PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Còn chúng ta giả dụ bây giờ không có vợ chồng con: Quá tuyệt vời còn gì nữa. Đừng lao vào, vì lao vào không phải là nhiễu sự. Phải giới luôn, thủ hộ luôn phương tâm này chắc chắn, tia gió cũng không cho lọt… - Như vậy, không phải tuyệt vời sao.
Không có vợ chồng con thì dục tính có khi lại cao. Lại cứ đi quán mặt trời buổi sớm thì chịu sao nổi? - Nên pháp nó có nhiệm màu. Không hiểu lý tánh, dùng theo kiểu tuỳ tiện, cũng nguy. Ví dụ: Sửa kỹ thuật chỗ nào thì sửa, nhưng Đức Thế Tôn bảo quán mặt trời lặn thì không thể quán mặt trời mọc: Bởi phải hiểu lý tánh mới rõ chỗ nào phương tiện, chỗ nào không thể tuỳ tiện. .
Chúng ta sử dụng Chánh Pháp Phật là Tuỳ Pháp và Xả Pháp (buông bỏ) chứ không phải là trốn chạy hay đoạn diệt ở chỗ này - 6 phương tâm của tâm trang nghiêm đó.
Đoạn diệt là hỏng.
Pháp đoạn diệt là dùng ở chỗ đoạn diệt - chỉ dùng với ác pháp. Với ác pháp thấy là phải đoạn diệt ngay. Mới là thủ giới.
Còn lại sự và vô lượng sự… nó không ác mà cứ đoạn diệt để tu thì: - Bao đời chưa thấy ai chứng quả giải thoát. Toàn rơi vào ma tưởng hết. - Dù Đạo lực thâm sâu, đi sửa chữa cũng mất bao nhiêu đời.
Có những thứ phải theo đúng lý tánh vô thường sinh khởi nhân duyên của vạn vật của nhân mà theo: Sinh - Thành - Hoại - Diệt hay sinh lão bệnh tử.
Tức là nó có 4 giai đoạn: Đã sinh ra thì sẽ thành (tồn tại) sau đó mới dần dần suy bại và cuối cùng là diệt mất.
Muốn xả bỏ, phải hiểu lý tánh của sự, phải biết sự ở giai đoạn nào mà chuẩn bị.
Đến hoại thì đừng níu, đừng chữa, đừng kéo mà “tứ chánh cần” được là tứ chánh cần cho nhanh. Đến chỗ diệt thì phải bỏ cho nhanh, lìa luôn, giới luôn, không có tơ tưởng niệm.
Ở chỗ thành (tồn tại) - là thời gian lâu nhất: Tuỳ pháp
Tuỳ pháp quan trọng là vậy. Không tuỳ, chỉ thấy: Sao tu mãi mà chẳng buông bỏ được gì mấy, sự ở đâu nó cứ sinh ra, hết sự này đến sự kia, mà mình quyết tâm buông bỏ lắm rồi… tu thành cáu bẳn lên vì lắm sự quấn thân không chịu giảm là vậy…
Không có vợ chồng con thì dục tính có khi lại cao. Lại cứ đi quán mặt trời buổi sớm thì chịu sao nổi? - Nên pháp nó có nhiệm màu. Không hiểu lý tánh, dùng theo kiểu tuỳ tiện, cũng nguy. Ví dụ: Sửa kỹ thuật chỗ nào thì sửa, nhưng Đức Thế Tôn bảo quán mặt trời lặn thì không thể quán mặt trời mọc: Bởi phải hiểu lý tánh mới rõ chỗ nào phương tiện, chỗ nào không thể tuỳ tiện. .
Chúng ta sử dụng Chánh Pháp Phật là Tuỳ Pháp và Xả Pháp (buông bỏ) chứ không phải là trốn chạy hay đoạn diệt ở chỗ này - 6 phương tâm của tâm trang nghiêm đó.
Đoạn diệt là hỏng.
Pháp đoạn diệt là dùng ở chỗ đoạn diệt - chỉ dùng với ác pháp. Với ác pháp thấy là phải đoạn diệt ngay. Mới là thủ giới.
Còn lại sự và vô lượng sự… nó không ác mà cứ đoạn diệt để tu thì: - Bao đời chưa thấy ai chứng quả giải thoát. Toàn rơi vào ma tưởng hết. - Dù Đạo lực thâm sâu, đi sửa chữa cũng mất bao nhiêu đời.
Có những thứ phải theo đúng lý tánh vô thường sinh khởi nhân duyên của vạn vật của nhân mà theo: Sinh - Thành - Hoại - Diệt hay sinh lão bệnh tử.
Tức là nó có 4 giai đoạn: Đã sinh ra thì sẽ thành (tồn tại) sau đó mới dần dần suy bại và cuối cùng là diệt mất.
Muốn xả bỏ, phải hiểu lý tánh của sự, phải biết sự ở giai đoạn nào mà chuẩn bị.
Đến hoại thì đừng níu, đừng chữa, đừng kéo mà “tứ chánh cần” được là tứ chánh cần cho nhanh. Đến chỗ diệt thì phải bỏ cho nhanh, lìa luôn, giới luôn, không có tơ tưởng niệm.
Ở chỗ thành (tồn tại) - là thời gian lâu nhất: Tuỳ pháp
Tuỳ pháp quan trọng là vậy. Không tuỳ, chỉ thấy: Sao tu mãi mà chẳng buông bỏ được gì mấy, sự ở đâu nó cứ sinh ra, hết sự này đến sự kia, mà mình quyết tâm buông bỏ lắm rồi… tu thành cáu bẳn lên vì lắm sự quấn thân không chịu giảm là vậy…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Chúng ta thấy, bây giờ xã hội nhiễu nhương. Nhiều người không biết là đã xuống địa ngục gặp diêm vương lần nào chưa mà ở đời này ngồi giảng về “nhân quả” như đúng rồi. Nếu chỉ vì vô minh thì còn có thể mắt nhắm mắt mở chứ giảng về nhân quả mà lại giảng kiểu:
“Con cái đôi khi nó là oan gia, nó đến nó đòi nợ mình kiếp này, nó chỉ hành mình, đòi hết món nợ.v..v” - Cách giảng giải này khiến cho bao nhiêu ông bố bà mẹ đang phúc phước có khi thành ghét con, ghét còn nhẹ, có khi thành thù, thành hắt hủi, chửi rủa, xa lánh.v.v. - Tâm lý con người mà.
Người giảng vừa ở trong vô minh, không có từ bi vừa phun ra những làn khói đặc vô minh lên khắp những người tin nghe… khiến cho bao người lại cũng mất đi tia từ bi.
Đáng lẽ: Tia từ bi sẽ sinh, sẽ nhờ phước đó mà tu, nên mới đến được nhân duyên: Đi nghe giảng pháp. Ai ngờ, ma ngồi đàn cao.
Chúng ta đọc Quán vô lượng thọ - câu chuyện này, nó còn như gương sáng rực:
- Bà đề hi nếu không có tia từ bi đó có gặp Phật Pháp Tăng? - Tia từ bi này ở đâu? - Chồng?, con?
- Dù con nghịch tử như vậy nhưng nhìn mình lại nhìn người, mà nhìn người này là nhìn ai? - Nhìn Đức Thế Tôn và Đề Bà Đạt Đa - Người làm chảy máu Phật và giết A La Hán rồi tự hỏi nhân duyên do đâu.v..v.
Đây là những pháp có thể nói kinh điển để: Nhân ra chân tánh - tia tâm từ bi là gì.
Vậy nhưng, trong góc nhìn đó, giảng thành “oan gia trái chủ” ở thời hiện đại này… nó làm con người trầm luân và khiến con người sân hận, sân si, vô minh đi nhiều hơn là làm tia từ bi loé ra để gặp pháp, gặp Phật để giải thoát.
Thấy tia từ bi là thấy tánh - xưa nay truyền ngôn là: Thấy tánh là thấy Phật.
Bởi thế: Tất cả là ở chỗ: Phải nhìn thấy tia từ bi tâm của bản thân loé ra mới tu gì tu được. Không phải tưởng từ bi là.v.v.v
Lẽ vậy, một người nên đi qua địa ngục gặp ngài Địa Tạng Bồ Tát! - Mời Ngài Chứng! - Để cho giới đàn thịnh hội Pháp Hoa sớm được thanh tịnh mở ra.
“Con cái đôi khi nó là oan gia, nó đến nó đòi nợ mình kiếp này, nó chỉ hành mình, đòi hết món nợ.v..v” - Cách giảng giải này khiến cho bao nhiêu ông bố bà mẹ đang phúc phước có khi thành ghét con, ghét còn nhẹ, có khi thành thù, thành hắt hủi, chửi rủa, xa lánh.v.v. - Tâm lý con người mà.
Người giảng vừa ở trong vô minh, không có từ bi vừa phun ra những làn khói đặc vô minh lên khắp những người tin nghe… khiến cho bao người lại cũng mất đi tia từ bi.
Đáng lẽ: Tia từ bi sẽ sinh, sẽ nhờ phước đó mà tu, nên mới đến được nhân duyên: Đi nghe giảng pháp. Ai ngờ, ma ngồi đàn cao.
Chúng ta đọc Quán vô lượng thọ - câu chuyện này, nó còn như gương sáng rực:
- Bà đề hi nếu không có tia từ bi đó có gặp Phật Pháp Tăng? - Tia từ bi này ở đâu? - Chồng?, con?
- Dù con nghịch tử như vậy nhưng nhìn mình lại nhìn người, mà nhìn người này là nhìn ai? - Nhìn Đức Thế Tôn và Đề Bà Đạt Đa - Người làm chảy máu Phật và giết A La Hán rồi tự hỏi nhân duyên do đâu.v..v.
Đây là những pháp có thể nói kinh điển để: Nhân ra chân tánh - tia tâm từ bi là gì.
Vậy nhưng, trong góc nhìn đó, giảng thành “oan gia trái chủ” ở thời hiện đại này… nó làm con người trầm luân và khiến con người sân hận, sân si, vô minh đi nhiều hơn là làm tia từ bi loé ra để gặp pháp, gặp Phật để giải thoát.
Thấy tia từ bi là thấy tánh - xưa nay truyền ngôn là: Thấy tánh là thấy Phật.
