PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
- Tôn Ngộ Không !!!
- Lục đẳng
- Bài viết: 2741
- Tham gia: 19:29, 25/01/22
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Bạn chê mình không kiên nhẫn
Thật ra đời người ngắn lắm, không có thời gian để chờ đợi, cũng không có thời gian để nghĩ nhiều như thế. Chúa Jesus giảng đạo trong 3 năm, Ngài nói thẳng vào vấn đề luôn
“ tài sản của anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó “
“ hãy trữ của cải trên trời, kẻ trộm không thể cắp và mối mọt không thể khoét “
“ Hãy yêu tha nhân như chính bản thân ngươi “
Thật ra đời người ngắn lắm, không có thời gian để chờ đợi, cũng không có thời gian để nghĩ nhiều như thế. Chúa Jesus giảng đạo trong 3 năm, Ngài nói thẳng vào vấn đề luôn
“ tài sản của anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó “
“ hãy trữ của cải trên trời, kẻ trộm không thể cắp và mối mọt không thể khoét “
“ Hãy yêu tha nhân như chính bản thân ngươi “
- Tôn Ngộ Không !!!
- Lục đẳng
- Bài viết: 2741
- Tham gia: 19:29, 25/01/22
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Người anh em đừng buồn nha, cứ viết tiếp, cứ viết dài vô. Mình chỉ góp ý để chúng ta cùng nhau phát triển thôi
Chỉ trích người khác là tội lỗi
Chỉ trích người khác là tội lỗi
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(95 tiếp)
Như vậy đến đây chư chúng sinh ta đã được giới thiệu “5 nan hoa chính” của cấp cảnh Bồ Tát Đạo. Nan hoa thứ 6 chính là nan hoa - thiền định ba la mật.
Không nói về cấp cảnh Bồ Tát, chỉ nói cấp cảnh chư chúng sinh ta thực tập theo đường Bồ Tát Đạo thì có phải là một con đường ĐẠO ĐỨC THẾ TÔN?
Chúng sinh thực tập theo Bồ Tát Đạo là một cỗ xe được đóng theo ni - tức là một cỗ xe phương tiện cụ thể theo các Bồ Tát. Nó là sự triển khai cụ thể, rõ ràng, chi tiết, rành mạch, tuỳ cơ ứng biến hơn so với hệ thống Đạo lý trong Giới Kinh.
Nếu về mặt Đạo lý, cỗ xe Pháp Luân ban đầu được Đức Thế Tôn nói với 8 nan chính (bát chánh Đạo) - 8 nan hoa quy về Tâm: Chánh niệm, chánh tu duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định thì cỗ xe phương tiện Bồ Tát thừa cụ thể hoá chi tiết từng phương tiện cụ thể (vô lượng) cái Đạo Lý này, mỗi một nan hoa bao gồm vô lượng phương tiện (cách thức) thực tập mà không phân biệt đúng sai, chỉ TRỰC CHỈ: HỢP VỚI CĂN TÁNH
Bố thí ba la mật, trì giới ba la mật, nhẫn nhục ba la mật, tinh tấn ba la mật, thiền định ba la mật, trí huệ ba la mật: - Cũng như Đạo lý cơ bản, những pháp này cần phải được thực tập dần dần cho tới khi viên mãn.
Bởi vì cỗ xe Bồ Tát Đạo trực chỉ tới tâm Bi nên nó tự vượt qua cấp bánh xe Luân 8 nan (Bát Chánh Đạo - chỉ trực chỉ tới giải thoát khỏi luân hồi sinh tử thế gian - Cấp Tâm từ).
Tuy nhiên, để trèo lên được cỗ xe Bồ Tát thừa, sự nương theo này của chúng sinh chúng ta vẫn cần những yếu tố then chốt như đã nói: Thắp đèn mà ở phía trước đã nhắc đến việc: Trí tuệ ba la mật trong việc bố thí và phước/nghiệp .. theo đúng như Bồ Tát Đạo.
