PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(72 tiếp)
Như vậy, đến đây chúng ta đã hoàn toàn thấy rõ: Kinh Lăng Nghiêm là “khách trần ở trọ”, Hoa Nghiêm, Kim cang là “chúng sinh niết bàn”, Vô lượng thọ là “chúng sinh vãng sanh”..v.v. Và còn nhiều phương tiện khác: Tất cả đều trực chỉ đến một điều duy nhất: Đưa tất cả pháp (trong đầu) về 1 thể tánh duy nhất - gọi là không pháp.
Chúng ta biết rất rõ: Hiện tại, ngay hiện tại, khi đến đây, chúng ta chưa giải thoát là do chúng ta đang bị níu kéo. Còn về lý, không có gì phải bàn cãi: Mọi thứ đã thông rõ và đủ đầy. - ít nhất là cho tới chỗ đó.
Về mặt sự: Tuỳ vào căn cơ của mỗi chúng ta mà các sự đang níu kéo mỗi chúng ta ít nhiều tuỳ thuộc vào nghiệp phước đang hưởng. Tuy nhiên, điều này sẽ không cản trở con đường trở về - bởi lý đã thông thì sự sớm muộn (vô thường). Do chúng ta có thực sự “dục như ý túc” hay không. Hay chúng ta “cưỡi ngựa xem hoa” rồi sau này lại: Cất công đi níu kéo sự, duyên sinh tiếp ra sự khi sự đã muốn vô thường.
Đây là một vòng lặp. Nhờ ơn phước, chúng ta thông lý, minh tâm, nhưng điều này mới chỉ là nhân duyên. Để nhân duyên đủ đầy kết quả thì thời gian là 1 ngày, 1 đời, 1 kiếp hay vô lượng đời kiếp - điều này phụ thuộc vào việc: Tinh cần chặt đứt nhân duyên sự níu kéo theo lý đã thấy (chứ không phải ức chế tâm).
Đạo Đức Thế Tôn: Pháp chính là trang nghiêm tâm.
Ở đây, trước tiên chúng ta nói về: Trang nghiêm tâm Cực Lạc - Còn gọi: Quốc Độ Cực Lạc.
Câu hữu vô lượng pháp để quán trang nghiêm: Chúng ta thấy:
1/ Còn ở thế, không thể vô thọ. Đức Thế Tôn thọ Phật, Chúng Thanh Văn thọ A La Hán, Chúng Duyên giác thọ Bích Chi, Chúng Bồ Tát thọ gì? - Chẳng lẽ thọ đau khổ (khi thấy đủ các Kinh nói chúng Bồ Tát xẻ thịt, xẻ thân, móc tim móc gan cho chúng sinh khác, rồi nhiều thấy chúng Bồ Tát tự đầy đoạ bản thân đủ mọi sắc tướng để làm cái gì gì (cứu độ chúng sinh)) - Vậy là Chúng Bồ Tát thọ khổ?
- Không ai sẽ nghĩ Chúng Bồ Tát khi hành Bồ Tát đạo lại thọ khổ. Ai trên đời có một chút trí thôi cũng rõ: Đã biết rõ sẽ khổ thì chẳng ai cứ tự rước để khổ. Như vậy, Chúng Bồ Tát không thọ khổ, vậy thọ gì? - Hay kiến giải: Vô thọ, khi hành Bồ Tát hành - hãy vô thọ, đừng cảm thọ cái khổ, coi như không..v.v.v - Rất rõ Kinh Pháp cũng nói vậy mà…?
- Chúng Bồ Tát thọ “trang nghiêm tâm Phật”.
2/ Dục như ý túc - kiểu gì đã là dục thì vẫn còn ở đời dù có là tu ở nơi cõi trời hay cõi người. Như vậy, đã dục thì lạc. Dục để làm gì? - Dục để thọ lạc, thọ hỉ. - Vì mong muốn tầm cầu thọ lạc, thọ hỉ mà người đó mới có mong muốn hay hành “thứ gì đó” - gọi là dục. Dục không đắc thì khổ. Dục đắc rồi nhưng rất rõ cái đắc là cái vô thường (vì cái gì ở thế cũng vô thường) - bởi thế nên dục đắc rồi cũng dẫn tới khổ. - Tuy nhiên, không thể không có “dục như ý túc” - lý do như đã trình. Bởi vậy: Thọ Lạc, thọ hỉ của dục như ý túc là gì?
- Chúng Bồ Tát trang nghiêm tâm theo A Di Đà Phật gọi là: Cực Lạc.
3/ Chắc chắn rồi, chúng ta sẽ thấy “Quán Vào Đạo” được chúng ta trước tác ra thành chuyện luận ký này như thế nào ở đây. Tuy nhiên, không cần tưởng nhớ xa xôi như vậy. Ở trong hệ thống Giới Kinh - về mặt bản chất: Chỗ nào cũng xuất hiện từ này. Đến đây, ở vị trí này: Chúng ta may mắn đã có một chút lực quán để sử dụng.
Trang nghiêm tâm: Nhớ rõ, ngay từ những ngày đầu tiên “chập chững” tìm về Đạo Đức Thế Tôn là gì.v.v. - Những thứ cơ bản nhất - Chúng ta may mắn nhờ sự “đa văn” của thời hiện đại bển phương tây mà hiểu hàm nghĩa từ “Cơ ký”. - Dù về mặt bản chất, vị trí đây, hiện giờ, chúng ta cũng chẳng thấy biết rõ CƠ là gì, tâm là gì… “hầm bà hằng” rắc rối… nhưng chúng ta tự rõ: - Chúng ta không dùng bất cứ 1 cái gì mà mới chỉ quán theo 1 đường pháp mà không có đối chứng. Chúng ta thấy rõ, ít nhất chúng ta phải quán thấy vài ba đối chứng - chúng ta mới xác nhận - dù đó là quán tưởng trí hay quán thấy. Không có gì quán được xác nhận mà chỉ bằng 1 con đường pháp của nó.
4/ Như vậy, trang nghiêm tâm - thì ra là “Cơ Ký”. - rồi chúng ta sẽ chứng thấy điều này.
…
Như vậy, đến đây chúng ta đã hoàn toàn thấy rõ: Kinh Lăng Nghiêm là “khách trần ở trọ”, Hoa Nghiêm, Kim cang là “chúng sinh niết bàn”, Vô lượng thọ là “chúng sinh vãng sanh”..v.v. Và còn nhiều phương tiện khác: Tất cả đều trực chỉ đến một điều duy nhất: Đưa tất cả pháp (trong đầu) về 1 thể tánh duy nhất - gọi là không pháp.
Chúng ta biết rất rõ: Hiện tại, ngay hiện tại, khi đến đây, chúng ta chưa giải thoát là do chúng ta đang bị níu kéo. Còn về lý, không có gì phải bàn cãi: Mọi thứ đã thông rõ và đủ đầy. - ít nhất là cho tới chỗ đó.
Về mặt sự: Tuỳ vào căn cơ của mỗi chúng ta mà các sự đang níu kéo mỗi chúng ta ít nhiều tuỳ thuộc vào nghiệp phước đang hưởng. Tuy nhiên, điều này sẽ không cản trở con đường trở về - bởi lý đã thông thì sự sớm muộn (vô thường). Do chúng ta có thực sự “dục như ý túc” hay không. Hay chúng ta “cưỡi ngựa xem hoa” rồi sau này lại: Cất công đi níu kéo sự, duyên sinh tiếp ra sự khi sự đã muốn vô thường.