Bởi thế: Tất cả là ở chỗ: Phải nhìn thấy tia từ bi tâm của bản thân loé ra mới tu gì tu được. Không phải tưởng từ bi là.v.v.v
Lẽ vậy, một người nên đi qua địa ngục gặp ngài Địa Tạng Bồ Tát! - Mời Ngài Chứng! - Để cho giới đàn thịnh hội Pháp Hoa sớm được thanh tịnh mở ra.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Nên ví dụ: Chúng ta có một đứa con mà nó gây ác nghiệp với chúng ta, với người thân chúng ta (6phương tâm) thì chúng ta sẽ “cúng cầu oan gia trái chủ”, đi nghe lý về nhân quả, oan gia, oan hồn, nợ ma.v..v để giải thích cho ta, cầu Phật cầu Tăng phù hộ độ trì cứu ta khỏi quả khổ, Bồ Tát cứu ta khỏi quả khổ hay sẽ theo như Quán Vô Lượng Thọ mà hành từ bi để gặp ngay PHẬT?
Đó mới là pháp.
Quả không phải là để “vứt đi”, trốn chạy hay ruồng bỏ. Quả thực ra là để tu!
Hiểu rõ như thế, ở chỗ đây: Sự lựa chọn ảnh để trang nghiêm tâm vô lượng thọ Cực Lạc - không khó!
Đó mới là pháp.
Quả không phải là để “vứt đi”, trốn chạy hay ruồng bỏ. Quả thực ra là để tu!
Hiểu rõ như thế, ở chỗ đây: Sự lựa chọn ảnh để trang nghiêm tâm vô lượng thọ Cực Lạc - không khó!
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(067 tiếp)
Lý thuyết “sự lựa chọn” mang đến cho chúng ta muôn vàn giải thích về mọi pháp theo cách hiểu thời hiện đại này. Nó là một bổ xung của đời cho việc “ngộ tánh” Đạo Đức Thế Tôn.
Rắc rối lượng tử đã bổ xung hoàn hảo cho phương pháp luận “mối liên hệ phổ biến” của duy vật biện chứng và phương pháp luận phước nghiệp nhân quả luân hồi của Đạo Đức Thế Tôn.
Nói một cách giảng giải: Lý thuyết sự lựa chọn làm rõ: Mọi vấn đề, sự vật, việc, sắc trần, pháp đều có tính 2 mặt. Tính hai mặt này thể hiện không thể tách rời qua “rắc rối lượng tử”. Nếu như 1 lượng tử được quan sát trạng thái thực tại thì lập tức một lượng tử thứ 2 xác lập trạng thái. Dù trước đó, chúng ta không thể dự đoán được bất kỳ trạng thái nào.
Rõ ràng: Rắc rối lượng tử làm rõ lý thuyết: Hai mặt của sự vật, việc. - Thứ gì, điều gì, vật việc gì, sự gì, pháp gì, trần gì.v..v - Cái gì cũng có tính 2 mặt của nó ở thế giới này.
Như vậy, lý thuyết sự lựa chọn của chúng ta không thể nào bỏ qua điều hiển nhiên đã được bày này để áp dụng cho chúng ta.
Chính vì mọi thứ luôn có tính 2 mặt nên mới rõ: Tổng không là gì (tất nhiên, thứ này chúng ta tạm trừu tượng chứ không đóng đinh quan điểm tổng phước tổng nghiệp bằng 0. Hay tổng của 2 thứ đối lập sẽ bằng 0). Chúng ta trừu tượng rằng: Có một trạng thái, một điểm, một vị trí mà ở đó: Sự hai mặt cân bằng. Tĩnh, định, không.v.v.v
Chúng ta đang hưởng phước, liệu đây có phải chỉ là 1 mặt của 1 vấn đề. Một mặt còn lại chúng ta chưa biết đó là: Nợ nghiệp phải trả đang đợi?
Chúng ta gặp một quả nghiệp chịu khổ đau. Liệu đây có phải chỉ là 1 mặt của vấn đề. Một mặt còn lại là nhờ vào đó (mặt khổ đau nghiệp quả) mà chính là cửa phước lai.
Câu chuyện “tái ông mất mã” chắc ai cũng đã nghe. Câu chuyện này chính là 1 ví dụ nhỏ của: Tính hai mặt của 1 vấn đề, 1 sự.
Từ khoa học (lượng tử rắc rối) tới lý thuyết (đang trình) tới thực tiễn: Tính 2 mặt của 1 vấn đề, không cần bàn cãi: Rất rõ là 1 quy luật của thế giới này.
Vậy, nó có tác dụng gì với chúng ta?
1/ Khi chúng ta tuỳ pháp và buông xả ở phía trên: Liệu chúng ta còn “giữ” được những dục lạc?
Đây là vấn đề chúng ta cần rõ: Đạo là Đạo, đời là đời. Khi chúng ta tu Đạo đúng đường, đúng Chánh Pháp: Chúng ta phải có giác ngộ: Dục lạc theo tự nhiên phải rời xa chúng ta.
Chúng ta sẽ không còn thủ, còn hữu nhiều đâu. Đúng pháp chúng ta sẽ dần dần thành 1 người 2 bàn tay trắng và không có gì. Chúng ta phải có giác ngộ. Chúng ta phải an trú được trong cái lạc của dục như ý túc mới tu được là vậy. Chúng ta không an trú trong cái lạc của dục như ý túc được, chúng ta chỉ thấy: Sao càng tu lại càng thấy cảm thọ khổ, chán.
Phải có giác ngộ.
2/ Chúng ta càng ngày càng trở nên 1 thân một mình và xa cách thế giới dần. Đây là điều hiển nhiên vì đã và đang buông xả.
Chúng ta phải có giác ngộ.
3/ Chúng ta không bao giờ níu kéo được bất cứ dục lạc nào từ danh quyền tiền tài sắc đến hương hoa vòng nguyệt quế đến… đủ các thứ nghĩ trong đầu khi này khi mà: Chúng ta tu hành đúng Chánh Pháp Phật - Chánh Pháp giải thoát
Chúng ta càng níu, càng thấy khổ, thấy cảm giác “Pháp tu sao đem tới khổ”.
Đây là cái giá hiển nhiên: Khi chúng ta lựa chọn mặt Đạo thì sẽ xa lánh dần mặt đời. Chúng ta phải giác ngộ điều này.
Nên chúng ta đã hiểu rõ: Chân tu, tu sĩ đã bước 1 chân vào giải thoát như đã nói ngay trước tập luận: Rất khó gặp ở đời hình tướng sắc danh .v.v.v
Vì không phải họ không muốn hiển hoá thần thông cứu nhân độ thế hay làm Bồ Tát: Là vì họ cũng chưa phải là cảnh Phật hay Bồ Tát, họ còn đang tu và càng tới chỗ này càng tinh tấn thì càng phải thấy: Biến mất khỏi đời, thế.
Tính hai mặt của 1 vấn đề/sự này còn có thể giải thích: Mọi sự đời và mọi sự hơn thua được mất.v.v.v - Tất cả đều rất công bằng, chẳng qua chưa thấy mà thôi. Sự công bằng này là Đạo chứ không một ai chế ra được.
Cái gì cũng có giá của nó. Tất cả đều “vô ngã” nên chúng ta phải nhớ: Chúng ta không có gì. Những cái chúng ta có hoặc là chúng ta đang vay mượn từ quá khứ, hiện tại hoặc tương lai.
Nghiệp, phước không phải mang đến hay nó là: Vật, sắc, sự. Nghiệp không phải sắc sự, phước không phải sắc, sự. Nên:
Chúng ta hành ra nghiệp, phước thì chúng ta nhận quả chính là: Cảm thọ.
Nghiệp, phước nó chỉ thông qua cái hình tướng, cái hiện tượng, cái hình thức: Sắc, trần danh vật sự để …. Bắt chúng ta cảm thọ cái mà chúng ta hành ra.
Bởi thế, khi đã hết nghiệp, phước thì cảm thọ cũng hết thì: Sắc, sự, trầnv.v.v cũng vào chu kỳ hoạt diệt vô thường.
Chúng ta rõ hơn chút chưa?
Điều này, luôn có 1 thứ mà chúng ta đã thấy: Chúng ta hành là 1 mặt (kể cả là phước, nghiệp) nhưng chúng ta lại đang “vay mượn” 1 mặt không phải của chúng ta là: sắc trần, sự, danh.v.v. Để an trú nghiệp phước trước khi thọ dụng (thủ hữu).
Ví dụ: Chúng ta đào hòn đá ở núi, chặt cái cây ở rừng v.v.v… hoàn toàn vô chủ - các thứ này để dựng cái lều để ở. Chúng ta cho rằng: Đây là hành động không nghiệp phước nhân quả… thực tế, bản chất không phải: Chúng ta vẫn vay của bên ngoài.
Từ ví dụ trên chúng ta đã thấy: Vô lượng thứ chúng ta đã vay mượn từ bên ngoài, từ quá khứ, tới tương lai để chúng ta thọ dụng cái nghiệp phước của chúng ta.
Vì lẽ thế: Tôi không làm ác, cả đời lương thiện mà sao trời không thương cho tôi đủ ăn đủ mặc.v.v. Hay như ví dụ về đứa con của bà Đề Hi trong Quán Vô Lượng Thọ hay trong các ví dụ họ kể doạ chúng ta về “oan gia trái chủ”.v.v. - Tất cả đều là do chúng ta đã vay mượn (sắc, sự, danh, tài, trần.v.v.) để hành hoặc thọ phước, nghiệp (lạc, khổ.v.v.)
Nên không ai thoát, đều phải trả cả.
Một người cả đời này tin là bản thân luôn làm phước và đang hưởng phước là điều hiển nhiên..v.v. Tuy nhiên, Đức Thế Tôn cũng đã nói: Không có phước nào là phước thường hằng. Hưởng hết thì sẽ phải trả nợ.
Trong ví dụ trên: Họ cả đời lúc nào cũng làm phước, không làm ác… làm gì có chuyện ở những đời sau lại có nợ?
