PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Như vậy, ở đời chúng ta thực tập theo Bồ Tát Đạo là sư thực tập đem lại những kết quả thiết thực nhất - nếu như xét một cách chung cho toàn thể chúng sinh ở thế giới này hiện nay, mai sau.
Tuy nhiên, Giới Kinh Bồ Tát Đạo có quá nhiều sạn (hoặc là đó là thứ dành cho Bồ Tát tu) chứ không chúng sinh chúng ta thực tập theo. Bởi vậy, chúng sinh chúng ta thực tập theo Bồ Tát Đạo cũng cần nắm rõ một số mấu chốt:
1/ Bố thí hay cho đi - không phải là bố thí cho đi 1 cách mù quáng, ngu xuẩn và ngốc ngếch - đây là ma hành chứ không phải Bồ Tát hành. Pháp bố thí này, ai đọc đến đây cũng đã thấy rõ:
Cho đi vật chất: Đang thực hành đánh vào cửa tử trong vòng luân hồi nhân duyên. Cho đi, tức là biến cái lão tử hiện hữu. Lão tử hiện hữu (sinh ra) thì cái trần đó mất, nó lại liên quan đến danh sắc (vì vật chất mà). Thiếu đi 1 chút vật chất nào thì pháp lại càng khó khởi sinh luân hồi ra hơn.
Chúng ta cho đi càng nhiều thì chúng ta sẽ càng vơi đi vật chất - càng vơi đi danh sắc khiến cho vòng chu trình luân hồi nhân quả càng được mài mòn.
2/ Bố thí hay cho đi tình thần hay sự vô uý - Là sự cho đi cái thọ. Càng cho đi được điều này, càng cảm thấy nhẹ nhàng thanh tịnh. Nếu như cho đi vật chất, cảm giác nhẹ nhàng thanh tịnh một thì cho đi sự động viên tinh thần vô uý sẽ cảm thấy sự nhẹ nhàng thanh tịnh gấp nhiều lần.
3/ Bố thí hay cho đi Pháp Phật - Đây là công việc của Bồ Tát. Chúng ta sẽ thực tập ở việc in kinh, tặng kinh, rủ nghe kinh, rủ đọc kinh. Nhưng thật khó vì chúng ta sẽ thấy ngay, hầu như sẽ lan man đến việc luận bàn kinh hay giảng giải phân tích về nghĩa kinh - mà những thứ này đều là pháp của chúng ta. Pháp Phật là pháp được ghi thành kinh ở trong hệ thống giới kinh hoặc là pháp được nói bởi Chân Bồ Tát. Nhưng Bồ Tát thì như ở hệ thống giới Kinh đã nhắc - ai mà nhận “tôi là Bồ Tát đây” thì ắt hẳn là ma, không những thế, kể cả những ai tự nhận đã chứng Thánh - nói Pháp - đều đang ở trong ma. (Tham khảo các loại ma và hệ thống Kinh Đại Thừa đã nhắc đi nhắc lại - cần phải nhớ)
4/ Không phải thực hành cho đi là gặp ai cũng cho - điều này rất dễ tự biến mình thành ma hại người khác.
Thông thường, chúng ta ở thế giới, nhìn 1 người “rách rách”, chúng ra liền nghĩ “họ nghèo khổ” và chúng ta “cảm thấy” chúng ta đang có “đầy đủ hơn” bèn lấy ra cái gì đó và cho họ, giúp họ mong họ bớt khổ. - Điều này hại cả hai.
Chúng ta nếu đã đọc pháp hành của Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ thấy thường trực ở Kinh nào cũng nói: Nghe tiếng kêu cứu của chúng sinh bèn cứu
Vậy chúng ta không đặt câu hỏi: Thế người khổ quá chừng, vô vàn người khổ quá chừng mà họ không kêu cứu thì Bồ Tát không cứu sao?
- Đừng vì “mình thấy họ khổ” mà nghĩ họ khổ.
Người khác, chúng sinh, không cần mình cứu mà mình cứ lao vào cứu, đó là: Hại cả hai. - Cần phải nhớ.
Như vậy, cho đi là cho người xin - Có cho đúng người như này mới thấy pháp nhiệm màu hiện tiền
Theo hình tượng Đức Thế Tôn trong hệ thống giới Kinh thì: Nhiều khi lần xin mới hành. Mà nếu 1 người đã cất công 3 lần xin - thì người thực hành Bồ Tát Đạo cần phải cố gắng thực hiện điều này. Phải thực sự cảm thấy bản thân có được một đại cơ duyên mới gặp được duyên một chúng sinh nào đó xin 3 lần cái gì đó.
Dù sao thứ 3 lần xin mới cho là thứ báu - kể cả là báu thế gian. Người mà có được cái cơ duyên gặp được 3 lần xin này mà làm được thì đảm bảo sớm muộn ở chính đời mình hay đời vợ chồng con sẽ chứng kiến người đến trả ân
Thứ báu mà chưa xin đã cho là thứ không báu với người được cho. Cũng vậy, người đã cất công 3 lần xin thì cả người này lẫn thứ xin đối với người này - vừa là người biết nhớ ơn lẫn là thứ rất báu với họ. Nên sẽ được phước.
Thông thường, thói đời như vậy: Không xin mà cho sẽ quên ơn và hại cả 2 như đã nói. Xin 1 lần mà đó là báu (là báu thế gian - tức có giá trị thế gian) mà đã vội cho thì sẽ trở thành giá trị nhỏ với người nhận, họ sẽ quên. Xin 1 lần mà chưa cho khả năng đã ăn chửi, nói xấu rồi. Người xin 2 lần là người này đang rất cần thứ đó, tức nó có giá trị với họ nhưng nếu không cho thì đa phần sẽ quay sang chán nản, dứt dây, có khi thù oán… mà người quay lại đến lần thứ 3 - người này thực sự coi minh như một người thân của họ mới vậy chứ không bao giờ có lần thứ 3 là vậy. Bởi thế, ở lần thứ 3 thì đây là đại cơ duyên với người cho
Tuy nhiên, người hành Bồ Tát Đạo khác người dùng điều trên để mua danh chuộc lợi để kiếm tìm ngũ lạc. Thế gian này, những người hiểu điều trên rất nhiều nhưng họ dùng cái phước đó để đổi lấy phước dục lạc hiện tiền cho họ hay vợ chồng con. Còn người hành Bồ Tát Đạo cần nhớ: Phước hiện tiền là phụ, phước giải thoát là chính. Như vậy, cần phải hiểu cái TÂM của mình.
5/ Biến mãn khắp chúng sinh: Đây là tâm từ - là cấp độ tâm đầu tiên hay còn gọi là tâm bình đẳng. Dựa trên vấn đề cho đi thì cái phục vụ lợi ích - nhu cầu - cái cộng đồng cần là thứ mang đến công đức nhiều hơn ở đời.
6/ Cho đi nhưng nhớ, đừng mong nhận lại dù đó là: Mong nhận lời cảm ơn hay mong cầu 1 phước đức gì đó được trả lại. Cho đi vì cái tâm cho đó - vậy thôi. Điều đó có nghĩa là không ghi sổ hay kể lể ra.
7/ Sự cho đi liên quan tới câu nói của giới trẻ ngày xưa một thời:” Việc cho đi là một nghệ thuật, người cho đi là một nghệ sĩ” - Có nghĩa người thực tập Bồ Tát Đạo phải khéo cho, biết cách thiện xảo, mới đem lại phước đức lợi lạc cho cả 2 phía cho và nhận. Bằng không, từ cái ý nghĩ tốt mà hoá ra là làm hại cả.
8/ Muốn kiếm được người cho - không hề dễ. Hình dung đơn thuần đó là: Có muốn cho hay không chứ thiếu gì người nhận - đặc biệt là thứ liên quan đến vật chất. Tuy nhiên, thấu hiểu về Bồ Tát Đạo - để việc thực hành cho đi mang lại phước đức cho cả 2 thì mới thấy, cho đi khó thế nào.
Ví dụ: Tự nhiên, chúng ta “hô” - “Ai có cần tiền không, tôi cho này” - Như này thì thiếu gì người “xin”. Nhưng họ cầm đi mua rượu, đánh bạc, mua xì ke .v.v. thì phước đức gì ở đây? - ví dụ nhỏ này tự suy ra chúng ta sẽ thấy - mọi chuyện cho không đơn giản. Bởi vì, pháp cho đi cũng là 1 pháp thọ sanh đối với người/chúng sinh được cho (nhận) - nếu như pháp sanh đó mà khiến chọ trở nên khổ ải và sân hận thì họ sẽ quay trả lại đòi nợ “thí chủ” - dù người thí chủ khả năng thực hành Bồ Tát Đạo nên không ghi nhớ sự cho trong tâm nhưng vẫn bị “đòi nợ” là vậy.
Ví dụ: Chúng ta thi thoảng gặp cảnh khi đến gần một ngôi chùa, nơi đang diễn ra lễ hội. Xung quanh các con đường là những cái lồng chim và trải rộng khắp 4 phía của khu vực là những tấm lưới. Chúng ta cứ phát tâm phóng sanh, thả chúng ra để chúng lại bị bắt, cắt cánh lại bị nhốt lại. Trong tâm chúng ta là: Tôi chỉ biết thả, ai bắt mang nghiệt. - Có vẻ đúng! - Tuy nhiên, tội cả. Con chim - một chúng sinh còn vô thức hơn con người. Nó muốn chết khi nó phải thọ cái sự đau khổ cứ bị thả đi, bắt lại… vì thế nó quá đau khổ, nó thọ cái sự đau đó ai biết? - Nó đau đến mức có khi muốn chết cho nhanh, cho thích hơn… nhưng nó vẫn bị sống vì những người hành nó như trên. Vì sự sân hận hôn trầm thuỵ miên của nó, nên khi chết có khi nó thành ma, thành quỷ, nó trở về “trả thù” cả hai cái người cứ bắt nó, thả nó. Tất nhiên, theo nghiệp rồi nó cũng bị về địa ngục nếu như nó trả thù, người bắt thì không nói làm gì, nhưng người thả ở đây thì sao? - Ta mang đến cái sự đau khổ cho con chim thì ta hưởng phước hay sẽ gặp ma?
Đây chỉ là ví dụ vì hàng hàng: Chúng ta đều làm ác cả - chứ làm thiện hết thì không ở đây rồi.
Như vậy, làm gì cũng cần khéo.
Ở ví dụ trên, thay vì cho đi (sự sống/thoát chết) một cách vô thức mang nghiệp thì chỉ cần chúng ta tỉnh thức, chánh niệm và Bồ Đề Tâm mà phát ra khi đó thì đã mang con chim đó đi về nhà rồi thả - khi nhìn thấy ánh mắt của nó CẦU mình.
Tuy nhiên, Giới Kinh Bồ Tát Đạo có quá nhiều sạn (hoặc là đó là thứ dành cho Bồ Tát tu) chứ không chúng sinh chúng ta thực tập theo. Bởi vậy, chúng sinh chúng ta thực tập theo Bồ Tát Đạo cũng cần nắm rõ một số mấu chốt:
1/ Bố thí hay cho đi - không phải là bố thí cho đi 1 cách mù quáng, ngu xuẩn và ngốc ngếch - đây là ma hành chứ không phải Bồ Tát hành. Pháp bố thí này, ai đọc đến đây cũng đã thấy rõ:
Cho đi vật chất: Đang thực hành đánh vào cửa tử trong vòng luân hồi nhân duyên. Cho đi, tức là biến cái lão tử hiện hữu. Lão tử hiện hữu (sinh ra) thì cái trần đó mất, nó lại liên quan đến danh sắc (vì vật chất mà). Thiếu đi 1 chút vật chất nào thì pháp lại càng khó khởi sinh luân hồi ra hơn.
Chúng ta cho đi càng nhiều thì chúng ta sẽ càng vơi đi vật chất - càng vơi đi danh sắc khiến cho vòng chu trình luân hồi nhân quả càng được mài mòn.
