PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

(72 tiếp)


Như vậy, chúng ta đã được trình về pháp đối trị si mê - Cấu phần hôn trầm thuỵ miên khi thiền.


Chúng ta rất rõ, ngay từ ngày bắt đầu thực hành Đạo Đức Thế Tôn như trước tác này ở ngày hôm đó - Chúng ta đã bắt đầu thiền - trong bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi - chúng ta thiền cả - dù chúng ta chẳng cần phải hầm bà hằng khái niệm thiền là gì, định là gì. Vì Đạo Đức Thế Tôn - Nhiệm màu.


Đến đây, chúng ta đã biết và tự chứng thấy cái mà bao đời gọi là: Sự si mê và trạng thái hôn trầm thuỵ miên khi thiền là gì. - Chính là cảm giác chới với được nêu ra ngay đoạn trên.


Như vậy, chúng ta cũng đã biết được nhân duyên và cách thức sử dụng phương tiện để độ hoá nhân duyên hôn trầm thuỵ miên này khi xuất hiện trong chúng ta.


Pháp: Dục như ý túc. - Chúng ta đã có. Chỉ có dục như ý túc mới có thể “độ hoá” được “thọ hôn trầm thuỵ miên” này. Bằng không, chúng ta sẽ rất vất vả để diệt hôn trầm thuỵ miên khi chúng ta là một người thực hành Đạo Đức Thế Tôn mà đang ở ngay đời.

Còn những người bỏ nhà. Nếu là họ ép tâm bỏ nhà, lại không thấu lý dục như ý túc - họ cũng sẽ bị cái hôn trầm thuỵ miên này kéo trở về như một người khổng lồ thổi 1 hơi vào người tí hon. - Rất khó để vượt qua và - ức chế tâm cứ thế, cứ thế tích dần lên.


Chúng ta, ngay tại đây đã thấy rõ: Hôn trầm thuỵ miên là gì và đã hoá duyên nó ngay từ sớm ở chỗ này với dục như ý túc và sự nhẫn tỉnh giác, tỉnh thức không buông lơi thực hành Đạo Đức Thế Tôn.


Định của chúng ta sau này mà khi đạt được, nó khác rất nhiều cái định của mọi người phải ngồi kiết già nhập định. Xả kiết già ra thế… ai dám nói: Tôi đang định đây?
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Hôm nay, chúng ta sẽ bắt đầu “trang nghiêm Phật Quốc”. Khả năng, sẽ bất khả tư nghì, nhưng đã đi đến đây, trang nghiêm Phật Quốc là thứ mà ai ai rồi cũng sẽ thấy. Sự bất khả tư nghì, khả năng còn vượt xa những cái tưởng về Phật mà chúng ta đã tưởng được từ trước tới giờ.


Tất nhiên rồi, đây là trang nghiêm tâm của chúng ta. Dù từ “trang nghiêm” đã được sử dụng từ sớm phía đầu luận, tuy nhiên, đến đây, khả năng chúng ta mới có thể tiếp cận: Trang Nghiêm và Phật Quốc là gì.


Cùng khuyến tấn, chúng ta sớm thấy những điều sau.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Có rất nhiều phương pháp trang nghiêm. Chúng ta thấy rằng, trang nghiêm Cực Lạc khả năng phù hợp với nhiều người nhất và trang nghiêm Hoa Nghiêm - trúc trắc khó hành nhất. Dù sao, cấp cảnh cuối cùng - chúng ta không thể đủ sức thấy biết hay mảy may đả động thực hành theo được khi này.


Một số hành trang chúng ta có bây giờ sẽ phục vụ việc trang nghiêm. Các phương pháp trang nghiêm có sự khác nhau rất rõ, ví dụ:

1/ Trang nghiêm theo Hoa Nghiêm - dù kể cả chúng ta đọc Kinh như nước đổ đầu vịt thì cấp cảnh có vẻ thăng dần qua các tầng trời rồi vượt ra ngoài.v.v. - Việc sử dụng phương tiện này, chúng ta thấy nhiều người không theo được, chúng ta khó lòng hoàn mỹ trang nghiêm.

2/ Trang nghiêm theo Cực Lạc - dù chúng ta có thực sự không thích theo cách này, nhưng chúng ta thấy: Trong những phương tiện trang nghiêm tâm, chẳng có phương tiện nào có thể dễ hiểu và phù hợp hơn. Đặc biệt, với những gì chúng ta trước tác từ đầu luận đến đây.


Như vậy, chúng ta sẽ diệu dụng phương tiện trang nghiêm cực lạc - Chúng ta nhớ, chớ chấp Pháp. Vì phía tới có thể toàn những thứ bất tư nghì được trước tác ra, tuy nhiên, trang nghiêm Cực Lạc cũng chỉ là 1 Pháp Phật ở thế mà thôi. Pháp thì sinh diệt. Thứ Báu thường hằng như đã nói mới là thứ thường.

Chúng ta phải đạt được tâm trang nghiêm chứ không phải pháp trang nghiêm hay pháp sử dụng pháp trang nghiêm tâm.


Không trang nghiêm tâm, muôn kiếp luân hồi. Có vào định diệt thọ tưởng và “hưởng lạc” trong định này thì đến ngày kiếp diệt, thế hoại… - hỏi còn cái gì trong định thế là không rơi ra? - trong khi đã vào đại định diệt thọ tưởng thì 1 kiếp cũng chỉ là sát na chớp mắt - bởi thế cái “lạc” phù phiếm này cũng chẳng kéo dài là vậy (là đối với người có định này) - còn chúng ta ở thế thì “hệ thời gian” quy chiếu khác, sẽ thấy, 1 kiếp vũ trụ, thế giới sinh thành hoại diệt đã luân hồi vô lượng đời. Với nhiều người khác thì vô lượng cũng chỉ là một. Mà cũng với họ, khả năng vô lượng đối với người khác lại chưa là 1. Dùng thời gian (hệ quy chiếu hiện thế) để tính toán vô lượng - là một thứ “nhảm nhí” nhất của người tu Đạo.



Như vậy, chúng ta trang nghiêm tâm.

Trang nghiêm tâm là trang nghiêm gì, trang nghiêm thế nào?

- Không thể nào dùng lời văn mà văn tả được hết cái gọi là “trang nghiêm tâm”. Nhưng chúng ta có thể tưởng: Trang nghiêm tâm chính là: “Nhân bản” 1 tia từ bi đã thấy thành vô lượng tia từ bi tràn khắp 10 phương (đông, tây, nam, bắc, đông bắc, tây bắc, đông nam, tây nam, trên, dưới) của tâm (tức là hình cầu theo quy chiếu 3 chiều không gian ở thế) và cái tâm này sẽ “thường hằng” - tức là không suy suyển ở cả 3 thời: Quá khứ, hiện tại, tương lai (theo quy chiếu thời gian ở thế).


Điều này có nghĩa, toàn bộ tâm sáng rực khắp 10 phương, biến mãn khắp viên bi tâm, không còn 1 nơi nào dù là nhỏ như “vi trần, nhỏ hơn vi trần” còn chứa tia vô minh - gọi là vô lượng quang. - Nhưng như này, vẫn chưa “lậu tận minh” đâu. Bởi mọi pháp trang nghiêm sau này chúng ta đều sẽ thấy: Vô lượng Quang này có thể chiếu bao xa - tức là chiếu mãn 10 phương nhưng rọi tới bao nhiêu quốc Phật khác - lậu tận minh là xa vô lượng. - Chúng ta chưa cần tưởng chỗ này.


Tưởng điều này, đã bất tư nghì, còn chứng thấy thì bất tư nghì nữa. Chúng ta hướng tới là: Chứng và trú. Không hướng tới tưởng pháp vì có đạt pháp bất tư nghì - nó ở trong đầu thì cũng chỉ là tưởng chứ có gì khác. Chứng và trú. Không chấp pháp.


Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Tiểu luận 197: Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ


Chúng ta đã biết, chúng ta có 5 ấm - 5 cái nơi chứa lực này nó “khủng bố” tới mức vũ trụ, thế giới và nhiều thứ còn chưa thể tưởng được khác cũng chịu sự chi phối kiểm soát của nó. - Sắc, thọ, tưởng, hành, thức.


Kiếp trược, là một thứ lực “yếu đuối” ít năng lượng nhất trong cái mớ 5 nguồn lực này. Vậy nhưng nó lại là thứ mà hầu như chúng ta “không thể vượt quá”. Đức Thế Tôn còn gọi là “vọng tưởng kiên cố”. - Thứ này, được thể tánh bởi sắc - thứ mà ở ngôn từ hiện đại gọi là “vật chất/năng lượng”. Với sự đa văn, chúng ta rõ hơn rất nhiều về sắc, chúng ta sẽ phá bỏ được cái ấm này thôi.

Ở phía trước, chúng ta đã thấy đủ các pháp được sử dụng cụ thể để mài các sợi dây tham sân si nghi. Sợi dây ngã mạn (hành) tuy về lý đã được giới thiệu nhiều ở phía trước nhưng về việc sử dụng pháp vô ngã như thế nào thì chưa được nói rõ dù thực tế, trong hệ thống giới kinh có rất nhiều pháp hướng dẫn sử dụng phương tiện vô ngã như Quán.

Tuy nhiên, với những gì văn tu tư và Quán được chúng ta đã biết thấy rõ: Nếu như tập trung chặt sợi dây này mà các sợi dây kia không được chặt tương ứng - nó sẽ làm chúng ta thành “vô hành”. Khi rơi vào trạng thái hôn trầm thuỵ miên do vô hành (bởi vô ngã đã thấy lý, nên vô hành)… chúng ta sẽ vô hành luôn cả Đạo Đức Thế Tôn và lúc này, tri kiến xuất hiện: Chúng ta đã chứng quả rốt ráo thù thắng = Đoạ Ma như vẫn thường nói.


Quá trình tu tập, chúng ta luôn phải thấy “sự hiểm nguy trong những điều nhỏ nhặt” - Nhưng đừng uý kỵ. - Chúng ta lại phải “vô uý”. Muốn có vô uý thì tia minh và dục như ý túc … sẽ cấp lực.


