nào chữa nổi. Nếu may mắn thì gặp duyên xuất gia tu hành - nhưng trường hợp này thời gian dùng để bình ổn tâm cũng sẽ mất rất nhiều thời gian nên dùng thời gian này để tập nghiên văn tu tư trước khi tập pháp thọ giới và chính pháp căn cơ. Nếu không đủ duyên xuất gia, trường hợp trở thành điên, dở cũng không hiếm.

+ Lửa dục - kể cả là dục như ý túc, nếu để nó cháy bùng lên thì khi chỉ có 1 dục, khả năng đoạ ma, còn nếu như mà vẫn còn nhiều dục khác vẫn tương đối mạnh, nó sẽ lan sang các dục kia để chia bớt hoả hầu, thoả mãn lòng dục.


Nếu như quá khát cầu Đạo giải thoát - dục giải thoát này không được khống chế, nó phá huỷ toàn bộ các màng ngăn cách dĩ thái từ các luân số 1 bốc lên luân số 5. Người này, gần như sẽ đoạ ma vì sẽ tìm mọi pháp tu Đạo - bất kể đó là pháp gì. Sẽ điên cuồng tu, và chỉ dục cầu sớm đạt.v.v.v


Nên phải có tia minh tâm mới duyên sinh dục như ý túc - đặc biệt với người đời chúng ta. Đó là lý do, phía trước có nói: Đến đây mới trước ra phần luận chuyện về dục như ý túc.


Tuy nhiên, tu Đạo là một con đường dài và nhiều thời gian. Đâu có phải một bữa vài hôm là xong, là đạt. Người đã thắp lên hay tác ý ra dục như ý túc - giữ hoả hầu tốt không cho nó bùng lên, cũng quên dùng tứ chánh cần chăm sóc… sau nhiều năm tu Đạo (Chánh Pháp) nhưng kết quả thì “không thấy giải thoát” nhưng lại thấy hưởng nhiều phước báu, phước đức nhãn tiền… lại thấy ngũ dục lạc dù không cầu mà nó vẫn cứ đến nhảy bổ vào thân… thế là: Ngoài ngọn lửa dục như ý túc, các ngọn lửa dục lạc dù đã bị ép lại (chưa diệt được vì người này còn đang tu mà) đến khi này lại có cơ hội bùng lên. Vì người thực hành bị mất tỉnh thức nên các ngọn lửa dục lạc đã vươn lên mạnh mẽ, đè lại ngọn lửa dục như ý túc. - Từ đây, phương tiện bắt đầu chệch đường day mà người sử dụng (thực hành) lại không hề nhận biết.

Vậy là kết quả, ngay thực tế chúng ta đều đã thấy.


Chúng ta đừng bao giờ vội kết luận: Có người tu (thực hành) Đạo Đức Thế Tôn mà không có ngọn lửa dục như ý túc (Dục Đạo/giải thoát). - Bởi vì người không có mảy may duyên dục này - không bao giờ đủ duyên thực hành các chánh pháp của Đạo Đức Thế Tôn - dù bây giờ chánh pháp nhan nhản trên mạng và trong sách.


Ở đây, chúng ta thấy rõ: Dùng ngọn lửa dục này (dục như ý túc) ở một mức đủ mạnh và sức tỉnh thức duy trì niệm dục này đủ lâu - nó sẽ tự tiêu diệt/ mài mòn tất cả các mọi dục khác. Tại mọi người không thực hành nên không chứng thấy những điều hiển nhiên này thôi. Đức Thế Tôn đã tuyên thì chỉ có hoặc chúng ta không duyên thấy pháp hoặc chúng ta không duyên biết sử dụng. - Đức Thế Tôn đã nói, chỉ cần 1 dục này là đủ (như ý túc) thì đảm bảo chỉ cần duy trì 1 niệm dục này là không cần các dục khác nữa - điều này có nghĩa các dục khác đã tự nhiên bị áp chế lại mà đâu cần ép tâm, ức chế tâm, kìm tâm cái gì để bỏ các niệm dục lạc.

Thiểu là số ít. Số ít là 1. Từ số 2 đã là số nhiều. Thiểu dục tri túc: Một dục, biết đủ. Vậy dục như ý túc chính là thiểu dục. Biết đủ: Đã nói ở phía trước chỗ nào đó rồi. Ở đây, làm sâu sắc rõ ràng hơn: Thiểu dục tri túc chính là: Chỉ cần Một dục là mọi thứ đã như ý đủ đầy. Dục này là dục Đạo.