Đây là một vòng lặp. Nhờ ơn phước, chúng ta thông lý, minh tâm, nhưng điều này mới chỉ là nhân duyên. Để nhân duyên đủ đầy kết quả thì thời gian là 1 ngày, 1 đời, 1 kiếp hay vô lượng đời kiếp - điều này phụ thuộc vào việc: Tinh cần chặt đứt nhân duyên sự níu kéo theo lý đã thấy (chứ không phải ức chế tâm).
Đạo Đức Thế Tôn: Pháp chính là trang nghiêm tâm.
Ở đây, trước tiên chúng ta nói về: Trang nghiêm tâm Cực Lạc - Còn gọi: Quốc Độ Cực Lạc.
Câu hữu vô lượng pháp để quán trang nghiêm: Chúng ta thấy:
1/ Còn ở thế, không thể vô thọ. Đức Thế Tôn thọ Phật, Chúng Thanh Văn thọ A La Hán, Chúng Duyên giác thọ Bích Chi, Chúng Bồ Tát thọ gì? - Chẳng lẽ thọ đau khổ (khi thấy đủ các Kinh nói chúng Bồ Tát xẻ thịt, xẻ thân, móc tim móc gan cho chúng sinh khác, rồi nhiều thấy chúng Bồ Tát tự đầy đoạ bản thân đủ mọi sắc tướng để làm cái gì gì (cứu độ chúng sinh)) - Vậy là Chúng Bồ Tát thọ khổ?
- Không ai sẽ nghĩ Chúng Bồ Tát khi hành Bồ Tát đạo lại thọ khổ. Ai trên đời có một chút trí thôi cũng rõ: Đã biết rõ sẽ khổ thì chẳng ai cứ tự rước để khổ. Như vậy, Chúng Bồ Tát không thọ khổ, vậy thọ gì? - Hay kiến giải: Vô thọ, khi hành Bồ Tát hành - hãy vô thọ, đừng cảm thọ cái khổ, coi như không..v.v.v - Rất rõ Kinh Pháp cũng nói vậy mà…?
- Chúng Bồ Tát thọ “trang nghiêm tâm Phật”.
2/ Dục như ý túc - kiểu gì đã là dục thì vẫn còn ở đời dù có là tu ở nơi cõi trời hay cõi người. Như vậy, đã dục thì lạc. Dục để làm gì? - Dục để thọ lạc, thọ hỉ. - Vì mong muốn tầm cầu thọ lạc, thọ hỉ mà người đó mới có mong muốn hay hành “thứ gì đó” - gọi là dục. Dục không đắc thì khổ. Dục đắc rồi nhưng rất rõ cái đắc là cái vô thường (vì cái gì ở thế cũng vô thường) - bởi thế nên dục đắc rồi cũng dẫn tới khổ. - Tuy nhiên, không thể không có “dục như ý túc” - lý do như đã trình. Bởi vậy: Thọ Lạc, thọ hỉ của dục như ý túc là gì?
- Chúng Bồ Tát trang nghiêm tâm theo A Di Đà Phật gọi là: Cực Lạc.
3/ Chắc chắn rồi, chúng ta sẽ thấy “Quán Vào Đạo” được chúng ta trước tác ra thành chuyện luận ký này như thế nào ở đây. Tuy nhiên, không cần tưởng nhớ xa xôi như vậy. Ở trong hệ thống Giới Kinh - về mặt bản chất: Chỗ nào cũng xuất hiện từ này. Đến đây, ở vị trí này: Chúng ta may mắn đã có một chút lực quán để sử dụng.
Trang nghiêm tâm: Nhớ rõ, ngay từ những ngày đầu tiên “chập chững” tìm về Đạo Đức Thế Tôn là gì.v.v. - Những thứ cơ bản nhất - Chúng ta may mắn nhờ sự “đa văn” của thời hiện đại bển phương tây mà hiểu hàm nghĩa từ “Cơ ký”. - Dù về mặt bản chất, vị trí đây, hiện giờ, chúng ta cũng chẳng thấy biết rõ CƠ là gì, tâm là gì… “hầm bà hằng” rắc rối… nhưng chúng ta tự rõ: - Chúng ta không dùng bất cứ 1 cái gì mà mới chỉ quán theo 1 đường pháp mà không có đối chứng. Chúng ta thấy rõ, ít nhất chúng ta phải quán thấy vài ba đối chứng - chúng ta mới xác nhận - dù đó là quán tưởng trí hay quán thấy. Không có gì quán được xác nhận mà chỉ bằng 1 con đường pháp của nó.
4/ Như vậy, trang nghiêm tâm - thì ra là “Cơ Ký”. - rồi chúng ta sẽ chứng thấy điều này.
…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(197 tiếp)
1/ Trích Kinh Vô Lượng Thọ: “… Pháp Tạng Tỳ kheo nói bài kệ này rồi liền bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con nay tu hạnh Bồ Tát, đã phát tâm Vô thượng Chánh giác, giữ nguyện làm Phật, tất được như Phật. Nguyện đức Phật vì con rộng giảng kinh pháp, con xin phụng trì, như pháp tu hành, dứt sạch gốc khổ sanh tử, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nguyện khi con thành Phật, trí huệ sáng suốt, hào quang sáng chói, tiếng tăm quốc độ lan khắp mười phương; trời người cho đến súc sanh, sanh vào cõi nước con đều thành Bồ Tát. Nguyện con lập đây tất cả đều hơn các cõi Phật khác, có được chăng?”
Đức Phật Thế Gian Tự Tại Vương liền nói với Pháp Tạng rằng: “Thí như có người lường nước biển trải qua nhiều kiếp còn có thể đến đáy. Ngươi đã hết lòng cầu đạo tinh tấn không dứt, quyết sẽ được kết quả! Vậy thì nguyện gì mà chẳng thành?
Ngươi tự suy nghĩ tu phương tiện nào để thành tựu được cõi Phật trang nghiêm. Việc tu hành như thế ngươi nên tự biết, với việc thanh tịnh cõi Phật, ngươi nên tự nhiếp. Pháp Tạng bạch rằng: “ Bạch đức Thế Tôn! Điều ấy quá sâu rộng, không phải cảnh giới của con hiểu được, cúi xin đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri rộng nói vô lượng vi diệu cõi nước của chư Phật, khi con được nghe các pháp như vậy rồi, suy nghĩ tu tập, thệ nguyện con mới được viên mãn”.
Đức Phật Thế Gian Tự Tại Vương biết rõ chí nguyện sâu rộng của Pháp Tạng, liền nói công đức nghiêm tịnh rộng lớn viên mãn cõi nước của hai trăm mười ức đức Phật đúng theo tâm nguyện ông mong muốn, trải qua ngàn ức năm. Bấy giờ Pháp Tạng Tỳ kheo nghe Phật nói rồi, đã được thấy rõ, liền phát nguyện vô thượng thù thắng. Nơi các cõi xấu, đẹp, thiện, ác, của trời người suy lường rốt ráo. Chuyên tâm chọn lựa, kết thành đại nguyện, tinh cần cầu tiến, kính cẩn duy trì tu tập công đức đầy đủ năm kiếp. Ở nơi hai mươi mốt vô số cõi Phật công đức trang nghiêm, rõ ràng thông suốt thành một nước Phật. Khi đã tu tập rồi, lại đến chỗ của Như Lai thế Tự tại Vương, cúi đầu lạy sát chân, nhiễu Phật ba vòng rồi, đứng yên chắp tay bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con đã thành tựu viên mãn hạnh nguyện trang nghiêm thanh tịnh nước Phật”.