Chúng ta không được rơi vào trầm luân bởi những sự vô minh bất cẩn như: Tập trung không phân biệt, tập trung vô ngã, tập trung định diệt thọ tưởng, tập trung vô ký… - Đây đều là những thứ ở chỗ đó nhưng phải nhớ, chúng ta chưa thể 1 bước đạt cấp cảnh đó khi chưa lần lần lượt lượt bước đi. Đường là để đi. Đường không thể nào là để Đức Thế Tôn nhọc công chỉ ra rồi chúng ta “ảo tưởng sức mạnh” - chỉ cần ngộ lý là có thể “na di - di chuyển tức thời, xuyên không” tới ngay đích (kết quả). Nên cần “nhẫn” lần lần từng bước.




Như vây, ở đây, chúng ta còn biết, tự biết và rõ tự thấy biết: Chúng ta vẫn còn để 1 tia của “cái tôi”. - Dùng cái tia “cái tôi” này để Thọ Quả Phật.


Từ đầu luận đến giờ chúng ta rất rõ: Chúng ta đã tác duyên Phật. Vậy là đến đây, dù sớm hay muộn, đã hay chưa, chúng ta biết rất rõ: Những duyên đã tác, sớm muốn trả quả, dù bằng hình thức nào, cách nào, lúc nào…

Đã trả quả, cần phải thọ. Cái gì thọ? - Nếu chúng ta, đến đây mà đã “tu thành vô ngã” thì .. chúng ta có thể thọ? Nếu chúng ta không thọ (vì đã vô ngã) thì cái gì thọ? - Hay sẽ tự tin: Nhân quả cũng chỉ là ảo mộng (giống như những phần kinh đã bị sửa) nên vô ngã rồi là không thọ - đây là lý do không thọ quả Phật. Thật tiếc, kiểm chứng điều này: - Đúng, nhưng chứng được điều này, người này phải tự thấy tâm làm được đủ mọi diệu dụng, xuất thần nhập hoá, đi mây về gió..v.v. - không phải là người trời nữa, mà là người Phật. Không tự chứng được thế này, vẫn ngồi “an lạc” ở 1 nơi ở thế - rồi tự cho “mình” đã tu tới vô thọ, vô ngã, niết bàn hiện tại.v.v.v - Đây đều là “bịt tai trộm chuông”, ảo giác tưởng cả.


Như vậy, là một người thực hành (hành giả) tu Đạo Đức Thế Tôn, còn ở thế - chưa đạt Đạo xuất thế gian - Chúng ta còn thọ.


Nhưng thọ khổ, thọ dục lạc, thọ không khổ không lạc - Có phải là thứ chúng ta thấy: Đây chính là kết quả của duyên Phật nở quả?


Vậy, duyên Phật nở Quả Thọ… là Quả Thọ gì?


- Chúng ta tạm thời cần phải đọc rất nhớ 2 Đại Kinh Trang Nghiêm: Vô Lượng Thọ (Quả Phật) và Quán Vô Lượng Thọ (Quả Phật)


Chúng ta ghi thêm hai từ (Quả Phật) để chúng ta sớm thấy diệu dụng nhiệm màu. Còn có thêm hai từ này hay không, rất rõ như chúng ta vẫn nói: Tên Kinh như ý nghĩa.




Sau khi có văn về hệ thống giới Kinh về 2 Kinh này. Chúng ta sẽ tương tác trên 2 phương tiện này (Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ) rất nhiều, vì chúng ta sẽ trang nghiêm ra tâm gọi là Cực Lạc.


Tuy để đạt Cực Lạc chân chính thì còn “vô lượng kiếp trang nghiêm” nhưng ngay đây, chúng ta mới thấy “hiện tại an lạc trú” nó chỉ là “tiểu sự kỳ đặc” trên con đường Đạo Đức Thế Tôn khi áp dụng (sử dụng) đúng phương tiện trang nghiêm tâm với những gì chúng ta đã có từ đầu tới chỗ này.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

(72 tiếp)

Chúng ta hệ thống lại một số vấn đề khi đến đây.

1/ Tia tâm từ là tia tánh. Cần phải chứng thấy tia này. Đừng tưởng và đừng pháp (tức là tri kiến về tâm từ, tia sáng tâm từ)…

2/ Dục như ý túc là chỉ cần 1 dục này, dục giải thoát. Tứ chánh cần dục này. Từ đầu tập luận đến giờ, chúng ta theo được, chúng ta đã tứ chánh cần dục này. Có dục này (chứng thấy), duy trì (trú) được dục này… mới có phía sau.

3/ Sở cầu bất đắc - thì khổ. Như vậy, dục như ý túc cũng phải được thoả mãn (hay đắc thọ). Thọ gì khi dục là dục như ý túc - Là thọ vô lượng quang - phần sắp tới.

4/ Kinh Sa Môn quả là kinh chỉ lý hành sự. Kết quả Phật. Cái gọi là tiểu thừa là lý hành. Cái gọi là đại thừa chỉ sự hành.

5/ Chuyển Pháp Luân - Đạo Đức Thế Tôn - chỉ chuyển 1 luân. Luân số 6. Luân trí tuệ, luân xuất thế gian. Chuyển luân số 6, các luân khác đều chuyển.

6/ Không thể nào sử dụng thứ định ức chế tâm để phá cửa Đạo.

7/ Không thể nào dùng ngoại lực mà lại có thể phá cửa Đạo.

8/ Ma và Phật là một niệm phân biệt vô minh và minh. Ma cấp cao nhất chỉ thiếu lậu tận minh. Phật là cấp đạt lậu tận minh và nhiều hơn thế nữa.

9/ Đạo Đức Thế Tôn không phân biệt căn cơ, tâm tính điên đảo hay phước nghiệp đồng dị ra sao. Bình đẳng với tất cả.

10/ Phải an trú tâm được trong chánh niệm hành.

11/ Niệm gồm niệm tưởng và niệm hành. Tưởng gồm tưởng vọng (vọng tưởng) và tưởng quán. Quán gồm quán tưởng và quán thấy.

Vọng Tưởng: Ví dụ: Chúng ta đang là người bình thường ở đời đây nhưng lại tưởng mình đang là Phật hay tưởng mình chỉ một thời gian mấy năm, một đời này ở phía trước sẽ thành Phật. Đây là tưởng.
Tưởng Quán: Ví dụ: Chúng ta chưa bao giờ gặp Phật cũng chưa gặp ai nói họ đã gặp Phật. Nhưng chúng ta tin có Phật. Chúng ta tưởng ra một vị Phật cụ thể. Chúng ta lấy cái tưởng đó để hướng tới và thực tập theo cái đã tưởng này. Đây là tưởng.

Đều là tưởng nhưng 2 sự khác nhau. Không có tưởng quán không bao giờ có điện, điện thoại, internet cho chúng ta, tất nhiên, cũng không bao giờ có Đức Thế Tôn và các vị Phật. Nhưng vọng tưởng là thứ phù phiếm nhất mà đến đây chúng ta đã phải diệt trừ có kết quả rõ rệt - vì có làm được thế này mới có cái số 10/ là: An trú tâm vào chánh niệm được.

12/ Tâm điên đảo vọng tưởng là tâm dính mắc vô lượng trần ở khắp 10 phương và 3 thời. Nhiếp tâm là thu tâm lại, chặt đứt các sự dính mắc. Khi nào không còn 1 sự dính mắc thì thân tâm thấm vào nhau. Cô đọng ra viên bi tâm - viên bi tâm đủ 10 phương 3 thời. Nếu chiếu ở thế thì nó là hình cầu không biến đổi bất cứ gì theo thời gian.

Viên bi tâm sẽ phát ra trường tâm từ. Khi bi tâm không còn dính mắc gì, tự tính của nó - nó tự phát sáng.


13/ Không thể nào phá mở luân 6 hay bất cứ luân nào để lấy ánh sáng bên ngoài chiếu vào bi tâm mà cho rằng: Đây là bi tâm sáng. - Đây là bịt tai trộm chuông - không thể giải thoát theo Đạo Đức Thế Tôn.


14/ Muốn bi tâm phát sáng, bắt buộc từ tính của tâm phải biến mãn khắp 10 phương 3 thời hay muốn từ tính của tâm biến mãn khắp 10 phương 3 thời thì bi tâm phải được cô đọng, phát sáng toàn tâm. - Điều này muốn có được phải Tu, phải có pháp tu, phải biết pháp sử dụng pháp tu. Từ đầu đến đây và ở phía sau sau nữa - chuyện thực hành điều này còn được tiếp diễn trước tác.

15/ Định ức chế tâm (thứ định bằng các pháp môn hằng hà sa số lượng) - là thứ định ép ức chế tâm dứt bỏ mọi thứ dính mắc, ép tâm cô đọng, nhiếp vào. Nó ra bi tâm, ra định nhưng khi này làm đủ mọi cách nó cũng không sáng, không thấy trường từ tính của tâm. Nếu như lúc này phá bỏ luân 6, dùng ánh sáng bên ngoài chiếu vào - chẳng còn cơ hội tốt hơn cho các Thiên Ma cao cấp nhất vào lập Quốc Độ của họ. Điều này không có nghĩa Đạo Hạnh thấp kém, nhưng không thể giải thoát nếu như không thắng được Thiên Ma. Mà thiên ma là gì thì người có Đạo Hạnh ở pháp này càng cao, càng trải qua thời gian trôi càng tự thấy rõ.

16/ Nhiếp chế tâm vào định là nhiếp chế nhân quả, nhiếp chế sắc, nhiếp chế thọ (phước nghiệp), nhiếp chế tưởng, nhiếp chế hành, nhiếp chế thức. Sử dụng lý nhân quả để nhiếp tâm. Không ức chế tâm. Điều 15 và 16 dường như chỉ khác biệt những niệm (chi tiết) nhỏ nhặt. Một bên là nhẫn, kiên trì nhẫn để lấy thời gian điều hoà tâm (cởi sợi dây nhân quả). Còn một bên là ức chế tâm rồi lấy Đạo Hạnh, dùng thời gian điều hoà tâm (diệt ma). .


Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

(72 tiếp)

17/ Khi thấy tia tâm từ, cấm giới đầu tiên là: Không sát sanh. Nếu phạm giới, vô minh sẽ lại có lực để tràn vào xua minh. Nhớ.