2/ Bố thí hay cho đi tình thần hay sự vô uý - Là sự cho đi cái thọ. Càng cho đi được điều này, càng cảm thấy nhẹ nhàng thanh tịnh. Nếu như cho đi vật chất, cảm giác nhẹ nhàng thanh tịnh một thì cho đi sự động viên tinh thần vô uý sẽ cảm thấy sự nhẹ nhàng thanh tịnh gấp nhiều lần.
3/ Bố thí hay cho đi Pháp Phật - Đây là công việc của Bồ Tát. Chúng ta sẽ thực tập ở việc in kinh, tặng kinh, rủ nghe kinh, rủ đọc kinh. Nhưng thật khó vì chúng ta sẽ thấy ngay, hầu như sẽ lan man đến việc luận bàn kinh hay giảng giải phân tích về nghĩa kinh - mà những thứ này đều là pháp của chúng ta. Pháp Phật là pháp được ghi thành kinh ở trong hệ thống giới kinh hoặc là pháp được nói bởi Chân Bồ Tát. Nhưng Bồ Tát thì như ở hệ thống giới Kinh đã nhắc - ai mà nhận “tôi là Bồ Tát đây” thì ắt hẳn là ma, không những thế, kể cả những ai tự nhận đã chứng Thánh - nói Pháp - đều đang ở trong ma. (Tham khảo các loại ma và hệ thống Kinh Đại Thừa đã nhắc đi nhắc lại - cần phải nhớ)
4/ Không phải thực hành cho đi là gặp ai cũng cho - điều này rất dễ tự biến mình thành ma hại người khác.
Thông thường, chúng ta ở thế giới, nhìn 1 người “rách rách”, chúng ra liền nghĩ “họ nghèo khổ” và chúng ta “cảm thấy” chúng ta đang có “đầy đủ hơn” bèn lấy ra cái gì đó và cho họ, giúp họ mong họ bớt khổ. - Điều này hại cả hai.
Chúng ta nếu đã đọc pháp hành của Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ thấy thường trực ở Kinh nào cũng nói: Nghe tiếng kêu cứu của chúng sinh bèn cứu
Vậy chúng ta không đặt câu hỏi: Thế người khổ quá chừng, vô vàn người khổ quá chừng mà họ không kêu cứu thì Bồ Tát không cứu sao?
- Đừng vì “mình thấy họ khổ” mà nghĩ họ khổ.
Người khác, chúng sinh, không cần mình cứu mà mình cứ lao vào cứu, đó là: Hại cả hai. - Cần phải nhớ.
Như vậy, cho đi là cho người xin - Có cho đúng người như này mới thấy pháp nhiệm màu hiện tiền
Theo hình tượng Đức Thế Tôn trong hệ thống giới Kinh thì: Nhiều khi lần xin mới hành. Mà nếu 1 người đã cất công 3 lần xin - thì người thực hành Bồ Tát Đạo cần phải cố gắng thực hiện điều này. Phải thực sự cảm thấy bản thân có được một đại cơ duyên mới gặp được duyên một chúng sinh nào đó xin 3 lần cái gì đó.
Dù sao thứ 3 lần xin mới cho là thứ báu - kể cả là báu thế gian. Người mà có được cái cơ duyên gặp được 3 lần xin này mà làm được thì đảm bảo sớm muộn ở chính đời mình hay đời vợ chồng con sẽ chứng kiến người đến trả ân
Thứ báu mà chưa xin đã cho là thứ không báu với người được cho. Cũng vậy, người đã cất công 3 lần xin thì cả người này lẫn thứ xin đối với người này - vừa là người biết nhớ ơn lẫn là thứ rất báu với họ. Nên sẽ được phước.
Thông thường, thói đời như vậy: Không xin mà cho sẽ quên ơn và hại cả 2 như đã nói. Xin 1 lần mà đó là báu (là báu thế gian - tức có giá trị thế gian) mà đã vội cho thì sẽ trở thành giá trị nhỏ với người nhận, họ sẽ quên. Xin 1 lần mà chưa cho khả năng đã ăn chửi, nói xấu rồi. Người xin 2 lần là người này đang rất cần thứ đó, tức nó có giá trị với họ nhưng nếu không cho thì đa phần sẽ quay sang chán nản, dứt dây, có khi thù oán… mà người quay lại đến lần thứ 3 - người này thực sự coi minh như một người thân của họ mới vậy chứ không bao giờ có lần thứ 3 là vậy. Bởi thế, ở lần thứ 3 thì đây là đại cơ duyên với người cho
Tuy nhiên, người hành Bồ Tát Đạo khác người dùng điều trên để mua danh chuộc lợi để kiếm tìm ngũ lạc. Thế gian này, những người hiểu điều trên rất nhiều nhưng họ dùng cái phước đó để đổi lấy phước dục lạc hiện tiền cho họ hay vợ chồng con. Còn người hành Bồ Tát Đạo cần nhớ: Phước hiện tiền là phụ, phước giải thoát là chính. Như vậy, cần phải hiểu cái TÂM của mình.
5/ Biến mãn khắp chúng sinh: Đây là tâm từ - là cấp độ tâm đầu tiên hay còn gọi là tâm bình đẳng. Dựa trên vấn đề cho đi thì cái phục vụ lợi ích - nhu cầu - cái cộng đồng cần là thứ mang đến công đức nhiều hơn ở đời.
6/ Cho đi nhưng nhớ, đừng mong nhận lại dù đó là: Mong nhận lời cảm ơn hay mong cầu 1 phước đức gì đó được trả lại. Cho đi vì cái tâm cho đó - vậy thôi. Điều đó có nghĩa là không ghi sổ hay kể lể ra.
7/ Sự cho đi liên quan tới câu nói của giới trẻ ngày xưa một thời:” Việc cho đi là một nghệ thuật, người cho đi là một nghệ sĩ” - Có nghĩa người thực tập Bồ Tát Đạo phải khéo cho, biết cách thiện xảo, mới đem lại phước đức lợi lạc cho cả 2 phía cho và nhận. Bằng không, từ cái ý nghĩ tốt mà hoá ra là làm hại cả.
8/ Muốn kiếm được người cho - không hề dễ. Hình dung đơn thuần đó là: Có muốn cho hay không chứ thiếu gì người nhận - đặc biệt là thứ liên quan đến vật chất. Tuy nhiên, thấu hiểu về Bồ Tát Đạo - để việc thực hành cho đi mang lại phước đức cho cả 2 thì mới thấy, cho đi khó thế nào.
Ví dụ: Tự nhiên, chúng ta “hô” - “Ai có cần tiền không, tôi cho này” - Như này thì thiếu gì người “xin”. Nhưng họ cầm đi mua rượu, đánh bạc, mua xì ke .v.v. thì phước đức gì ở đây? - ví dụ nhỏ này tự suy ra chúng ta sẽ thấy - mọi chuyện cho không đơn giản. Bởi vì, pháp cho đi cũng là 1 pháp thọ sanh đối với người/chúng sinh được cho (nhận) - nếu như pháp sanh đó mà khiến chọ trở nên khổ ải và sân hận thì họ sẽ quay trả lại đòi nợ “thí chủ” - dù người thí chủ khả năng thực hành Bồ Tát Đạo nên không ghi nhớ sự cho trong tâm nhưng vẫn bị “đòi nợ” là vậy.
Ví dụ: Chúng ta thi thoảng gặp cảnh khi đến gần một ngôi chùa, nơi đang diễn ra lễ hội. Xung quanh các con đường là những cái lồng chim và trải rộng khắp 4 phía của khu vực là những tấm lưới. Chúng ta cứ phát tâm phóng sanh, thả chúng ra để chúng lại bị bắt, cắt cánh lại bị nhốt lại. Trong tâm chúng ta là: Tôi chỉ biết thả, ai bắt mang nghiệt. - Có vẻ đúng! - Tuy nhiên, tội cả. Con chim - một chúng sinh còn vô thức hơn con người. Nó muốn chết khi nó phải thọ cái sự đau khổ cứ bị thả đi, bắt lại… vì thế nó quá đau khổ, nó thọ cái sự đau đó ai biết? - Nó đau đến mức có khi muốn chết cho nhanh, cho thích hơn… nhưng nó vẫn bị sống vì những người hành nó như trên. Vì sự sân hận hôn trầm thuỵ miên của nó, nên khi chết có khi nó thành ma, thành quỷ, nó trở về “trả thù” cả hai cái người cứ bắt nó, thả nó. Tất nhiên, theo nghiệp rồi nó cũng bị về địa ngục nếu như nó trả thù, người bắt thì không nói làm gì, nhưng người thả ở đây thì sao? - Ta mang đến cái sự đau khổ cho con chim thì ta hưởng phước hay sẽ gặp ma?
Đây chỉ là ví dụ vì hàng hàng: Chúng ta đều làm ác cả - chứ làm thiện hết thì không ở đây rồi.
Như vậy, làm gì cũng cần khéo.
Ở ví dụ trên, thay vì cho đi (sự sống/thoát chết) một cách vô thức mang nghiệp thì chỉ cần chúng ta tỉnh thức, chánh niệm và Bồ Đề Tâm mà phát ra khi đó thì đã mang con chim đó đi về nhà rồi thả - khi nhìn thấy ánh mắt của nó CẦU mình.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Cho đi nhưng không làm khổ ai - điều này cần tỉnh thức, chánh niệm, Bồ Đề Tâm. Mang của chung (của cả nhà, cả gia đình) đi cho xong cứ bắt, ép, yêu cầu người nhà phải như mình - trong khi có khi ở trong tâm họ đau khổ/bực tức/không hài lòng, thanh thản)… thì cũng cần phải cân nhắc xem việc làm của mình có lợi hay có hại trong trường hợp này. Người nhận có thực sự cần và mình có thực sự cần cứu, cần cho.
Khi cho đi với Tâm Bồ Tát - mình phải hiểu rất rõ và sâu sắc rằng: Thế giới này đang ở trong vô minh. Mình cho thân mình được bởi vì mình có nguyện hành Bồ Tát Đạo nhưng điều cốt lõi là: Lỡ đâu vẫn còn những người khác đang coi thân mình là thân nhân họ thì sao? - Phải xét về việc cái phước đức mang lại có biến mãn được toàn phương hay không?. Mình hi sinh thân mình để mang đến rất nhiều pháp bao gồm: Người nhận cắn rứt lương tâm khổ cả đời, người khác nhận thân mình là thân nhân nên cũng đau khổ nốt… vậy, ai là người nhận phước? - Chẳng lẽ bao nhiêu người sẽ đau khổ để một mình mình nhận phước?
Ví dụ: Một người vì lý do gì đó nên khóc tu tu, trở nên sầu bi thương nhớ (tức là đang khổ) - mình biết họ đang khổ vậy nên mới đi kiếm lại cái “kỷ vật” họ đã vô tình vứt xuống vực sâu trong lúc sân hận - biết được rằng, nếu có được trở lại thì họ sẽ trở nên vui vẻ hạnh phúc tươi cười ngay. . . Rồi… thân mình cũng nằm dưới vực và tắt thở luôn. . - Đây là luỵ tình chứ đâu có phải “cứu độ chúng sinh hết đau khổ”. Chăng may “được sống” mang trở lại được “kỷ vật” - thấy người ta cười vui - cứ tưởng “công hạnh Bồ Tát Đạo” đã cao cường lắm rồi nên mới không có lần thứ ba . . . (Vì tắt thở ở lần thứ 2).
Bởi vậy, phải lượng sức, phải biết rất rõ: Sức của mình theo được đến đâu, thái quá cũng bị chệnh đường
Tuy nhiên, cứu mạng thì lại khác.
Như vậy, không dễ đâu.
Bởi thế, mà người tu tập theo Bồ Tát Đạo - Cái Trí nó mới mở ra. Chứ thực tập theo Bồ Tát Đạo mãi mà vẫn cứ vô minh dày đặc không hề mỏng đi thì… đâu có thấy kết quả thiết thực hiện tại?
Phải có trí, muốn trí tăng lên thì lại rút dần ra bài học, kinh nghiệm, kỹ năng (chính là Quán đó) qua mỗi lần thực tập Bồ Tát Đạo. Chứ chẳng lẽ 20 năm 50 năm vẫn cứ hành Bồ Tát Đạo “với sự vô minh dày đặc” như lúc ban đầu?