Chúng ta, nhờ lý thuyết về sự lựa chọn và những điều vừa trình về tính 2 mặt của 1 sự mới hiểu: Họ - Những người đang nói họ đầy lạc, đầy phước, làm hành phước.v.v. Thì khi thọ dụng lạc, phước - cái sắc, vật, sự đó chính là cái bên ngoài họ đã vay mượn để thông qua đó cảm thọ. Ví dụ về túp lều cho thấy rõ sự vay mượn sắc, vật bên ngoài thì ô tô, lâu đài, thân người tình, món ăn, giường ngủ.v.v.v. Mọi thứ này đều là vay mượn cả. Làm gì có cái gì là của người làm ra phước, tạo ra phước? - Họ muốn thọ phước (lạc) họ phải vay mượn.
Chính vì thế, thọ xong phước thì trả nợ là vậy.
Nghiệp cũng thế. Nghiệp lại ngược lại.
Nghiệp muốn giáng (nếu là nghiệp đời trước) - muốn giáng vào người đã tạo phải thông qua “hộp đen lượng tử” - chính là mượn sắc, sự, trần, vật gì đó để giáng vào thành quả cho người an trú thọ quả nghiệp (cảm thọ).
Họ chịu thọ nghiệp đó xong thì chắc chắn họ sẽ được trả nợ do những sắc sự, trần, cảnhv,.vv. - đâu có phải của họ, họ cũng đâu mượn, từ ở đâu đâu đến ập vào ấy chứ (người đời giải thích là sự kiện định mệnh ngẫu nhiên đó)… mượn cái này thì phải trả họ.
Sau khi thọ nghiệp. Nếu là ở 1 đời sau thì họ không nhớ được sự tình họ nghiệp nhưng do cái “huân tập khí” - thói quen lựa chọn ảnh như đã nói: Người này tránh hành tạo nghiệp xưa trong “vô thức”.. và bắt đầu gặp những “cơ duyên” để làm ra phước. Cơ duyên là gì ở đây? - Chính là cái mà trước kia nghiệp nó mượn thông qua đó giáng thọ thì giờ nó trả lại “cơ hội” - lựa chọn ảnh.
Nên con người hay hữu tình cứ HÀNH. LUÂN hay cứ lặp đi lặp lại như vậy. Phước - nghiệp - nghiệp - phước. - Đức thế tôn gọi là: Lý nhân quả để mô tả chi tiết, gì là phước, gì là nghiệp.
Như vậy, phước nghiệp là ảo hay thật? - Cũng là ảo mà thôi vì nó ở thế giới này, mà thế giới này là thế giới ảo ảnh.
Phước nghiệp thông qua vật, sự để an trú quả.
Chúng ta nhận phước, nghiệp là nhận cảm thọ. Không phải vật, sắc, danh, trần.v.vv - Những cái này là vay mượn ở bên ngoài để làm môi dẫn nhận quả (đã hành mà thôi).
Từ đây chúng ta rõ: Sinh ra ở đời, còn sống là còn tạo nghiệp, hoặc chí ít vẫn còn đang liên tục vay nợ là vậy - vì chúng ta còn thủ hữu, vay mượn các thứ không phải của mình.
Chúng ta phá được sắc ấm hay phá được “vọng tưởng kiên cố” - Lúc này, còn phước nghiệp gì không? - Làm gì còn.
Để lìa xa phước nghiệp thì phải phá thọ ấm, vọng tưởng hư minh. Khi phá thọ ấm chỉ còn cái thọ lạc cực lạc - giải thoát. Không liên quan sự, không liên quan phước nghiệp.v.v. Của thế giới nữa. Chúng ta không còn sự, không còn phước nghiệp, đã bị phá hết, lìa xa hết.
Lý thuyết “sự lựa chọn” mang đến cho chúng ta muôn vàn giải thích về mọi pháp theo cách hiểu thời hiện đại này. Nó là một bổ xung của đời cho việc “ngộ tánh” Đạo Đức Thế Tôn.
Rắc rối lượng tử đã bổ xung hoàn hảo cho phương pháp luận “mối liên hệ phổ biến” của duy vật biện chứng và phương pháp luận phước nghiệp nhân quả luân hồi của Đạo Đức Thế Tôn.
Nói một cách giảng giải: Lý thuyết sự lựa chọn làm rõ: Mọi vấn đề, sự vật, việc, sắc trần, pháp đều có tính 2 mặt. Tính hai mặt này thể hiện không thể tách rời qua “rắc rối lượng tử”. Nếu như 1 lượng tử được quan sát trạng thái thực tại thì lập tức một lượng tử thứ 2 xác lập trạng thái. Dù trước đó, chúng ta không thể dự đoán được bất kỳ trạng thái nào.
Rõ ràng: Rắc rối lượng tử làm rõ lý thuyết: Hai mặt của sự vật, việc. - Thứ gì, điều gì, vật việc gì, sự gì, pháp gì, trần gì.v..v - Cái gì cũng có tính 2 mặt của nó ở thế giới này.
Như vậy, lý thuyết sự lựa chọn của chúng ta không thể nào bỏ qua điều hiển nhiên đã được bày này để áp dụng cho chúng ta.
Chính vì mọi thứ luôn có tính 2 mặt nên mới rõ: Tổng không là gì (tất nhiên, thứ này chúng ta tạm trừu tượng chứ không đóng đinh quan điểm tổng phước tổng nghiệp bằng 0. Hay tổng của 2 thứ đối lập sẽ bằng 0). Chúng ta trừu tượng rằng: Có một trạng thái, một điểm, một vị trí mà ở đó: Sự hai mặt cân bằng. Tĩnh, định, không.v.v.v
Chúng ta đang hưởng phước, liệu đây có phải chỉ là 1 mặt của 1 vấn đề. Một mặt còn lại chúng ta chưa biết đó là: Nợ nghiệp phải trả đang đợi?
Chúng ta gặp một quả nghiệp chịu khổ đau. Liệu đây có phải chỉ là 1 mặt của vấn đề. Một mặt còn lại là nhờ vào đó (mặt khổ đau nghiệp quả) mà chính là cửa phước lai.
Câu chuyện “tái ông mất mã” chắc ai cũng đã nghe. Câu chuyện này chính là 1 ví dụ nhỏ của: Tính hai mặt của 1 vấn đề, 1 sự.
Từ khoa học (lượng tử rắc rối) tới lý thuyết (đang trình) tới thực tiễn: Tính 2 mặt của 1 vấn đề, không cần bàn cãi: Rất rõ là 1 quy luật của thế giới này.
Vậy, nó có tác dụng gì với chúng ta?
1/ Khi chúng ta tuỳ pháp và buông xả ở phía trên: Liệu chúng ta còn “giữ” được những dục lạc?
Đây là vấn đề chúng ta cần rõ: Đạo là Đạo, đời là đời. Khi chúng ta tu Đạo đúng đường, đúng Chánh Pháp: Chúng ta phải có giác ngộ: Dục lạc theo tự nhiên phải rời xa chúng ta.
Chúng ta sẽ không còn thủ, còn hữu nhiều đâu. Đúng pháp chúng ta sẽ dần dần thành 1 người 2 bàn tay trắng và không có gì. Chúng ta phải có giác ngộ. Chúng ta phải an trú được trong cái lạc của dục như ý túc mới tu được là vậy. Chúng ta không an trú trong cái lạc của dục như ý túc được, chúng ta chỉ thấy: Sao càng tu lại càng thấy cảm thọ khổ, chán.
Phải có giác ngộ.
2/ Chúng ta càng ngày càng trở nên 1 thân một mình và xa cách thế giới dần. Đây là điều hiển nhiên vì đã và đang buông xả.
Chúng ta phải có giác ngộ.
3/ Chúng ta không bao giờ níu kéo được bất cứ dục lạc nào từ danh quyền tiền tài sắc đến hương hoa vòng nguyệt quế đến… đủ các thứ nghĩ trong đầu khi này khi mà: Chúng ta tu hành đúng Chánh Pháp Phật - Chánh Pháp giải thoát
Chúng ta càng níu, càng thấy khổ, thấy cảm giác “Pháp tu sao đem tới khổ”.
Đây là cái giá hiển nhiên: Khi chúng ta lựa chọn mặt Đạo thì sẽ xa lánh dần mặt đời. Chúng ta phải giác ngộ điều này.
Nên chúng ta đã hiểu rõ: Chân tu, tu sĩ đã bước 1 chân vào giải thoát như đã nói ngay trước tập luận: Rất khó gặp ở đời hình tướng sắc danh .v.v.v
Vì không phải họ không muốn hiển hoá thần thông cứu nhân độ thế hay làm Bồ Tát: Là vì họ cũng chưa phải là cảnh Phật hay Bồ Tát, họ còn đang tu và càng tới chỗ này càng tinh tấn thì càng phải thấy: Biến mất khỏi đời, thế.
Tính hai mặt của 1 vấn đề/sự này còn có thể giải thích: Mọi sự đời và mọi sự hơn thua được mất.v.v.v - Tất cả đều rất công bằng, chẳng qua chưa thấy mà thôi. Sự công bằng này là Đạo chứ không một ai chế ra được.
Cái gì cũng có giá của nó. Tất cả đều “vô ngã” nên chúng ta phải nhớ: Chúng ta không có gì. Những cái chúng ta có hoặc là chúng ta đang vay mượn từ quá khứ, hiện tại hoặc tương lai.
Nghiệp, phước không phải mang đến hay nó là: Vật, sắc, sự. Nghiệp không phải sắc sự, phước không phải sắc, sự. Nên:
Chúng ta hành ra nghiệp, phước thì chúng ta nhận quả chính là: Cảm thọ.
Nghiệp, phước nó chỉ thông qua cái hình tướng, cái hiện tượng, cái hình thức: Sắc, trần danh vật sự để …. Bắt chúng ta cảm thọ cái mà chúng ta hành ra.
Bởi thế, khi đã hết nghiệp, phước thì cảm thọ cũng hết thì: Sắc, sự, trầnv.v.v cũng vào chu kỳ hoạt diệt vô thường.
Chúng ta rõ hơn chút chưa?
Điều này, luôn có 1 thứ mà chúng ta đã thấy: Chúng ta hành là 1 mặt (kể cả là phước, nghiệp) nhưng chúng ta lại đang “vay mượn” 1 mặt không phải của chúng ta là: sắc trần, sự, danh.v.v. Để an trú nghiệp phước trước khi thọ dụng (thủ hữu).
Ví dụ: Chúng ta đào hòn đá ở núi, chặt cái cây ở rừng v.v.v… hoàn toàn vô chủ - các thứ này để dựng cái lều để ở. Chúng ta cho rằng: Đây là hành động không nghiệp phước nhân quả… thực tế, bản chất không phải: Chúng ta vẫn vay của bên ngoài.