18/ Năm giới cơ bản phải được thực hành và trau dồi bằng tứ chánh cần. Khi chứng cụ túc giới thì đại giới tỳ kheo, tỳ kheo ny phải được tự chứng thấy. - Về mặt lý: Chứng thấy đã cụ túc vô lượng giới, không còn bất kỳ một nơi nào còn phải lo sợ, đề phòng. Về mặt sự, 250, 370, 25, 13 hay 5 - điều này chỉ là con số - là thứ tưởng pháp sinh diệt. Về mặt trú: Bắt buộc phải thấy an trú trong giới cấm “không sát sinh” kể từ khi thọ cụ túc và chứng. Không thể nào phạm giới này dù là “cái gì đó” nhỏ nhoi nhất. - Người tự chứng thấy và an trú được thì sẽ thấy biết rõ lý và sự ở đây.

19/ Văn tu tư mới có giới định huệ. Không văn tu tư đủ đầy thì giới chẳng bao giờ cụ túc nổi.

20/ Trung là Đạo Đức Thế Tôn. Đến đây, vẫn chỉ thấy trọng tu “tinh thần” - thường vẫn được gọi là tâm. Tuy nhiên, từ 197 về phía sau, đã bắt đầu trang nghiêm dù vẫn trọng tinh thần nhưng cái thân mới sẽ bắt đầu nhen nhóm. Báo thân vô vị, hoá thân diệu dụng, pháp thân là “chân ngã”

21/ Rốt ráo nhất cuối cùng ở nơi cuối cùng của con đường: Người hành giả sẽ thấy: Dứt bỏ tham, sân, si, mạn thực sự đơn giản và dễ dàng nếu so với dứt trừ NGHI. Cuối cùng, ở nơi đó, ai rồi cũng thấy: Nghi là từ ngữ diễn nghĩa cho một thứ thực sự bất tư nghì. Vì còn nghi nên mới còn phân biệt, còn phải trái đúng sai, còn Phật còn Ma, còn… - Toàn những thứ bất tư nghì. Ai cũng nghĩ: Ta đã dứt trừ nghi từ sớm, sớm nhất, tin tuyệt đối vào Chánh Pháp Đạo Đức Thế Tôn.v.v.v. - Nhưng chỉ ai có cơ hội đến đó mới thấy: Vô thượng trí tuệ, hoá ra không phải chỉ là cái thứ giản đơn như đã hiểu: Dứt trừ vài nghi hoặc ở đời hay với Pháp Phật.

Thứ nghi hoặc lớn nhất đó là thứ: Thấy.

Thấy mà nghi hoặc? - Đến đó, cấp độ đó, thấy và cái thấy là gì, khi đã thấy hết mới thấy: Nghi hoặc là gì.

Dù sao còn lâu chúng ta mới tới chỗ này khi đối chiếu vị trí trước tác hiện tại.


22/ Tên như ý nghĩa. Tên Phật và Chư Vị Tôn Đức, tên Kinh, tên Pháp - Tên như ý nghĩa.

23/ Như vậy, 22/ là thứ bên ngoài. Đây là DANH. Phá danh, thì danh sắc không còn vì (sắc là nút dễ ợt nhất, kiểu gì cũng phải cởi được khi đã phát nguyện dục như ý túc). Phá đi danh sắc - thứ còn lại để tu là: Trang nghiêm Tâm Phật. - Rất rõ, không bao giờ là trang nghiêm Phật Thích Ca Mâu Ni, A Di Đà, Di Lặc, hay các vị Phật khác. Cũng chắc chắn không phải “trang nghiêm cái tâm ta, tâm tôi” mà chúng ta đang dùng tại vị trí đây.

Trang nghiêm là trang nghiêm Tâm Phật. Không phải các vị Phật bên ngoài. Cũng chẳng phải cái tâm ta, tâm tôi. Vậy Tâm Phật nào?
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

197 (Tiếp)


Trích: Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Việt dịch: Thích Trí Tịnh.

(Quán Cực Lạc Quốc Độ Vô Lượng Thọ Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát!)


“ Như vậy, tôi nghe một lúc đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai ở tại thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật, cùng chúng đại Tỳ Kheo một ngàn hai trăm năm mươi người câu hội.

Chúng Bồ Tát có ba vạn hai ngàn, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử đại Bồ Tát làm thượng thủ.

Lúc bấy giờ thành Vương Xá có một Thái Tử tên là A Xà Thế thuận theo lời bảo của ác hữu Điều Đạt bắt vua cha Tần Bà Sa La nhốt trong nhà tối bảy từng cửa, cấm các quan không một ai được vào.

Quốc Thái phu nhơn tên là Vi Đề Hi cung kính Đại Vương, tắm gội sạch sẽ, lấy tô và mật nhồi mì sợi rồi trét lên thân, trong hột chuỗi ngọc đeo đựng nước nho, đi vào ngục thăm Đại Vương kín đáo dân lên.

Đại Vương Tần Bà Sa La ăn mì uống nước nho rồi xin nước súc miệng. Súc miệng xong. Đại Vương chắp tay cung kính hướng về núi Kỳ Xà Quật vói đãnh lễ Thế Tôn mà bạch rằng : “Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên là thân hữu của tôi, nguyện hưng từ bi truyền thọ giới Bát Quan Trai cho tôi”.

Liền đó Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên như chim ưng bay mau đến chỗ vua, truyền giới bát Quan Trai cho vua.

Ngày ngày đều như vậy, đến truyền giới cho vua.

Đức Thế Tôn cũng sai Tôn gỉa Phú Lâu Na đến vì vua mà thuyết pháp.

Thời gian như vậy trải qua hai mươi mốt ngày, Đại Vương Tần Bà Sa La ăn mì mật, uống nước nho, lại được thọ giới Bát Quan Trai, được nghe thuyết pháp nên nhan sắc vua hòa vui.

A Xà Thế hỏi người giữ cửa ngục rằng : “Hôm nay Phụ Vương ta vẫn còn sống ư ?”.

Người giữ cửa ngục tâu rằng : “Tâu Đại Vương ! Quốc Thái phu nhơn trên thân trét mì mật, trong chuỗi ngọc đựng nước nho đem dâng lên vua. Còn có Sa Môn Đại Mục Kiền Liên và Phú Lâu Na đi từ trên hư không đến vì vua thuyết pháp chẳng thể cấm cản được”.

A Xà Thế nghe lời ấy giận mẹ mình rằng : “Mẹ ta là giặc làm bạn với giặc. Sa Môn ác nhơn huyễn hoặc chú thuật khiến ác vương ấy nhiều ngày mà chẳng chết”.

A Xà Thế liền cầm gươm bén muốn giết mẹ.

Lúc ấy có một đại thần tên là Nguyệt Quang thông minh nhiều trí cùng với Kỳ Bà đến lễ vua A Xà Thế mà tâu rằng : “Tâu Đại Vương ! Chúng thần nghe Tỳ Đà Luận kinh nói từ kiếp sơ đến nay có các ác vương vì tham ngôi vua mà giết hại cha mình đến số một vạn tám ngàn. Chưa từng nghe nói có kẻ vô đạo hại mẹ. Nay Đại Vương làm sự sát nghịch nầy ô uế dòng Sát Đế Lợi. Chúng thần chẳng nỡ nghe. Đây là Chiên Đà La. Chúng tôi chẳng nên còn ở lại nơi đây”.

Hai vị đại thần tâu rồi lấy tay vỗ lên gươm đeo lui mà ra.

A Xà Thế kinh sợ hãi hùng bảo Kỳ Bà rằng : “Còn anh cũng chẳng vì ta chăng ?”.

Kỳ Bà tâu rằng : “Đại Vương cẩn thận chớ có hại mẹ”.

A Xà Thế nghe lời ấy sám hối cầu cứu liền bỏ gươm thôi không hại mẹ, truyền lịnh cho nội quan nhốt mẹ vào thâm cung chẳng cho ra nữa.

Vi Đề Hi bị giam nhốt rồi sầu lo tiều tụy vói hướng về núi Kỳ Xà Quật lạy Phật mà nói rằng : “Ngày trước đức Như Lai Thế Tôn thường sai Tôn gỉa A Nan đến thăm hỏi tôi. Nay tôi sấu lo, đức Thế Tôn oai trọng không sao được thấy. Duy nguyện đức Thế Tôn sai các Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên và A Nan đến cho tôi được thấy”.

Nói xong, Vi Đề Hi buồn khóc lệ rơi như mưa vói hướng lạy Phật, trong khoảng thời gian chưa cất đầu lên.

Đức Thế Tôn ở núi Kỳ Xà Quật biết tâm niệm của Vi Đề Hi liền bảo Đại Mục Kiền Liên và A Nan đi trên hư không. Đức Phật từ núi Kỳ Xà Quật ẩn mất hiện ra nơi vương cung.

Vi Đề hi lạy rồi ngước đầu lên thấy Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật thân màu tử kim ngồi trên hoa sen trăm báu. Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên hầu bên tả, Tôn gỉa A Nan hầu bên hữu. Trong hư không hàng Phạm Vương, Đế Thích, Hộ Thế Tứ Vương mua hoa trời khắp nơi để cúng dường.

Vi Đề Hi thấy Phật Thế Tôn liền tự bứt chuỗi ngọc cả thân mình giao xuống đất kêu khóc hướng Phật mà chạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Xưa tôi tội gì mà sanh đứa ác tử ấy. Đức Thế Tôn lại có nhơn duyên gì mà cùng làm quyến thuộc với Đề Bà Đạt Đa. Duy nguyện đức Thế Tôn vì tôi mà nói rộng những xứ không có lo khổ tôi sẽ vãng sanh, tôi không còn thích cõi Diêm Phù Đề trược ác thế nầy. Xứ trược ác nầy đầy những địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhiều khối bất thiện. Nguyện tôi đời vị lai chẳng nghe danh từ ác, chẳng thấy người ác. Nay tôi hướng về Thế Tôn năm vóc gieo xuống đất cầu thương cho tôi sám hối. Duy nguyện Phật Nhựt dạy tôi quán nơi xứ nghiệp hành thanh tịnh”.

Đức Thế Tôn phóng ánh sáng giữa hai mày, ánh sáng ấy màu chơn kim chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới trở về trụ tại đỉnh đầu Phật hóa làm đài chơn kim lớn như núi Tu Di, bao nhiêu quốc độ thanh tịnh vi diệu của mười phương chư Phật đều hiện rõ trong đài vàng ấy. Hoặc có quốc độ thất bữu hiệp thành. Hoặc có quốc độ thuần là liên hoa. Lại có quốc độ như tự tại Thiên cung. Lại có quốc độ như gương pha lê. Có vô lượng quốc độ chư Phật như vậy trang nghiêm xinh đẹp khiến Vi Đề Hi được thấy.