- Lúc đầu chúng ta không biết mới thả (cứu) con chim ở nơi đó. Nhưng sau đó phải Quán, có Quán thì mới thấy, có thấy được chân như Bồ Đề Tâm mới có lần sau Bồ Tát hành không lỗi lầm.
- Lúc đầu chúng ta “cứu” thế này đó, nhưng sau đó Quán thấy người nhận đâu có được cái phước nào mà vì lẽ đó họ lại khổ hơn… bởi thế lần sau phải thay đổi phương tiện. Không thể cứ u mê, lầm lỗi hành như trước.
…
Đối với người không hành Bồ Tát Đạo thì đều có cái trí của thế gian: Giúp người người báo oán, quên ơn thì lần sau “tao đập”. - Đây là “tâm cơ” bình thường của người thế gian - ai cũng hiểu: Giúp người mà mình hay nhiều người khác bị hại thì giúp gì.v.v..
Vậy chẳng lẽ, người hành Bồ Tát Đạo lại không có trí? - Lại hành trì trong sự u mê, mê muội, hôn trầm thuỵ miên?
Như vậy, người hành Bồ Tát Đạo khác gì, và trí của người Bồ Tát Đạo là gì?
- Là không phải sợ người báo oán, là không phải so đo tính toán xem mình có bị hại hay không hay thiệt hại thế nào hay được phước lợi ra sao..v.v. - Mà cái trí này là cái trí: Không ai bị khổ đau vì hành của mình cũng như phước đức được biến mãn khắp phương cho cả mình, cả người và cả mọi chúng sinh - hoặc ít ra, người (người được mình cứu giúp) phải được phước và chúng sinh không ai bị hại hay đau khổ vì hành của mình…
Chúng ta hành Bồ Tát Đạo mà chúng ta làm đau khổ người khác thì chúng ta hành gì?
Vì lẽ những suy tư đó (Quán trong Đạo Đức Thế Tôn đó) mà… quá trình hành Bồ Tát Đạo mới làm người trì hành có cái trí ngày một mở ra, cái vô minh dần dần mỏng đi.
Nó là 1 quá trình rất dài và không thể nói hết được. Chỉ có hành rồi thấy rồi quán rồi rút ra dần mới thấy.
Còn chuyện “hành” trong vô minh nhưng lại cứ hành mà không rút ra cái trí tri kiến giải thoát thì khác gì đi trong đêm tối?
Bất chấp kết quả. Cho rằng việc làm của mình là “đang hành Bồ Tát Đạo” là không chịu xua tan vô minh của chính mình (người đang thực tập tu).
Vậy là người đời với ngũ dục lạc và thế giới vô thường: Họ cũng từ thiện, cũng cho đi, cũng bi thương, cũng cứu giúp, cũng trắc ẩn, cũng hi sinh.v.v. - rất nhiều người cao thượng, quang minh lỗi lạc (tức là trí tuệ), và được người đời ghi nhớ, lưu danh, tộc họ cháu con phát dương quang đại (để lại phước cho người).v.v. - Vậy mà người hành Bồ Tát Đạo lại không thể thấy được tự thân có được cái phước đức hiện tiền lớn hơn thì chỉ có 1 câu trả lời: Hành trì Bồ Tát Đạo sai.
Khi cho đi với Tâm Bồ Tát - mình phải hiểu rất rõ và sâu sắc rằng: Thế giới này đang ở trong vô minh. Mình cho thân mình được bởi vì mình có nguyện hành Bồ Tát Đạo nhưng điều cốt lõi là: Lỡ đâu vẫn còn những người khác đang coi thân mình là thân nhân họ thì sao? - Phải xét về việc cái phước đức mang lại có biến mãn được toàn phương hay không?. Mình hi sinh thân mình để mang đến rất nhiều pháp bao gồm: Người nhận cắn rứt lương tâm khổ cả đời, người khác nhận thân mình là thân nhân nên cũng đau khổ nốt… vậy, ai là người nhận phước? - Chẳng lẽ bao nhiêu người sẽ đau khổ để một mình mình nhận phước?
Ví dụ: Một người vì lý do gì đó nên khóc tu tu, trở nên sầu bi thương nhớ (tức là đang khổ) - mình biết họ đang khổ vậy nên mới đi kiếm lại cái “kỷ vật” họ đã vô tình vứt xuống vực sâu trong lúc sân hận - biết được rằng, nếu có được trở lại thì họ sẽ trở nên vui vẻ hạnh phúc tươi cười ngay. . . Rồi… thân mình cũng nằm dưới vực và tắt thở luôn. . - Đây là luỵ tình chứ đâu có phải “cứu độ chúng sinh hết đau khổ”. Chăng may “được sống” mang trở lại được “kỷ vật” - thấy người ta cười vui - cứ tưởng “công hạnh Bồ Tát Đạo” đã cao cường lắm rồi nên mới không có lần thứ ba . . . (Vì tắt thở ở lần thứ 2).
Bởi vậy, phải lượng sức, phải biết rất rõ: Sức của mình theo được đến đâu, thái quá cũng bị chệnh đường
Tuy nhiên, cứu mạng thì lại khác.
Như vậy, không dễ đâu.
Bởi thế, mà người tu tập theo Bồ Tát Đạo - Cái Trí nó mới mở ra. Chứ thực tập theo Bồ Tát Đạo mãi mà vẫn cứ vô minh dày đặc không hề mỏng đi thì… đâu có thấy kết quả thiết thực hiện tại?
Phải có trí, muốn trí tăng lên thì lại rút dần ra bài học, kinh nghiệm, kỹ năng (chính là Quán đó) qua mỗi lần thực tập Bồ Tát Đạo. Chứ chẳng lẽ 20 năm 50 năm vẫn cứ hành Bồ Tát Đạo “với sự vô minh dày đặc” như lúc ban đầu?
- Lúc đầu chúng ta không biết mới thả (cứu) con chim ở nơi đó. Nhưng sau đó phải Quán, có Quán thì mới thấy, có thấy được chân như Bồ Đề Tâm mới có lần sau Bồ Tát hành không lỗi lầm.
- Lúc đầu chúng ta “cứu” thế này đó, nhưng sau đó Quán thấy người nhận đâu có được cái phước nào mà vì lẽ đó họ lại khổ hơn… bởi thế lần sau phải thay đổi phương tiện. Không thể cứ u mê, lầm lỗi hành như trước.
…
Đối với người không hành Bồ Tát Đạo thì đều có cái trí của thế gian: Giúp người người báo oán, quên ơn thì lần sau “tao đập”. - Đây là “tâm cơ” bình thường của người thế gian - ai cũng hiểu: Giúp người mà mình hay nhiều người khác bị hại thì giúp gì.v.v..
Vậy chẳng lẽ, người hành Bồ Tát Đạo lại không có trí? - Lại hành trì trong sự u mê, mê muội, hôn trầm thuỵ miên?
Như vậy, người hành Bồ Tát Đạo khác gì, và trí của người Bồ Tát Đạo là gì?
- Là không phải sợ người báo oán, là không phải so đo tính toán xem mình có bị hại hay không hay thiệt hại thế nào hay được phước lợi ra sao..v.v. - Mà cái trí này là cái trí: Không ai bị khổ đau vì hành của mình cũng như phước đức được biến mãn khắp phương cho cả mình, cả người và cả mọi chúng sinh - hoặc ít ra, người (người được mình cứu giúp) phải được phước và chúng sinh không ai bị hại hay đau khổ vì hành của mình…
Chúng ta hành Bồ Tát Đạo mà chúng ta làm đau khổ người khác thì chúng ta hành gì?
Vì lẽ những suy tư đó (Quán trong Đạo Đức Thế Tôn đó) mà… quá trình hành Bồ Tát Đạo mới làm người trì hành có cái trí ngày một mở ra, cái vô minh dần dần mỏng đi.
Nó là 1 quá trình rất dài và không thể nói hết được. Chỉ có hành rồi thấy rồi quán rồi rút ra dần mới thấy.
Còn chuyện “hành” trong vô minh nhưng lại cứ hành mà không rút ra cái trí tri kiến giải thoát thì khác gì đi trong đêm tối?
Bất chấp kết quả. Cho rằng việc làm của mình là “đang hành Bồ Tát Đạo” là không chịu xua tan vô minh của chính mình (người đang thực tập tu).
Vậy là người đời với ngũ dục lạc và thế giới vô thường: Họ cũng từ thiện, cũng cho đi, cũng bi thương, cũng cứu giúp, cũng trắc ẩn, cũng hi sinh.v.v. - rất nhiều người cao thượng, quang minh lỗi lạc (tức là trí tuệ), và được người đời ghi nhớ, lưu danh, tộc họ cháu con phát dương quang đại (để lại phước cho người).v.v. - Vậy mà người hành Bồ Tát Đạo lại không thể thấy được tự thân có được cái phước đức hiện tiền lớn hơn thì chỉ có 1 câu trả lời: Hành trì Bồ Tát Đạo sai.
- Tôn Ngộ Không !!!
- Lục đẳng
- Bài viết: 2741
- Tham gia: 19:29, 25/01/22
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Trẻ em bán vé số đầy đường, tụi nó không muốn đến trường, không cần giúp. Ta cũng phải xách cổ chúng đến trường nhéhathao207 đã viết: 00:22, 07/05/24 Cho đi nhưng không làm khổ ai - điều này cần tỉnh thức, chánh niệm, Bồ Đề Tâm. Mang của chung (của cả nhà, cả gia đình) đi cho xong cứ bắt, ép, yêu cầu người nhà phải như mình - trong khi có khi ở trong tâm họ đau khổ/bực tức/không hài lòng, thanh thản)… thì cũng cần phải cân nhắc xem việc làm của mình có lợi hay có hại trong trường hợp này. Người nhận có thực sự cần và mình có thực sự cần cứu, cần cho.
Khi cho đi với Tâm Bồ Tát - mình phải hiểu rất rõ và sâu sắc rằng: Thế giới này đang ở trong vô minh. Mình cho thân mình được bởi vì mình có nguyện hành Bồ Tát Đạo nhưng điều cốt lõi là: Lỡ đâu vẫn còn những người khác đang coi thân mình là thân nhân họ thì sao? - Phải xét về việc cái phước đức mang lại có biến mãn được toàn phương hay không?. Mình hi sinh thân mình để mang đến rất nhiều pháp bao gồm: Người nhận cắn rứt lương tâm khổ cả đời, người khác nhận thân mình là thân nhân nên cũng đau khổ nốt… vậy, ai là người nhận phước? - Chẳng lẽ bao nhiêu người sẽ đau khổ để một mình mình nhận phước?
Ví dụ: Một người vì lý do gì đó nên khóc tu tu, trở nên sầu bi thương nhớ (tức là đang khổ) - mình biết họ đang khổ vậy nên mới đi kiếm lại cái “kỷ vật” họ đã vô tình vứt xuống vực sâu trong lúc sân hận - biết được rằng, nếu có được trở lại thì họ sẽ trở nên vui vẻ hạnh phúc tươi cười ngay. . . Rồi… thân mình cũng nằm dưới vực và tắt thở luôn. . - Đây là luỵ tình chứ đâu có phải “cứu độ chúng sinh hết đau khổ”. Chăng may “được sống” mang trở lại được “kỷ vật” - thấy người ta cười vui - cứ tưởng “công hạnh Bồ Tát Đạo” đã cao cường lắm rồi nên mới không có lần thứ ba . . . (Vì tắt thở ở lần thứ 2).
Bởi vậy, phải lượng sức, phải biết rất rõ: Sức của mình theo được đến đâu, thái quá cũng bị chệnh đường
Tuy nhiên, cứu mạng thì lại khác.
Như vậy, không dễ đâu.
Bởi thế, mà người tu tập theo Bồ Tát Đạo - Cái Trí nó mới mở ra. Chứ thực tập theo Bồ Tát Đạo mãi mà vẫn cứ vô minh dày đặc không hề mỏng đi thì… đâu có thấy kết quả thiết thực hiện tại?