Từ ví dụ trên chúng ta đã thấy: Vô lượng thứ chúng ta đã vay mượn từ bên ngoài, từ quá khứ, tới tương lai để chúng ta thọ dụng cái nghiệp phước của chúng ta.
Vì lẽ thế: Tôi không làm ác, cả đời lương thiện mà sao trời không thương cho tôi đủ ăn đủ mặc.v.v. Hay như ví dụ về đứa con của bà Đề Hi trong Quán Vô Lượng Thọ hay trong các ví dụ họ kể doạ chúng ta về “oan gia trái chủ”.v.v. - Tất cả đều là do chúng ta đã vay mượn (sắc, sự, danh, tài, trần.v.v.) để hành hoặc thọ phước, nghiệp (lạc, khổ.v.v.)
Nên không ai thoát, đều phải trả cả.
Một người cả đời này tin là bản thân luôn làm phước và đang hưởng phước là điều hiển nhiên..v.v. Tuy nhiên, Đức Thế Tôn cũng đã nói: Không có phước nào là phước thường hằng. Hưởng hết thì sẽ phải trả nợ.
Trong ví dụ trên: Họ cả đời lúc nào cũng làm phước, không làm ác… làm gì có chuyện ở những đời sau lại có nợ?
Chúng ta, nhờ lý thuyết về sự lựa chọn và những điều vừa trình về tính 2 mặt của 1 sự mới hiểu: Họ - Những người đang nói họ đầy lạc, đầy phước, làm hành phước.v.v. Thì khi thọ dụng lạc, phước - cái sắc, vật, sự đó chính là cái bên ngoài họ đã vay mượn để thông qua đó cảm thọ. Ví dụ về túp lều cho thấy rõ sự vay mượn sắc, vật bên ngoài thì ô tô, lâu đài, thân người tình, món ăn, giường ngủ.v.v.v. Mọi thứ này đều là vay mượn cả. Làm gì có cái gì là của người làm ra phước, tạo ra phước? - Họ muốn thọ phước (lạc) họ phải vay mượn.
Chính vì thế, thọ xong phước thì trả nợ là vậy.
Nghiệp cũng thế. Nghiệp lại ngược lại.
Nghiệp muốn giáng (nếu là nghiệp đời trước) - muốn giáng vào người đã tạo phải thông qua “hộp đen lượng tử” - chính là mượn sắc, sự, trần, vật gì đó để giáng vào thành quả cho người an trú thọ quả nghiệp (cảm thọ).
Họ chịu thọ nghiệp đó xong thì chắc chắn họ sẽ được trả nợ do những sắc sự, trần, cảnhv,.vv. - đâu có phải của họ, họ cũng đâu mượn, từ ở đâu đâu đến ập vào ấy chứ (người đời giải thích là sự kiện định mệnh ngẫu nhiên đó)… mượn cái này thì phải trả họ.
Sau khi thọ nghiệp. Nếu là ở 1 đời sau thì họ không nhớ được sự tình họ nghiệp nhưng do cái “huân tập khí” - thói quen lựa chọn ảnh như đã nói: Người này tránh hành tạo nghiệp xưa trong “vô thức”.. và bắt đầu gặp những “cơ duyên” để làm ra phước. Cơ duyên là gì ở đây? - Chính là cái mà trước kia nghiệp nó mượn thông qua đó giáng thọ thì giờ nó trả lại “cơ hội” - lựa chọn ảnh.
Nên con người hay hữu tình cứ HÀNH. LUÂN hay cứ lặp đi lặp lại như vậy. Phước - nghiệp - nghiệp - phước. - Đức thế tôn gọi là: Lý nhân quả để mô tả chi tiết, gì là phước, gì là nghiệp.
Như vậy, phước nghiệp là ảo hay thật? - Cũng là ảo mà thôi vì nó ở thế giới này, mà thế giới này là thế giới ảo ảnh.
Phước nghiệp thông qua vật, sự để an trú quả.
Chúng ta nhận phước, nghiệp là nhận cảm thọ. Không phải vật, sắc, danh, trần.v.vv - Những cái này là vay mượn ở bên ngoài để làm môi dẫn nhận quả (đã hành mà thôi).
Từ đây chúng ta rõ: Sinh ra ở đời, còn sống là còn tạo nghiệp, hoặc chí ít vẫn còn đang liên tục vay nợ là vậy - vì chúng ta còn thủ hữu, vay mượn các thứ không phải của mình.
Chúng ta phá được sắc ấm hay phá được “vọng tưởng kiên cố” - Lúc này, còn phước nghiệp gì không? - Làm gì còn.
Để lìa xa phước nghiệp thì phải phá thọ ấm, vọng tưởng hư minh. Khi phá thọ ấm chỉ còn cái thọ lạc cực lạc - giải thoát. Không liên quan sự, không liên quan phước nghiệp.v.v. Của thế giới nữa. Chúng ta không còn sự, không còn phước nghiệp, đã bị phá hết, lìa xa hết.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Như vậy, chúng ta đã rõ: Nghiệp phước và vay mượn, dính mắc?
Nghiệp phước: Không phải là vật, là sự, là trần sắc. Nghiệp phước là do cái hành của chúng ta tạo ra. Nó an trú vào chúng ta, bản chất là: Cảm thọ. Nghiệp phước là cảm thọ, không phải sự, sắc, trần.v.v.
Nhưng muốn hưởng quả thọ (do hành) - dù là thọ phước (lạc) hay thọ nghiệp (khổ) thì không thể tự nhiên mà nó ập được đến chúng ta, bắt chúng ta thọ theo kiểu từ “hư không hiện ra” được. Nó phải qua “môi dẫn” hay thức thức, hiện tượng nào đó, chính là: Vật, sắc, trần cảnh, sự.v.v.v - thông qua các trần này chúng ta mới nhận thọ.
Từ đây, chúng ta rõ: Chúng ta vay mượn cái gì, luôn luôn vay mượn cái gì từ bên ngoài.
Tâm chúng ta đã chấp nhận: Thôi thì đời quá khứ ta tạo nghiệp rồi thì giờ đây cắn răng chịu quả đi. Khổ tân cam lai.v.v.v.
Nhưng khi “cam lai” có giải thoát? - Không. Vẫn không giải thoát. Mà tôi đã nghiệp hết rồi, tôi đã chịu vô lượng khổ đau ở địa ngục do cái hành của tôi ở quá khứ và chịu thọ khổ nghiệp vô lượng đời. Trả hết nghiệp rồi, mà tại sao không cho tôi giải thoát? - Tôi còn nợ gì mà lại tiếp tục “vứt” tôi vào thế này?
Vì nợ, vì vay mượn!
Nếu không hiểu về sự dính mắc hay rắc rối lượng tử thì chúng ta không hiểu về sự dính mắc mà Đức Thế Tôn nói ở hệ thống giới kinh. Cũng không hiểu được tại sao: Đã vào địa ngục vô lượng đời chịu khổ rồi, trả hết nghiệp rồi… sao không được giải thoát mà vẫn luân hồi. Còn nghiệp gì nữa đâu mà bảo phải luân hồi để trả vì trả ở địa ngục rồi mà.v.v..v
Hoặc nhiều người nói: Cả đời tôi chẳng hành ác gì, không làm gì chỉ ngồi, người thân thương tình nên tự nguyện đem cơm đút, chăm sóc…v.v. Tôi chẳng làm ác gì, tôi cũng ở đời trả nghiệp như vậy, có nghiệp gì đến tôi chịu hết rồi…. Sao vẫn bắt tôi luân hồi?
Chúng ta chỉ khi rõ về: Sự vay mượn phải trả - dính mắc sắc trần là gì - như đã trình. Mới hiểu rõ: Thì ra, dù không tạo nghiệp, vẫn dính mắc vì đang vay mượn để thọ quả. Nên chẳng bao giờ hết luân hồi là vậy.
Lại nữa: Có người sẽ lý luận: Vậy, tôi không vay mượn thêm, không hành gì để nên tạo nghiệp phước, trả. Tôi đợi đến lúc cân bằng số 0. Tôi chết luôn. Tức trả nốt các dính mắc. Liệu có giải thoát?
Lý luận này dù khả năng quá khứ chưa 1 ai nêu ra vì (chưa có lý thuyết đang trình) nhưng quá khứ đã có người triển khai ở thực tiễn: Chính là tịnh độ. Bản chất về lý giải thoát tịnh độ nằm ở chỗ này.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu về điểm cân bằng 0, chúng ta luôn biết rằng: Nó có quán tính. Giống như 1 cơ cấu động cơ pittong trục khuỷu thì nó luôn có điểm chết. Nhưng tại sao nó lại vẫn quay đều được? - Vì lực quán tính.
Thì ở đây, cái huân tập khí - thói quen nó sẽ tiếp tục lôi “người ta” đi.
Dù vậy, nếu có “tiếp dẫn” thật thì… ai biết được điều gì sẽ diễn ra khi đó?
Dù có tịnh độ hay không có tịnh độ thì chúng ta cũng sẽ sớm biết khi ở sau này trí minh thấy nhiều hơn. Cũng không cần phải so đo.
Và dù có hay không có tịnh độ, theo hay không theo tịnh độ, chúng ta muốn giải thoát và để sau này không cần trả lời những câu hỏi này (vì tự thấy biết rồi) thì, ai cũng đều phải:
Trước tiên là: Bỏ được mọi sự dính mắc hay vướng mắc hay vay mượn.
Không phải nghiệp, phước. Trước tiên chúng ta phải thấu lý trên dù có theo tịnh độ hay không và tịnh độ có hay không. Ai muốn giải thoát, muốn tu Đạo Đức Thế Tôn đều cần giác ngộ về dính mắc, vay mượn là gì…
Từ đây, chúng ta mới từ bỏ được sắc trần, sự, từ bỏ thủ hữu sắc trần, sự… từ bỏ vay mượn, từ bỏ dính mắc = Buông xả là vậy.
Chứ không phải, buông xả chỉ là mấy cái nghĩ nghĩ niệm niệm trong đầu. Phải thấu lý chúng ta mới rõ buông xả cái gì.