Vi Đề Hi bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Dầu các Phật độ ấy đều thanh tịnh đều có quang minh. Nay tôi thích sanh về Cực Lạc thế giới chỗ của đức Phật A Di Đà.

Duy nguyện dức Thế Tôn dạy tôi tu duy, dạy tôi chánh thọ”.

Đức Thế Tôn liền mĩm cười có ánh sáng ngũ sắc từ miệng Phật phóng ra, mỗi mỗi ánh sáng chiếu đỉnh đầu vua Tần Bà Sa La.

Dầu bị giam cầm ngục tối, tâm nhãn vua không chướng ngại xa thấy đức Thế Tôn, vua đầu mặt lạy Phật tự nhiên tăng tiến đạo lực thành bực A Na Hàm.

Đức Phật bảo Vi Đề Hi : “Nay Thái phu nhơn có biết chăng ?

Phật A Di Đà cách đây chẳng xa, bà nên nhiếp niện quán kỹ cõi nước ấy thì tịnh nghiệp được thành.

Nay ta sẽ vì bà mà nói rộng pháp quán, cùng khiến đời vị lai tất cả hàng phàm phu, những người muốn tu tịnh nghiệp được thọ sanh Tây phương Cực Lạc quốc độ.

Nầy Vi Đề Hi ! Người muốn sang nước Cực Lạc ấy nên tu ba phước:

Một là hiếu nuôi cha mẹ, kính thờ bực Sư trưởng, có tâm nhơn từ chẳng giết hại và tu tập mười nghiệp lành.

Hai là thọ trì tam quy y đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi.

Ba là phát tâm Bồ đề sâu kín nhơn quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa và khuyên dạy sách tiến người tu hành.

Ba sự như vậy gọi là tịnh nghiệp.

Nầy Vi Đề Hi ! Nay bà có biết chăng ? Ba tịnh nghiệp ấy là chánh nhơn tịnh nghiệp của tam thế chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi rằng : “Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ nhớ kỹ. Nay Như Lai vì tất cả chúng sanh đời vị lai, những kẻ bị giặc phiền não nhiễu hại mà nói nghiệp thanh tịnh.

Lành thay cho Vi Đề Hi khéo hỏi được việc ấy.

Nầy A Nan ! Ông nên thọ trì rộng vì đại chúng mà tuyên nói lời Phật.
Hôm nay Phật vì Vi Đề Hi và vị lai tất cả chúng sanh quán nơi Tây phương Cực Lạc quốc độ, do nguyện lực Phật nên sẽ được quốc độ thanh tịnh ấy như cầm gương sáng tự thấy hình tượng mặt mình. Thấy những sự vui cùng cực vi diệu của quốc độ ấy nên tâm vui mừng liền được Vô sanh pháp nhẫn”.

Đức Phật bảo Vi Đề Hi : “Bà là phàm phu tâm tưởng yếu kém chưa được thiên nhãn chẳng thể thấy được xa. Chư Phật Như Lai có phương tiện lạ khiến bà được thấy”.

Vi Đề Hi bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Như hôm nay tôi nhờ oai lực của đức Phật Thế Tôn mà được thấy quốc độ Cực Lạc ấy. Nếu sau khi đức Phật Thế Tôn diệt độ, các chúng sanh trược ác bất thiện bị ngũ khổ bức ngặt, họ làm thế nào có thể được thấy A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới ?”.

Đức Phật bảo Vi Đề Hi : “Bà và chúng sanh nên phải chuyên tâm buộc niệm một chỗ tưởng nơi phương Tây.

Tưởng niệm thế nào ?

Tất cả chúng sanh những người có mắt sáng mà chẳng phải là kẻ sanh manh thì đầu thấy mặt nhựt lặn cả.

Phàm người tu tập quán tưởng nên phát khởi tưởng niệm, ngồi ngay thẳng hướng về phía Tây quán kỹ chỗ mặt nhựt sắp lặn khiến tâm niệm trụ vững chuyên tưởng nhớ chẳng đời. Thấy mặt nhựt sắp lặn đang như mặt trống đồng treo. Đã thấy mặt nhựt rồi, nhắm mắt mở mắt đều khiến phải sáng tỏ. Đây là nhựt tưởng, gọi là pháp quán ban đầu.

Kế đó quán tưởng nước. Thấy nước đứng trong, cũng khiến phải sáng tỏ, ý tưởng không phân tán, đã thấy nước rồi nên quán tưởng băng, thấy băng chói suốt tưởng làm lưu ly. Tưởng nầy thành rồi thấy đất lưu ly trong ngoài suốt chói, phía dưới có trăng vàng kim cương thất bữu bưng chống đất lưu ly. Kim tràng ấy tám phương đầy đủ tám cạnh. Mỗi mỗi phương diện do trăm châu báu làm thành. Mỗi mỗi bửu châu có ngàn ánh sáng. Mỗi mỗi ánh sáng có tám vạn bốn ngàn màu chói đất lưu ly sáng như ức ngàn mặt nhựt chẳng thể thấy đủ hết được.

Trên đất lưu ly có dây hoàng kim xen kết lẫn lộn với thất bữu giăng phân ranh giới chừng ngằn ngang rộng phân minh. Trong mỗi mỗi thất bữu ấy có ánh sáng ngũ sắc. Anh sáng ấy như đoá hoa lại có như sao như trăng lững lờ trên hư không tụ thành đài ánh sáng. Có ngàn vạn lầu các do trăm báu hiệp thành. Hai bên đài đều riêng có trăm ức hoa tràng với vô lượng nhạc khí dùng làm trang nghiêm. Tám thứ gió mát từ ánh sáng phát ra xao động các nhạc khí ấy vang ra tiếng diễn nói khổ không, vô thường, vô ngã.

Đây là thủy tưởng gọi là pháp quán thứ hai.

Lúc quán tưởng nầy đã thành phải mỗi mỗi sự quán thấy thiệt rất rõ ràng. Lúc nhắm mắt lúc mở mắt chớ để tan mất, chỉ trừ lúc ăn, thường nhớ sự ấy. Như tưởng quán ấy gọi là thô thấy đất Cực Lạc quốc độ. Nếu được tam muội thì thấy đất cõi nước Cực Lạc tỏ rõ phân minh chẳng thể nói đủ hết. Đây là địa tưởng gọi là pháp quán thứ ba.

Đức Phật bảo Tôn giả A Nan : “Nầy A Nan !Ông thọ trì lời Phật vì đời vị lai tất cả đại chúng những người muốn thoát khổ mà nói pháp quán địa ấy. Nếu người quán địa ấy thì trừ được tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp, bỏ thân hiện tại, đời khác quyết định thọ sanh quốc độ thanh tịnh, tâm được không nghi.

Quán tưởng đây gọi là chánh quán. Nếu quán tưởng khác thỉ gọi là tà quán”.

Đức Phật bảo Tôn giả A Nan và Vi Đề Hi : “Địa quán thành rồi, kế tưởng bửu thọ.

Người quán cây báu phải quán mỗi mỗi cây. Tưởng bảy lớp hàng cây báu. Mỗi cây báu cao tám ngàn do tuần. các cây báu ấu đều đầy đủ bông lá bảy báu. Mỗi mỗi bông lá tưởng màu khác lạ. Trong màu lưu ly phóng ánh sáng màu hoàng kim. Trong màu pha lê phóng ánh sáng màu hồng. Trong màu mã não phóng ánh sáng màu xa cừ. Trong màu xa cừ phóng ánh sáng màu lục chơn châu. San hô hổ phách tất cả các báu dùng làm chói đẹp. Màn lưới diệu chơn châu giăng che trên cây báu. Trên mỗi mỗi cây báu có bảy lớp màn lưới. Khoảng mỗi mỗi lưới có năm trăm ức cung điện xinh đẹp vi diệu như cung Trời Phạm Vương, có các thiên đồng tử tự nhiên ở trong ấy. Mỗi mỗi đồng tử có năm trăm ức châu ma ni Thích ca tỳ lăng già dùng là chuỗi đeo. Anh sáng mỗi châu ma ni ấy chiếu trăm ức do tuần, dường như hòa hiệp ánh sáng của trăm ức nhựt nguyệt chẳng thể kể hết. Các báu xen lẫn màu sắc sáng đẹp nhứt trong các màu sắc.

Các cây báu ấy hàng hàng ngay nhau, lá lá kế nhau. Giữa khoảng các lá sanh những hoa vi diệu. Trên hoa tự nhiên có quả thất bửu. Mỗi mỗi lá cây ngang rộng đều hai mươi lăm do tuần. Lá ấy có ngàn màu trăm thứ lằn vẽ như chuỗi ngọc Trời. Có những hoa vi diệu màu diêm phù đàn kim như vòng lửa xoay chói sáng uyển chuyển khoảng giữa lá, vọt sanh những quả như bình báu của Thiên Đế Thích, phóng đại quang minh hóa thành tràng phan và vô lượng lọng báu. Trong lọng báu ấy chói hiện tất cả Phật sự trong toàn cõi thế giới, thập phương thế giới chư Phật cũng hiện bóng trong lọng báu ấy.

Thấy bửu thọ ấy rồi cũng phải mỗi mỗi quán sát thấy thân cây nhánh lá bông trái đều phải phân minh.

Đây là thọ tưởng gọi là pháp quán thứ tư.

Kế nên tưởng nước.

Người muốn tưởng nước nên biết Cực Lạc thế giới có ao nước bát công đức. Mỗi mỗi ao nước bảy báu làm thành. Báu ấy như nhuyến từ như ý châu vương sanh chia làm mười bốn chi, mỗi mỗi chi làm sắc đẹp bảy báu. Hoàng kim làm lòng ao. Dưới lòng ao có kim cương nhiều màu làm cát trắng đáy.

Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần. nước ma ni chảy rót trong khoảng lá theo thân cây sen mà lên xuống phát ra âm thanh vi diệu diễn nói khổ, không, vô thượng, vô ngã, các Ba la mật, còn có tiếng tán thán tướng hảo của chư Phật.

Như ý châu vương phóng ra ánh sáng vi diệu màu hoàng kim. Ánh sáng ấy hóa ra các giống chim màu trăm báu hòa hót êm nhã thường tán thán niệm Phật, niệm Phật, niệm Tăng.