Phải có trí, muốn trí tăng lên thì lại rút dần ra bài học, kinh nghiệm, kỹ năng (chính là Quán đó) qua mỗi lần thực tập Bồ Tát Đạo. Chứ chẳng lẽ 20 năm 50 năm vẫn cứ hành Bồ Tát Đạo “với sự vô minh dày đặc” như lúc ban đầu?
- Lúc đầu chúng ta không biết mới thả (cứu) con chim ở nơi đó. Nhưng sau đó phải Quán, có Quán thì mới thấy, có thấy được chân như Bồ Đề Tâm mới có lần sau Bồ Tát hành không lỗi lầm.
- Lúc đầu chúng ta “cứu” thế này đó, nhưng sau đó Quán thấy người nhận đâu có được cái phước nào mà vì lẽ đó họ lại khổ hơn… bởi thế lần sau phải thay đổi phương tiện. Không thể cứ u mê, lầm lỗi hành như trước.
…
Đối với người không hành Bồ Tát Đạo thì đều có cái trí của thế gian: Giúp người người báo oán, quên ơn thì lần sau “tao đập”. - Đây là “tâm cơ” bình thường của người thế gian - ai cũng hiểu: Giúp người mà mình hay nhiều người khác bị hại thì giúp gì.v.v..
Vậy chẳng lẽ, người hành Bồ Tát Đạo lại không có trí? - Lại hành trì trong sự u mê, mê muội, hôn trầm thuỵ miên?
Như vậy, người hành Bồ Tát Đạo khác gì, và trí của người Bồ Tát Đạo là gì?
- Là không phải sợ người báo oán, là không phải so đo tính toán xem mình có bị hại hay không hay thiệt hại thế nào hay được phước lợi ra sao..v.v. - Mà cái trí này là cái trí: Không ai bị khổ đau vì hành của mình cũng như phước đức được biến mãn khắp phương cho cả mình, cả người và cả mọi chúng sinh - hoặc ít ra, người (người được mình cứu giúp) phải được phước và chúng sinh không ai bị hại hay đau khổ vì hành của mình…
Chúng ta hành Bồ Tát Đạo mà chúng ta làm đau khổ người khác thì chúng ta hành gì?
Vì lẽ những suy tư đó (Quán trong Đạo Đức Thế Tôn đó) mà… quá trình hành Bồ Tát Đạo mới làm người trì hành có cái trí ngày một mở ra, cái vô minh dần dần mỏng đi.
Nó là 1 quá trình rất dài và không thể nói hết được. Chỉ có hành rồi thấy rồi quán rồi rút ra dần mới thấy.
Còn chuyện “hành” trong vô minh nhưng lại cứ hành mà không rút ra cái trí tri kiến giải thoát thì khác gì đi trong đêm tối?
Bất chấp kết quả. Cho rằng việc làm của mình là “đang hành Bồ Tát Đạo” là không chịu xua tan vô minh của chính mình (người đang thực tập tu).
Vậy là người đời với ngũ dục lạc và thế giới vô thường: Họ cũng từ thiện, cũng cho đi, cũng bi thương, cũng cứu giúp, cũng trắc ẩn, cũng hi sinh.v.v. - rất nhiều người cao thượng, quang minh lỗi lạc (tức là trí tuệ), và được người đời ghi nhớ, lưu danh, tộc họ cháu con phát dương quang đại (để lại phước cho người).v.v. - Vậy mà người hành Bồ Tát Đạo lại không thể thấy được tự thân có được cái phước đức hiện tiền lớn hơn thì chỉ có 1 câu trả lời: Hành trì Bồ Tát Đạo sai.
Và khi chúng oán giận ta vì ta không cho chúng lêu lổng ngoài đường nữa thì kệ chúng
- Tôn Ngộ Không !!!
- Lục đẳng
- Bài viết: 2741
- Tham gia: 19:29, 25/01/22
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Đấy cũng là một ví dụ người cần cứu trong rất nhiều ví dụ thôi!
Vô bệnh viện đếm xem bao nhiêu người không có tiền chữa bệnh?
Biết bao nhiêu trẻ em thiếu sách vở, thiếu cơm ăn?
Cõi Trần gian là bể khổ, còn sợ giúp người là thừa được sao? Tính toán thiệt hơn đến mức muốn lợi cho con cháu thì đang mang cái tâm buôn thần bán thánh chứ yêu thương chúng sinh gì đâu
Vô bệnh viện đếm xem bao nhiêu người không có tiền chữa bệnh?
Biết bao nhiêu trẻ em thiếu sách vở, thiếu cơm ăn?
Cõi Trần gian là bể khổ, còn sợ giúp người là thừa được sao? Tính toán thiệt hơn đến mức muốn lợi cho con cháu thì đang mang cái tâm buôn thần bán thánh chứ yêu thương chúng sinh gì đâu
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Tôn Ngộ Không !!! đã viết: 04:21, 07/05/24 Đấy cũng là một ví dụ người cần cứu trong rất nhiều ví dụ thôi!
Vô bệnh viện đếm xem bao nhiêu người không có tiền chữa bệnh?
Biết bao nhiêu trẻ em thiếu sách vở, thiếu cơm ăn?
Cõi Trần gian là bể khổ, còn sợ giúp người là thừa được sao? Tính toán thiệt hơn đến mức muốn lợi cho con cháu thì đang mang cái tâm buôn thần bán thánh chứ yêu thương chúng sinh gì đâu
Lành thay! Lành thay! - Những lời nói của thiện nam tử như nói lên nỗi lòng của tất cả chư chúng sinh hữu tình trên thế giới xưa nay và mai sau.
Đến một người bình thường, một người ngoại Đạo, một người không biết Bồ Tát Đạo là gì… như đã nói, họ vẫn thực hành từ thiện, cho đi, giúp đỡ, cũng bi thương, trắc ẩn, cũng hi sinh.v.v. Và họ mang đến thế giới sự tốt đẹp hơn (tức là mang đến vọng tưởng điên đảo tốt đẹp hơn), họ được hỉ lạc (trong Đạo Đức Thế Tôn gọi là 5 món dục lạc), họ được đầy đủ phước đức ở đời hiện tiền, cháu con và rất rất nhiều người xung quanh được hưởng lợi lạc. Vậy mà 1 người tự cho là “tôi đang hành Bồ Tát Đạo đây” mà lại không thấy được bản thân hưởng phước đức hiện tiền nhiều hơn bội phần người trước - Người này đang thực hành Bồ Tát Đạo lầm lạc
Bởi sao?
- Chẳng lẽ hành Bồ Tát Đạo là để thọ khổ, tạo nhân khổ cho bản thân và chư chúng sinh?
- Chẳng lẽ hành Bồ Tát Đạo là phải ép tâm làm gì đó dù cảm thấy đau khổ, bực tức, sân si, chán nản, không hài lòng (thọ)?
- Chẳng lẽ hành Bồ Tát Đạo là để cầu mong phước đức nào đó ở đời thế gian dù là cho hiện đời hay vị lai?
- Chẳng lẽ hành Bồ Tát Đạo là để bắt ép hết tất cả chúng sinh phải hành Bồ Tát Đạo, hoặc là bắt ép chung sinh hết khổ?
…
Tất cả những điều trên đều là do cái ngã ở người thực tập Bồ Tát Đạo vẫn đang còn đó, hiện ra chi phối quan điểm, suy nghĩ, cách nhìn.v.v. Và chính nó làm cho người thực tập Bồ Tát Đạo bị chệch đường, lầm lạc.
Chúng sinh ta phải tự thấy, chúng sinh ta hiện đời không phải là cấp Bồ Tát. Dù trong hệ thống Giới Kinh còn nói chúng sinh ta luôn mang tính Phật và sẽ là Phật ở tương lai, vậy thì cấp Bồ Tát cũng vậy. Chúng ta nương theo Bồ Tát để thực hành các hành của Bồ Tát hành để một ngày cũng theo đó đạt được quả vô thượng Bồ Đề.
Mà Bồ Tát hành hay thực hành theo Bồ Tát Đạo - nó là hành, là thứ hành động của chính chư chúng sinh ta ngay tại đời hiện tại này. Không phải đi nơi đâu mới thực hành được.
Nhưng chư chúng sinh ta đều đang ở trong thế giới điên đảo vọng tưởng, hay bị màn vô minh che mờ.. nên làm gì có cái gì là minh? - tất cả mọi tri kiến, kiến thức, quan điểm, hiểu biết - mọi pháp thiện lành hay không thiện lành - ở trong thế giới này, đều là pháp hữu lậu, pháp vô minh, đâu có phải là thực pháp?. Bởi thế: Nếu dùng tri kiến của thế giới hiện tại, quá khứ, kể cả vị lai để cho rằng: Hành thế này là Bồ Tát Đạo, hành thế này là làm thiện, hành thế này là tạo ra phước đức..v.v - Tất cả những cái này đều là hữu lậu, đều là pháp vọng tưởng, đều là thứ vô thường và trầm luân ở thế gian.
Bởi vậy, Bồ Tát Đạo - Thực hành theo Bồ Tát Đạo là để có cái gọi là: TRÍ TUỆ BA LA MẬT HAY TRÍ TUỆ BÁT NHÃ hay cũng là minh giải thoát
Bởi thế, khi chư chúng sinh ta thực hành Bồ Tát Đạo phải thấy được cái trí tuệ này. Lại dùng chính cái trí tuệ này để Tinh tấn ba la mật.
Nếu không phát sinh được cái trí tuệ này, làm sao mà tinh tấn ba la mật được? - Bởi thế nên mới hành những thứ “tốt đẹp” được thế gian cho là “Bồ Tát hành” nhiều chục năm mà: Cuộc đời người thực tập vẫn không tự thấy phước đức hiện tiền… thì làm sao thấy được phước đức đời vị lai?
Khi một người thực tập Bồ Tát Đạo mà thấy:
+ Tự thấy phước đức hiện tiền: Bản thân thấy cuộc đời bớt khổ hơn, an vui hơn, hỉ lạc hơn, sở nguyện dần thành, đỡ lo đỡ nghĩ, sự lo sợ (về mọi thứ) dần dần biến mất và sự vô uý (Dũng khí) cảm thấy tràn trề dù ở bất cứ khía cạnh nào… phải thấy những phước đức này hiện tiền.
+ Tự thấy và được thấy: Chúng sinh xung quanh cũng được hưởng phước đức hiện tiền như trên.
Chỉ có khi thấy được thế này, sự hành Bồ Tát Đạo mới “có vẻ” không lầm lạc.
- Điều trên đến không thể nào bởi người thực hành có tâm: Thực hành để cầu phước đức gì cho bản thân ở hiện đời hay vị lai
Tại sao? - Bởi vì càng có tâm như trên thì CÀNG RƠI VÀO DÂY TRIỀN CÁI THAM. Mà đã rơi vào đây thì sẽ chìm đắm trong sự hưởng dục lạc. Đã chìm đắm trong sự hưởng dục lạc thì vị lai rất lớn hết phước. - Dù đã từng thực hành những pháp thiện. Người này bị chệch bánh xe, trở thành như những người ngoại Đạo khác thực hành THIỆN.
Không những chỉ một điều trên, mà còn có rất nhiều điều sẽ khiến người thực hành Bồ Tát Đạo rơi vào lầm lạc, chệch bánh xe. Nên phải sinh ra được trí tuệ ba la mật và dùng cái trí tuệ ba la mật này TINH TẤN BA LA MẬT (hay tinh tấn Hành Chân Bồ Tát Đạo) - mới sớm đạt kết quả.
Chính vì lẽ đó, người hành Bồ Tát Đạo hưởng phước đức không những phước Đức Tu Đạo giải thoát sau này (trí tuệ Bồ Đề) mà còn hưởng ngay phước đức hiện đời khi kiên trì thực hành Bồ Tát Đạo - NHẪN.