Từ đây, người tin tu tịnh độ cũng sẽ biết cái họ tu, quan trọng là gì…. May ra khi chết - buông xả nốt những thứ cuối cùng = thân, hơi thở… và có thế giới của ngài A Di Đà Phật thật, và có tiếp dẫn thật.v.v.v thì có khi: Đản sinh ở thế này cũng nên.
Nghiệp phước: Không phải là vật, là sự, là trần sắc. Nghiệp phước là do cái hành của chúng ta tạo ra. Nó an trú vào chúng ta, bản chất là: Cảm thọ. Nghiệp phước là cảm thọ, không phải sự, sắc, trần.v.v.
Nhưng muốn hưởng quả thọ (do hành) - dù là thọ phước (lạc) hay thọ nghiệp (khổ) thì không thể tự nhiên mà nó ập được đến chúng ta, bắt chúng ta thọ theo kiểu từ “hư không hiện ra” được. Nó phải qua “môi dẫn” hay thức thức, hiện tượng nào đó, chính là: Vật, sắc, trần cảnh, sự.v.v.v - thông qua các trần này chúng ta mới nhận thọ.
Từ đây, chúng ta rõ: Chúng ta vay mượn cái gì, luôn luôn vay mượn cái gì từ bên ngoài.
Tâm chúng ta đã chấp nhận: Thôi thì đời quá khứ ta tạo nghiệp rồi thì giờ đây cắn răng chịu quả đi. Khổ tân cam lai.v.v.v.
Nhưng khi “cam lai” có giải thoát? - Không. Vẫn không giải thoát. Mà tôi đã nghiệp hết rồi, tôi đã chịu vô lượng khổ đau ở địa ngục do cái hành của tôi ở quá khứ và chịu thọ khổ nghiệp vô lượng đời. Trả hết nghiệp rồi, mà tại sao không cho tôi giải thoát? - Tôi còn nợ gì mà lại tiếp tục “vứt” tôi vào thế này?
Vì nợ, vì vay mượn!
Nếu không hiểu về sự dính mắc hay rắc rối lượng tử thì chúng ta không hiểu về sự dính mắc mà Đức Thế Tôn nói ở hệ thống giới kinh. Cũng không hiểu được tại sao: Đã vào địa ngục vô lượng đời chịu khổ rồi, trả hết nghiệp rồi… sao không được giải thoát mà vẫn luân hồi. Còn nghiệp gì nữa đâu mà bảo phải luân hồi để trả vì trả ở địa ngục rồi mà.v.v..v
Hoặc nhiều người nói: Cả đời tôi chẳng hành ác gì, không làm gì chỉ ngồi, người thân thương tình nên tự nguyện đem cơm đút, chăm sóc…v.v. Tôi chẳng làm ác gì, tôi cũng ở đời trả nghiệp như vậy, có nghiệp gì đến tôi chịu hết rồi…. Sao vẫn bắt tôi luân hồi?
Chúng ta chỉ khi rõ về: Sự vay mượn phải trả - dính mắc sắc trần là gì - như đã trình. Mới hiểu rõ: Thì ra, dù không tạo nghiệp, vẫn dính mắc vì đang vay mượn để thọ quả. Nên chẳng bao giờ hết luân hồi là vậy.
Lại nữa: Có người sẽ lý luận: Vậy, tôi không vay mượn thêm, không hành gì để nên tạo nghiệp phước, trả. Tôi đợi đến lúc cân bằng số 0. Tôi chết luôn. Tức trả nốt các dính mắc. Liệu có giải thoát?
Lý luận này dù khả năng quá khứ chưa 1 ai nêu ra vì (chưa có lý thuyết đang trình) nhưng quá khứ đã có người triển khai ở thực tiễn: Chính là tịnh độ. Bản chất về lý giải thoát tịnh độ nằm ở chỗ này.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu về điểm cân bằng 0, chúng ta luôn biết rằng: Nó có quán tính. Giống như 1 cơ cấu động cơ pittong trục khuỷu thì nó luôn có điểm chết. Nhưng tại sao nó lại vẫn quay đều được? - Vì lực quán tính.
Thì ở đây, cái huân tập khí - thói quen nó sẽ tiếp tục lôi “người ta” đi.
Dù vậy, nếu có “tiếp dẫn” thật thì… ai biết được điều gì sẽ diễn ra khi đó?
Dù có tịnh độ hay không có tịnh độ thì chúng ta cũng sẽ sớm biết khi ở sau này trí minh thấy nhiều hơn. Cũng không cần phải so đo.
Và dù có hay không có tịnh độ, theo hay không theo tịnh độ, chúng ta muốn giải thoát và để sau này không cần trả lời những câu hỏi này (vì tự thấy biết rồi) thì, ai cũng đều phải:
Trước tiên là: Bỏ được mọi sự dính mắc hay vướng mắc hay vay mượn.
Không phải nghiệp, phước. Trước tiên chúng ta phải thấu lý trên dù có theo tịnh độ hay không và tịnh độ có hay không. Ai muốn giải thoát, muốn tu Đạo Đức Thế Tôn đều cần giác ngộ về dính mắc, vay mượn là gì…
Từ đây, chúng ta mới từ bỏ được sắc trần, sự, từ bỏ thủ hữu sắc trần, sự… từ bỏ vay mượn, từ bỏ dính mắc = Buông xả là vậy.
Chứ không phải, buông xả chỉ là mấy cái nghĩ nghĩ niệm niệm trong đầu. Phải thấu lý chúng ta mới rõ buông xả cái gì.
Từ đây, người tin tu tịnh độ cũng sẽ biết cái họ tu, quan trọng là gì…. May ra khi chết - buông xả nốt những thứ cuối cùng = thân, hơi thở… và có thế giới của ngài A Di Đà Phật thật, và có tiếp dẫn thật.v.v.v thì có khi: Đản sinh ở thế này cũng nên.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Đến đây, chúng ta đã rõ hơn về những câu trong hệ thống giới kinh như: vô nhân vô quả, vô nghiệp vô phước hay không thấy quả là quả, không thấy chứng là chứng, không thấy phước là phước.v.v.v.
Tất cả những cái trên, với người tu hành Đạo Đức Thế Tôn khi còn ở thế: - Khi chúng ta có, chúng ta thọ dụng nó - chắc chắn phải vay mượn “một cơ sở vật chất” nào đó của bên ngoài thì chúng ta mới thọ dụng được. Điều này làm chúng ta dính mắc.
Vì thế, chúng ta cần ba la mật, cần Bát Nhã là vậy. Bằng không, càng tu càng thấy dính mắc. Tu bao nhiêu phước lại thấy dính mắc bây nhiêu.v.v. - Cuối cùng có giải thoát đâu. Được cái danh, cái quyền ở đời thì để làm gì?
Phước, quả (Đạo Quả) nó đến… nó ập còn hơn nghiệp. Sức mạnh của nó lớn lắm khi chúng ta tu đúng Chánh Pháp.. nó ập đến làm ta sụp hố luôn nếu như không tỉnh thức.
Chỉ có giữ được Giới khi này mới tự biết tỉnh thức là gì và làm thế nào để phước, quả nó ập đến mà không dính mắc vào.
Vì lẽ đó, những người đã “buông xả” được thâm sâu, chúng ta: Có còn thích gặp họ là gặp được, nhìn thấy họ, biết rõ họ.v.v.v - hay chỉ còn là: tưởng nghĩ và nghe về, truyền lại.v.v.v.
Chúng ta phải nhớ rõ những điều này vì khi tu hành đúng Chánh Pháp, một ngày chúng ta sẽ gặp. Chắc chắn!
Tuy vậy, bây giờ chúng ta còn cấu uế đầy thân, sự nghiệp còn lớn, phước phúc còn đầy…. Nên, tập trung tuỳ pháp - buông xả.
Đừng lo nghĩ bất cứ vọng tưởng lan man gì về việc: Chúng ta mặt kệ sự này, chúng ta kệ sự kia thì thật nguy hiểm, nó sẽ vỡ thế này, nó sẽ kéo thế kia.v.v.v - Khi sự chưa vào hoạt, diệt, không cần hành gì, không cần niệm gì. Rồi sớm muộn nó đến đoạn hoại diệt, hãy tứ chánh cần và buông bỏ (chính là đoạn diệt đó), không cho nó trở thành ảnh “nhân” nữa.
Cũng không cần hiện lên niệm: Sự này không thể kệ được (không được). - Hãy tuỳ pháp vô sanh nhẫn. Sẽ sớm thấy nhiệm màu.
Chúng ta, thực hành đúng, mọi thứ thấy, chứng thấy nhanh lắm!
…
Tất cả những cái trên, với người tu hành Đạo Đức Thế Tôn khi còn ở thế: - Khi chúng ta có, chúng ta thọ dụng nó - chắc chắn phải vay mượn “một cơ sở vật chất” nào đó của bên ngoài thì chúng ta mới thọ dụng được. Điều này làm chúng ta dính mắc.
Vì thế, chúng ta cần ba la mật, cần Bát Nhã là vậy. Bằng không, càng tu càng thấy dính mắc. Tu bao nhiêu phước lại thấy dính mắc bây nhiêu.v.v. - Cuối cùng có giải thoát đâu. Được cái danh, cái quyền ở đời thì để làm gì?
Phước, quả (Đạo Quả) nó đến… nó ập còn hơn nghiệp. Sức mạnh của nó lớn lắm khi chúng ta tu đúng Chánh Pháp.. nó ập đến làm ta sụp hố luôn nếu như không tỉnh thức.
Chỉ có giữ được Giới khi này mới tự biết tỉnh thức là gì và làm thế nào để phước, quả nó ập đến mà không dính mắc vào.
Vì lẽ đó, những người đã “buông xả” được thâm sâu, chúng ta: Có còn thích gặp họ là gặp được, nhìn thấy họ, biết rõ họ.v.v.v - hay chỉ còn là: tưởng nghĩ và nghe về, truyền lại.v.v.v.
Chúng ta phải nhớ rõ những điều này vì khi tu hành đúng Chánh Pháp, một ngày chúng ta sẽ gặp. Chắc chắn!
Tuy vậy, bây giờ chúng ta còn cấu uế đầy thân, sự nghiệp còn lớn, phước phúc còn đầy…. Nên, tập trung tuỳ pháp - buông xả.