Đức Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Nay chính phải lúc ông nên nói rõ để mọi người vui mừng, cũng để đại chúng nghe rồi được nhiều lợi lớn, có thể ở cõi Phật đó tu tập nhiếp thọ trọn đủ vô lượng đại nguyện”. ”
2/ Chúng ta chỉ trích một phần nhỏ kinh để phục vụ việc trước tác luận này. Mọi thứ là ở Kinh. Chúng ta cần phải nhớ: Ly kinh - ma thuyết. Chấp luận này thì lại càng đoạ sâu. Vì sao? - Vì Bỏ chấp khó lắm thầy ơi. Thầy còn chấp Pháp Phật thì sao cửa Đạo mở ra. Sáu năm một hạnh Phật Đà/ Đến khi cần bỏ thì ra Phật liền/ Nếu mà không bỏ ắt điên/ Thầy cần cảm ứng “trầm miên” chấp gì - Chính là chấp 1 pháp Phật nào đó không buông được.!
3/ Như vậy, 1/ đã chỉ rõ Ngài A Di Đà Là ai và sơ lược giới thiệu con đường Ngài thành Phật thế nào. Từ sau đoạn trích, phần diễn nói của Phật A Di Đà là Ngài nói lại pháp tu của Ngài. Chúng ta cần phải ghi nhớ.
4/ Quán đoạn trích 1/:
+ Ngài Pháp Tạng phát nguyện Bồ Tát hành.
+ Sau vô lượng năm tu hành theo phát nguyện, Ngài chứng trú vào Phật hiệu A Di Đà. Ngài nói lại Pháp Ngài đã tu.
+ Sơ nguyện của Ngài Pháp Tạng: (Như trích 1/)
+ Sư phụ của Ngài nói: “ Ngươi tự suy nghĩ tu phương tiện nào để thành tựu được cõi Phật trang nghiêm. Việc tu hành như thế ngươi nên tự biết, với việc thanh tịnh cõi Phật, ngươi nên tự nhiếp”
+ Như vậy, đoạn này mô tả rất rõ: - Người muốn tu thành Phật thì phải “thành tựu được cõi Phật trang nghiêm và cần phải tự biết, tự thanh tinh, tự nhiếp”. Đi đến đây, chúng ta đã chứng thấy rõ ràng nhiều thứ tưởng từ đầu luận đến giờ. Dứt nhiều sự nghi.
Như vậy, chúng ta cũng thấy biết rõ sơ lược về Cực Lạc hay cõi Phật hay mọi thứ khác ở trong hệ thống giới Kinh - lúc đầu đọc thấy “khủng bố” hầm bà hằng..v.v. Nhưng ở đây chúng ta đã rõ: Tự trang nghiêm tâm Phật và làm “Bồ Tát hành”.
Pháp của Ngài Pháp Tạng ở phía sau của đoạn trích (đọc để còn có văn). Pháp của Ngài Quán Thế Âm (đọc ở kinh Lăng Nghiêm). Còn Pháp của Ngài Quán Thế Trí thì: Dùng tên Ngài để tự thấy.
Pháp trang nghiêm khác cũng thế. Chúng ta có thể thấy rất nhiều nếu hướng quán vào đó. Tuy nhiên, đến đây chúng ta đã biết: Con đường Thành Phật.
1/ Trích Kinh Vô Lượng Thọ: “… Pháp Tạng Tỳ kheo nói bài kệ này rồi liền bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con nay tu hạnh Bồ Tát, đã phát tâm Vô thượng Chánh giác, giữ nguyện làm Phật, tất được như Phật. Nguyện đức Phật vì con rộng giảng kinh pháp, con xin phụng trì, như pháp tu hành, dứt sạch gốc khổ sanh tử, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nguyện khi con thành Phật, trí huệ sáng suốt, hào quang sáng chói, tiếng tăm quốc độ lan khắp mười phương; trời người cho đến súc sanh, sanh vào cõi nước con đều thành Bồ Tát. Nguyện con lập đây tất cả đều hơn các cõi Phật khác, có được chăng?”
Đức Phật Thế Gian Tự Tại Vương liền nói với Pháp Tạng rằng: “Thí như có người lường nước biển trải qua nhiều kiếp còn có thể đến đáy. Ngươi đã hết lòng cầu đạo tinh tấn không dứt, quyết sẽ được kết quả! Vậy thì nguyện gì mà chẳng thành?
Ngươi tự suy nghĩ tu phương tiện nào để thành tựu được cõi Phật trang nghiêm. Việc tu hành như thế ngươi nên tự biết, với việc thanh tịnh cõi Phật, ngươi nên tự nhiếp. Pháp Tạng bạch rằng: “ Bạch đức Thế Tôn! Điều ấy quá sâu rộng, không phải cảnh giới của con hiểu được, cúi xin đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri rộng nói vô lượng vi diệu cõi nước của chư Phật, khi con được nghe các pháp như vậy rồi, suy nghĩ tu tập, thệ nguyện con mới được viên mãn”.
Đức Phật Thế Gian Tự Tại Vương biết rõ chí nguyện sâu rộng của Pháp Tạng, liền nói công đức nghiêm tịnh rộng lớn viên mãn cõi nước của hai trăm mười ức đức Phật đúng theo tâm nguyện ông mong muốn, trải qua ngàn ức năm. Bấy giờ Pháp Tạng Tỳ kheo nghe Phật nói rồi, đã được thấy rõ, liền phát nguyện vô thượng thù thắng. Nơi các cõi xấu, đẹp, thiện, ác, của trời người suy lường rốt ráo. Chuyên tâm chọn lựa, kết thành đại nguyện, tinh cần cầu tiến, kính cẩn duy trì tu tập công đức đầy đủ năm kiếp. Ở nơi hai mươi mốt vô số cõi Phật công đức trang nghiêm, rõ ràng thông suốt thành một nước Phật. Khi đã tu tập rồi, lại đến chỗ của Như Lai thế Tự tại Vương, cúi đầu lạy sát chân, nhiễu Phật ba vòng rồi, đứng yên chắp tay bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con đã thành tựu viên mãn hạnh nguyện trang nghiêm thanh tịnh nước Phật”.
Đức Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Nay chính phải lúc ông nên nói rõ để mọi người vui mừng, cũng để đại chúng nghe rồi được nhiều lợi lớn, có thể ở cõi Phật đó tu tập nhiếp thọ trọn đủ vô lượng đại nguyện”. ”
2/ Chúng ta chỉ trích một phần nhỏ kinh để phục vụ việc trước tác luận này. Mọi thứ là ở Kinh. Chúng ta cần phải nhớ: Ly kinh - ma thuyết. Chấp luận này thì lại càng đoạ sâu. Vì sao? - Vì Bỏ chấp khó lắm thầy ơi. Thầy còn chấp Pháp Phật thì sao cửa Đạo mở ra. Sáu năm một hạnh Phật Đà/ Đến khi cần bỏ thì ra Phật liền/ Nếu mà không bỏ ắt điên/ Thầy cần cảm ứng “trầm miên” chấp gì - Chính là chấp 1 pháp Phật nào đó không buông được.!
3/ Như vậy, 1/ đã chỉ rõ Ngài A Di Đà Là ai và sơ lược giới thiệu con đường Ngài thành Phật thế nào. Từ sau đoạn trích, phần diễn nói của Phật A Di Đà là Ngài nói lại pháp tu của Ngài. Chúng ta cần phải ghi nhớ.
4/ Quán đoạn trích 1/:
+ Ngài Pháp Tạng phát nguyện Bồ Tát hành.
+ Sau vô lượng năm tu hành theo phát nguyện, Ngài chứng trú vào Phật hiệu A Di Đà. Ngài nói lại Pháp Ngài đã tu.