Đây là tưởng nước bát công đức gọi là pháp quán thứ năm...”
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Trích Kinh Quán Vô Lượng Thọ (tiếp)


“… Trong quốc độ Cực Lạc diệu bửu ấy, mỗi mỗi khu vực có năm trăm ức lầu báu. Trong lầu các ấy có vô lượng chư Thiên trỗi thiên kỹ nhạc. Còn có nhạc khí treo ở hư không như bửu tràng cõi Trời chẳng đánh tự kêu. Trong các âm thanh ấy đều diễn nói niệm Phật, niệm Phật, niệm Tỳ Kheo Tăng.

Pháp tưởng nầy thành rồi gọi là thô thấy Cực Lạc thế giới bửu thọ, bửu địa và bửu trì đây là tổng quán tưởng gọi là pháp quán thứ sáu.

Nếu thấy như vậy thì trừ vô lượng ức kiếp cực trọng ác nghiệp, sau khi mạng chung quyết định sanh nước Cực Lạc.

Quán đây gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán”.

Đức Phật bảo A nan và Vi Đề Hi : “Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ nhớ kỹ đó. Ta sẽ vì các người phân biệt giải thuyết pháp trừ khổ não. Các người ghi nhớ thọ trì rộng vì đại chúng phân biệt giải thuyết”.

Lúc đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn nói lời ấy, Phật Vô Lượng Thọ hiện đứng trên hư không, Quan Thế Âm Bồ Tát đứng hầu bên tả, Đại Thế Chí Bồ Tát đứng hầu bên hữu, ánh sáng chói rực chẳng thể thấy rõ hết, trăm ngàn lần màu vàng diêm phù đàn kim chẳng thể sánh được.

Vi Đề Hi thấy Phật Vô Lượng Thọ rồi tiếp túc lễ lạy.

Lễ lạy xong, Vi Đề Hi bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi nhơn oai lực Phật mà được thấy Vô Lượng Thọ Như Lai cùng hai Đại Sĩ Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát. Đời vị lai các chúng sanh sẽ phải thế nào quán thấy Phật Vô Lượng Thọ và hai Bồ Tát ấy ?”.

Đức Phật bảo Vi Đề Hi : “Người muốn quán Phật Vô Lượng Thọ thì nên hởi tưởng niệm : ở trên mặt đất thất bửu tưởng có hoa sen, trên mỗi mỗi cánh hoa tưởng màu bá bửu có tám vạn bốn ngàn đường gân dường như bức họa cõi Trời, mỗi đường gân có tám vạn bốn ngàn ánh sáng tỏ rõ rành rẽ đều được thấy cả. Cánh hoa nhỏ nhứt ngang rộng hai trăm năm mươi do tuần, toàn hoa sen ấy có đủ tám vạn bốn ngàn cánh. Khoảng mỗi cánh hoa có trăm ức ma ni vương ấy phóng ra ngàn ánh sáng, ánh sáng ấy như lọng bảy báu hiệp thành che khắp mặt đất. Đài hoa sen ấy bằng báu thích ca tỳ lăng gìa, có tám vạm kim cương chân thúc ca bửu, phạm ma ni bửu và lưới diệu chơn châu dùng để nghiêm sức. Ơ trên đài ấy tự nhiên có bốn trụ bửu tràng, mỗi mỗi bửu tràng cao lớn như trăm ngàn muôn ức núi Tu Di. Trên bửu tràng có màn báu như Dạ Ma Thiên cung còn có năm trăm ức bửu châu vi diệu để làm sáng đẹp. Mỗi mỗi bửu châu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng. Mỗi mỗi ánh sáng làm tám vạn bốn ngàn kim sắc nhiều loại lạ khác nhau. Mỗi mỗi kim sắc khắp cả cõi nước Cực Lạc nơi nơi biến hóa đều riêng làm những tướng hình khác lạ : hoặc làm đài kim cương, hoặc làm lưới chơn châu, hoặc làm mây nhiều loại hoa, nơi mười phương diện tùy ý biến hiện ra làm Phật sự.

Đây là tưởng toà ngồi hoa sen, gọi là pháp quán thứ bảy.

Nầy A Nan ! Hoa sen vi diệu như vậy là do bổn nguyện lực của Pháp Tạng Tỳ Kheo, tiền thân Phật Vô Lượng Thọ cảm thành. Nếu người muốn niện đức Phật ấy thì phải trước tưởng hoa tòa ấy. Lúc quán tưởng chẳng được tạp quán. Đều phải quán mỗi mỗi chi tiết, mỗi mỗi cánh hoa, mỗi mỗi bửu châu, mỗi mỗi ánh sáng, mỗi mỗi đài, mỗi mỗi tràng đều phải phân minh, như thấy tượng mặt mình hiện trong gương. Pháp tưởng nầy thành diệt trừ trăm muôn ức kiếp tội sanh tử, tất định sẽ sa Cực Lạc thế giới. Quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán”.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Thấy hoa tòa rồi kế nên tưởng Phật. Tại sao vậy ? Vì chư Phật Như Lai là thân pháp giới vào khắp trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh, nên lúc các người tâm tưởng Phật, tâm ấy tức là ba mươi hai tướng tám mươi tùy hình hảo, tâm ấy làm Phật tâm ấy là Phật. Chư Phật Chánh Biến Tri hải từ tâm tưởng sanh, vì vậy nên nhứt tâm buộc niệm quán kỹ đức Phật ấy, đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

Người muốn tưởng đức Phật ấy trước nên tưởng hình tượng. Thấy một bửu tượng màu như vàng diêm phù đàn ngồi trên hoa tòa kia. Thấy tượng Phật ngồi rồi tâm nhãn được khai thông, tỏ rõ phân minh thấy quốc độ Cực Lạc thất bửu trang nghiêm, đất báu, ao báu, cây báu bày hàng. Màn lưới báu cõi Trời giăng che phía trên, các màn lưới báu đầy khắp hư không, thấy sự như vậy khiến rất rõ ràng như thấy trong lòng bàn tay. Thấy sự ấy rồi lại nên tưởng một hoa sen lớn ở bên tả tượng Phật như trước không khác. Rồi lại tưởng một hoa sen lớn như trước ở bên hữu tượng Phật. Rồi tưởng một tượng Quan Thế Âm Bồ Tát ngồi tòa sen bên tả cũng kim sắc như trước. Rồi tưởng một tượng Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi tòa sen bên hữu. Lúc pháp tưởng nầy thành rồi tượng Phật và tượng Bồ Tát đều phóng ánh sáng. Anh sáng ấy kim sắc chiếu những bửu thọ. Dưới mỗi mỗi bửu thọ đều có ba tòa hoa sen, tượng Phật và tượng hai Bồ Tát ngồi trên ấy, như vậy khắp cả quốc độ Cực Lạc.

Lúc pháp tưởng nầy đã thành, hành gỉa nên nghe nước chảy, ánh sáng, các bửu thọ, những chim cưu nhạn uyên ương đều diễn nói diệu pháp, lúc xuất định lúc nhập định luôn nghe diệu pháp. Pháp được nghe trong định lúc xuất định nhớ giữ chẳng bỏ phải khế hiệp với lời trong kinh. Nếu chẳng hiệp thì gọi là vọng tưởng. Nếu hiệp thì gọi là thô tưởng thấy Cực Lạc thế giới.

Đây là tượng tưởng gọi là pháp quán thứ tám. Quán pháp nầy trừ được vô lượng ức kiếp tội sanh tử. Nơi thân hiện tại được niệm Phật tam muội”.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Kế lại nên quán Phật Vô Lượng Thọ thân tướng quang minh. A Nan phải biết Phật Vô Lượng Thọ thân như trăm ngàn muôn ức sắc vàng diêm phù đàn Trời Dạ Ma, thân Phật cao sáu mươi muôm ức na do tha hàng hà sa do tuần, bạch hòa giữa hai mày xoay bên hữu uyển chuyển như năm tòa núi Tu Di, mắt Phật như bốn đại hải xanh biếc và trắng phân minh. Các lỗ lông nơi thân Phật phóng ánh sáng ra như núi Tu Di. Viên quang của Phật ấy như trăm ức Đại Thiên thế giới. Trong viên quang ấy có trăm vạn ức na do tha hàng hà sa Hóa Phật. Mỗi mỗi Hoá Phật cũng có đông nhiều vô số Hóa Bồ Tát làm thị gỉa. Thân Phật Vô Lượng Thọ có tám vạn bốn ngàn tướng. Trong mỗi mỗi tướng đều riêng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo. Trong mỗi mỗi hình hảo còn có tám vạn bốn ngàn quang minh, mỗi mỗi quang minh chiếu khắp thập phương thế giới nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật chẳng bỏ sót. Quang minh tướng hảo và Hóa Phật ấy chẳng thể nói đủ hết, chỉ nên nhớ tưởng khiến tâm nhãn được thấy. Thấy sự ấy liền thấy thập phương tất cả chư Phật. Vì thấy chư Phật nên gọi là niệm Phật tam muội.

Quán tưởng đây gọi là quán thân tất cả Phật, vì quán thân Phật nên cũng thấy tâm Phật . Phật tâm là đại từ bi tâm, dùng từ vô duyên nhiếp thọ các chúng sanh.

Người tu quán nầy, bỏ thân đới khác sanh trước chư Phật được vô sanh nhẫn. Vì vậy nên người trí phải buộc niệm quán kỹ Vô Lượng Thọ Phật. Người quán Vô Lượng Thọ Phật từ một tướng hảo mà vào, chỉ quán lông trắng giữa hai mày khiến tất tỏ rõ. Được thấy lông trắng rồi thì tâm vạn bốn ngàn tướng hảo tự nhiên sẽ hiện. Thấy Phật Vô Lượng Thọ liền thấy vô lượng chư Phật mười phương. Vì thấy vô lượng chư Phật nên được chư Phật hiện tiền thọ ký.

Đây là khắp quán tưởng tất cả các sắc thân Phật gọi là pháp quán thứ chín. Quán như đây gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán”.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Đã thấy Vô Lượng Thọ Phật tỏ rõ phân minh rồi kế cũng nên quán Quán Thế Âm Bồ Tát.