Đừng lo nghĩ bất cứ vọng tưởng lan man gì về việc: Chúng ta mặt kệ sự này, chúng ta kệ sự kia thì thật nguy hiểm, nó sẽ vỡ thế này, nó sẽ kéo thế kia.v.v.v - Khi sự chưa vào hoạt, diệt, không cần hành gì, không cần niệm gì. Rồi sớm muộn nó đến đoạn hoại diệt, hãy tứ chánh cần và buông bỏ (chính là đoạn diệt đó), không cho nó trở thành ảnh “nhân” nữa.
Cũng không cần hiện lên niệm: Sự này không thể kệ được (không được). - Hãy tuỳ pháp vô sanh nhẫn. Sẽ sớm thấy nhiệm màu.
Chúng ta, thực hành đúng, mọi thứ thấy, chứng thấy nhanh lắm!
…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(067 tiếp)
Giả dụ: Có một vị cấp cảnh A La Hán, Bích Chi, Bồ Tát thực sự. Người này, đảnh lễ chúng ta. - Liệu chúng ta có gánh nổi cái phước này? - Không! Vì phước lớn quá, thọ không nổi.
Như vậy, chúng ta cần tỉnh táo, bởi vì những người này, rất hay đi “xin”. - Thì họ có cái gì đâu ngoài cái phước, họ đi xin - bòn hạnh. Còn chúng ta tập làm Bồ Tát bố thí - cũng bòn phước hạnh.
Tự nhiên, mở đầu bằng đoạn trên bởi: Ba la mật bố thí, liên quan tới xin, cầu, cần, muốn. 6 phương tâm là 6 nơi chúng ta cần trang nghiêm. Bởi vậy:
Nên đảnh lễ, cung kính 6 phương tâm. - Không ai rõ ai là Bồ Tát, La Hán, Bích Chi. Chỉ có chúng ta rõ chúng ta là người phàm còn đang tìm đường tu. Nên chúng ta cứ cung kính trước. Không thiệt.
Mở rộng ra nữa: Khắp mười phương chư Phật. Nếu chúng ta gặp được ai xin, cầu cái gì - Thực sự quá phước đức.
***
Với lý thuyết sự lựa chọn như đang trình, với tất cả những gì từ đầu đến giờ, chúng ta rất rõ những điều sau:
1/ Hành thì ra nghiệp, mà thủ, hữu thì ra vay mượn. =>Thọ khổ cũng không xong, thọ lạc cũng không yên. Nếu như có ai đó tự nhiên đến xin thứ gì đó ta đang thủ hữu, đặc biệt là 6 phương tâm thì:
+ Ta cho đi mà cảm thấy hỉ lạc thì đây chắc chắn chính là trang nghiêm tâm cực lạc vì ta vừa trả được nợ, vay (không còn thủ hữu) mà lại có thọ lạc hỉ thì rất rõ thọ này đến từ dục như ý túc - không mong cầu muốn. Nó là lạc trong trang nghiêm cực lạc.
+ Dù chưa hết sự, nhưng chúng ta mất sự thủ hữu sắc trần vật… càng mất đi nhiều càng thấy bớt dính mắc bây nhiêu, mà vẫn hỉ lạc.
+ Nếu mất mà không hỉ lạc thì quay trở lại đầu luận nhâm cafe và “chém gió” nói chuyện phỡn với chúng bạn về thiên la địa trí trên đời. . - Mất thời gian tu mà không rõ tu ra cái gì.
2/ Bớ đâu đó gặp anh ổng ăn xin chẳng có gì ngoài có mỗi phước ngập tràn thân mà ổng không chịu thọ, ông xin mình cái gì đó thì…. Còn phước gì bằng bố thí này..
Người ta không cần mà cứ ép người ta nhận: - Cũng cần phải cẩn thận, kẻo mang nghiệp cho cả 2 là vậy.
Tựu chung lại, khi rõ bố thí ba la mật là gì thì chúng ta gần như là hai bàn tay trắng. Cực lạc và đã thấy khả năng bản thân “giải thoát được thật” chỉ ở trong đời này.
Mà đâu xa. 6 phương tâm thôi.
1/ Phương Phật, Đạo: Phương này luôn có 2 chiều. Một chiều là cúng dường, khi đã cúng dường thì có thể cầu xin pháp. Một chiều là có thể nhận cúng dường hoặc không nhận. Khi đã nhận cúng dường, phải ban pháp cho người xin. Không có pháp để ban theo mong muốn của người xin thì có thể từ chối nhận cúng dường.
Mọi người chúng ta thấy có lạ so với thường thức mà mọi người chúng ta đang thấy ở xã hội?
Ở hệ thống giới kinh, mọi người gặp rất nhiều cảnh: Thí chủ (người đời chúng ta đó) đến đảnh lễ, cúng dường Thế Tôn (tuỳ vào cái cầu xin mà lễ vật cúng dường khác nhau thế nào). Đức Thế Tôn mà thọ nhận - đảm bảo sẽ ban Pháp cho người xin dù đó là xin pháp gì - lại có một kinh được lưu truyền.v.v.
Bây giờ thì sao? - Loạn!
- Người nhận cúng dường mà không ban được pháp thoả mong cầu của người cúng dường thì sớm sẽ biết nhân quả là gì. Ngược lại, người cúng dường mà không biết mình cầu xin pháp gì, cũng không biết ý nghĩa của cúng dường… thì không bao giờ thấy phước ở đâu vì người không ban được pháp thoả cho người cúng dường mà vẫn nhận cúng dường rồi… lên bài pháp chung chung cho cả tỷ chúng sinh nghe đều không thấy sai thì đây… sai hết về phước nghiệp nhân quả.
2/ Chưa đủ tư cách ngồi để nhận đảnh lễ và cúng dường - tức chưa ban được pháp theo mong muốn của người cúng dường - tốt nhất hãy đi xin. Người cho - chắc chắn là nhận được phước bố thí ba la mật. Người xin cũng nhận được phước đức và cái cần xin. Phước đức gì với người xin ở đây? - Cái vô ngã vô dính mắc. - Làm vậy, rồi một ngày mới đủ tư cách nhận cúng dường.
3/ Phương sự Phụ thì là sự riêng lẻ rồi. Ở trong Kinh Đức Thế Tôn đã nói rõ về việc cúng dường, xin cho, bố thí .v.v. Với phương này.
4/ Phương dưới nếu có thì: Cố gắng bố thí - tốt quá rồi còn gì. Phương này chắc ai cũng rõ nhất về cách làm và lý.
5/ 3 Phương còn lại: Vừa kính lễ - cung kính vừa cúng dường vừa bố thí.
6 phương tâm chắc chắn sớm giới khăng khít và hình thành thế giới cực lạc.
…
Giả dụ: Có một vị cấp cảnh A La Hán, Bích Chi, Bồ Tát thực sự. Người này, đảnh lễ chúng ta. - Liệu chúng ta có gánh nổi cái phước này? - Không! Vì phước lớn quá, thọ không nổi.
Như vậy, chúng ta cần tỉnh táo, bởi vì những người này, rất hay đi “xin”. - Thì họ có cái gì đâu ngoài cái phước, họ đi xin - bòn hạnh. Còn chúng ta tập làm Bồ Tát bố thí - cũng bòn phước hạnh.
Tự nhiên, mở đầu bằng đoạn trên bởi: Ba la mật bố thí, liên quan tới xin, cầu, cần, muốn. 6 phương tâm là 6 nơi chúng ta cần trang nghiêm. Bởi vậy:
Nên đảnh lễ, cung kính 6 phương tâm. - Không ai rõ ai là Bồ Tát, La Hán, Bích Chi. Chỉ có chúng ta rõ chúng ta là người phàm còn đang tìm đường tu. Nên chúng ta cứ cung kính trước. Không thiệt.
Mở rộng ra nữa: Khắp mười phương chư Phật. Nếu chúng ta gặp được ai xin, cầu cái gì - Thực sự quá phước đức.
***
Với lý thuyết sự lựa chọn như đang trình, với tất cả những gì từ đầu đến giờ, chúng ta rất rõ những điều sau:
1/ Hành thì ra nghiệp, mà thủ, hữu thì ra vay mượn. =>Thọ khổ cũng không xong, thọ lạc cũng không yên. Nếu như có ai đó tự nhiên đến xin thứ gì đó ta đang thủ hữu, đặc biệt là 6 phương tâm thì:
+ Ta cho đi mà cảm thấy hỉ lạc thì đây chắc chắn chính là trang nghiêm tâm cực lạc vì ta vừa trả được nợ, vay (không còn thủ hữu) mà lại có thọ lạc hỉ thì rất rõ thọ này đến từ dục như ý túc - không mong cầu muốn. Nó là lạc trong trang nghiêm cực lạc.
+ Dù chưa hết sự, nhưng chúng ta mất sự thủ hữu sắc trần vật… càng mất đi nhiều càng thấy bớt dính mắc bây nhiêu, mà vẫn hỉ lạc.
+ Nếu mất mà không hỉ lạc thì quay trở lại đầu luận nhâm cafe và “chém gió” nói chuyện phỡn với chúng bạn về thiên la địa trí trên đời. . - Mất thời gian tu mà không rõ tu ra cái gì.
2/ Bớ đâu đó gặp anh ổng ăn xin chẳng có gì ngoài có mỗi phước ngập tràn thân mà ổng không chịu thọ, ông xin mình cái gì đó thì…. Còn phước gì bằng bố thí này..
Người ta không cần mà cứ ép người ta nhận: - Cũng cần phải cẩn thận, kẻo mang nghiệp cho cả 2 là vậy.
Tựu chung lại, khi rõ bố thí ba la mật là gì thì chúng ta gần như là hai bàn tay trắng. Cực lạc và đã thấy khả năng bản thân “giải thoát được thật” chỉ ở trong đời này.
Mà đâu xa. 6 phương tâm thôi.
1/ Phương Phật, Đạo: Phương này luôn có 2 chiều. Một chiều là cúng dường, khi đã cúng dường thì có thể cầu xin pháp. Một chiều là có thể nhận cúng dường hoặc không nhận. Khi đã nhận cúng dường, phải ban pháp cho người xin. Không có pháp để ban theo mong muốn của người xin thì có thể từ chối nhận cúng dường.
Mọi người chúng ta thấy có lạ so với thường thức mà mọi người chúng ta đang thấy ở xã hội?