+ Sơ nguyện của Ngài Pháp Tạng: (Như trích 1/)
+ Sư phụ của Ngài nói: “ Ngươi tự suy nghĩ tu phương tiện nào để thành tựu được cõi Phật trang nghiêm. Việc tu hành như thế ngươi nên tự biết, với việc thanh tịnh cõi Phật, ngươi nên tự nhiếp”
+ Như vậy, đoạn này mô tả rất rõ: - Người muốn tu thành Phật thì phải “thành tựu được cõi Phật trang nghiêm và cần phải tự biết, tự thanh tinh, tự nhiếp”. Đi đến đây, chúng ta đã chứng thấy rõ ràng nhiều thứ tưởng từ đầu luận đến giờ. Dứt nhiều sự nghi.
Như vậy, chúng ta cũng thấy biết rõ sơ lược về Cực Lạc hay cõi Phật hay mọi thứ khác ở trong hệ thống giới Kinh - lúc đầu đọc thấy “khủng bố” hầm bà hằng..v.v. Nhưng ở đây chúng ta đã rõ: Tự trang nghiêm tâm Phật và làm “Bồ Tát hành”.
Pháp của Ngài Pháp Tạng ở phía sau của đoạn trích (đọc để còn có văn). Pháp của Ngài Quán Thế Âm (đọc ở kinh Lăng Nghiêm). Còn Pháp của Ngài Quán Thế Trí thì: Dùng tên Ngài để tự thấy.
Pháp trang nghiêm khác cũng thế. Chúng ta có thể thấy rất nhiều nếu hướng quán vào đó. Tuy nhiên, đến đây chúng ta đã biết: Con đường Thành Phật.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(197 tiếp)
5/ Như vậy, Ngài Pháp Tạng được Phật Tự Tại nói (thuyết) vô lượng Pháp Phật - Vô lượng “cách mà các vị Phật đó thành Phật). Từ việc nghe vô lượng vị hành giả đã làm thế nào để thành Phật mà Ngài Pháp Tạng đã “rút ra được con đường của Ngài” - Được Ngài kể lại trong Kinh - dưới đoạn trích 1. Còn chúng ta, có vị Phật nào đang ở thế để đến cầu như Ngài Pháp Tạng?
- Chúng ta không có cơ duyên này. Nhưng chúng ta có gì? - Có Đạo Đức Thế Tôn - Ngài Thích Ca Mâu Ni. -Hơn 2500 năm rồi, tro xương sắc thân của ngài ở thế có khi đã vô thường thành gì gì rồi, lấy đâu ra việc “dựng lại Ngài nghe vô lượng Pháp”? - Tuy nhiên, Pháp Bảo thế mới là Pháp Bảo, Phật Bảo thế mới là Phật Bảo, Tăng bảo thế mới là Tăng Bảo - Báu xuất thế gian vẫn trường tồn ngay đây!
6/ Chúng ta không có cơ duyên như Ngài Pháp Tạng được đứng trước Tự Tại Phật nghe vô lượng con đường thành Phật của vô lượng người tu Đạo. Nhưng chúng ta có thể ĐỌC Vô lượng cách thức (pháp) tu hành thành Phật trong hệ thống giới Kinh - Đã giới thiệu vô lượng hành giả vào Cửa Đạo như thế nào và (rất nhiều giới thiệu của hành giả thành Phật).
7/ Ngài Đạo Sư của chúng ta - Đức Thích Ca Mâu Ni có thành Phật theo con đường của 1 ai khác trước đó?
8/ Ngài A Di Đà - Chúng ta thấy rõ ngày vì đang Quán Ngài đây: Ngài có thành Phật theo con đường của 1 ai trước đó - dù đã được nghe vô lượng con đường thành Phật.
9/ Các Đại Bồ Tát, các Đại Đức Tăng Đoàn - những vị đạt được kết quả thù thắng vi diệu: Có ai đi cùng con đường (tức Y Pháp) của người phía trước?
….
10/ Vì lẽ đó, chúng ta đến đây sực thấy: Thì ra “tự thắp đuốc lên mà đi” là gì. - Là phải từ vô lượng Pháp đó Quán ra Pháp của tự mỗi chúng ta - không theo một ai trước đó - Đây gọi là NGUYỆN. Với Nguyện này, trang nghiêm tâm chính là trang nghiêm nguyện này, thực hành nguyện này (tu)…
11/ Như vậy, hệ thống giới Kinh giới thiệu về Chư Vị Phật tương lai không hề chỉ mang tính chất “dự báo” mà còn để chúng ta thấy: Con đường giải thoát của mỗi người là do mỗi người chúng ta - trang nghiêm tâm là mỗi người trang nghiêm. - Vậy mới có chuyện, nếu có vị Phật sau Đức Thế Tôn thành Đạo thì vị Phật này lại nói về Pháp tu Phật của vị đó khác các Pháp của các vị Phật hiện tiền. - Đây rõ ràng bất tư nghì.
…
5/ Như vậy, Ngài Pháp Tạng được Phật Tự Tại nói (thuyết) vô lượng Pháp Phật - Vô lượng “cách mà các vị Phật đó thành Phật). Từ việc nghe vô lượng vị hành giả đã làm thế nào để thành Phật mà Ngài Pháp Tạng đã “rút ra được con đường của Ngài” - Được Ngài kể lại trong Kinh - dưới đoạn trích 1. Còn chúng ta, có vị Phật nào đang ở thế để đến cầu như Ngài Pháp Tạng?
- Chúng ta không có cơ duyên này. Nhưng chúng ta có gì? - Có Đạo Đức Thế Tôn - Ngài Thích Ca Mâu Ni. -Hơn 2500 năm rồi, tro xương sắc thân của ngài ở thế có khi đã vô thường thành gì gì rồi, lấy đâu ra việc “dựng lại Ngài nghe vô lượng Pháp”? - Tuy nhiên, Pháp Bảo thế mới là Pháp Bảo, Phật Bảo thế mới là Phật Bảo, Tăng bảo thế mới là Tăng Bảo - Báu xuất thế gian vẫn trường tồn ngay đây!
6/ Chúng ta không có cơ duyên như Ngài Pháp Tạng được đứng trước Tự Tại Phật nghe vô lượng con đường thành Phật của vô lượng người tu Đạo. Nhưng chúng ta có thể ĐỌC Vô lượng cách thức (pháp) tu hành thành Phật trong hệ thống giới Kinh - Đã giới thiệu vô lượng hành giả vào Cửa Đạo như thế nào và (rất nhiều giới thiệu của hành giả thành Phật).
7/ Ngài Đạo Sư của chúng ta - Đức Thích Ca Mâu Ni có thành Phật theo con đường của 1 ai khác trước đó?
8/ Ngài A Di Đà - Chúng ta thấy rõ ngày vì đang Quán Ngài đây: Ngài có thành Phật theo con đường của 1 ai trước đó - dù đã được nghe vô lượng con đường thành Phật.
9/ Các Đại Bồ Tát, các Đại Đức Tăng Đoàn - những vị đạt được kết quả thù thắng vi diệu: Có ai đi cùng con đường (tức Y Pháp) của người phía trước?
….
10/ Vì lẽ đó, chúng ta đến đây sực thấy: Thì ra “tự thắp đuốc lên mà đi” là gì. - Là phải từ vô lượng Pháp đó Quán ra Pháp của tự mỗi chúng ta - không theo một ai trước đó - Đây gọi là NGUYỆN. Với Nguyện này, trang nghiêm tâm chính là trang nghiêm nguyện này, thực hành nguyện này (tu)…
11/ Như vậy, hệ thống giới Kinh giới thiệu về Chư Vị Phật tương lai không hề chỉ mang tính chất “dự báo” mà còn để chúng ta thấy: Con đường giải thoát của mỗi người là do mỗi người chúng ta - trang nghiêm tâm là mỗi người trang nghiêm. - Vậy mới có chuyện, nếu có vị Phật sau Đức Thế Tôn thành Đạo thì vị Phật này lại nói về Pháp tu Phật của vị đó khác các Pháp của các vị Phật hiện tiền. - Đây rõ ràng bất tư nghì.