Chư chúng sinh ta sẽ thấy ngay: Tại cái thế giới điên đảo vọng tưởng này, làm gì có gì giá trị hay trân quý bằng cái gọi là: Báu xuất thế gian hay vô thượng Bồ Đề? - Như vậy, chúng ta thực tập Bồ Tát Đạo để mang đến các sự hỉ lạc và hạnh phúc và thiện lành cho toàn bộ những người nhận và lợi lạc khắp chúng sinh - dù đây là những thứ “phước đức điên đảo” nhưng chúng ta làm được điều này mà bản thân lại ở trong sự “khổ điên đảo, sự sân hận điên đảo, sự si mê điên đảo…” thì khác gì chúng ta “bịt tai trộm chuông” - tự cho rằng mình là Bồ Tát, thiện lành - một cái bản ngã vô minh to đùng dày đặc.
Thực hành Bồ Tát Đạo sẽ thấy được vô lượng phước như vậy, nhưng phải nhớ Kinh đã nhắc đi nhắc lại: Phải biết những phước này là phước điên đảo - không phải là phước. Nên ai mà chìm vào - mất tỉnh thức luôn. Chệch luôn đường. Xong luôn
Còn thực hành Bồ Tát Đạo mà không thấy phước thì đây còn không phải là thực hành Bồ Tát Đạo bởi vốn dĩ đã chệch đường.
Chính vì chư chúng ta ngàn đời nay, mấy ai đi được đúng đường nên mới không thấy phước, chịu đau khổ, chịu đủ các loại thọ ác khổ… xong tự tưởng cho rằng: KHÔNG THẤY PHƯỚC PHƯỚC MỚI LÀ PHƯỚC
Cần ghi nhớ Đức Thế Tôn nhắc rất kỹ: Thấy phước không phải là phước nên mới gọi là phước.
Khi thực hành Bồ Tát Đạo thì người thực hành phải thấy được các phước. Nhưng vì có trí tuệ ba la mật nên người thực hành cũng thấy rất rõ những phước đó là phước điên đảo vọng tưởng nên nó không phải là phước. Vì thấy cái điều này không phải là phước nên đây chính là cái phước giải thoát đó. Cái thấy chân như về cái phước được hưởng ở thế giới này không phải là phước (vì điên đảo) chính là cái phước giải thoát là vậy
Cũng như thế với khắp mọi chúng sinh, và mọi thứ.
Bởi vậy, trong hệ thống Giới Kinh Đại Thừa đường Bồ Tát - người đọc sẽ gặp rất nhiều những câu như trên - giống như kiểu đá nhau, không thể hiểu nếu không có trí tuệ ba la mật.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Do vậy, chúng ta cũng rõ: - Không thể lấy tiêu chuẩn ở trong đầu ta (pháp) hay của ai đó mà cho rằng: Một chúng sinh kia đang đau khổ hay đang thọ khổ.
Bởi vì cả thế giới này, có ai không khổ - kể cả chúng sinh đang hưởng phước hỉ lạc?
Bởi thế cho rằng: Người kia đang khổ kìa, phải cứu. Người kìa sướng như vậy sao không cứu người kia bớt khổ.v..v. - Những điều này, tưởng là thiện lành mà hoá ra mà hành cả.
Trí tuệ Ba La Mật luôn đi cùng với Bồ Tát Đạo . Phải rất rõ!
Phước không phải là phước mới là phước. Nhưng ở thế giới này, sao người hành Bồ Tát cho người khác cái phước điên đảo được mà không cho bản thân hưởng cái phước điên đảo đó được - lại đi chịu thọ khổ, chịu suy nghĩ, chịu dày vò, chịu sợ hãi điều nọ điều kia, chịu đủ các khổ hải nhân gian (dù cũng là những thọ vọng tưởng) - nhưng phải chịu như này thì làm sao mà gọi là CỨU ĐỘ? - Ít nhất, người hành Bồ Tát Đạo phải không còn thấy chịu những thọ khổ vọng tưởng này nữa chứ? - Đây có được gọi là phước ở thế giới này không?
Nên đã hành Bồ Tát Đạo đến một mức nhất định là chắc chắn ở đời này thành ĐẠI TỰ TẠI Ở ĐỜI HIỆN THẾ - Chả gì mà không thể với người này, thế này. - nhưng chưa giải thoát đâu. Còn lâu, chán kiếp nữa.
Nên Tên các Bồ Tát cũng như tên các Chư Thánh cũng như tên Kinh trong hệ thống Giới Kinh là phải nhớ:
Quán Thế Trí là gì thì có Bồ Tát Đại Thế Trí
Quán Thế Âm là gì thì có Bồ Tát Quán Thế Âm
Quán Tự tại là gì thì có Bồ Tát Đại Tự Tại
Người thầy (đời mạt pháp) dùng văn thế gian - tức là am hiểu đủ kinh pháp (kinh) để nói phương tiện truyền Đạo là gì thì có có Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Người thực hành Bồ Tát Đạo tới mức Tâm Từ là gì thì có Phổ hiền Bồ Tát
Tên Pháp, tên Người, tên các Chư Tôn Đức, Thánh, Bồ Tát, Phật…. Có một? - Tên có như ý nghĩa? - Tánh chân như thường hằng?
Nên Anan là gì nên có Đức Thánh A Nan
Cũng như vậy với mọi tên, mọi Pháp, mọi Kinh, mọi ý nghĩa, mọi tâm… vô lượng.. là một. Một là không…
Bởi vì cả thế giới này, có ai không khổ - kể cả chúng sinh đang hưởng phước hỉ lạc?
Bởi thế cho rằng: Người kia đang khổ kìa, phải cứu. Người kìa sướng như vậy sao không cứu người kia bớt khổ.v..v. - Những điều này, tưởng là thiện lành mà hoá ra mà hành cả.
Trí tuệ Ba La Mật luôn đi cùng với Bồ Tát Đạo . Phải rất rõ!
Phước không phải là phước mới là phước. Nhưng ở thế giới này, sao người hành Bồ Tát cho người khác cái phước điên đảo được mà không cho bản thân hưởng cái phước điên đảo đó được - lại đi chịu thọ khổ, chịu suy nghĩ, chịu dày vò, chịu sợ hãi điều nọ điều kia, chịu đủ các khổ hải nhân gian (dù cũng là những thọ vọng tưởng) - nhưng phải chịu như này thì làm sao mà gọi là CỨU ĐỘ? - Ít nhất, người hành Bồ Tát Đạo phải không còn thấy chịu những thọ khổ vọng tưởng này nữa chứ? - Đây có được gọi là phước ở thế giới này không?
Nên đã hành Bồ Tát Đạo đến một mức nhất định là chắc chắn ở đời này thành ĐẠI TỰ TẠI Ở ĐỜI HIỆN THẾ - Chả gì mà không thể với người này, thế này. - nhưng chưa giải thoát đâu. Còn lâu, chán kiếp nữa.
Nên Tên các Bồ Tát cũng như tên các Chư Thánh cũng như tên Kinh trong hệ thống Giới Kinh là phải nhớ:
Quán Thế Trí là gì thì có Bồ Tát Đại Thế Trí
Quán Thế Âm là gì thì có Bồ Tát Quán Thế Âm
Quán Tự tại là gì thì có Bồ Tát Đại Tự Tại
Người thầy (đời mạt pháp) dùng văn thế gian - tức là am hiểu đủ kinh pháp (kinh) để nói phương tiện truyền Đạo là gì thì có có Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Người thực hành Bồ Tát Đạo tới mức Tâm Từ là gì thì có Phổ hiền Bồ Tát
Tên Pháp, tên Người, tên các Chư Tôn Đức, Thánh, Bồ Tát, Phật…. Có một? - Tên có như ý nghĩa? - Tánh chân như thường hằng?
Nên Anan là gì nên có Đức Thánh A Nan
Cũng như vậy với mọi tên, mọi Pháp, mọi Kinh, mọi ý nghĩa, mọi tâm… vô lượng.. là một. Một là không…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Đến đây, chúng ta đã thấy: Con đường thực tập theo Bồ Tát Đạo, trước tiên là: Đánh vào cửa tử trong Đại Duyên nhưng với phương pháp thực tập Chân như Bồ Tát Đạo thì người thực hành Bồ Tát Đạo lúc này chợt nhận thấy: Đánh vào cửa tử là cho đi, cho với bớt đi, cho hết đi để rồi không còn danh sắc để mà luân hồi nữa nhưng khi thực hành Chân Như Bồ Tát Đạo thì “Càng cho đi càng nhận lại nhiều”
Mình thực hành Bồ Tát Đạo để giải thoát, để một ngày chứng được quả Vô thượng Bồ Đề … vậy mà, chỉ vừa tu tập theo đúng Bồ Tát Đạo có 1 tẹo thôi mà cho đi bao nhiêu, cái ơn phước nó đã ở đâu dồn đến ngùn ngụn….. khiến bản thân ngập trong phước, càng cho càng nhiều, càng chất lên lắm…
Đến đây người hành Bồ Tát Đạo, phải mở rõ hơn trí tuệ ba la mật bắt đầu tập trung vào cửa Đạo Thọ trong Kinh Đại duyên.
Chúng ta đã thực hành đúng nên cho đi mà nhận lại rất nhiều phước - nhưng những phước này đều là phước điên đảo, chúng ta phải rõ điều này. Cái chúng ta cần hơn là cái phước giải thoát mà nó sẽ chưa ra đâu. Khi này, chúng ta rất dễ chìm đắm trong sự hưởng lạc: Nghe người tôn danh sướng mê mẩn cái đầu luôn. Công việc làm ăn thuận lợi cứ như kiểu được trời nhét vào tay ý. Ăn ngủ thì sướng, thích gì có nấy, gái gú chồng con gia đình đủ cả - đầm ấm hoà thuận, sung sướngv.v.v. - Vậy là tu xong rồi, không tu nữa?
Cơ trời đâu có dễ? - Nói gì đến Luân!
Nếu người thực tập đến đây mà bị chìm đắm, đắm trước, bị dính mắc… là bắt đầu có sự trở ngại thối lui.
Lúc này lại phải bắt đầu áp dụng bước thứ 2 của quá trình:
- Như vừa nói ở phía trước, người thực tập Chân Bồ Tát Đạo sẽ tự nhiên hưởng phước, không muốn nó cũng đến vì nó sẽ kéo trở lại, nó còn đang làm chủ mà. - Phước này, tại sao lại đến được?
- Vì người thực hành thọ được. Người thực hành có thọ được mới thấy bởi phước là phước điên đảo.
Đến đây, là đánh vào cửa thọ. Nếu biên giới của cửa tử là sắc với sự sâu dày nông cạn là: Sắc - Không thì, biên giới của cửa thọ là chạm -lìa
Chúng ta phải lìa cái phước này ra. Lìa thế nào? - Chúng ta hay được nghe từ “đừng dính mắc” là vậy.
Lìa là: Thọ lạc phước thành không thọ lạc. Thọ khổ phước thành không thọ khổ…
Muốn được vậy thì: ĐỪNG CHẠM VÀO PHƯỚC, NHẤT QUYẾT KHÔNG CHẠM
HIỂU SAO?
- Chắc chắn thực hành chân Bồ Tát Đạo thì phước sẽ đến. Khi thấy được điều này, tự thấy rõ: Mình đang đi đúng đường Bồ Tát Đạo - vì thấy phước trở lại rồi. Lúc này, bắt đầu triển khai Chạm - Lìa
1/ Tri túc: Tri túc là biết đủ. Nên tự biết mình chỉ cần đủ 1 lượng nhỏ phước ở đời để thực hành được Bồ Tát Đạo. Còn lại, tất cả những phần kia cần phải lìa bằng cách:
2/ Cái danh nó sẽ đến: Để không chạm vào danh thì khi thực hành Bồ Tát Đạo phải “không để lại danh, đừng nên hô danh, hô hào, nên âm thầm, kín tiếng, không ai biết. Thì cái phước danh (1 trong ngũ dục lạc) nó đến - nó không tìm được căn của ta để chạm. Sẽ không có thọ sinh.
3/ Người được nhận sự Bồ Tát hành của ta khi đó qua cơn khổ nạn. Họ không tìm được người để trả, để cảm ơn… - Phước nó trở lại nhưng không tìm được căn của ta để chạm. Nên danh sắc tài .v.v. - không có thọ sinh.