Ở hệ thống giới kinh, mọi người gặp rất nhiều cảnh: Thí chủ (người đời chúng ta đó) đến đảnh lễ, cúng dường Thế Tôn (tuỳ vào cái cầu xin mà lễ vật cúng dường khác nhau thế nào). Đức Thế Tôn mà thọ nhận - đảm bảo sẽ ban Pháp cho người xin dù đó là xin pháp gì - lại có một kinh được lưu truyền.v.v.
Bây giờ thì sao? - Loạn!
- Người nhận cúng dường mà không ban được pháp thoả mong cầu của người cúng dường thì sớm sẽ biết nhân quả là gì. Ngược lại, người cúng dường mà không biết mình cầu xin pháp gì, cũng không biết ý nghĩa của cúng dường… thì không bao giờ thấy phước ở đâu vì người không ban được pháp thoả cho người cúng dường mà vẫn nhận cúng dường rồi… lên bài pháp chung chung cho cả tỷ chúng sinh nghe đều không thấy sai thì đây… sai hết về phước nghiệp nhân quả.
2/ Chưa đủ tư cách ngồi để nhận đảnh lễ và cúng dường - tức chưa ban được pháp theo mong muốn của người cúng dường - tốt nhất hãy đi xin. Người cho - chắc chắn là nhận được phước bố thí ba la mật. Người xin cũng nhận được phước đức và cái cần xin. Phước đức gì với người xin ở đây? - Cái vô ngã vô dính mắc. - Làm vậy, rồi một ngày mới đủ tư cách nhận cúng dường.
3/ Phương sự Phụ thì là sự riêng lẻ rồi. Ở trong Kinh Đức Thế Tôn đã nói rõ về việc cúng dường, xin cho, bố thí .v.v. Với phương này.
4/ Phương dưới nếu có thì: Cố gắng bố thí - tốt quá rồi còn gì. Phương này chắc ai cũng rõ nhất về cách làm và lý.
5/ 3 Phương còn lại: Vừa kính lễ - cung kính vừa cúng dường vừa bố thí.
6 phương tâm chắc chắn sớm giới khăng khít và hình thành thế giới cực lạc.
…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Ở nhà thì chửi vợ mắng con, cãi cha lờ mẹ chẳng còn sống lâu, ra đường thì lại cúi đầu, cúng dường chư Phật tam lầu bảo quang, mong sao công việc huy hoàng, tiền vô như nước giàu sang đời đời, nói con nói vợ nghe lời, mẹ cha còn đó một đời sống lâu.v.v.v
- Phật! Đây là cúng dường Tam Bảo?
Bởi thế, mới thấy: Bồ Tát ơi, con kêu khản cổ rồi mà sao không thấy hiện…
Chúng ta nắm rõ 6 phương tâm. Hãy thọ nó. Bài kinh đó là để cho chúng ta thọ giới Phật đó - đã trình phía trước rồi. Giới được 6 phương này, trang nghiêm được tâm Cực Lạc 6 phương này thôi mà chưa tu tới tự thân giải thoát. Khi chết, nhớ rõ chỉ cần: A Di Đà Phật sẽ thấy những ai đến tiếp dẫn…. Làm gì mà rắm rối.
Như vậy, chúng ta có còn lo “vô lượng”?
Chỉ khi hết mọi sự lo - loại bỏ những cái nghi trong đầu. Chúng ta mới thấy dũng trong bi trí dũng. Dũng mà tu Đạo giải thoát.
- Phật! Đây là cúng dường Tam Bảo?
Bởi thế, mới thấy: Bồ Tát ơi, con kêu khản cổ rồi mà sao không thấy hiện…
Chúng ta nắm rõ 6 phương tâm. Hãy thọ nó. Bài kinh đó là để cho chúng ta thọ giới Phật đó - đã trình phía trước rồi. Giới được 6 phương này, trang nghiêm được tâm Cực Lạc 6 phương này thôi mà chưa tu tới tự thân giải thoát. Khi chết, nhớ rõ chỉ cần: A Di Đà Phật sẽ thấy những ai đến tiếp dẫn…. Làm gì mà rắm rối.
Như vậy, chúng ta có còn lo “vô lượng”?
Chỉ khi hết mọi sự lo - loại bỏ những cái nghi trong đầu. Chúng ta mới thấy dũng trong bi trí dũng. Dũng mà tu Đạo giải thoát.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Chúng ta phải nhớ rõ: Ở đây, ở thế giới này, chúng ta không trình luận Tịnh Độ - đã nói nhiều rồi. Vì sao? - Vì A Di Đà Phật là chắc chắn hiện hữu nhưng cái thế giới Cực Lạc của Ngài A Di Đà không phải làm ra cho chúng sinh thế giới này tu đến.
Thế giới của chúng ta có một vị Phật là Đức Thế Tôn. Là thế giới tên Ta Bà. Chỗ chúng ta ở có thể gọi là Diêm Phù Đề. Không phải chúng ta thoát thế giới này (thoát luân hồi) là đến thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật.
Về mặt thực tiễn: Chúng ta không biết thế giới bên ngoài của chúng ta (bên ngoài thế giới ta bà) là gì. Chúng ta chỉ biết: Theo Đạo Đức Thế Tôn thì vượt ra ngoài thế giới ta bà này thôi. Nó là cả vũ trụ này chứ không phải chỉ là cái Ngân Hà, Thiên Hà.
Chúng ta cũng biết, nguyện lực của A Di Đà Phật quá lớn, vì lẽ đó mới có sự tán thán của Chư Phật. Còn việc chúng ta được tiếp dẫn hoặc đến được thế giới Cực Lạc của Ngài A Di Đà Phật thật thì chúng ta cũng vẫn tiếp tục phải tu chứ không phải là đến đó là “Hưởng lạc” mãi mãi thường hằng. Dù thế giới này được Đức Thế Tôn mô tả là thế giới cực lạc, thường hằng nhưng cũng nói rõ: Người ở thế giới này - chúng ta được vãng sinh về đó thì cũng vẫn tiếp tục phải tu. - Nhưng thường gần như tất cả thì cũng chỉ được vãng sinh về vùng thế giới lân cận Cực Lạc.
Tại sao, chúng ta lại nói: Dù vãng sinh nhưng cũng khó có thể vào bên trong Cực Lạc mà vẫn cần môi giới thêm nhiều sức tu ở vùng bên ngoài rồi mới được vào. Vì 2 lẽ:
1/ Người thực sự trang nghiêm Tịnh Độ - Khả năng được tiếp dẫn. Điều này, không cần nghi ngờ. Chỉ người tu vô minh mới không rõ (không nói vô lượng người không tu Đạo ở đời hiện thế thì không nói làm gì).
Nếu như, về tính xác thực của giải thoát và các thứ bất tư nghì về Đạo Phật: A Di Đà Phật có thể nói là một tồn tại xác đáng chân thực và có khả năng hơn bất kỳ một vị Phật nào khác - trong đó bao hàm cả Đức Thế Tôn của chúng ta. Chúng ta tin Đức Thế Tôn thì chắc chắn phải sớm muộn biết Đức A Di Đà là ai.
Nói vậy, không phải hạ thấp Đức Thế Tôn, mà nói vậy để chúng ta rõ: Thế giới này là do Đức Thế Tôn ban pháp giải thoát - là người nhét trở lại thế gian thứ Báu Vô Lượng này. Chúng ta nên đi con đường giải thoát mà Đức Thế Tôn đã đánh mở - vì con đường này thực sự là con đường “đèn đuốc” sáng trưng do Đức Thế Tôn đã thắp đủ.
2/ Trong thời mạt pháp này, chúng ta có thể nương nhờ ánh sáng nguyện của Ngài A Di Đà Phật mà dựng lại những đoạn đường đã bị đào hố và san kín trên con đường giải thoát của Đức Thế Tôn.
Nhờ vào trang nghiêm tịnh độ mà chưa mất thân, trí mở ra, khả năng lại thấy “đèn đuốc” trên con đường giải thoát ở thế giới này.
Nói hình tượng đèn đuốc vậy thôi chứ: Đèn đuốc thắp là ở trong tâm chúng ta. Chúng ta thắp.
Vì trang nghiêm tâm theo vô lượng thọ Cực Lạc nên chúng ta sẽ thấy “hơi hướng” rất chi là Tịnh Độ.
Tuy nhiên, nói vậy thôi, Tịnh Độ ở ngoài đời khả năng vẫn còn đang tìm đường. Nếu chỉ tu một niệm “A Di Đà Phật” - rất khó để “câu dẫn” tiếp dẫn. Tại sao?
- Chúng ta lập cả 1 giới đàn trang nghiêm tâm để làm cái “ăng ten” như đã nói còn chưa ăn ai, chưa gặp được Ngài A Nan, Ca Diếp.
- Liệu, chỉ một câu “cảm ứng” - A Di Đà Phật có đủ phát ra sóng để cảm ứng tiếp dẫn.
Nếu cỡ cấp cảnh ngài A Nan hay Ca Diếp thì chắc chỉ cần 1 niệm là các ngài Bồ Tát bên đó thừa ý chỉ của Ngài A Di Đà Phật sẽ qua tiếp dẫn người niệm đi sang đó “thăm ngoại giao”.
Khổ, cấp chúng ta là cấp “phàm nhân” - có khi còn đang quấn vô lượng nghiệp và vô lượng nợ… Nên 1 niệm, khó đủ phát sóng cảm ứng.
Về mặt nguyên lý: Cảm ứng tiếp dẫn thế giới Cực Lạc - chính là thứ chúng ta đang làm. Mọi chúng ta cứ quán kỹ sẽ thấy rõ.
Nhưng chúng ta sẽ chỉ mượn nhờ phương pháp làm cảm ứng Tịnh Độ để làm cái cảm ứng “lượng năng” của thế giới chúng ta này.
Chúng ta phải nhớ. Chúng ta mượn phương pháp cảm ứng thế giới Cực Lạc để cảm ứng thế giới chúng ta, tu tập ở thế giới chúng ta, tự chúng ta đi theo Đức Thế Tôn và các Chư Vị Tôn Đức.
Thế giới của chúng ta có một vị Phật là Đức Thế Tôn. Là thế giới tên Ta Bà. Chỗ chúng ta ở có thể gọi là Diêm Phù Đề. Không phải chúng ta thoát thế giới này (thoát luân hồi) là đến thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật.