…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(197 tiếp)
12/ Như vậy, chúng ta đã thấy rõ: Lý chỉ có một, sự không ai giống ai
Điều này, vô cùng quan trọng và nhiệm màu. Chúng ta chưa thấy, chúng ta chưa đi được, chưa ra được bất cứ bước nào thực chất. Chúng ta có thể đã từng nghe, từng hiểu, có tri kiến: Nhưng thực chất chúng ta không chứng thấy, chúng ta đều để câu này trong tưởng. Chúng ta vẫn đang cố gắng đi tìm một pháp (ở bên ngoài) của một ai đó - Là của Phật, Bồ Tát, thiện tri thức, ma, của hệ thống giới kinh, hay của nhiều người công nhận để làm gì? - Để hành sự của ta.
Sự của ta là gì? - Tất nhiên rồi, khi này tất cả đều chỉ là sự “dục như ý túc” - hay sự để giải thoát. Làm các sự để giải thoát. Làm đến không còn sự … như Đức Thế Tôn nói đi nói lại: “… Việc cần làm đã làm, từ nay về sau không còn…”
13/ Vậy, khác nhau thế nào khi ai cũng biết: Dù vô lượng chúng sinh là vô lượng chúng sinh khác nhau nhưng rất rõ: Khả năng gặp cùng 1 sự trần sắc là thường thường. Ví dụ: Anh em ruột thì rất rõ gặp cùng 1 sự là chung cha mẹ…v.v. - vô lượng sự trần sắc tưởng danh thức thọ… giống nhau?
- Điều này, được chúng ta thấy rất rõ: Sự trần thì cùng là 1 nhưng khi vào đầu thành pháp trần thì Pháp của mỗi chúng ta là khác nhau vì pháp là do ta, không do người và càng không do trần - dù pháp phản ánh trần.
Ví dụ: Cùng là anh em chung cha mẹ nhưng có người sẽ là Mục Kiền Liên còn có người là chúng ta ở đây (chúng ta biết tích về Tăng Bảo Mục Kiền Liên rồi).
14/ Thì ra là vậy: Câu nói: Tìm ở bên trong, không ở bên ngoài là vậy. - Ai trong chúng ta ở đây cũng biết câu nói này. Thế nhưng chúng ta vẫn cố gắng đi tìm Pháp giải thoát ở bên ngoài là sao?
Là sao?
Là sao?
12/ Như vậy, chúng ta đã thấy rõ: Lý chỉ có một, sự không ai giống ai
Điều này, vô cùng quan trọng và nhiệm màu. Chúng ta chưa thấy, chúng ta chưa đi được, chưa ra được bất cứ bước nào thực chất. Chúng ta có thể đã từng nghe, từng hiểu, có tri kiến: Nhưng thực chất chúng ta không chứng thấy, chúng ta đều để câu này trong tưởng. Chúng ta vẫn đang cố gắng đi tìm một pháp (ở bên ngoài) của một ai đó - Là của Phật, Bồ Tát, thiện tri thức, ma, của hệ thống giới kinh, hay của nhiều người công nhận để làm gì? - Để hành sự của ta.
Sự của ta là gì? - Tất nhiên rồi, khi này tất cả đều chỉ là sự “dục như ý túc” - hay sự để giải thoát. Làm các sự để giải thoát. Làm đến không còn sự … như Đức Thế Tôn nói đi nói lại: “… Việc cần làm đã làm, từ nay về sau không còn…”
13/ Vậy, khác nhau thế nào khi ai cũng biết: Dù vô lượng chúng sinh là vô lượng chúng sinh khác nhau nhưng rất rõ: Khả năng gặp cùng 1 sự trần sắc là thường thường. Ví dụ: Anh em ruột thì rất rõ gặp cùng 1 sự là chung cha mẹ…v.v. - vô lượng sự trần sắc tưởng danh thức thọ… giống nhau?
- Điều này, được chúng ta thấy rất rõ: Sự trần thì cùng là 1 nhưng khi vào đầu thành pháp trần thì Pháp của mỗi chúng ta là khác nhau vì pháp là do ta, không do người và càng không do trần - dù pháp phản ánh trần.
Ví dụ: Cùng là anh em chung cha mẹ nhưng có người sẽ là Mục Kiền Liên còn có người là chúng ta ở đây (chúng ta biết tích về Tăng Bảo Mục Kiền Liên rồi).
14/ Thì ra là vậy: Câu nói: Tìm ở bên trong, không ở bên ngoài là vậy. - Ai trong chúng ta ở đây cũng biết câu nói này. Thế nhưng chúng ta vẫn cố gắng đi tìm Pháp giải thoát ở bên ngoài là sao?
Là sao?
Là sao?
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Chấp Pháp chính là vậy!
Phải nhớ vì, chúng ta ở đây không có cơ hội để sửa “bản thảo”.
Phải nhớ vì, chúng ta ở đây không có cơ hội để sửa “bản thảo”.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(197 tiếp)
Như vậy, dục như ý túc có hiểu là lý. Còn nguyện chính là các sự để thực hiện theo lý.
Dục như ý túc là mục tiêu kết quả thù thắng dài hạn. Còn nguyện chính là các mục tiêu nhỏ hơn cần phải đạt được trên con đường thực hiện mục tiêu thù thắng.
Ví dụ: Một người 24 tuổi đặt mục tiêu năm 30 tuổi sẽ mua một ngôi nhà 10 tỷ. Đây được gọi là mục tiêu lớn, dài hạn. Để thực hiện được mục tiêu này, người này cần lập kế hoạch với rất nhiều mục tiêu nhỏ hơn trong 6 năm đó. Đạt các mục tiêu nhỏ này, mới có khả năng hiện thực mục tiêu lớn. Chúng ta rất rõ về kỹ năng đặt mục tiêu và lập kế hoạch của con người hiện đại như trên. Chỉ có người trên trời mới đặt cộc lốc 1 mục tiêu dài hạn, rồi suốt ngày “hành trong vô minh - làm việc quần quật” để mong mục tiêu dài hạn thành hiện thực. Điều này xảy ra chỉ là ăn may trong công việc. Còn với Đạo thì … cứ tưởng thôi chứ sao mà thành thực được khi… lúc nào cũng “tôi Tu Đạo giải thoát, tôi tu Đạo giải thoát….” - Không thể!
Như vậy, dục như ý túc và nguyện được hiểu như trên sẽ rất đơn giản dễ hiểu với người đời nay.
Vì lẽ đó: Nguyện sẽ rất nhiều, vô lượng. Đặc biệt, cùng là 1 dục như ý túc nhưng nguyện của mỗi người thực hành là khác nhau - về mặt cụ thể bởi nó là thứ: Sự cụ thể của riêng mỗi hành giả.
Ở đây: Đã nguyện là phải hành. Có thể hoàn thiện các nguyện theo thời gian nhưng đã nguyện là phải hành.
Khi 1 nguyện được thực hành và cho kết quả. Người hành giả thọ kết quả do hành nguyện này mang tới - rất rõ: Vì đạt được sở nguyện nên tự lạc, tự hỉ. Kết quả hành nguyện gọi là hạnh nguyện.
Người không có niềm tin giải thoát thì không bao giờ có được dục như ý túc một cách đúng nghĩa dục. Bởi vậy, không bao giờ đứt dây nghi. Vì thế, tín tâm hay niềm tin ở mình về giải thoát về sự đạt được giải thoát là một điều kiện cụ thể của việc có được kết quả thù thắng rốt ráo sau này.