Bồ Tát nầy thân cao tám mươi vạn ức na do tha do tuần, thân màu tử kim, đỉnh có nhục kế, cổ có viên quang mỗi phương diện đều trăm ngàn do tuần. trong viên quang có năm trăm Hoá Phật như Thích Ca Mâu Ni. Mỗi mỗi Hoá Phật có năm trăm Hóa Bồ Tát và vô lượng chư Thiên làm thị giả. Trong ánh sáng toàn thân hiện tất cả sắc tướng của chúng sanh trong ngũ đạo. Trên đỉnh có thiên quang bằng tỳ lăng gìa ma ni bửu. Trong thiên quang có một Hóa Phật đứng cao hai mươi lăm do tuần. mặt cúa Quan Thế Âm Bồ Tát như màu vàng diêm phù đàn. Lông trắng giữa hai mày đủ màu thất bửu chiếu ra tám vạn bốn ngàn thứ ánh sáng. Mỗi mỗi ánh sáng có vô lượng vô số trăm ngàn Hóa Phật. Mỗi mỗi Hóa Phật có vô số hóa Bồ Tát làm thị giả biến hiện tự tại khắp thập phương thế giới. Cánh tay màu như hoa sen hồng có tám mươi ức ánh sáng vi diệu làm chuỗi đeo. Trong chuỗi đeo ánh sáng ấy khắp hiện tất cả trang nghiêm. Bàn tay màu năm trăm ức hoa sen đẹp. Bàn tay mười đầu ngón mỗi mỗi đầu ngón có tám vạn bốn ngàn lằn dường như ấn văn. Mỗi mỗi lằn có tám vạn bốn ngàn màu, mỗi mỗi màu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng, ánh sáng ấy mềm dịu chiếu khắp tất cả. Bồ Tát dùng tay báu nầy tiếp dẫn chúng sanh. Lúv Bồ Tát cất chưn lên, dưới lòng bàn chưn có tướng thiên bức luân tự nhiên hóa thành năm trăm ức đài quang minh. Lúc để chưn xuống có hoa kim cương ma ni rải rác tất cả không chỗ nào là chẳng đầy khắp. Các tướng khác nơi thân Bồ Tát đầy đủ những hình hảo như thân Phật không khác, chỉ có nhục kế trên đỉnh và vô kiến đảnh tướng chẳng bằng Thế Tôn. Đây là tướng sắc thân chơn thiệt của Quan Thế Âm Bồ Tát gọi là quán pháp thứ mười. Nếu người muốn thấy Quan Thế Âm Bồ Tát nên tu quán ấy. Tu quán ấy thì chẳng gặp các tai họa, trừ sạch nghiệp chướng, trừ tội sanh tử trong vô số kiếp. Quan Thế Âm Bồ Tát ấy chỉ nghe danh hiệu còn được phước vô lượng huống là quán kỹ. Nếu người muốn quán Quan Thế Âm Bồ Tát thì trước quán nhục kế sau quán thiên quang. Các tướng khác cũng theo thứ tự mà quán kỹ đều phải tỏ rõ như nhìn trong bàn tay. Quán như đây gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán.

Kế đó quán Đại Thế Chí Bồ Tát.bt nầy thân tượng lớn nhỏ đều đồng như Quan Thế Âm Bồ Tát. Viên quang mỗi mặt đều một trăm hai mươi lăm do tuần chiếu hai trăm năm mươi do tuần. Ánh sáng toàn thân chiếu thập phương quốc độ màu tử kim. Chúng sanh có duyên thảy đều được thấy. Chỉ thấy ánh sáng một lỗ lông của Bồ Tát nầy liền thấy quang minh tịnh diệu vô lượng chư Phật mười phương, vì vậy nên đặt hiệu Bồ Tát nầy là Vô Biên Quang. Dùng ánh sáng trí huệ chiếu khắp tất cả khiến lìa tam đồ được vô thượng lực nên Bồ Tát nầy có tên là Đại Thế Chí.

Thiên quang của Đại Thế Chí Bồ Tát có năm trăm hoa báu, mỗi mỗi hoa báu có năm trăm đài báu, trong mỗi mỗi đài, tướng dài ngắn của quốc độ thanh tịnh vi diệu chư Phật mười phương đều hiện rõ. Nhục kế trên đỉnh như hoa bát đấu ma, trên nhục kế có một bình báu đựng các ánh sáng khắp hiện Phật sự. Các thân tướng khác như Quan Thế Âm không khác.

Lúc Đại Thế Chí Bồ Tát đi, thập phương thế giới tất cả chấn động. Đương lúc đất động có năm trăm ức hoa báu, mỗi mỗi hoa báu trang nghiêm cao rõ như Cực Lạc thế giới. Lúc Bồ Tát nầy ngồi, quốc độ thất bửu đồng thời dao động. Từ hạ phương Kim Quang Phật thế giới nhẫn đến thượng phương Quang Minh Vương Phật thế giới, trong khoảng giữa ấy vô lượng vô số phân thân Vô Lượng Thọ Phật, phân thân Quan Thế Âm Bồ Tát, phân thân Đại Thế Chí Bồ Tát thảy đều vân tập Cực Lạc thế giới chật đầy hư không ngồi tòa liên hoa diễn nói diệu pháp độ khổ chúng sanh. Tu pháp quán nầy gọi là quán thấy Đại Thế Chí Bồ Tát. Đây là quán thấy tướng sắc thân thiệt Đại Thế Chí gọi là pháp quán thứ mười một. Quán Đại Thế Chí Bồ Tát trừ vô số kiếp vô số tội sanh tử. Người tu quán nầy chẳng còn ở bào thai thường du hành quốc độ thanh tịnh vi diệu chư Phật.

Pháp quán nầy thành rồi gọi là đầy đủ quán Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát.

Lúc thấy sư ấy rồi nên khởi tư tâm sanh nơi Tây phương Cực Lạc thế giới trong hoa sen ngồi kiết già, tưởng hoa sen búp lại, tưởng hoa sen nở ra. Lúc hoa sen nở có ánh sáng năm trăm màu chiếu đến thân. Tưởng mắt mở ra thấy Phật và Bồ Tát đầy cả hư không, nước chim cây rừng cùng chư Phật phát ra âm thanh đều diễn nói diệu pháp hiệp với mười hai bộ kinh. Lúc xuất định nhớ giữ không mất. Thấy sự nầy rồi gọi là thấy Vô Lượng Thọ Phật. Cực Lạc thế giới. Đây là phổ quán tưởng gọi là pháp quán thứ mười hai. Vô Lượng Thọ Phật hoá thân vô số cùng Quan Thế Âm Bồ Tát Đại Thế Chí Bồ Tát thường đến chỗ hành nhơn ấy”.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người muốn chí tâm sanh Cực Lạc thế giới trước nên quán tượng Phật Vô Lượng Thọ cao một trượng sáu xích ở trên mặt nước ao báu.

Như trước đã nói Vô Lượng Thọ Phật thân lượng vô biên chẳng phải tâm lực của phàm phu kịp được. Nhưng do nguyện lực đời trước của đức Như Lai ấy nên ai có tâm nhớ tưởng thì ắt được thành tựu. Chỉ tưởng tượng Phật được phước vô lượng, huống là quán đủ thân tướng của Phật.

A Di Đà Phật thần thông như ý nơi mười phương quốc độ biến hiện tự tại. Hoặc hiện thân lớn đầy trong hư không, hoặc hiện thân nhỏ một trượng sáu xích. Thân hình Phật hiện ra đều màu chơn kim, viên quang Hoá Phật và hoa sen báu như đã nói ở trên. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát ở tất cả xứ thân đồng với chúng sanh. Chỉ quán tướng trên đầu biết là là Quan Thế Âm hay Đại Thế Chí. Hai đại Bồ Tát ấy trợ Phật A Di Đà khắp hóa độ tất cả. Đây là tạp tưởng quán gọi là pháp quán thứ mười ba”...”
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Trích Kinh Quán Vô Lượng Thọ (tiếp)

“… Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người sanh Cực Lạc thế giới, bực thượng phẩm thượng sanh ấy. Nếu có chúng sanh nguyện sanh Cực Lạc thế giới phát ba thứ tâm liền được vãng sanh.

Những gì là ba tâm ?

Một là chí thành tâm. Hai là thâm tâm và ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Người đủ ba tâm này ắt sanh Cực Lạc thế giới.

Còn có ba hạng chúng sanh sẽ được vãng sanh.

Những gì là ba hạng ?

Một là từ tâm bất sát đủ các giới hạnh. Hai là đọc tụng kinh điển phương đẳng Đại thừa. Ba là tu hành lực niệm hồi hướng phát nguyện nguyện sanh Cực Lạc.

Người đủ các công đức nầy từ một ngày đến bảy ngày liền được vãng sanh.

Lúc sanh về nước ấy, vì người nầy tinh tiến dũng mãnh nên A Di Đà Như Lai cùng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số Hóa Phật, trăm ngàn Tỳ Kheo Thanh Văn đại chúng, vô lượng chư Thiên, cung điện bảy báu. Quan Thế Âm Bồ Tát cầm đài kim cương cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đến trước hành nhơn. A Di Đà Phật phóng đại quang minh chiếu thân hành giả cùng các Bồ Tát trao tay nghinh tiếp. Quan Thế Âm, Đại Thế Chí cùng vô số Bồ Tát tán thán hành giả khuyến khích sách tiến tâm hành giả thấy rồi hoan hỷ dũng dước tự thấy thân mình ngồi đài kim cương đi theo sau Phật. Như khoảng khảy ngón tay vãng sanh nước Cực Lạc. Sanh nước Cực Lạc rồi thấy sắc thân Phật A Di Đà đầy đủ các tướng. Thấy chu Bồ Tát sắc tướng đầy đủ. Quang minh cây rừng báu diễn nói diệu p. nghe rồi liền ngộ Vô sanh pháp nhẫn. Trong thời gian giây lát đi khắp thập phương thế giới kính thờ chư Phật. Ở trước chư Phật thứ đệ thọ ký. Trở về bổn quốc được vô lượng trăm ngàn đà la ni. Đây gọi là người thượng phẩm thượng sanh.

Người thượng phẩm trung sanh ấy. Người nầy bất tất thọ trì đọc tụng kinh điển phương đẳng Đại thừa. Đem công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới. Người có công hạnh như vậy, lúc lâm chung, A Di Đà Phật cùng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí , vô lượng đại chúng vây quanh cầm đài tử kim đến trước hành giả khen rằng : Nầy Pháp tử ! Ngươi hành Đại thừa hiểu đệ nhứt nghĩa nên nay ta đến nghinh tiếp ngươi. Đức Phật A Di Đà cùng ngàn Hóa Phật đồng thời trao tay. Hành giả ấy tự thấy mình ngồi đài tử kim, chắp tay xếp cánh tán thán chư Phật. Như khoảng một niệm liền sanh nước Cực Lạc trong ao thất bửu,. Đài tử kim ấy như hoa sen lớn qua một đêm liền nở. Thân hành giả màu vàng tử ma, dưới chưn cũng có hoa sen bảy báu.