Nhưng chúng ta luôn nhớ: Dục mà không được thoả mãn thì càng nuôi (duy trì nung nấu) nó sẽ càng bùng lên - nó thiêu chết đó. Dù sao, nó cũng tên là dục. Các loại dục khác đã nguy hiểm vậy thì dục này không thể đơn giản. Đến cuối cùng diệt dục này để vào Đạo - chính là diệt ma tưởng đắc Quả, gặp Phật, gặp Pháp, đắc Phật, đắc Pháp đó….


Còn khi này, chúng ta rất rõ: Ngọn lửa dục này được duy trì, các ngọn lửa dục khác lụi tàn.


Không tin, tất cả những ai đã từng thắp lên ngọn lửa dục này và chìm ở trong duy nhất ngọn lửa dục này có thể giảng sự chứng thấy cho tất cả những ai còn hoài nghi. Ngọn lửa dục này có, được duy trì, các ngọn lửa dục lạc khác tự tàn…


Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Vậy là: Dần dần đã thấy Pháp Phật thật gần gũi ngay đây. Đạo Đức Thế Tôn, ở đâu xa, tại vì chúng ta bị ma dẫn lối, quỷ đưa đường mà chưa đủ văn tu tư nên thiếu quán chiếu để tỉnh thức giác ngộ.


Ai cũng biết: Người nào mà tu Đạo chỉ chăm chăm đến Đạo Quả rồi tu một hồi nhiều năm nhiều chục năm, ra ngồi toạ sàng: Hoặc là: Tôi đã chứng Quả. Hoặc là: Người còn nhận tu chứng thì còn chưa tu chứng, tu là phải không thấy đạt quả nào, còn thấy đạt quả thì còn chưa tu chứng. Đạt là được, được, đạt còn có có nghĩa là hữu (hán việt) có nghĩa còn dục (cầu) nên mới thấy được, đạt.v.v.v. Hai bên cứ cãi nhau xem ai là chánh là tà. Thực ra, sự chân như là làm gì có đúng sai phân biệt như vậy. Cả 2 loại thuyết pháp này, đều đúng, đều sai nếu xét ở đời và trong mỗi chặng đường khác nhau.


Người không có dục Đạo (Dục như ý túc) - thì không bao giờ diệt được các dục lạc khác ở đời. - Chúng ta phải đặt câu hỏi: Dùng phương tiện nào, cách dùng như thế nào (từ duyên khởi nó tới việc sẽ diệt độ nó - vì pháp nào cũng là pháp vô thường nên chúng ta chỉ dùng nó ở 1 giai đoạn nào đó thôi). Thì chẳng có ai nêu ra phương tiện và cách dùng phương tiện để diệt dục lạc cả. Toàn có giảng cùng với nhau và cùng công nhận với nhau là đúng: Chúng ta diệt dục lạc, đừng khởi sinh dục, đừng cho lửa dục bùng lên… là chúng ta đang bước trên đường tu. Đúng - Nhưng làm thế nào ở thực tế, hay ức chế tâm?

Thiền định mà lại ức chế tâm. Thiền định và kết quả thiền định là thân tâm nhẹ nhàng an lạc, tĩnh tịch..v.v. - ức chế, đè nén - liệu đúng chánh pháp?


Nên thực hành Đạo Đức Thế Tôn đúng chánh pháp chưa bao giờ cần đọc luật và ép tâm thân ở trong luật bởi: Pháp của Đức Thế Tôn chính là Giới hoàn chỉnh vô khuyết nhất - thứ chân như thường hằng. Chúng ta chưa thấy thôi. Thấy thì sẽ thấy nhiệm màu lắm.



Như vậy, vì chúng ta đã đi đến nơi đây của tập luận. Đến đây chúng ta có thể tự tác ý bằng pháp tác ý, duy trì nuôi nấng (lực nuôi niệm này) bằng tứ chánh cần: Dục như ý túc.


Chúng ta thực hành nó, tự chúng ta chứng thấy các ngọn lửa dục khác bắt đầu tự tắt dần.


Duy trì đủ hoả hầu. Chúng ta biết, ngọn lửa này sẽ lớn dần lên theo tia minh ngày một sáng tỏ theo thời gian tu. Không được để tắt niệm này (mất tỉnh thức) nhưng cũng không được chất ý chí vào nó, thổi nó lên bùng bùng - nó thiêu cho chay thân tâm đó.



Chúng ta vẫn cứ sống “vui vẻ” ở đời như bao năm qua, đọc chuyện và đọc chuyện và ngày ngày càng thấy sự ly dục ly ác pháp (vào sơ thiền) là gì…


Và sẽ sớm thấy quả : Định hiện tại an lạc trú thực tế là gì… vì chúng ta được nếm thực (tức chứng và an trú).