Trong 6 nẻo chính của Bồ Tát Đạo thì duyên ở chỗ bố thí ba la mật. Để thấy QUẢ được gọi là “bố thí ba la mật” thì phải có cái gọi là “trí tuệ ba la mật” - thứ sau này gọi là trí huệ. Bằng không, nó cũng chỉ là “bố thí” mà xưa nay ngàn ngàn muôn vô lượng chúng sinh từ trong giáo lẫn ngoài Đạo đều vẫn đang làm . Duyên tiếp theo của “thiền định ba la mật” đã được thấy rõ chính là “nhẫn nhục ba la mật”. Nếu thiếu nhẫn nhục ba la mật thì không bao giờ thấy được thiền định ba la mật.
Đó là tên như ý nghĩa rốt ráo thù thắng nhất của: Ba la mật
Quá nhiều các Luận, giảng giải đã thích ngữ nghĩa của từ “ba la mật” - kể cả khi chuyển ngữ. Điều này, chưa cần rõ ba la mật là thì thì ai ai cũng sẽ tự Quán thấy: Nếu từ ba la mật - trí tuệ bát nhã là không có ý nghĩ lắm thì các Chư Thánh Đức cho vào làm cái gì cho rắc rối - bởi hệ thống Giới Kinh rất súc tích từng từ từng ngữ. .
Từ đó chư chúng sinh ta tự thấy rõ: “BỐ THÍ BA LA MẬT” KHÁC “BỐ THÍ” - Và điều này mới mang đến cái đánh thẳng vào vòng luân chặt đứt cái luân hồi mà không thể chặt đứt xưa nay bởi vì bị điên đảo vọng tưởng, che mờ.
Khởi đầu của ba la mật này lầm lạc mà không minh ra thì muôn kiếp vẫn trầm luân - chứ không phải là “muôn kiếp thực hành theo Bồ Tát Đạo”.
Để thấy sự chân như và thấy rõ tính bản nguyên khi chư chúng sinh đọc đến đây, tất cả đều phải qua QUÁN - Chư Chúng sinh ta phải quán để phân biệt Đạo Đức Thế Tôn và luận thuyết tà ma ngoại Đạo.
Sự khác nhau chỉ 1 từ 1 ngữ và cái thế trí Quán tưởng để thấy: Cái thấy đã khác nhau về thế nào là chân như. Từ việc thêm một chữ niệm trong định thiền hay thêm bớt vài mắt xích nhân duyên hay ở đây là bố thí với bố thí ba la mật...
ĐÓ LÀ NHỮNG THỨ BÌNH THƯỜNG CHÚNG TA CHƯA BAO GIỜ NGHĨ RẰNG: Chúng ta sẽ phân biệt ngữ nghĩa của những từ ngữ này. Nếu có ai đó có trí và chú tâm phân biệt: dường như cũng sẽ đọng lại ở chỗ: Phân biệt ngữ nghĩa khi chuyển ngữ chứ không tập trung phân biệt bản thể “TÁNH” của nó.
Như vậy, thiền định ba la mật ở đây, đã bắt đầu mang hàm ngữ nghĩa mà ở những phía trước, kể cả tập luận này dù có nhắc qua nhưng chưa rõ: Trái ngược nhiều về hình tượng.
Nếu như: Được hiểu rộng rãi và thế gian công nhận rộng rãi: Thiền định là định thân, tinh thần. Tức là thân phải bất động (kiết già) , tức là tinh thần phải “lặng im”. Thì ở đây, thiền định ba la mật đã đưa tới “vô lượng phương tiện” - đều được xếp vào định.
Đôi khi được nói bằng cụm từ: Tâm tự tại vô ngại
Vậy là có ít nhất 2 yếu tố (có thể còn hơn): Tự tại và vô ngại của thân và tinh thần (cái được tập luận này nói là Tâm).
Như vậy, không tập trung vào hành tướng. Tập trung vào thẳng cái gọi là TÂM (dù chư chúng sinh chúng ta cùng nhau chưa thấy nó là gì nhưng đều đã có tri kiến về cái Tâm này khi đọc đến đây hay được tri kiến ở bất cứ đâu).