Phật và Bồ Tát đồng thời phóng quang chiếu thân hành giả mắt liền mở sáng. Nhơn túc tập trước nên khắp nghe ác âm thanh thuần nói thậm thâm đệ nhứt nghĩa đế. Hành giả ấy liền xuống kim đài lạy Phật chắp tay tán thán Thế Tôn, qua bảy ngày liền được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề, liền có thể bay đi khắp mười phương kính thờ chư Phật, ở trước chư Phật tu các tam muội, qua một tiểu kiếp được Vô sanh nhẫn hiện tiến thọ ký. Đây gọi là người thượng phẩm trung sanh vậy.

Người thượng phẩm hạ sanh ấy. Người nầy cũng tin nhơn quả chẳng hủy báng Đại thừa, chỉ phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đem công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới.

Hành giả ấy lúc lâm chung, A Di Đà Phật cùng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí và chư Bồ Tát cầm hoa sen vàng hóa làm năm trăm Phật đến rước. Năm trăm Hóa Phật đồng thời trao tay khen rằng : Nầy Pháp tử. Nay ngươi thanh tịnh phát tâm Vô thượng Bồ đề, ta đến rước ngươi. Hành giả lúc thấy sự ấy liền tự thấy thân mình ngồi kim liên hoa. Ngồi rồi hoa búp lại theo sau Phật liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới trong ao thất bửu. Qua một ngày một đêm kim liên hoa mới nở. Qua bảy ngày mới được thấy Phật. Dầu thấy thân Phật mà chẳng thấy tỏ rõ các tướng hảo. Sau hai mươi mốt ngày mới thấy rõ hết. Nghe các âm thanh đều diễn diệu pháp, đi khắp mười phương cúng dường chư Phật. Ở trước chư Phật nghe thậm thâm pháp. Qua ba tiểu kiếp được bá pháp minh môn trụ bực Hoan hỉ địa. Đây gọi là người thượng phẩm hạ sanh vậy.

Đây gọi là pháp tưởng hàng thượng phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười bốn”.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người trung phẩm thượng sanh ấy.

Nếu có chúng sanh thọ trì ngũ giới, trì bát giới trai, tu hành các giới chẳng tạo ngũ nghịch không có các tội lỗi. Đem thiện căn nầy nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới. Hành giả lúc lâm chung, A Nan Di Đà Phật cùng các Tỳ Kheo quyến thuộc vây quanh phóng ánh sáng kim sắc đến chỗ hành giả diễn nói khổ không vô thường vô ngã tán thán xuất gia được lìa các sự khổ. Hành giả thấy rồi lòng rất vui mừng tự thấy thân mình ngồi đài liên hoa quỳ dài chắp tay đảnh lễ Phật, lúc chưa cất đầu lên liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới, liên hoa liền nở. Lúc hoa sen nở nghe các âm thanh tán thán tứ đế liền được A La Hán đạo tam minh, lục thông, đủ bát giải thoát. Đây gọi là người trung phẩm thượng sanh vậy.

Người trung phẩm trung sanh ấy.

Nếu có chúng sanh hoặc một ngày một đêm trì bát giới trai, hoặc một ngày một đêm trì giới Sa di, hoặc một ngày một đêm trì Cụ Túc giới oai nghi không kém thiếu. Đem công đức nầy hồi hướng nguyện cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới.

Do giới hương huân tu, hành giả nầy lúc lâm chung thấy A Di Đà Phật cùng các quyến thuộc phóng kim sắc quang cầm bửu liên hoa đến trước hành giả. Hành giả tự nghe hư không có tiếng khen rằng : Nầy thiện nam tử ! Như ngươi hàng thiện nhơn tùy thuận lời dạy tam thế chư Phật nên ta đến rước. Hành giả tự thấy thân mình ngồi trên hoa sen, hoa sen liền búp lại sanh trong ao báu Tây phương Cực Lạc thế giới. Qua bảy ngày liên hoa mới nở. Hoa nở rồi mở mắt chắp tay tán thán Thế Tôn, nghe pháp hoan hỉ được quả Tu Đà Hoàn. Qua nửa kiếp thành bực A La Hán. Đây gọi là người trung phẩm trung sanh vậy.

Trung phẩm hạ sanh ấy.

Nếu có thiện nam thiện nữ hiếu dưỡng cha mẹ làm việc nhơn từ thế gian. Người nầy lúc lâm chung gặp thiện tri thức vì họ mà nói rộng những sự vui nơi quốc độ Phật A Di Đà cũng nói bốn mươi tám nguyện của Pháp Tạng Tỳ Kheo, nghe rồi liền chết. Ví như khoảng thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay, liền được vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới. Qua bảy ngày gặp Quan Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát, nghe pháp hoan hỷ được quả Tu Đà Hoàn. Qua một tiểu kiếp thành A La Hán. Đây gọi là người trung phẩm hạ sanh vậy.

Đây gọi là pháp tưởng hạng trung phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười lăm”.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người hạ phẩm thượng sanh ấy.

Hoặc có chúng sanh tạo những nghiệp ác. Người ngu như vậy dầu chẳng hủy báng kinh điển Phương đẳng Đại thừa mà tạo nhiều việc ác không có tàm quí. Người nầy lúc lâm chung gặp thiện tri thức vì họ mà nói mười hai bộ kinh Đại thừa danh tự đầu đề. Do nghe tên các kinh như vậy dứt trừ ngàn kiếp ác nghiệp cực trọng. Trí giả lại bảo chắp tay xếp cánh xưng Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trù năm mươi ức kiếp tội sanh tử. Lúc ấy Phật A Di Đà liền sai Hóa Phật, hóa Quan Thế Âm, hóa Đại Thế Chí đến trước hành giả khen rằng : Nầy thiện nam tử ! Vì ngươi xưng danh hiệu Phật các tội tiêu diệt ta đến rước ngươi. Nghe nói lời ấy rồi, hành giả liền thấy quang minh của Hóa Phật chiếu sáng cả nhà. Thấy rồi hoan hỉ mang chung ngồi bửu liên hoa theo sau Hoá Phật sanh trong ao báu Cực Lạc thế giới. Qua bốn mươi chín ngày hoa sen báu mới nở. Đương lúc hoa nở, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát phóng đại quang minh đứng trước người ấy, vì người ấy nói thậm thâm Thập nhị bộ kinh. Người ấy nghe rồi tin hiểu phát vô thượng đạo tâm. Qua mưo82i tiểu kiếp đủ bá pháp minh môn được nhập bực Sơ địa. Đây gọi là người hạ phẩm thượng sanh vậy”.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người hạ phẩm trung sanh ấy.

Hoặc có chúng sanh hủy phạm ngũ giới bát giới và cụ túc giới. Người ngu nầy trộm của vật Tăng kỳ, trộm của vật hiện tiền Tăng, bất tịnh thuyết pháp, không có tâm quý, dùng các ác nghiệp để tụ trang nghiêm. Người tộu như đây do nghiệp ác phải đọa địa ngục, lúc lâm chung các lửa địa ngục đồng thời hiện đến. Gặp thiện tri thức vì lòng đại từ bi vì người ấy mà khen nói thập lục oai đức của đức Phật A Di Đà, rộng khen quang minh thần lực của đức Phật A Di Đà, cũng tán dương giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Người ấy nghe rồi trừ tám mươi ức kiếp tội sanh từ. Lửa mạnh địa ngục biến thành gió mát thổi các thiên hoa bay đến. Trên hoa đều có Hoá Phật, Hóa Bồ Tát tiếp rước người ấy. Trong khoảng mộ niệm liền được sanh trong hoa sen nơi ao báu Cực Lạc thế giới. Hoa sáu kiếp hoa sen mới nở. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát dùng phạm âm thanh an úy người ấy, vì người ấy mà nói kinh điển Đại thừa thậm thâm. Nghe pháp ấy rồi, người ấy liền phát tâm vô thượng đạo. Đây gọi là người hạ phẩm trung sanh vậy”.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người hạ phẩm hạ sanh ấy.

Hoặc có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện ngũ nghịch, thập ác đủ các bất thiện. Người ngu như vậy, do ác nghiệp phải đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. Người ngu ấy lúc lâm chung gặp thiện tri thức dùng nhiều lời an ủy vì nói diệu pháp dạy bảo niệm Phật. Ngươi ấy bị khổ bức không rãnh niệm được. Thiện hữu bảo rằng nếu ngươi chẳng thể niệm Phật kia được thì ngươi nên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, như vậy chí tâm khiến tiếng xưng danh chẳng dứt đủ mười niệm. Nên xưng như vầy : Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ tám mươi ức kiếp tội sanh tử. Lúc mạng chung thấy kim liên hoa dường như mặt nhựt trụ trứơc người ấy. Như khoảng một niệm liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới ở trong hoa sen mãn mười hai đại kiếp hoa sen ấy mới nở. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát dùng âm thanh đại bi vì người ấy diễn nói thiệt tướng các pháp, nói pháp trừ diệt tội. Người ấy nghe pháp rồi rất vui mừng liền phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là người hạ phẩm hạ sanh.

Đây gọi là pháp tưởng hạng hạ phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười sáu vậy”.

về mười sáu pháp quán ấy, liền lúc đó thấy tướng rộng lớn Cực Lạc thế giới. Được thấy sắc thân Phật A Di Đà và hai Bồ Tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, lòng rất hoan hỷ khen chưa từng có. Vi Đề Hi hoát nhiên đại ngộ được Vô sanh nhẫn. Năm trăm thị nữ phát tâm Vô thượng Bồ đề nguyện sanh Cực Lạc thế giới. Đức Thế Tôn thọ ký đều sẽ vãng sanh. Sanh nước Cực Lạc rồi được chư Phật hiện tiền tam muội. Còn có vô lượng chư Thiên phát tâm vô thượng đạo.

Lúc bấy giờ Tôn gỉa A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Kinh nầy sẽ gọi tên là gì ? Pháp yếu nầy sẽ thọ trì như thế nào ?”.

Đức Phật nói : “Nầy A Nan ! kinh nầy tên là Quán Cực Lạc Quốc Độ Vô Lượng Thọ Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát.