4/ Người thực hành không nhớ, giữ cái hành động thực hành Bồ Tát Đạo của mình đối với ai, thế nào - tức là chúng ta không lưu giữ cái “Pháp” về việc này nên khi cái phước nó trở lại cũng không tìm được căn để chạm xúc… - không có thọ sinh.
…
Chúng ta thấy: Khi chúng ta hành Bồ Tát Đạo phải kiểm nghiệm xem mức độ hành hay cách thức hành, con đường hành chúng ta đã đi đúng chưa, bằng cách phải thấy được Phước có đến không - tức là thấy số mệnh bắt đầu thay đổi đó, chúng ta phải tự thấy được cái khí vận nó thay đổi. Khi thấy rồi, mới bắt đầu lập tức Chặt Lìa. Khi chặt lìa thì phước điên đảo vọng tưởng nó mới không ập đến nữa nhưng chúng ta đã vẫn hành Bồ Tát Đạo đúng đường nên sự tích tụ này nó mới chuyển thành phước kia - vị lai.. cứ mãi như thế thì mới gọi là tích và chuyển phước/nghiệp
Bởi vì ta hành Bồ Tát Đạo. Đã kiểm nghiệm được điều trên thì có bao giờ lo sợ: Khổ đau, hết tiền, hết phước, hết thứ để làm Bồ Tát hành hay lo sợ điều gì nữa? - vì đến một lúc phước nó tích nhiều, chỉ muốn ta mở căn để nó xúc chạm, nên cần gì chỉ cần mở căn là sẽ sớm thấy hiện tiền. Còn bình thường chúng ta phải thủ hộ 6 căn - tức là tạo cái sự thanh tịnh trên.
Từ đây, trí tuệ ba la mật càng lúc càng phát triển, tinh tấn. Cho đi để thấy phước về đã khó. Nhưng sau khi thấy phải tìm cách để lìa, không cho phước chạm lại còn cần trí tuệ ba la mật sâu sắc hơn.
Có những người càng cho đi thì càng giàu có đầy đủ lên. Đến chính họ phát mệt. Lưu chuyền là vậy, người ta nghĩ là chuyện bịa tuy nhiên, ở đây chỉ là cái gút: Trí tuệ ba la mật về chạm lìa đánh cửa thọ chưa được mở nên họ vẫn còn thọ phước do nó về chạm.
Người bình thường chúng sinh ta thực tập theo Bồ Tát Đạo còn phải cẩn trọng như thế này. Vậy nếu là một Bồ Tát thực sự? - Họ có dám nói họ là Bồ Tát? - Họ có dám dùng thần thông theo kiểu hiện thế? …
Như vậy, càng đi sâu, càng thấy hệ thống Giới Kinh - Không hề nói bừa về những thứ.. chẳng qua chúng ta còn chưa thấy rõ nên cho rằng chỗ nọ chỗ kia đá nhau.
Dù đá nhau thật. Dù kể cả là ma hay ngoại Đạo hay gì gì.. vào hệ thống Giới Kinh - thứ sẽ dung hết. Chỉ ma cho ai đi phân biệt nọ kia đúng sai mà thôi. Bởi Đạo của Đức Thế Tôn là Đạo không phân biệt.
Việc thấy phước về khi thực hành theo Bồ Tát Đạo giống như thắp ngọn đèn. Chưa thấy, không thấy thì phải QUÁN, Làm hết các cách Quán xem sao - Chớ cầu, cầu nghĩ quá là cũng hay gặp ma tiểu tốt đấy. Trí tuệ sẽ mở ra khi quán rất rõ và từ đó thực hành đúng, sẽ thấy phước trả về.
Để duy trì được sự thủ hộ 6 căn chắc chắn dù đã làm mấy cái bước trên khi thực hành Bồ Tát Đạo để chặn phước bởi có khi đi ra ngoài đường bỗng dưng phước nó đổ ập xuống. Muốn không bị buông lung và kéo chìm, cần phải thực hiện phòng thêm ở tại ngay nơi thân mình: Trì giới ba la mật
Trì giới ba la mật không phức tạp lắm. Chủ yếu là tránh xa đường tà, cách xa ma. 5 giới đầu là cơ bản.
Phước cũng là nghiệp nên phải thủ hộ 6 căn là vậy.
Dù sao con đường này, khó nhất là cái trí tuệ ba la mật loé lên - tức là hành trì đúng Bồ Tát Đạo, nhìn thấy phước về rồi mới tu cái này (chính là chặn phước, đẩy nó vào vị lai, không thèm nhận cái phước điên đảo này… cứ thế). Ma Ba Tuần dù vẽ kiểu gì Đạo Đức Thế Tôn vẫn là Đạo Đức Thế Tôn. Không thấy là bởi chúng ta bị màn vô minh của chính chúng ta.
Cái ánh sáng thực tập theo Chân Như Bồ Tát Đạo mọi người thấy có khó thắp không? - Hơi bị khó đó, nhưng chắn chắn là dễ và dễ và dễ hơn rất nhiều với việc tự minh cũng như tu tập theo phương tiện này, nương theo việc thực hành Bồ Tát Đạo này: Khi đã có ánh sáng kia thì rất dễ và tương đối nhanh, thành quả.
Đức Thế Tôn đã nói rất rõ từ sơm: Tu Đạo Của Người Không phải là chịu khổ. Không được buông lung, lơi lả nhưng chắc chắn Không Khổ. Theo phương tiện nào cũng thế. Còn thấy khổ thì còn là lầm đường.
Vì sao? - Vì ly dục ly ác pháp thì một cảm giác hỷ lạc khác sẽ tràn lên… nên không thể bảo: Tôi tu thử đủ mọi phương tiện rồi mà thấy phương tiện nào cũng khó, khổ quá, khó thực hành,v.v.
Mình thực hành Bồ Tát Đạo để giải thoát, để một ngày chứng được quả Vô thượng Bồ Đề … vậy mà, chỉ vừa tu tập theo đúng Bồ Tát Đạo có 1 tẹo thôi mà cho đi bao nhiêu, cái ơn phước nó đã ở đâu dồn đến ngùn ngụn….. khiến bản thân ngập trong phước, càng cho càng nhiều, càng chất lên lắm…
Đến đây người hành Bồ Tát Đạo, phải mở rõ hơn trí tuệ ba la mật bắt đầu tập trung vào cửa Đạo Thọ trong Kinh Đại duyên.
Chúng ta đã thực hành đúng nên cho đi mà nhận lại rất nhiều phước - nhưng những phước này đều là phước điên đảo, chúng ta phải rõ điều này. Cái chúng ta cần hơn là cái phước giải thoát mà nó sẽ chưa ra đâu. Khi này, chúng ta rất dễ chìm đắm trong sự hưởng lạc: Nghe người tôn danh sướng mê mẩn cái đầu luôn. Công việc làm ăn thuận lợi cứ như kiểu được trời nhét vào tay ý. Ăn ngủ thì sướng, thích gì có nấy, gái gú chồng con gia đình đủ cả - đầm ấm hoà thuận, sung sướngv.v.v. - Vậy là tu xong rồi, không tu nữa?
Cơ trời đâu có dễ? - Nói gì đến Luân!
Nếu người thực tập đến đây mà bị chìm đắm, đắm trước, bị dính mắc… là bắt đầu có sự trở ngại thối lui.
Lúc này lại phải bắt đầu áp dụng bước thứ 2 của quá trình:
- Như vừa nói ở phía trước, người thực tập Chân Bồ Tát Đạo sẽ tự nhiên hưởng phước, không muốn nó cũng đến vì nó sẽ kéo trở lại, nó còn đang làm chủ mà. - Phước này, tại sao lại đến được?
- Vì người thực hành thọ được. Người thực hành có thọ được mới thấy bởi phước là phước điên đảo.
Đến đây, là đánh vào cửa thọ. Nếu biên giới của cửa tử là sắc với sự sâu dày nông cạn là: Sắc - Không thì, biên giới của cửa thọ là chạm -lìa
Chúng ta phải lìa cái phước này ra. Lìa thế nào? - Chúng ta hay được nghe từ “đừng dính mắc” là vậy.
Lìa là: Thọ lạc phước thành không thọ lạc. Thọ khổ phước thành không thọ khổ…
Muốn được vậy thì: ĐỪNG CHẠM VÀO PHƯỚC, NHẤT QUYẾT KHÔNG CHẠM
HIỂU SAO?
- Chắc chắn thực hành chân Bồ Tát Đạo thì phước sẽ đến. Khi thấy được điều này, tự thấy rõ: Mình đang đi đúng đường Bồ Tát Đạo - vì thấy phước trở lại rồi. Lúc này, bắt đầu triển khai Chạm - Lìa
1/ Tri túc: Tri túc là biết đủ. Nên tự biết mình chỉ cần đủ 1 lượng nhỏ phước ở đời để thực hành được Bồ Tát Đạo. Còn lại, tất cả những phần kia cần phải lìa bằng cách:
2/ Cái danh nó sẽ đến: Để không chạm vào danh thì khi thực hành Bồ Tát Đạo phải “không để lại danh, đừng nên hô danh, hô hào, nên âm thầm, kín tiếng, không ai biết. Thì cái phước danh (1 trong ngũ dục lạc) nó đến - nó không tìm được căn của ta để chạm. Sẽ không có thọ sinh.
3/ Người được nhận sự Bồ Tát hành của ta khi đó qua cơn khổ nạn. Họ không tìm được người để trả, để cảm ơn… - Phước nó trở lại nhưng không tìm được căn của ta để chạm. Nên danh sắc tài .v.v. - không có thọ sinh.
4/ Người thực hành không nhớ, giữ cái hành động thực hành Bồ Tát Đạo của mình đối với ai, thế nào - tức là chúng ta không lưu giữ cái “Pháp” về việc này nên khi cái phước nó trở lại cũng không tìm được căn để chạm xúc… - không có thọ sinh.
…
Chúng ta thấy: Khi chúng ta hành Bồ Tát Đạo phải kiểm nghiệm xem mức độ hành hay cách thức hành, con đường hành chúng ta đã đi đúng chưa, bằng cách phải thấy được Phước có đến không - tức là thấy số mệnh bắt đầu thay đổi đó, chúng ta phải tự thấy được cái khí vận nó thay đổi. Khi thấy rồi, mới bắt đầu lập tức Chặt Lìa. Khi chặt lìa thì phước điên đảo vọng tưởng nó mới không ập đến nữa nhưng chúng ta đã vẫn hành Bồ Tát Đạo đúng đường nên sự tích tụ này nó mới chuyển thành phước kia - vị lai.. cứ mãi như thế thì mới gọi là tích và chuyển phước/nghiệp
Bởi vì ta hành Bồ Tát Đạo. Đã kiểm nghiệm được điều trên thì có bao giờ lo sợ: Khổ đau, hết tiền, hết phước, hết thứ để làm Bồ Tát hành hay lo sợ điều gì nữa? - vì đến một lúc phước nó tích nhiều, chỉ muốn ta mở căn để nó xúc chạm, nên cần gì chỉ cần mở căn là sẽ sớm thấy hiện tiền. Còn bình thường chúng ta phải thủ hộ 6 căn - tức là tạo cái sự thanh tịnh trên.
Từ đây, trí tuệ ba la mật càng lúc càng phát triển, tinh tấn. Cho đi để thấy phước về đã khó. Nhưng sau khi thấy phải tìm cách để lìa, không cho phước chạm lại còn cần trí tuệ ba la mật sâu sắc hơn.
Có những người càng cho đi thì càng giàu có đầy đủ lên. Đến chính họ phát mệt. Lưu chuyền là vậy, người ta nghĩ là chuyện bịa tuy nhiên, ở đây chỉ là cái gút: Trí tuệ ba la mật về chạm lìa đánh cửa thọ chưa được mở nên họ vẫn còn thọ phước do nó về chạm.