Như vậy, hình thành một trang nghiêm “tín nguyện hạnh” cho dục như ý túc.
Nếu chỉ có dục như ý túc: Chúng ta sẽ sớm cảm thấy đau khổ (thọ khổ) bởi vì: Làm cách nào để đạt được dục này? - Khổ đế Đức Thế Tôn đã giảng: Sở cầu bất đắc - khổ (cầu mà không được là sẽ khổ). Chỉ có dục như ý túc - chúng ta không biết làm sao để giải thoát - sẽ khổ. Cũng giống như ví dụ trên: Dục ra sở cầu mua nhà nhưng lại không biết làm thế nào để mua được thì sẽ “long đong vất vả khổ sở”.
Tín nguyện hạnh - như một bản kế hoạch hành động cụ thể, thiết thực, (smart) cho dục như ý túc.
Bởi thế gọi là trang nghiêm tâm.
Hạnh ở trong phạm trù này là kết quả của nguyện. Nguyện là hành động thiết thực (thực hành). Tín như là cơ sở cho việc hành là thực (hành động được) chứ không phải đặt nguyện hành trong ảo tưởng không thể nào hành được.
Như vậy, “bản kế hoạch hành động” rất rõ phải:
1/ Cụ thể với mỗi hành giả và tuỳ vào sự của mỗi hành giả (phước nghiệp, căn cơ, khả năng, vị trí hiện tại)
2/ Phải có tính cụ thể, kết quả và giới hạn (kể cả là giới hạn vô cùng, chúng ta vẫn phải có “lim” của nó)
3/ Nguyện càng chi tiết cụ thể thì thực hiện càng dễ, hạnh càng chi tiết cụ thể
4/ Tuỳ nguyện mà hạnh mang tới bước kết quả thù thắng thế nào. Một nguyện nhỏ thì hạnh sẽ ở cấp thấp, một nguyện lớn (đại nguyện) thì hạnh sẽ là đại hạnh.
5/ Đại nguyện lại cần phải được thực hiện qua nhiều nguyện nhỏ hơn.
6/ Tất nhiên, nguyện này phải có tính chất BA LA MẬT
…
Như vậy, dục như ý túc có hiểu là lý. Còn nguyện chính là các sự để thực hiện theo lý.
Dục như ý túc là mục tiêu kết quả thù thắng dài hạn. Còn nguyện chính là các mục tiêu nhỏ hơn cần phải đạt được trên con đường thực hiện mục tiêu thù thắng.
Ví dụ: Một người 24 tuổi đặt mục tiêu năm 30 tuổi sẽ mua một ngôi nhà 10 tỷ. Đây được gọi là mục tiêu lớn, dài hạn. Để thực hiện được mục tiêu này, người này cần lập kế hoạch với rất nhiều mục tiêu nhỏ hơn trong 6 năm đó. Đạt các mục tiêu nhỏ này, mới có khả năng hiện thực mục tiêu lớn. Chúng ta rất rõ về kỹ năng đặt mục tiêu và lập kế hoạch của con người hiện đại như trên. Chỉ có người trên trời mới đặt cộc lốc 1 mục tiêu dài hạn, rồi suốt ngày “hành trong vô minh - làm việc quần quật” để mong mục tiêu dài hạn thành hiện thực. Điều này xảy ra chỉ là ăn may trong công việc. Còn với Đạo thì … cứ tưởng thôi chứ sao mà thành thực được khi… lúc nào cũng “tôi Tu Đạo giải thoát, tôi tu Đạo giải thoát….” - Không thể!
Như vậy, dục như ý túc và nguyện được hiểu như trên sẽ rất đơn giản dễ hiểu với người đời nay.
Vì lẽ đó: Nguyện sẽ rất nhiều, vô lượng. Đặc biệt, cùng là 1 dục như ý túc nhưng nguyện của mỗi người thực hành là khác nhau - về mặt cụ thể bởi nó là thứ: Sự cụ thể của riêng mỗi hành giả.
Ở đây: Đã nguyện là phải hành. Có thể hoàn thiện các nguyện theo thời gian nhưng đã nguyện là phải hành.
Khi 1 nguyện được thực hành và cho kết quả. Người hành giả thọ kết quả do hành nguyện này mang tới - rất rõ: Vì đạt được sở nguyện nên tự lạc, tự hỉ. Kết quả hành nguyện gọi là hạnh nguyện.
Người không có niềm tin giải thoát thì không bao giờ có được dục như ý túc một cách đúng nghĩa dục. Bởi vậy, không bao giờ đứt dây nghi. Vì thế, tín tâm hay niềm tin ở mình về giải thoát về sự đạt được giải thoát là một điều kiện cụ thể của việc có được kết quả thù thắng rốt ráo sau này.
Như vậy, hình thành một trang nghiêm “tín nguyện hạnh” cho dục như ý túc.
Nếu chỉ có dục như ý túc: Chúng ta sẽ sớm cảm thấy đau khổ (thọ khổ) bởi vì: Làm cách nào để đạt được dục này? - Khổ đế Đức Thế Tôn đã giảng: Sở cầu bất đắc - khổ (cầu mà không được là sẽ khổ). Chỉ có dục như ý túc - chúng ta không biết làm sao để giải thoát - sẽ khổ. Cũng giống như ví dụ trên: Dục ra sở cầu mua nhà nhưng lại không biết làm thế nào để mua được thì sẽ “long đong vất vả khổ sở”.
Tín nguyện hạnh - như một bản kế hoạch hành động cụ thể, thiết thực, (smart) cho dục như ý túc.
Bởi thế gọi là trang nghiêm tâm.
Hạnh ở trong phạm trù này là kết quả của nguyện. Nguyện là hành động thiết thực (thực hành). Tín như là cơ sở cho việc hành là thực (hành động được) chứ không phải đặt nguyện hành trong ảo tưởng không thể nào hành được.
Như vậy, “bản kế hoạch hành động” rất rõ phải:
1/ Cụ thể với mỗi hành giả và tuỳ vào sự của mỗi hành giả (phước nghiệp, căn cơ, khả năng, vị trí hiện tại)
2/ Phải có tính cụ thể, kết quả và giới hạn (kể cả là giới hạn vô cùng, chúng ta vẫn phải có “lim” của nó)
3/ Nguyện càng chi tiết cụ thể thì thực hiện càng dễ, hạnh càng chi tiết cụ thể
4/ Tuỳ nguyện mà hạnh mang tới bước kết quả thù thắng thế nào. Một nguyện nhỏ thì hạnh sẽ ở cấp thấp, một nguyện lớn (đại nguyện) thì hạnh sẽ là đại hạnh.
5/ Đại nguyện lại cần phải được thực hiện qua nhiều nguyện nhỏ hơn.
6/ Tất nhiên, nguyện này phải có tính chất BA LA MẬT
…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(197 tiếp)
Một hành giả có thể ngay lập tức:
1/ Đặt nguyện vô thượng thù thắng kết quả (hạnh Phật) - Cần phải tham khảo rất nhiều vị Phật (Cả 3 thời) trong hệ thống giới Kinh để xem các vị ấy nguyện thế nào: Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, Đức A Di Đà, Đức Quán Thế Âm, Đức Văn Thù, Đức Di Lặc, Đức Ca Diếp, A Nan, Các Chư Bồ Tát Phổ Hiền, Quán Thế Trí..v.v..
2/ Đặt nguyện A La Hán, Nguyện Bích Chi Duyên Giác làm cơ sở tiền đề trước rồi mới tiến lên đại nguyện.
3/ Đặt nguyện Bồ Tát làm cơ sở tiền đề trước khi hành Đại nguyện.