Chính xác, với thiền định ba la mật thì: Khi đi cũng có thể đạt định, đứng cũng vậy, nằm cũng thế, ngồi (hay kiết già) cũng ở trong định này. - Có nghĩa cái định này, về hình tướng của thân: lúc nào cũng ở trong ĐỊNH. Gọi là định thân ba la mật (dù chẳng ai gọi vì nếu chỉ có nó thì không thể là ba la mật).
Cái tinh thần luôn luôn tự tại trong mọi hình tướng của thân và của TRẦN. - Cái này không đơn giản!
Để đạt được cái gọi là “thiền định ba la mật” - Có thể nói - Tâm Từ đã viên mãn! - Chưa cần xét trí tuệ ba la mật đạt đến đâu!
Như vậy đến đây chư chúng sinh ta đã được giới thiệu “5 nan hoa chính” của cấp cảnh Bồ Tát Đạo. Nan hoa thứ 6 chính là nan hoa - thiền định ba la mật.
Không nói về cấp cảnh Bồ Tát, chỉ nói cấp cảnh chư chúng sinh ta thực tập theo đường Bồ Tát Đạo thì có phải là một con đường ĐẠO ĐỨC THẾ TÔN?
Chúng sinh thực tập theo Bồ Tát Đạo là một cỗ xe được đóng theo ni - tức là một cỗ xe phương tiện cụ thể theo các Bồ Tát. Nó là sự triển khai cụ thể, rõ ràng, chi tiết, rành mạch, tuỳ cơ ứng biến hơn so với hệ thống Đạo lý trong Giới Kinh.
Nếu về mặt Đạo lý, cỗ xe Pháp Luân ban đầu được Đức Thế Tôn nói với 8 nan chính (bát chánh Đạo) - 8 nan hoa quy về Tâm: Chánh niệm, chánh tu duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định thì cỗ xe phương tiện Bồ Tát thừa cụ thể hoá chi tiết từng phương tiện cụ thể (vô lượng) cái Đạo Lý này, mỗi một nan hoa bao gồm vô lượng phương tiện (cách thức) thực tập mà không phân biệt đúng sai, chỉ TRỰC CHỈ: HỢP VỚI CĂN TÁNH
Bố thí ba la mật, trì giới ba la mật, nhẫn nhục ba la mật, tinh tấn ba la mật, thiền định ba la mật, trí huệ ba la mật: - Cũng như Đạo lý cơ bản, những pháp này cần phải được thực tập dần dần cho tới khi viên mãn.
Bởi vì cỗ xe Bồ Tát Đạo trực chỉ tới tâm Bi nên nó tự vượt qua cấp bánh xe Luân 8 nan (Bát Chánh Đạo - chỉ trực chỉ tới giải thoát khỏi luân hồi sinh tử thế gian - Cấp Tâm từ).
Tuy nhiên, để trèo lên được cỗ xe Bồ Tát thừa, sự nương theo này của chúng sinh chúng ta vẫn cần những yếu tố then chốt như đã nói: Thắp đèn mà ở phía trước đã nhắc đến việc: Trí tuệ ba la mật trong việc bố thí và phước/nghiệp .. theo đúng như Bồ Tát Đạo.
Trong 6 nẻo chính của Bồ Tát Đạo thì duyên ở chỗ bố thí ba la mật. Để thấy QUẢ được gọi là “bố thí ba la mật” thì phải có cái gọi là “trí tuệ ba la mật” - thứ sau này gọi là trí huệ. Bằng không, nó cũng chỉ là “bố thí” mà xưa nay ngàn ngàn muôn vô lượng chúng sinh từ trong giáo lẫn ngoài Đạo đều vẫn đang làm . Duyên tiếp theo của “thiền định ba la mật” đã được thấy rõ chính là “nhẫn nhục ba la mật”. Nếu thiếu nhẫn nhục ba la mật thì không bao giờ thấy được thiền định ba la mật.