Về mặt thực tiễn: Chúng ta không biết thế giới bên ngoài của chúng ta (bên ngoài thế giới ta bà) là gì. Chúng ta chỉ biết: Theo Đạo Đức Thế Tôn thì vượt ra ngoài thế giới ta bà này thôi. Nó là cả vũ trụ này chứ không phải chỉ là cái Ngân Hà, Thiên Hà.
Chúng ta cũng biết, nguyện lực của A Di Đà Phật quá lớn, vì lẽ đó mới có sự tán thán của Chư Phật. Còn việc chúng ta được tiếp dẫn hoặc đến được thế giới Cực Lạc của Ngài A Di Đà Phật thật thì chúng ta cũng vẫn tiếp tục phải tu chứ không phải là đến đó là “Hưởng lạc” mãi mãi thường hằng. Dù thế giới này được Đức Thế Tôn mô tả là thế giới cực lạc, thường hằng nhưng cũng nói rõ: Người ở thế giới này - chúng ta được vãng sinh về đó thì cũng vẫn tiếp tục phải tu. - Nhưng thường gần như tất cả thì cũng chỉ được vãng sinh về vùng thế giới lân cận Cực Lạc.
Tại sao, chúng ta lại nói: Dù vãng sinh nhưng cũng khó có thể vào bên trong Cực Lạc mà vẫn cần môi giới thêm nhiều sức tu ở vùng bên ngoài rồi mới được vào. Vì 2 lẽ:
1/ Người thực sự trang nghiêm Tịnh Độ - Khả năng được tiếp dẫn. Điều này, không cần nghi ngờ. Chỉ người tu vô minh mới không rõ (không nói vô lượng người không tu Đạo ở đời hiện thế thì không nói làm gì).
Nếu như, về tính xác thực của giải thoát và các thứ bất tư nghì về Đạo Phật: A Di Đà Phật có thể nói là một tồn tại xác đáng chân thực và có khả năng hơn bất kỳ một vị Phật nào khác - trong đó bao hàm cả Đức Thế Tôn của chúng ta. Chúng ta tin Đức Thế Tôn thì chắc chắn phải sớm muộn biết Đức A Di Đà là ai.
Nói vậy, không phải hạ thấp Đức Thế Tôn, mà nói vậy để chúng ta rõ: Thế giới này là do Đức Thế Tôn ban pháp giải thoát - là người nhét trở lại thế gian thứ Báu Vô Lượng này. Chúng ta nên đi con đường giải thoát mà Đức Thế Tôn đã đánh mở - vì con đường này thực sự là con đường “đèn đuốc” sáng trưng do Đức Thế Tôn đã thắp đủ.
2/ Trong thời mạt pháp này, chúng ta có thể nương nhờ ánh sáng nguyện của Ngài A Di Đà Phật mà dựng lại những đoạn đường đã bị đào hố và san kín trên con đường giải thoát của Đức Thế Tôn.
Nhờ vào trang nghiêm tịnh độ mà chưa mất thân, trí mở ra, khả năng lại thấy “đèn đuốc” trên con đường giải thoát ở thế giới này.
Nói hình tượng đèn đuốc vậy thôi chứ: Đèn đuốc thắp là ở trong tâm chúng ta. Chúng ta thắp.
Vì trang nghiêm tâm theo vô lượng thọ Cực Lạc nên chúng ta sẽ thấy “hơi hướng” rất chi là Tịnh Độ.
Tuy nhiên, nói vậy thôi, Tịnh Độ ở ngoài đời khả năng vẫn còn đang tìm đường. Nếu chỉ tu một niệm “A Di Đà Phật” - rất khó để “câu dẫn” tiếp dẫn. Tại sao?
- Chúng ta lập cả 1 giới đàn trang nghiêm tâm để làm cái “ăng ten” như đã nói còn chưa ăn ai, chưa gặp được Ngài A Nan, Ca Diếp.
- Liệu, chỉ một câu “cảm ứng” - A Di Đà Phật có đủ phát ra sóng để cảm ứng tiếp dẫn.
Nếu cỡ cấp cảnh ngài A Nan hay Ca Diếp thì chắc chỉ cần 1 niệm là các ngài Bồ Tát bên đó thừa ý chỉ của Ngài A Di Đà Phật sẽ qua tiếp dẫn người niệm đi sang đó “thăm ngoại giao”.
Khổ, cấp chúng ta là cấp “phàm nhân” - có khi còn đang quấn vô lượng nghiệp và vô lượng nợ… Nên 1 niệm, khó đủ phát sóng cảm ứng.
Về mặt nguyên lý: Cảm ứng tiếp dẫn thế giới Cực Lạc - chính là thứ chúng ta đang làm. Mọi chúng ta cứ quán kỹ sẽ thấy rõ.
Nhưng chúng ta sẽ chỉ mượn nhờ phương pháp làm cảm ứng Tịnh Độ để làm cái cảm ứng “lượng năng” của thế giới chúng ta này.
Chúng ta phải nhớ. Chúng ta mượn phương pháp cảm ứng thế giới Cực Lạc để cảm ứng thế giới chúng ta, tu tập ở thế giới chúng ta, tự chúng ta đi theo Đức Thế Tôn và các Chư Vị Tôn Đức.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Nên nếu có người nguyện Tịnh Độ thì càng phải thực sự thấu hiểu lý thuyết sự lựa chọn đang trình, vì sao?
1/ Lý thuyết này chúng ta trình là để phục vụ cho cái mô phỏng thế giới Cực Lạc - Thế giới Cực Lạc Ngài A Di Đà Phật làm theo Đại Nguyện to lớn bất tư nghì (giống Đại Nguyện của Ngài Địa Tạng chúng ta nhưng Ngài Địa Tạng chưa thành Đạo).
Chúng ta chỉ mô phỏng “rất sơ sài, thô sơ, lạc hậu” trên 6 phương tâm chính để mục đích là cảm ứng lương năng thế giới chúng ta để vào Chánh định thâm sâu sau này.
2/ Thế giới Cực Lạc của Ngài A Di Đà - Chắc chắn cách chúng ta vô lượng vô biên khoảng cách không thời. Thế giới của chúng ta đang hiện đời đã bao la (không vô biên xứ). Thế mà cái thế giới Cực Lạc còn ở ngoài đó nữa, xa vô lượng bất tư nghì tưởng nữa… -Với khoảng cách này, chỉ dùng niệm lực bằng 1 cái râu “Nam Mô A Di Đà” - liệu có cảm ứng nổi đến đó là một câu hỏi người có trí cần tự quán, tự thấy câu trả lời.
3/ Vì lẽ câu trả lời của 2/ nên: Muốn làm ra cái mô phỏng cảm ứng tiếp dẫn Cực Lạc - thực sự không đơn giản như mọi người đang được nghe giảng. - Đây là sự thực.
Với cấp có Đạo Hạnh thâm sâu thì không nói. Kiểu tu thiền 30 năm, Đạo Hạnh thâm sâu rồi nhưng không thấy tâm phát sáng để tự giải thoát - ngồi buồn trong định, lại hướng tâm cảm ứng Cực Lạc - Có khi gặp các vị tiếp dẫn và thấy thế giới Cực Lạc thật - chứ không phải tưởng (cái mô hình Cực Lạc của người tu để cảm ứng thế giới Cực Lạc thật).
Tuy nhiên, chúng ta cũng không tưởng thế giới Cực Lạc (Tu Tiếp dẫn Tịnh Độ).
Chúng ta, quán 2 là Quán TRỰC TIẾP PHÁP THÂN.
Cái đã trình, ai mà đã quán kỹ về điều đã trình quán 2 thì sẽ thấy: Chính là Pháp Thân đó.
…
Như vậy, là để rộng đường các Pháp. Chúng ta đã tới chỗ này, ít nhiều phải có đủ trí quán nhiều sự!
1/ Lý thuyết này chúng ta trình là để phục vụ cho cái mô phỏng thế giới Cực Lạc - Thế giới Cực Lạc Ngài A Di Đà Phật làm theo Đại Nguyện to lớn bất tư nghì (giống Đại Nguyện của Ngài Địa Tạng chúng ta nhưng Ngài Địa Tạng chưa thành Đạo).
Chúng ta chỉ mô phỏng “rất sơ sài, thô sơ, lạc hậu” trên 6 phương tâm chính để mục đích là cảm ứng lương năng thế giới chúng ta để vào Chánh định thâm sâu sau này.
2/ Thế giới Cực Lạc của Ngài A Di Đà - Chắc chắn cách chúng ta vô lượng vô biên khoảng cách không thời. Thế giới của chúng ta đang hiện đời đã bao la (không vô biên xứ). Thế mà cái thế giới Cực Lạc còn ở ngoài đó nữa, xa vô lượng bất tư nghì tưởng nữa… -Với khoảng cách này, chỉ dùng niệm lực bằng 1 cái râu “Nam Mô A Di Đà” - liệu có cảm ứng nổi đến đó là một câu hỏi người có trí cần tự quán, tự thấy câu trả lời.
3/ Vì lẽ câu trả lời của 2/ nên: Muốn làm ra cái mô phỏng cảm ứng tiếp dẫn Cực Lạc - thực sự không đơn giản như mọi người đang được nghe giảng. - Đây là sự thực.
Với cấp có Đạo Hạnh thâm sâu thì không nói. Kiểu tu thiền 30 năm, Đạo Hạnh thâm sâu rồi nhưng không thấy tâm phát sáng để tự giải thoát - ngồi buồn trong định, lại hướng tâm cảm ứng Cực Lạc - Có khi gặp các vị tiếp dẫn và thấy thế giới Cực Lạc thật - chứ không phải tưởng (cái mô hình Cực Lạc của người tu để cảm ứng thế giới Cực Lạc thật).
Tuy nhiên, chúng ta cũng không tưởng thế giới Cực Lạc (Tu Tiếp dẫn Tịnh Độ).
Chúng ta, quán 2 là Quán TRỰC TIẾP PHÁP THÂN.
Cái đã trình, ai mà đã quán kỹ về điều đã trình quán 2 thì sẽ thấy: Chính là Pháp Thân đó.
…
Như vậy, là để rộng đường các Pháp. Chúng ta đã tới chỗ này, ít nhiều phải có đủ trí quán nhiều sự!