Chỉ có 3 hàng này. Ngoài ra, tất cả những thứ khác tương đối “ma” như kiểu nhân thừa, thiên thừa.
Chỉ có 3 hàng trên mới ở trong hệ thống giới Kinh mới tới được Pháp Hoa hội. - Mới là Chánh Pháp Phật!
Từ đầu đến giờ chúng ta tu ra cái gì chưa? - Chưa tu ra bất cứ cái gì.
Chỉ khi bắt đầu phác thảo “trang nghiêm tâm” - người hành giả mới có những nguyện mà theo lý dục như ý túc. Nói một cách theo ngôn ngữ hiện đại: Nguyện chính là hành động, nguyện chính là “làm việc gì đó” để đạt được mục tiêu kết quả cụ thể đã xác định trước (trong lý dục như ý túc).
Như vậy, như đã nói, tập luận trước tác chính là hàng thực tập Bồ Tát - tức là sẽ trước tác trang nghiêm theo hàng này.
Còn nguyện của hàng A La Hán với Bích Chi tương đối ít và những căn cơ thực hiện được thì đã không ở đời đọc chuyện luận ký tác này.
Một hành giả có thể ngay lập tức:
1/ Đặt nguyện vô thượng thù thắng kết quả (hạnh Phật) - Cần phải tham khảo rất nhiều vị Phật (Cả 3 thời) trong hệ thống giới Kinh để xem các vị ấy nguyện thế nào: Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, Đức A Di Đà, Đức Quán Thế Âm, Đức Văn Thù, Đức Di Lặc, Đức Ca Diếp, A Nan, Các Chư Bồ Tát Phổ Hiền, Quán Thế Trí..v.v..
2/ Đặt nguyện A La Hán, Nguyện Bích Chi Duyên Giác làm cơ sở tiền đề trước rồi mới tiến lên đại nguyện.
3/ Đặt nguyện Bồ Tát làm cơ sở tiền đề trước khi hành Đại nguyện.
Chỉ có 3 hàng này. Ngoài ra, tất cả những thứ khác tương đối “ma” như kiểu nhân thừa, thiên thừa.
Chỉ có 3 hàng trên mới ở trong hệ thống giới Kinh mới tới được Pháp Hoa hội. - Mới là Chánh Pháp Phật!
Từ đầu đến giờ chúng ta tu ra cái gì chưa? - Chưa tu ra bất cứ cái gì.
Chỉ khi bắt đầu phác thảo “trang nghiêm tâm” - người hành giả mới có những nguyện mà theo lý dục như ý túc. Nói một cách theo ngôn ngữ hiện đại: Nguyện chính là hành động, nguyện chính là “làm việc gì đó” để đạt được mục tiêu kết quả cụ thể đã xác định trước (trong lý dục như ý túc).
Như vậy, như đã nói, tập luận trước tác chính là hàng thực tập Bồ Tát - tức là sẽ trước tác trang nghiêm theo hàng này.
Còn nguyện của hàng A La Hán với Bích Chi tương đối ít và những căn cơ thực hiện được thì đã không ở đời đọc chuyện luận ký tác này.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(197 tiếp)
Theo hạnh Bồ Tát (Tức là xác định kết quả đầu tiên là kết quả đến Bồ Tát cảnh) - trang nghiêm theo Cực Lạc là trang nghiêm cơ bản đầu tiên rồi. Không cần mất nhiều thời gian lựa chọn. - Căn cơ nào cũng có thể phù hợp.
Trang nghiêm theo Cực Lạc thì phải Quán 4 vị: Pháp Tạng, A Di Đà Phật (Quán Vô Lượng Thọ), Quán Thế Âm, Quán Đại Thế Trí. Từ đây câu hữu vô lượng Pháp trong hệ thống giới Kinh để người hành giả vạch ra một phác thảo “trang nghiêm tâm” cụ thể cho chính mỗi hành giả chúng ta.
Đi được đến đây: Chúng ta phải thấy chúng ta đã có đủ cơ sở, khả năng, tiềm lực, phước nghiệp lực, vị trí (vị thế) để thực hành tinh tấn (trang nghiêm tâm). Nếu chúng ta còn thấy “lấn cấn” - vấn đề này chỉ là: Chúng ta chưa thực sự sẵn sàng (thấy) dục như ý túc. Còn một khi chúng ta đã thấy: Dục như ý túc - Dù chúng ta là bất cứ ai, bất cứ căn cơ nào, bất cứ vị trí ở đời đang ra sao, phước nghiệp thế nào… chúng ta sẽ thấy: Chúng ta đã có thể bắt đầu phác thảo những nét đầu tiên của trang nghiêm tâm (nguyện và thực hành nguyện).
Theo hạnh Bồ Tát (Tức là xác định kết quả đầu tiên là kết quả đến Bồ Tát cảnh) - trang nghiêm theo Cực Lạc là trang nghiêm cơ bản đầu tiên rồi. Không cần mất nhiều thời gian lựa chọn. - Căn cơ nào cũng có thể phù hợp.
Trang nghiêm theo Cực Lạc thì phải Quán 4 vị: Pháp Tạng, A Di Đà Phật (Quán Vô Lượng Thọ), Quán Thế Âm, Quán Đại Thế Trí. Từ đây câu hữu vô lượng Pháp trong hệ thống giới Kinh để người hành giả vạch ra một phác thảo “trang nghiêm tâm” cụ thể cho chính mỗi hành giả chúng ta.
Đi được đến đây: Chúng ta phải thấy chúng ta đã có đủ cơ sở, khả năng, tiềm lực, phước nghiệp lực, vị trí (vị thế) để thực hành tinh tấn (trang nghiêm tâm). Nếu chúng ta còn thấy “lấn cấn” - vấn đề này chỉ là: Chúng ta chưa thực sự sẵn sàng (thấy) dục như ý túc. Còn một khi chúng ta đã thấy: Dục như ý túc - Dù chúng ta là bất cứ ai, bất cứ căn cơ nào, bất cứ vị trí ở đời đang ra sao, phước nghiệp thế nào… chúng ta sẽ thấy: Chúng ta đã có thể bắt đầu phác thảo những nét đầu tiên của trang nghiêm tâm (nguyện và thực hành nguyện).
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
1/ Nan thứ nhất: Tất cả các sự ở đời phải được giải quyết. Đây được gọi là trả nợ (dù là quả phước hay quả nghiệp). Chúng ta phải trả nợ: Trả sắc danh, trả tình (ái, dâm). Phải trả hết. Vì có dục như ý túc nên người hành giả rất rõ: Không còn hành dục tác nghiệp, chỉ còn hành sự trả nợ và hành các nguyện (dục như ý túc)
2/ Nan thứ hai: Tu Pháp Thân: Bao gồm phôi thai sắc tướng như thường được nói: 32 tướng, 80 vẻ đẹp, tu “đại địa” - nhiều khi thời hiện đại còn hay gọi là: Phước điền - ruộng phước. - Tu phước mới ra thân.
3/ Nan thứ ba: Tu Trí (pháp tinh thần): Bao gồm Quán (sử dụng văn tu tư tiến lên quán tưởng rồi tiến lên quán thấy. Nhiều khi thời hiện đại gọi là tu huệ. Tu huệ mới ra minh.
4/ Nan thứ tư: Tu Tâm: Bước đầu thanh tịnh : Chính là 3 nan trên có những kết quả để cái hỉ lạc của dục như ý túc nó tràn ra. Phải vào sơ thiền một cách tự tại như 3 nan trên ở đời mới được gọi là sơ thiền - hiện tại an lạc trú. - Tức là đến đây, ở đời mà lúc nào chúng ta cũng trú ở an lạc rồi. Không còn gì ngoài an lạc nữa… tất nhiên, về mặt hành niệm chúng ta vẫn còn tầm, tứ (tức là vẫn phải Quán, chứ chưa đến mức định cao cấp).