Đó là tên như ý nghĩa rốt ráo thù thắng nhất của: Ba la mật
Quá nhiều các Luận, giảng giải đã thích ngữ nghĩa của từ “ba la mật” - kể cả khi chuyển ngữ. Điều này, chưa cần rõ ba la mật là thì thì ai ai cũng sẽ tự Quán thấy: Nếu từ ba la mật - trí tuệ bát nhã là không có ý nghĩ lắm thì các Chư Thánh Đức cho vào làm cái gì cho rắc rối - bởi hệ thống Giới Kinh rất súc tích từng từ từng ngữ. .
Từ đó chư chúng sinh ta tự thấy rõ: “BỐ THÍ BA LA MẬT” KHÁC “BỐ THÍ” - Và điều này mới mang đến cái đánh thẳng vào vòng luân chặt đứt cái luân hồi mà không thể chặt đứt xưa nay bởi vì bị điên đảo vọng tưởng, che mờ.
Khởi đầu của ba la mật này lầm lạc mà không minh ra thì muôn kiếp vẫn trầm luân - chứ không phải là “muôn kiếp thực hành theo Bồ Tát Đạo”.
Để thấy sự chân như và thấy rõ tính bản nguyên khi chư chúng sinh đọc đến đây, tất cả đều phải qua QUÁN - Chư Chúng sinh ta phải quán để phân biệt Đạo Đức Thế Tôn và luận thuyết tà ma ngoại Đạo.
Sự khác nhau chỉ 1 từ 1 ngữ và cái thế trí Quán tưởng để thấy: Cái thấy đã khác nhau về thế nào là chân như. Từ việc thêm một chữ niệm trong định thiền hay thêm bớt vài mắt xích nhân duyên hay ở đây là bố thí với bố thí ba la mật...
ĐÓ LÀ NHỮNG THỨ BÌNH THƯỜNG CHÚNG TA CHƯA BAO GIỜ NGHĨ RẰNG: Chúng ta sẽ phân biệt ngữ nghĩa của những từ ngữ này. Nếu có ai đó có trí và chú tâm phân biệt: dường như cũng sẽ đọng lại ở chỗ: Phân biệt ngữ nghĩa khi chuyển ngữ chứ không tập trung phân biệt bản thể “TÁNH” của nó.
Như vậy, thiền định ba la mật ở đây, đã bắt đầu mang hàm ngữ nghĩa mà ở những phía trước, kể cả tập luận này dù có nhắc qua nhưng chưa rõ: Trái ngược nhiều về hình tượng.
Nếu như: Được hiểu rộng rãi và thế gian công nhận rộng rãi: Thiền định là định thân, tinh thần. Tức là thân phải bất động (kiết già) , tức là tinh thần phải “lặng im”. Thì ở đây, thiền định ba la mật đã đưa tới “vô lượng phương tiện” - đều được xếp vào định.
Đôi khi được nói bằng cụm từ: Tâm tự tại vô ngại
Vậy là có ít nhất 2 yếu tố (có thể còn hơn): Tự tại và vô ngại của thân và tinh thần (cái được tập luận này nói là Tâm).
Như vậy, không tập trung vào hành tướng. Tập trung vào thẳng cái gọi là TÂM (dù chư chúng sinh chúng ta cùng nhau chưa thấy nó là gì nhưng đều đã có tri kiến về cái Tâm này khi đọc đến đây hay được tri kiến ở bất cứ đâu).
Chính xác, với thiền định ba la mật thì: Khi đi cũng có thể đạt định, đứng cũng vậy, nằm cũng thế, ngồi (hay kiết già) cũng ở trong định này. - Có nghĩa cái định này, về hình tướng của thân: lúc nào cũng ở trong ĐỊNH. Gọi là định thân ba la mật (dù chẳng ai gọi vì nếu chỉ có nó thì không thể là ba la mật).
Cái tinh thần luôn luôn tự tại trong mọi hình tướng của thân và của TRẦN. - Cái này không đơn giản!