Người bình thường chúng sinh ta thực tập theo Bồ Tát Đạo còn phải cẩn trọng như thế này. Vậy nếu là một Bồ Tát thực sự? - Họ có dám nói họ là Bồ Tát? - Họ có dám dùng thần thông theo kiểu hiện thế? …
Như vậy, càng đi sâu, càng thấy hệ thống Giới Kinh - Không hề nói bừa về những thứ.. chẳng qua chúng ta còn chưa thấy rõ nên cho rằng chỗ nọ chỗ kia đá nhau.
Dù đá nhau thật. Dù kể cả là ma hay ngoại Đạo hay gì gì.. vào hệ thống Giới Kinh - thứ sẽ dung hết. Chỉ ma cho ai đi phân biệt nọ kia đúng sai mà thôi. Bởi Đạo của Đức Thế Tôn là Đạo không phân biệt.
Việc thấy phước về khi thực hành theo Bồ Tát Đạo giống như thắp ngọn đèn. Chưa thấy, không thấy thì phải QUÁN, Làm hết các cách Quán xem sao - Chớ cầu, cầu nghĩ quá là cũng hay gặp ma tiểu tốt đấy. Trí tuệ sẽ mở ra khi quán rất rõ và từ đó thực hành đúng, sẽ thấy phước trả về.
Để duy trì được sự thủ hộ 6 căn chắc chắn dù đã làm mấy cái bước trên khi thực hành Bồ Tát Đạo để chặn phước bởi có khi đi ra ngoài đường bỗng dưng phước nó đổ ập xuống. Muốn không bị buông lung và kéo chìm, cần phải thực hiện phòng thêm ở tại ngay nơi thân mình: Trì giới ba la mật
Trì giới ba la mật không phức tạp lắm. Chủ yếu là tránh xa đường tà, cách xa ma. 5 giới đầu là cơ bản.
Phước cũng là nghiệp nên phải thủ hộ 6 căn là vậy.
Dù sao con đường này, khó nhất là cái trí tuệ ba la mật loé lên - tức là hành trì đúng Bồ Tát Đạo, nhìn thấy phước về rồi mới tu cái này (chính là chặn phước, đẩy nó vào vị lai, không thèm nhận cái phước điên đảo này… cứ thế). Ma Ba Tuần dù vẽ kiểu gì Đạo Đức Thế Tôn vẫn là Đạo Đức Thế Tôn. Không thấy là bởi chúng ta bị màn vô minh của chính chúng ta.
Cái ánh sáng thực tập theo Chân Như Bồ Tát Đạo mọi người thấy có khó thắp không? - Hơi bị khó đó, nhưng chắn chắn là dễ và dễ và dễ hơn rất nhiều với việc tự minh cũng như tu tập theo phương tiện này, nương theo việc thực hành Bồ Tát Đạo này: Khi đã có ánh sáng kia thì rất dễ và tương đối nhanh, thành quả.
Đức Thế Tôn đã nói rất rõ từ sơm: Tu Đạo Của Người Không phải là chịu khổ. Không được buông lung, lơi lả nhưng chắc chắn Không Khổ. Theo phương tiện nào cũng thế. Còn thấy khổ thì còn là lầm đường.
Vì sao? - Vì ly dục ly ác pháp thì một cảm giác hỷ lạc khác sẽ tràn lên… nên không thể bảo: Tôi tu thử đủ mọi phương tiện rồi mà thấy phương tiện nào cũng khó, khổ quá, khó thực hành,v.v.
- Tôn Ngộ Không !!!
- Lục đẳng
- Bài viết: 2741
- Tham gia: 19:29, 25/01/22
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(95 tiếp) - phần dài vô lượng của tập luận chính là Đạo và Đời - nên không có gì bất ngờ khi 95 dài lê thê đến mãi vô lượng sau này.
Sống ở đời, thấy khổ quá, làm kiểu gì cũng vẫn khổ, cái khổ nó cứ đeo bám còn hơn cả người thân người thương. Hoạ chăng có những lúc được hưởng lạc, nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang. Nó đến nó lại đi - thật vô thường. Mà khi cái hỉ lạc đi mất rồi thì lại cảm thấy hụt hẫng (thọ), cảm thấy nhớ nhung khôn nguôi, thèm cảm giác (ái).v.v. Thế là lại lao đầu vào gian khổ để mong tìm kiếm được nó (thủ - hữu - sinh). Vòng luân hồi cứ như vậy cho đến khi tấm thân cũng đi vào lão tử. Thân tử rồi, tưởng hết, ai dè “vẫn còn những thứ gì đó” lại quay về tít tận đâu đâu duyên sinh luân hồi…
Mệnh số có không? - Theo cái luân hồi khi thân tử người tiêu kia thì: Nó có chắc rồi.
Nhưng cải số được không? - Không cải số được thì hoá ra Đạo Đức Thế Tôn là Đạo vẽ rồng vẽ rắn trên mây sao?
Nhưng cải số mà dễ, thì thiên hạ thế giới này, cải số được hết rồi.
Ngược lại, cải số mà phải chịu thọ khổ hơn so không cải thì: Chắc chẳng ai cải với cái “hứa hẹn” nhưng chưa có thọ ký là vô lượng đời kiếp sau sẽ đổi số. . .
Khổ là nền tảng trong Đạo Đức Thế Tôn - sẽ thật hoang đường khi thực hiện hành trì một Pháp nào đó được gọi là Pháp của Đức Thế Tôn mà lại là: Phải chịu nhận muôn vàn khổ đau mới đạt được kết quả - dù có là trả nghiệp ác từ vô lượng kiếp tới giờ đi nữa. Đã thực hành Pháp Đạo Đức Thế Tôn - phải thấy cái thọ khổ ngày một xa. Chưa nói đến thọ lạc cũng chỉ là đom đóm múa trước trăng, thêu hoa trên gấm.
Như vậy, cần phải thực sự có được sự tỉnh thức để đảm bảo rằng: Dù đi bằng phương tiện nào thì mục tiêu (kết quả) cũng là thứ hướng đến. Không thể nào hành trì một phương tiện rồi cho rằng: phải không thấy quả mới là quả.
Đạo Đức Thế Tôn là: Thấy Quả mà không phải là quả nên mới là quả.
Khi hành trì thực tập theo Bồ Tát Đạo - Cái cửa ải khó nhất vì sự rụng rơi ở chỗ: Thấy quả và bị quả nó kéo. Quả này không phải là quả nghiệp, mà là quả phước, quả trên đường Phật mới “chết dở”.
Chúng sinh sợ nghiệp chứ Bồ Tát sợ cả nhân lẫn quả. Như vậy, người thực tập theo Bồ Tát Đạo - còn chưa là Bồ Tát thì cái sự phá hại của cả nhân lẫn quả là rất lớn. Không phải chỉ ở các phương tiện kia mới có ma chướng, ở khía cạnh thực tập Bồ Tát Đạo, ma chướng cám dỗ còn nhiều hơn vạn phần - bởi thế, có lẽ số kiếp tu mới lâu? - Không rõ nhưng cám dỗ về dục lạc là một sự cám dỗ - không ai dám nói mạnh miệng khi chưa tự thân chứng kiến.
Có mà cho đi thì còn dễ. Không có mà bỏ đi mới là khó. Nói gì không có lại còn đang cố kiếm tìm sao cho có tí chút để biết cảm giác …
Có lẽ khó nhất - đó là sự kiên trì
Cũng không biết vì sao trong hệ thống giới Kinh sử dụng những con số “vô lượng” vô thỉ, muôn đời muôn kiếp, vô lượng kiếp, vô lượng công đức…. - Có lẽ để nói lên vai trò của sự kiên trì
Có câu, ở đời hay nói: Kiên trì cái gì cũng có
Có lẽ ở trong Đạo Đức Thế Tôn cũng vậy. Trì là một chuyện. Nhưng kiên trì đến vô lượng kiếp vẫn trì hành - niềm tin bất diệt, vẫn kiên trì hành…
Như vậy chính là cái Dũng Khí của Đạo Đức Thế Tôn. Oai thần được tạo ra từ sắc. Nhưng oai lực thì được dũng khí mà dũng khí lớn nhất là dũng khí kiên trì hành.
Không phải dũng khí đối diện với cái chết, coi cái chết là nhẹ tựa lông hồng. Đây là dũng thế gian. Dũng trong Đạo Đức Thế Tôn là Dũng kiên trì hành phương tiện.
Để kiên trì hành được 1 phương tiện mà “nghe nói” có thể cần tới thời gian “vô lượng kiếp” - điều này chỉ làm được khi có 1 thứ: NHẪN
KHÔNG NHẪN, KHÔNG CÓ PHƯƠNG TIỆN NÀO ĐƯA TỚI ĐÍCH. DÙ NHÂN DUYÊN ĐÃ KHỞI thì bởi vì không có nhẫn mà nó lại hoá đi (bị hoá duyên trước khi tới quả)
Ví dụ: Giống như: Một mầm cây đã nảy mầm. Không thể nào cắt mầm mà bảo “đây là quả”. Cũng không thể nào nhẫn 1 hồi rồi cắt thân cây nói “đây là quả”. Cũng thế, ngắt cành, ngắt nụ, ngắt hoa, ngắt quả non rồi cho rằng: Đây là quả thù thắng nhất. .
Vậy là: Đạo chỉ có 1 từ: NHẪN
Thế mới hay! Thế mới là Đạo Đức Thế Tôn. Nó hợp ý cho vô lượng chúng sinh. Chúng sinh thích gì, Đức Thế Tôn đều cho điều như ý. Thọ nổi không?
Với chúng sinh - Pháp này, chúng sinh mà thọ trì được trong 1 năm từ ngày bắt đầu thọ. Đời mệnh số của chúng sinh sẽ thay đổi hoàn toàn trở nên như 1 vị vua so với từ hiện tại về quá khứ. Thằng ma chém gió tôi ở đây, chém gió thọ ký cho chúng sinh đó. Có thọ nổi pháp duyên này không? hay sau nhiều chục năm nữa mới có khả năng sực thấy ma này nói hôm nay.
Đọc trong giới kinh, Đối với Đức Thế Tôn. Ai đến ngài cũng nói pháp, mà lại pháp tuỳ căn cơ - nhưng không phải ai cũng thọ nổi pháp của Người.
Sống ở đời, thấy khổ quá, làm kiểu gì cũng vẫn khổ, cái khổ nó cứ đeo bám còn hơn cả người thân người thương. Hoạ chăng có những lúc được hưởng lạc, nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang. Nó đến nó lại đi - thật vô thường. Mà khi cái hỉ lạc đi mất rồi thì lại cảm thấy hụt hẫng (thọ), cảm thấy nhớ nhung khôn nguôi, thèm cảm giác (ái).v.v. Thế là lại lao đầu vào gian khổ để mong tìm kiếm được nó (thủ - hữu - sinh). Vòng luân hồi cứ như vậy cho đến khi tấm thân cũng đi vào lão tử. Thân tử rồi, tưởng hết, ai dè “vẫn còn những thứ gì đó” lại quay về tít tận đâu đâu duyên sinh luân hồi…
Mệnh số có không? - Theo cái luân hồi khi thân tử người tiêu kia thì: Nó có chắc rồi.
Nhưng cải số được không? - Không cải số được thì hoá ra Đạo Đức Thế Tôn là Đạo vẽ rồng vẽ rắn trên mây sao?
Nhưng cải số mà dễ, thì thiên hạ thế giới này, cải số được hết rồi.
Ngược lại, cải số mà phải chịu thọ khổ hơn so không cải thì: Chắc chẳng ai cải với cái “hứa hẹn” nhưng chưa có thọ ký là vô lượng đời kiếp sau sẽ đổi số. . .
Khổ là nền tảng trong Đạo Đức Thế Tôn - sẽ thật hoang đường khi thực hiện hành trì một Pháp nào đó được gọi là Pháp của Đức Thế Tôn mà lại là: Phải chịu nhận muôn vàn khổ đau mới đạt được kết quả - dù có là trả nghiệp ác từ vô lượng kiếp tới giờ đi nữa. Đã thực hành Pháp Đạo Đức Thế Tôn - phải thấy cái thọ khổ ngày một xa. Chưa nói đến thọ lạc cũng chỉ là đom đóm múa trước trăng, thêu hoa trên gấm.