Cũng có tên là Tịnh trừ nghiệp chướng sanh chư Phật tiền.

Ông nên thọ trì như vậy chớ để quên mất.

Người hành tam muội nầy thì thân hiện đời được thấy Vô Lượng Thọ Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát.

Nếu thiện nam, thiện nữ chỉ nghe danh hiệu Phật A Di Đà, nghe danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát, nghe danh hiệu Đại Thế Chí Bồ Tát thì trừ vô lượng kiếp tội sanh từ, huống là nhớ niệm.

Nếu là người niệm Phật, nên biết người ấy là hoa phân đà lợi trong loài người. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát là thắng hữu của người ấy. Người ấy sẽ ngồi đạo tràng sanh vào nhà chư Phật”.

Đức Phật bảo Tôn giả A Nan : “Nầy A Nan ! Ngươi phải trì lời nầy cho tốt. Người trì lời nầy tức là trì danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật”.

Phật nói kinh nầy rồi, Tôn giả Mục Kiền Liên, Tôn giả A Nan và Vi Đề Hi cùng thị nữ quyến thuộc nghe lời đức Phật dạy tất cả đều rồi vui mừng.

Bấy giờ đức Thế Tôn chân đi trên hư không trở về núi Kỳ Xà Quật.

Tôn giả A Nan vì đại chúng nói rộng sự ấy. Vô lượng chư Thiên, Bát Bộ nghe lời Phật nói đều rất vui mừng lạy Phật lui ra.”
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Tiểu luận 197 (tiếp)

Chúng ta phải nhớ: Tịnh Độ Tông mà mọi người đang được biết, cũng giống Thiền Tông, Mật Tông, Nam tông, Bắc tông.v.v. - chưa bao giờ là nội dung chúng ta quán tác ở đây. Dù chúng ta vô lượng quán và từ đầu đến giờ đã quán rất nhiều thứ “trên trời dưới biển” nhưng không có nghĩa chúng ta đặt nội dung vào mọi thứ được quán đến.

Nếu buộc phải nói thứ lớp, trong hệ thống giới Kinh chỉ nhắc các hàng: Thanh văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Ba hàng đều đi tới một chúng hội Pháp Hoa.

Chúng ta cũng rất rõ: Tại trước tác này, chúng ta sáng tác (trước tác) hay tác: Pháp Hoa.


Như vậy: Không phải và chắc chắn không phải các Kinh: Phật thuyết A Di Đà Kinh, hay Vô Lượng Thọ hay Quán Vô Lượng Thọ: Có nghĩa là Tịnh Độ Tông như chúng ta được tri kiến.

Chúng ta, thực hành Chánh Pháp Phật. Pháp Phật là vô lượng Pháp - cũng là một pháp duy nhất.


Như vậy, trước khi đi vào “trang nghiêm Phật Quốc”: Chúng ta phải bắt buộc bỏ xuống mọi tri kiến về “tịnh độ tông” nếu như chúng ta đã từng được tri kiến về “tịnh độ tông”.

Điều này, không có gì là khó hiểu: Mật tông chúng ta bỏ xuống, Nam tông, bắc tông bỏ hết, thiền tông cũng sớm xả, thì tại nơi đậy: Tịnh độ tông cũng không có trong nội dung của chúng ta.

- Vì sao? - Vì đơn giản: Nếu như có một tông nào có người giải thoát thành Phật thì nó đã không là tông. - Chúng ta luôn luôn được nói đi nói lại chỗ này rồi. Bây giờ sẽ không tập trung vào quán (chánh/tà - đúng/lầm) cụ thể nữa. Chúng ta chỉ tập trung dần vào con đường chúng ta đi.





Điều tiếp theo:


Chúng ta phải thực sự quán thấy về: Chúng sinh là gì, khách trần là gì, ngôi nhà tâm là gì, cửa Đạo là gì, luân 6 là gì. Bên kia cửa Đạo, bên kia luân 6 là gì, bên này cửa Đạo, bên này luân 6 là gì. Cũng rõ: Các ví dụ ở trong Kinh Sa Môn Quả với từng cấp quả là gì. Hiểu Pháp thân, hoá thân làm sao sinh được ra theo Kinh (Sa môn quả). Hiểu rõ: Tên kinh như ý nghĩa là gì, tên Chư Vị Tôn Đức trong hệ thống giới kinh như ý nghĩa là gì. Thấy: Kinh - hệ thống giới Kinh không phải dùng để “tìm nghĩa, giải nghĩa” mà Kinh Phật - hệ thống giới kinh - là để Quán. Từ Quán tưởng tới quán thấy - bất kể câu từ văn cú hay hiện tượng, hình thức ra sao - Cái mục đích chúng ta tụng đọc hệ thống giới kinh để: Quán thấy bản chất trong kinh đó và toàn hệ thống giới kinh thông qua việc quán chiếu nội dung.



Như chúng ta đã nói phía trước nhiều lần: Dùng 1 Kinh Pháp - Sao tu nổi Đạo Đức Thế Tôn tới kết quả thù thắng rốt ráo sau cùng? - Dù đó là bất cứ Kinh Pháp Nào, không thể nào chỉ dùng 1 kinh Pháp mà đạt thành. - Rất rõ: Chúng ta phải Quán toàn bộ hệ thống giới kinh để thấy toàn bộ mọi thứ cần thấy. - Khi này chúng ta mới biết: Tuỳ tác sở dụng là gì, tuỳ tâm sở dụng là gì.

Rốt cuối, chúng ta còn là ”vô pháp”. Mà không còn pháp chính là vô lượng pháp đó. Chúng ta tuỳ tác, tuỳ tâm sở dụng mọi thứ nhưng chúng ta ở chỗ đó vẫn vô pháp sở dụng. Đó mới là pháp.


Còn khi này: Sau khi vô lượng quán (thực tế chúng ta đều rõ, đến bây giờ, vô lượng vẫn có “lim” và còn yếu lắm) hệ thống giới kinh. Đẩy quán từ quán tưởng chớm đi vào quán thấy: Chúng ta mới thấy vô lượng phương tiện Pháp Phật ở hệ thống giới kinh và kể cả không ở trong đó, không được tô vẽ ra… - Tất cả, là tuỳ tác, tuỳ tâm. Không phải là do: Nội dung của Kinh (pháp), không phải do bản chất kinh (pháp).

Chúng ta phải sớm liễu ngộ và chứng thấy những điều được nói về việc phá chấp pháp ở đây - Bởi những thứ này là tiền đề chúng ta phá Kiến trược - vọng tưởng hư không.



Đi con đường này (đường nào thì chưa có tên) - ma (nếu có), ma nếu có đến hỏi thăm: Thật sự là hoan hỷ và cảm thấy tinh tấn: Chúng ta có cơ hội độ rất nhiều chúng sinh mang nghiệp nặng được niết bàn hay sinh về miền Cực Lạc (Quốc Độ).


Tất nhiên, Chúng ta sẽ sớm biết, miền cực lạc này, quốc độ này… không phải là miền của Đức Phật có tên A Di Đà. Chúng sinh được sinh về miền cực lạc của Đức Phật A Di Đà là do Ngài A Di Đà cùng các thân quyến của Ngài. Còn người thực hành Bồ Tát đạo: Độ hoá vô lượng chúng sinh vào niết bàn - độ vào miền cực lạc của ai? - Chẳng lẽ độ vào miền của “người khác”? - Vô duyên đến vậy là cùng. Đến bao giờ mới liễu ngộ?


- Lại có người không có “sự tỉnh thức” từ đầu tập luận đến giờ, sẽ có thể mê mang: - Chúng ta “điên” rồi. Như đoạn trên vừa nói, ý người trước tác đang nói: Chúng ta sẽ tự tạo một miền cực lạc - Phật Quốc như Phật A Di Đà để độ vô lượng chúng sinh được sinh vào đây….. - “Điên” rồi, khi đang có hiện tượng “nhận mình là Phật”…


- Chúng ta chưa là Phật, còn tu chán vô lượng kiếp. Nhưng chúng ta đã thấy rõ: Kinh Kim Cang và rất nhiều Kinh đều nói về việc: Người thực hành Bồ Tát Đạo sẽ thực hành việc: Độ vô lượng chúng sinh vào niết bàn - rồi không còn chúng sinh nào chưa được độ thì mới chứng Đạo niết bàn..v.v.


Chúng ta, trước kia là do chưa vô lượng quán thấy hệ thống giới kinh nên đọc mỗi kinh riêng lẻ nhiều khi thấy: Làm sao mà làm được.v.v.v.

Nhưng bây giờ thấy rõ: Cái Phật Quốc là gì. Cực Lạc Quốc Độ là gì. Và từ đây đã thấy rõ: Thì ra độ vô lượng chúng sinh là độ vô lượng họ vào cái miền cực lạc này.


Rất rõ: Chúng ta không thể độ họ vào miền của Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà hay của bất cứ ai.

Như vậy, chúng ta “trang nghiêm tâm” là vậy. Là để độ vô lượng chúng sinh (trong đầu ta đó) vào miền cực lạc - niết bàn….





Tâm từ, tia tâm từ chúng ta thấy. Ngay từ lúc có tia tâm từ chúng ta có thể đặt ngay một dấu hỏi chấm cho chính chúng ta: Một tia tâm từ mà đã như thế này thì : Làm gì có cách nào để toàn bộ 10 phương tâm, 3 thời tâm - tâm từ được biến mãn sáng rực… - Làm sao mà làm được hết. Nếu có làm được, có lẽ đúng là phải vô lượng a tăng kỳ kiếp mới may ra tâm từ được biến mãn khắp tất cả….

Nhưng bây giờ, chúng ta đã thấy: Thì ra, vô lượng thọ, quán vô lượng thọ là phương tiện và pháp chỉ cách sử dụng phương tiện: Làm cho cái tia tâm từ sáng rực mãn phương khắp thời…

Có nghĩa: Chúng ta đã có thể tưởng thấy: “một sự hỉ lạc do ly dục ly ác pháp” - là gì rồi. Khi chúng ta “trang nghiêm tâm” - cái sự hỉ lạc này là gì rồi. Khi quán tưởng được thế này. Điều chúng ta cần là chứng thấy khi trang nghiêm. Đủ là an trú nó khi trang nghiêm…


Hiện tại an lạc trú.

Sơ thiền.
Đầu trang

Trả lời bài viết