Nhưng chúng ta rất rõ đến đây, cấp cảnh đã phải thấy ( tự chứng thấy rồi, chưa cần an trú thời thời hay theo mong muốn) : Tia minh tâm, dục như ý túc, an trú tâm vào chánh niệm…


Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Nếu như ai đó trong chúng ta đã nhiều ngày cho rằng “bản thân đã có dục Đạo từ lâu, mà sao đâu có thấy các dục khác tắt đi”… - Điều này, chỉ có khả năng chúng ta chưa rõ về chánh niệm là gì và “không có niềm tin vào sự giải thoát của Đạo Đức Thế Tôn” nên niệm dục Đạo này vô lực, không được tiếp lực bởi chánh niệm nên thường đi ra đi vào ngôi nhà tâm, chứ không an trú. (Dù hãy nhớ, niệm này cũng là một khách trần nhé) - Đối với trong ngôi nhà tâm một người tu: Mọi Pháp Phật cũng là pháp trần, sau này còn phải xả hết (gọi là xả chấp đó) - chứ chấp pháp - cứ chấp cái pháp trong trong ngôi nhà tâm của mình là Pháp Phật không chịu xả thì vô lượng pháp Phật trong ngôi nhà tâm của mỗi chúng ta - vô lượng khách trần - vô lượng ma tưởng.



Một khi chúng ta dùng trợ Đạo Tứ chánh cần tác ý duyên sinh ra chánh niệm này: Các dục khác - bất kể là dục gì - đều phải theo thời gian nhanh chóng tắt ngỏm đi.


Tuy nhiên, phải nhẫn, tức là giữ đúng hoả hầu. Sợ nhất là: Không có tia minh, thổi bùng nó lên, nó cháy thiêu rụi hết thân rồi một thời gian sau thấy cuộc sống của mình: Nát bét (vì ẩm ẩm ương ương). Lúc này sẽ thọ khổ lắm đó.


Chúng ta, thực hành Đạo Đức Thế Tôn là: Không khổ, không làm ai khổ và chúng ta chắc chắn thoát khỏi khổ, khỏi luân hồi, giải thoát, tự do.


Ngược lại: Khi có tia nghi (nghi về Đạo Đức Thế Tôn có thể giải thoát mọi chúng sinh), có tia nghi thì rất khó cho dục như ý túc được hoả hầu.


Vậy là chúng ta đã biết và chứng được ở đây: Dục như ý túc sẽ đốt cả sợi dây nghi trong 5 sợi dây (tham sân si mạn nghi). Đảm bảo, chỉ khi đến cảnh giới phá thức ấm - người thực hành mới biết pháp Dục như ý túc: Không phải chỉ dành cho người cư sĩ tại gia tu áp chế diệt các dục lạc thế gian. Nó còn nhiệm màu ở phía sau. Nhưng bây giờ, không cần tưởng sớm chỗ này.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tôn Ngộ Không !!!
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2741
Tham gia: 19:29, 25/01/22

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi Tôn Ngộ Không !!! »

Bồ Đề Đạt Ma nói còn lý luận nhiều thì chỉ mới động vào lông chân của Phật.

Khi nào đạt tới trình độ chỉ có thể làm chứ không thể lý luận. Đó là đã vào tới xương tủy của Phật

Lão Tôn cũng mới đắc được cái lông chân của Phật

Khà khà
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tôn Ngộ Không !!!
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2741
Tham gia: 19:29, 25/01/22

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi Tôn Ngộ Không !!! »

Tôn Ngộ Không !!! đã viết: 21:33, 10/06/24 Bồ Đề Đạt Ma nói còn lý luận nhiều thì chỉ mới động vào lông chân của Phật.

Khi nào đạt tới trình độ chỉ có thể làm chứ không thể lý luận. Đó là đã vào tới xương tủy của Phật

Lão Tôn cũng mới đắc được cái lông chân của Phật

Khà khà
Kinh Thánh viết Chúa ra lệnh cho anh em phải tha thứ cho nhau. Chỉ có 2 từ “tha thứ” là đủ tóm gọn tất cả sách luận về tâm “Không” rồi

Tha thứ là hành động, năng lực hành động của phương Tây thật đáng nể, vậy là đủ để đắc đạo mà chẳng cần lý luận

Thiên đàng là có thật

Anh em nên đọc Kinh Thánh phúc âm Tân ước, hành đạo từ bi rất vào việc, không câu nào của Ngài là thừa.
Tuy nhiên, anh em phải cầu tâm từ bi và hiểu bối cảnh lịch sử lúc đó để thấm lời Ngài, lời Ngài thô ráp
Sửa lần cuối bởi Tôn Ngộ Không !!! vào lúc 22:08, 10/06/24 với 2 lần sửa.
Đầu trang

Trả lời bài viết