Như vậy, cần phải thực sự có được sự tỉnh thức để đảm bảo rằng: Dù đi bằng phương tiện nào thì mục tiêu (kết quả) cũng là thứ hướng đến. Không thể nào hành trì một phương tiện rồi cho rằng: phải không thấy quả mới là quả.
Đạo Đức Thế Tôn là: Thấy Quả mà không phải là quả nên mới là quả.
Khi hành trì thực tập theo Bồ Tát Đạo - Cái cửa ải khó nhất vì sự rụng rơi ở chỗ: Thấy quả và bị quả nó kéo. Quả này không phải là quả nghiệp, mà là quả phước, quả trên đường Phật mới “chết dở”.
Chúng sinh sợ nghiệp chứ Bồ Tát sợ cả nhân lẫn quả. Như vậy, người thực tập theo Bồ Tát Đạo - còn chưa là Bồ Tát thì cái sự phá hại của cả nhân lẫn quả là rất lớn. Không phải chỉ ở các phương tiện kia mới có ma chướng, ở khía cạnh thực tập Bồ Tát Đạo, ma chướng cám dỗ còn nhiều hơn vạn phần - bởi thế, có lẽ số kiếp tu mới lâu? - Không rõ nhưng cám dỗ về dục lạc là một sự cám dỗ - không ai dám nói mạnh miệng khi chưa tự thân chứng kiến.
Có mà cho đi thì còn dễ. Không có mà bỏ đi mới là khó. Nói gì không có lại còn đang cố kiếm tìm sao cho có tí chút để biết cảm giác …
Có lẽ khó nhất - đó là sự kiên trì
Cũng không biết vì sao trong hệ thống giới Kinh sử dụng những con số “vô lượng” vô thỉ, muôn đời muôn kiếp, vô lượng kiếp, vô lượng công đức…. - Có lẽ để nói lên vai trò của sự kiên trì
Có câu, ở đời hay nói: Kiên trì cái gì cũng có
Có lẽ ở trong Đạo Đức Thế Tôn cũng vậy. Trì là một chuyện. Nhưng kiên trì đến vô lượng kiếp vẫn trì hành - niềm tin bất diệt, vẫn kiên trì hành…
Như vậy chính là cái Dũng Khí của Đạo Đức Thế Tôn. Oai thần được tạo ra từ sắc. Nhưng oai lực thì được dũng khí mà dũng khí lớn nhất là dũng khí kiên trì hành.
Không phải dũng khí đối diện với cái chết, coi cái chết là nhẹ tựa lông hồng. Đây là dũng thế gian. Dũng trong Đạo Đức Thế Tôn là Dũng kiên trì hành phương tiện.
Để kiên trì hành được 1 phương tiện mà “nghe nói” có thể cần tới thời gian “vô lượng kiếp” - điều này chỉ làm được khi có 1 thứ: NHẪN
KHÔNG NHẪN, KHÔNG CÓ PHƯƠNG TIỆN NÀO ĐƯA TỚI ĐÍCH. DÙ NHÂN DUYÊN ĐÃ KHỞI thì bởi vì không có nhẫn mà nó lại hoá đi (bị hoá duyên trước khi tới quả)
Ví dụ: Giống như: Một mầm cây đã nảy mầm. Không thể nào cắt mầm mà bảo “đây là quả”. Cũng không thể nào nhẫn 1 hồi rồi cắt thân cây nói “đây là quả”. Cũng thế, ngắt cành, ngắt nụ, ngắt hoa, ngắt quả non rồi cho rằng: Đây là quả thù thắng nhất. .
Vậy là: Đạo chỉ có 1 từ: NHẪN
Thế mới hay! Thế mới là Đạo Đức Thế Tôn. Nó hợp ý cho vô lượng chúng sinh. Chúng sinh thích gì, Đức Thế Tôn đều cho điều như ý. Thọ nổi không?
Với chúng sinh - Pháp này, chúng sinh mà thọ trì được trong 1 năm từ ngày bắt đầu thọ. Đời mệnh số của chúng sinh sẽ thay đổi hoàn toàn trở nên như 1 vị vua so với từ hiện tại về quá khứ. Thằng ma chém gió tôi ở đây, chém gió thọ ký cho chúng sinh đó. Có thọ nổi pháp duyên này không? hay sau nhiều chục năm nữa mới có khả năng sực thấy ma này nói hôm nay.
Đọc trong giới kinh, Đối với Đức Thế Tôn. Ai đến ngài cũng nói pháp, mà lại pháp tuỳ căn cơ - nhưng không phải ai cũng thọ nổi pháp của Người.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Đạo Đức Thế Tôn vô biên nhiệm màu. Trực chỉ thẳng từng căn tánh mỗi chúng sinh cụ thể hiện đời chứ không phải là thứ vẽ vời hổ đốn, “phân biệt” ngoại Đạo tà ma hay bổn Giáo ngoại giáo hay phân biệt nọ kia đúng sai tranh luận. 40 năm nữa, trong 1 kiếp người này, nếu đủ cơ duyên còn khoẻ khoắn, tỉnh táo: Chúng sinh chỉ nhớ đến một chữ NHẪN. Còn bây giờ thì “thọ nổi không” là câu hỏi chỉ chúng sinh tự tìm câu trả lời và không ai quan tâm “câu trả lời là gì”, cũng không cần nói thêm.
Chúng ta tiếp tục trở về với Đạo và Đời!
Như vậy, Nhẫn ba la mật cũng là 1 pháp trong việc hành trì theo gương Bồ Tát Đạo. Nếu không có nhẫn, công cuộc thực hành theo Bồ Tát Đạo cũng giống như: Bong bóng nổi trên mặt nước.
Sự bố thí, trì giới chỉ đem đến hiệu quả rốt ráo cho người có sự nhẫn nhục. Bởi vì Pháp hành trì Bồ Tát Đạo vốn khác thường, mà khác thường thì sẽ bị xem là “bất thường”. Đã bất thường thì sẽ bị xã hội tẩy chay, khủng bố và “lên án”.
Chính vì lẽ pháp này, người thực tập đã bước vào cửa Đạo tu vô ngã
Chỉ có vô ngã thì mới nhẫn được, thì mới tiếp tục kiên trì trì hành Bồ Tát Đạo được. Vô ngã ở đây sẽ được biểu hiện bởi lý tính “cái tôi” - “cái của tôi” - không còn - bị mài nhẵn.
Tương truyền trong Phật Đạo, có một vị xuất gia thực hành Bồ Tát Đạo thực hành 1 phép bố thí: Gặp ai cũng bố thí câu: Tôi không dám khinh thường ngài vì ngài sẽ là 1 vị Phật tương lai.
Dường như vị này sau có được tôn danh: Thường Bất Khinh.
Rõ ràng, câu nói trên thuộc thể loại bố thí “sự vô uý” - bố thí tinh thần nhưng hàm chứa bố thí Pháp Phật:
1/ Gặp người tu ham danh, nghe được câu nói này thì hoan hỷ, vui vẻ.
2/ Gặp người bình thường, đâu phải người tu Phật: Họ “trố” mắt tưởng là người nói có vấn đề “tâm thần” nên xua đuổi, đánh.
3/ Gặp người đang tu tinh mẫn, họ cũng phải ngạc nhiên, thoạt nhiên không hiểu đầu đuôi ý nghĩa ra sao.
4/ Gặp người tu khó tính, khả năng lại ăn đánh.
Dù vậy, bị đủ các người ở các nơi đuổi đánh, vị này vẫn vui vẻ “chạy” và không quên nói câu này.
Sự kiên trì thực hành một pháp này, thế mà ngài ấy lại bước vào bậc Thánh. - Dù đây là câu chuyện nhưng cái hình tượng nhẫn và yếu quyết Phật - người này nắm rõ. Không phải tự nhiên, với câu nói đó, phương pháp thực hành đó mà lại có kết quả. Nhiều người cũng “xuất gia” - tự phương tiện ra 1 pháp rồi nhẫn nhục thực hành theo mà có thấy kết quả đâu. Hay một vị thí chủ chúng ta thật giàu có và cũng phát tâm vô thượng Bồ Đề bèn thực hành pháp: Gặp ai cũng cho tiền, rồi chúc phước lộc đủ đầy… Cũng như nếu có người học theo gương hình tượng Thương Bất Khinh này - Khả năng đều dã tràng xe cát, Quả không rốt ráo.
Không phải 1 câu nói xuông, trong câu nói ẩn chứa căn tánh của người này và sự NGỘ của người này. Chúng ta chưa ngộ được ra điều mà người này đã thấy thì có thực hành theo cũng vô ích. Nên phải tìm phương tiện phù hợp là vậy.
Chúng ta tiếp tục trở về với Đạo và Đời!
Như vậy, Nhẫn ba la mật cũng là 1 pháp trong việc hành trì theo gương Bồ Tát Đạo. Nếu không có nhẫn, công cuộc thực hành theo Bồ Tát Đạo cũng giống như: Bong bóng nổi trên mặt nước.
Sự bố thí, trì giới chỉ đem đến hiệu quả rốt ráo cho người có sự nhẫn nhục. Bởi vì Pháp hành trì Bồ Tát Đạo vốn khác thường, mà khác thường thì sẽ bị xem là “bất thường”. Đã bất thường thì sẽ bị xã hội tẩy chay, khủng bố và “lên án”.
Chính vì lẽ pháp này, người thực tập đã bước vào cửa Đạo tu vô ngã
Chỉ có vô ngã thì mới nhẫn được, thì mới tiếp tục kiên trì trì hành Bồ Tát Đạo được. Vô ngã ở đây sẽ được biểu hiện bởi lý tính “cái tôi” - “cái của tôi” - không còn - bị mài nhẵn.
Tương truyền trong Phật Đạo, có một vị xuất gia thực hành Bồ Tát Đạo thực hành 1 phép bố thí: Gặp ai cũng bố thí câu: Tôi không dám khinh thường ngài vì ngài sẽ là 1 vị Phật tương lai.
Dường như vị này sau có được tôn danh: Thường Bất Khinh.
Rõ ràng, câu nói trên thuộc thể loại bố thí “sự vô uý” - bố thí tinh thần nhưng hàm chứa bố thí Pháp Phật:
1/ Gặp người tu ham danh, nghe được câu nói này thì hoan hỷ, vui vẻ.
2/ Gặp người bình thường, đâu phải người tu Phật: Họ “trố” mắt tưởng là người nói có vấn đề “tâm thần” nên xua đuổi, đánh.
3/ Gặp người đang tu tinh mẫn, họ cũng phải ngạc nhiên, thoạt nhiên không hiểu đầu đuôi ý nghĩa ra sao.
4/ Gặp người tu khó tính, khả năng lại ăn đánh.
Dù vậy, bị đủ các người ở các nơi đuổi đánh, vị này vẫn vui vẻ “chạy” và không quên nói câu này.
Sự kiên trì thực hành một pháp này, thế mà ngài ấy lại bước vào bậc Thánh. - Dù đây là câu chuyện nhưng cái hình tượng nhẫn và yếu quyết Phật - người này nắm rõ. Không phải tự nhiên, với câu nói đó, phương pháp thực hành đó mà lại có kết quả. Nhiều người cũng “xuất gia” - tự phương tiện ra 1 pháp rồi nhẫn nhục thực hành theo mà có thấy kết quả đâu. Hay một vị thí chủ chúng ta thật giàu có và cũng phát tâm vô thượng Bồ Đề bèn thực hành pháp: Gặp ai cũng cho tiền, rồi chúc phước lộc đủ đầy… Cũng như nếu có người học theo gương hình tượng Thương Bất Khinh này - Khả năng đều dã tràng xe cát, Quả không rốt ráo.
Không phải 1 câu nói xuông, trong câu nói ẩn chứa căn tánh của người này và sự NGỘ của người này. Chúng ta chưa ngộ được ra điều mà người này đã thấy thì có thực hành theo cũng vô ích. Nên phải tìm phương tiện phù hợp là vậy.