Bước sau tiếp: Tác thần thông - Rất rõ: Có thần thông mới làm được nhiều nguyện (mới thực hành được những nguyện lớn hơn). Thần thông của người tu Đạo có tác dụng với người tu Đạo chính là vậy. Ngoài ra, không còn ngoài ra.
…
2/ Nan thứ hai: Tu Pháp Thân: Bao gồm phôi thai sắc tướng như thường được nói: 32 tướng, 80 vẻ đẹp, tu “đại địa” - nhiều khi thời hiện đại còn hay gọi là: Phước điền - ruộng phước. - Tu phước mới ra thân.
3/ Nan thứ ba: Tu Trí (pháp tinh thần): Bao gồm Quán (sử dụng văn tu tư tiến lên quán tưởng rồi tiến lên quán thấy. Nhiều khi thời hiện đại gọi là tu huệ. Tu huệ mới ra minh.
4/ Nan thứ tư: Tu Tâm: Bước đầu thanh tịnh : Chính là 3 nan trên có những kết quả để cái hỉ lạc của dục như ý túc nó tràn ra. Phải vào sơ thiền một cách tự tại như 3 nan trên ở đời mới được gọi là sơ thiền - hiện tại an lạc trú. - Tức là đến đây, ở đời mà lúc nào chúng ta cũng trú ở an lạc rồi. Không còn gì ngoài an lạc nữa… tất nhiên, về mặt hành niệm chúng ta vẫn còn tầm, tứ (tức là vẫn phải Quán, chứ chưa đến mức định cao cấp).
Bước sau tiếp: Tác thần thông - Rất rõ: Có thần thông mới làm được nhiều nguyện (mới thực hành được những nguyện lớn hơn). Thần thông của người tu Đạo có tác dụng với người tu Đạo chính là vậy. Ngoài ra, không còn ngoài ra.
…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(197 tiếp)
Dù 197 chỉ nêu về Vô Lượng Thọ Phật và Quán Vô Lượng Thọ Phật nhưng để có thể phác thảo ra “trang nghiêm tâm” - mà cái nền tảng tiền đề đầu tiên của trang nghiêm tâm mỗi chúng ta đó là: Mỗi chúng ta phải nêu ra được “một số nguyện ban đầu” phù hợp với căn cơ của mỗi chúng ta mà một số nguyện ban đầu này phải thoả mãn cái yếu tố đủ của “một viên bi tâm mang từ tính và thân thanh tịnh”.
Chúng ta không thể thay nguyện “giữa đường”. Vì sao? - Vì nếu thay nguyện thì khác gì những nguyện bị thay chính là: Vô lượng nghiệp chúng ta đã tự tạo tác khi tu tinh tấn? - Bởi thế, không thể thay nguyện. Nên nguyện là yếu tố quan trọng quyết định: Vừa quyết định hạnh, vừa quyết định cấp cảnh, vừa quyết định thời gian đến Pháp Hoa, thời gian giải thoát..v.v.
Ở đây, trước tác đã bắt đầu “sáng tác”. Một bánh luân thông thường có nhiều nan. Tám nan vẫn là thứ hình ảnh nhiều người đã biết. Bánh này có 4 nan thôi. Tạo nên chữ Vạn tiếng Trung à? - Thực tế là 3 nan. Tam sinh vạn vật. - Nhưng không phải là Tiên Đạo. Đang nói về nan luân thôi. Còn về mặt Đạo: Mỗi chúng ta hiểu sao thì hiểu. Cái viết ra, đọc được chỉ là hình thức, hiện tượng và nó là thứ thay đổi nhanh nhất. Thứ không thay đổi là thứ “hiện ở”. Không nên chấp thứ gì. Càng bám víu càng dính líu. Chúng ta chỉ: Báu xuất thế gian - Đạo Đức Thế Tôn.
Sau này chúng ta sẽ thấy: Nó là vô lượng nan - rồi ai cũng thực hành mà. Sẽ thấy!
Các nguyện để giải quyết 4 nan trên.
Muốn nguyện thế nào (vì nguyện rất quan trọng - quyết định) vì nguyện là hành Đạo mà, chúng ta phải QUÁN. Quán Kinh, quán hệ thống giới kinh, Quán Phật, Quán Pháp, Quán Tăng (Tăng trong Tăng đoàn) và quán nhiều hơn thế nữa… mới bắt đầu thông thông về nguyện của mỗi chúng ta - những nguyện cụ thể cho mỗi chúng ta mà có khi mỗi mỗi chúng ta sẽ khác nhau về nội dung nguyện (nội dung hành).
Khác nhau về nội dung nguyện nhưng nguyện đi theo nan nên kiểu gì ai ai cũng về tâm cả. Yên tâm, vạn pháp quy tâm. .
Dù 197 chỉ nêu về Vô Lượng Thọ Phật và Quán Vô Lượng Thọ Phật nhưng để có thể phác thảo ra “trang nghiêm tâm” - mà cái nền tảng tiền đề đầu tiên của trang nghiêm tâm mỗi chúng ta đó là: Mỗi chúng ta phải nêu ra được “một số nguyện ban đầu” phù hợp với căn cơ của mỗi chúng ta mà một số nguyện ban đầu này phải thoả mãn cái yếu tố đủ của “một viên bi tâm mang từ tính và thân thanh tịnh”.
Chúng ta không thể thay nguyện “giữa đường”. Vì sao? - Vì nếu thay nguyện thì khác gì những nguyện bị thay chính là: Vô lượng nghiệp chúng ta đã tự tạo tác khi tu tinh tấn? - Bởi thế, không thể thay nguyện. Nên nguyện là yếu tố quan trọng quyết định: Vừa quyết định hạnh, vừa quyết định cấp cảnh, vừa quyết định thời gian đến Pháp Hoa, thời gian giải thoát..v.v.
Ở đây, trước tác đã bắt đầu “sáng tác”. Một bánh luân thông thường có nhiều nan. Tám nan vẫn là thứ hình ảnh nhiều người đã biết. Bánh này có 4 nan thôi. Tạo nên chữ Vạn tiếng Trung à? - Thực tế là 3 nan. Tam sinh vạn vật. - Nhưng không phải là Tiên Đạo. Đang nói về nan luân thôi. Còn về mặt Đạo: Mỗi chúng ta hiểu sao thì hiểu. Cái viết ra, đọc được chỉ là hình thức, hiện tượng và nó là thứ thay đổi nhanh nhất. Thứ không thay đổi là thứ “hiện ở”. Không nên chấp thứ gì. Càng bám víu càng dính líu. Chúng ta chỉ: Báu xuất thế gian - Đạo Đức Thế Tôn.
Sau này chúng ta sẽ thấy: Nó là vô lượng nan - rồi ai cũng thực hành mà. Sẽ thấy!
Các nguyện để giải quyết 4 nan trên.
Muốn nguyện thế nào (vì nguyện rất quan trọng - quyết định) vì nguyện là hành Đạo mà, chúng ta phải QUÁN. Quán Kinh, quán hệ thống giới kinh, Quán Phật, Quán Pháp, Quán Tăng (Tăng trong Tăng đoàn) và quán nhiều hơn thế nữa… mới bắt đầu thông thông về nguyện của mỗi chúng ta - những nguyện cụ thể cho mỗi chúng ta mà có khi mỗi mỗi chúng ta sẽ khác nhau về nội dung nguyện (nội dung hành).
Khác nhau về nội dung nguyện nhưng nguyện đi theo nan nên kiểu gì ai ai cũng về tâm cả. Yên tâm, vạn pháp quy tâm. .