Để đạt được cái gọi là “thiền định ba la mật” - Có thể nói - Tâm Từ đã viên mãn! - Chưa cần xét trí tuệ ba la mật đạt đến đâu!
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Có một thứ: Muôn ngàn vô lượng chư chúng sinh ta đều đang ở trong vô minh. Vậy cũng làm sao mà một tia sáng trí tuệ ba la mật loé lên? - giống thắp đèn minh (ở phía trước luận)?
Cái gọi là minh và trí tuệ ba la mật trong nghĩa thể tánh là như nhau, nhưng về hình tượng thì đang được chúng ta coi là 2 (về mặt ngôn từ) hoặc là 1 (về mặt ngữ hàm nghĩa ngoại diên cuối).
Cách hiểu thế nào thì khi QUÁN, Chư chúng sinh ta phải thấy: Trí tuệ ba la mật là một phương tiện cụ thể hơn (dù phương tiện này là tên chung của vô lượng tiện khác) - giống như từ “ô tô” và “thương hiệu ô tô”. Phương tiện cụ thể này là đại diện cho bản tánh chân như gì?
- Như ở phía trước đã nêu rõ: “Bố thí” mà ai ai ở thế gian cũng dùng cũng hiểu dù là người trong Đạo Đức Thế Tôn hay ngoại Đạo - khác hoàn toàn về thể tánh với cái gọi là “bố thí ba la mật”. Ma Ba Tuần - dù có sức mạnh vô biên đến đâu, Đạo Đức Thế Tôn cũng là thứ chân như thường hằng, không bị suyển suy dù ở trong thế giới điên đảo vô thường này.
THẤY ĐƯỢC: Bố thí ba la mật là gì - là thấy rõ Đạo Đức Thế Tôn - Minh và rõ ràng: Nương theo phương tiện bố thí ba la mật này: Thắp đèn, tự ánh đèn, minh đã thấy rõ hơn, hợp căn tánh hơn.
Đang có (có cái gì cũng được) thì vẫn ba la mật được. Không có (không thấy có cái gì) vẫn ba la mật được. Dù là Bồ Tát (có pháp Phật) hay không là Bồ Tát (giả Pháp Phật)..v..v ai ai cũng bố thí ba la mật được khi nắm rõ ba la mật.
Nhớ, (trạch pháp thứ 0): BIẾN MÃN KHẮP CHÚNG SINH
- Dù một người có là “thần thông” đến đâu, tài giỏi đến đâu, nói đạo lý về “bố thí” về “cứu độ” có hay đến đâu và “công đức ở thế” có dày thế nào mà: Không bố thí được cho bản thân, cho cha mẹ, cho con cái, cho người thân.v.v. - tránh khỏi những đau khổ do “hành động bố thí” hay “ thực hành Bồ Tát Đạo” - ĐÂY KHÔNG PHẢI LÀ BỐ THÍ BA LA MẬT. Mãi mãi nằm ngoài ĐẠO ĐỨC THẾ TÔN. - Dù có được thế gian tôn danh hay ước nguyện lớn thế nào thì đây cũng chỉ là phục vụ phước thế gian của người hành - không thể đi đến giải thoát vì đâu có vào Đạo Đức Thế Tôn. Ngoại Đạo họ cũng vẫn hàng giây hàng phút Bố Thí mà. Họ còn thiện lành chán!
Vậy, cần nhớ: BIẾN MÃN KHẮP MƯỜI PHƯƠNG CHÚNG SINH LÀ VẬY. Tu thẳng Tâm Bi mà lại là khởi đầu từ TẦM TỪ. Bố thí mà để cho bản thân, cha mẹ, vợ con, người thân hay ai đó khổ (thọ cái lo lắng, không được an lạc phước thì… sao gọi là ba la mật là vậy.
Cái gọi là minh và trí tuệ ba la mật trong nghĩa thể tánh là như nhau, nhưng về hình tượng thì đang được chúng ta coi là 2 (về mặt ngôn từ) hoặc là 1 (về mặt ngữ hàm nghĩa ngoại diên cuối).
Cách hiểu thế nào thì khi QUÁN, Chư chúng sinh ta phải thấy: Trí tuệ ba la mật là một phương tiện cụ thể hơn (dù phương tiện này là tên chung của vô lượng tiện khác) - giống như từ “ô tô” và “thương hiệu ô tô”. Phương tiện cụ thể này là đại diện cho bản tánh chân như gì?
- Như ở phía trước đã nêu rõ: “Bố thí” mà ai ai ở thế gian cũng dùng cũng hiểu dù là người trong Đạo Đức Thế Tôn hay ngoại Đạo - khác hoàn toàn về thể tánh với cái gọi là “bố thí ba la mật”. Ma Ba Tuần - dù có sức mạnh vô biên đến đâu, Đạo Đức Thế Tôn cũng là thứ chân như thường hằng, không bị suyển suy dù ở trong thế giới điên đảo vô thường này.
THẤY ĐƯỢC: Bố thí ba la mật là gì - là thấy rõ Đạo Đức Thế Tôn - Minh và rõ ràng: Nương theo phương tiện bố thí ba la mật này: Thắp đèn, tự ánh đèn, minh đã thấy rõ hơn, hợp căn tánh hơn.
Đang có (có cái gì cũng được) thì vẫn ba la mật được. Không có (không thấy có cái gì) vẫn ba la mật được. Dù là Bồ Tát (có pháp Phật) hay không là Bồ Tát (giả Pháp Phật)..v..v ai ai cũng bố thí ba la mật được khi nắm rõ ba la mật.
Nhớ, (trạch pháp thứ 0): BIẾN MÃN KHẮP CHÚNG SINH
- Dù một người có là “thần thông” đến đâu, tài giỏi đến đâu, nói đạo lý về “bố thí” về “cứu độ” có hay đến đâu và “công đức ở thế” có dày thế nào mà: Không bố thí được cho bản thân, cho cha mẹ, cho con cái, cho người thân.v.v. - tránh khỏi những đau khổ do “hành động bố thí” hay “ thực hành Bồ Tát Đạo” - ĐÂY KHÔNG PHẢI LÀ BỐ THÍ BA LA MẬT. Mãi mãi nằm ngoài ĐẠO ĐỨC THẾ TÔN. - Dù có được thế gian tôn danh hay ước nguyện lớn thế nào thì đây cũng chỉ là phục vụ phước thế gian của người hành - không thể đi đến giải thoát vì đâu có vào Đạo Đức Thế Tôn. Ngoại Đạo họ cũng vẫn hàng giây hàng phút Bố Thí mà. Họ còn thiện lành chán!
Vậy, cần nhớ: BIẾN MÃN KHẮP MƯỜI PHƯƠNG CHÚNG SINH LÀ VẬY. Tu thẳng Tâm Bi mà lại là khởi đầu từ TẦM TỪ. Bố thí mà để cho bản thân, cha mẹ, vợ con, người thân hay ai đó khổ (thọ cái lo lắng, không được an lạc phước thì… sao gọi là ba la mật là vậy.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(95 tiếp)
Sau khi đã “thực tập” theo “đại cương về 6 nan hoa” của đường Bồ Tát Thừa. - Cái này là để “lây duyên” thôi. Còn Đạo thì Chư chúng sinh ta nghe/đọc Kinh:
(Trích - Hoa Nghiêm Kinh, quyển 21, HT Thích Trí Tịnh Việt dịch)
“… Những gì là hạnh của Bồ-Tát?
Thưa chư Phật-tử! Đại Bồ-Tát có mười hạnh sau đây, mà tam-thế chư Phật đều tuyên nói:
Một là Hoan-hỷ-hạnh; hai là Nhiêu-ích-hạnh; ba là Vô-vi-nghịch hạnh, bốn là Vô-khuất-nhiễu-hạnh; năm là Vô-si-loạn-hạnh; sáu là Thiện-hiện-hạnh; bảy là Vô-trước-hạnh; tám là Nan-đắc-hạnh; chín là Thiện-pháp-hạnh; mười là Chơn-thiệt-hạnh.
Thế nào là Bồ-Tát hoan-hỷ-hạnh?
Bồ-Tát này làm đại-thí-chủ, phàm có vật gì đều bố-thí được cả, lòng bình-đẳng không hề hối tiếc, chẳng trông quả báo, chẳng cầu tiếng tăm, chẳng tham lợi-tức, chỉ vì cứu-hộ tất cả chúng-sanh, vì nhiếp-thọ chúng-sanh, vì lợi-ích chúng-sanh, vì học tập bổn-hạnh của chư Phật, vì nhớ đến bổn-hạnh của chư Phật, vì thích mến bổn-hạnh của chư Phật, vì thanh-tịnh bổn-hạnh của chư Phật, vì tăng-trưởng bổn-hạnh của chư Phật, vì trụ-trì bổn-hạnh của chư Phật, vì hiển-hiện bổn-hạnh của chư Phật, vì diễn thuyết bổn-hạnh của chư Phật, vì khiến chúng-sanh thoát khổ được vui.
Lúc đại Bồ-Tát tu hạnh này, khiến tất cả chúng-sanh hoan-hỷ mến thích.
Chốn nào, cõi nào nghèo thiếu, Bồ-Tát dùng nguyện-lực sanh nơi đó, làm nhà hào quý giàu có vô-tận; Giả-sử trong mỗi niệm có vô-lượng chúng-sanh đến chỗ Bồ-Tát, vì đói khát mà xin thịt nơi thân Bồ-Tát để ăn, Bồ-Tát liền móc thịt nơi thân mình để dưng cho họ, khiến lòng họ thỏa mãn vui mừng, không hề khiếp sợ từ chối, chỉ càng tăng-trưởng tâm từ-bình-đẳng. Vì thế nên chúng-sanh đều đến để xin cầu. Bồ-Tát thấy họ đến xin, lòng thêm hoan-hỷ, vì nghĩ rằng tôi được lợi lớn, các chúng-sanh này là phước-điền của tôi, là thiện-hữu của tôi. Tôi chẳng cầu chẳng thỉnh mà họ đến dạy tôi vào trong phật-pháp. Tôi phải tu học thật-hành như vậy không để trái ý chúng-sanh.
Bồ-Tát lại nghĩ rằng: Nguyện những căn lành mà tôi đã, sẽ, hay đương thật hành làm cho tôi thọ thân hình to lớn trong tất cả thế-giới để được đem thịt nơi thân cung cấp cho tất cả chúng-sanh bị đói khổ, thịt còn mãi cắt lấy vô-tận, nhẫn đến còn một chúng-sanh nhỏ chưa no đủ thời tôi nguyện không xả mạng. Do thiện-căn này nguyện được vô-thượng bồ-đề, chứng đại-niết-bàn. Nguyện cho những chúng-sanh đã ăn thịt tôi, cũng đều được vô-thượng bồ-đề, được trí bình-đẳng, đủ những phật-pháp, rộng làm phật-sự, nhẫn đến nhập vô-dư niết-bàn.
Nếu còn một chúng-sanh lòng chưa thỏa-mãn, tôi trọn chẳng chứng vô-thượng bồ-đề. Bồ-Tát lợi-ích chúng-sanh như vậy mà không ngã-tưởng, chúng-sanh-tưởng, hữu-tưởng, mạng-tưởng, các thứ tưởng, bổ-đặc-già-la-tưởng, nhơn-tưởng, ma-nạp-bà-tưởng, tác-giả-tưởng, thọ-giả-tưởng. Chỉ quán pháp-giới chúng-sanh-giới vô-biên-tế, quán không-pháp, vô-sở-hữu pháp, vô-tướng-pháp, vô-thể-pháp, vô-xứ-pháp, vô-y-pháp, vô-tác-pháp.
Lúc quán như vậy, chẳng thấy tự thân, chẳng thấy vật-bố-thí, chẳng thấy người thọ, chẳng thấy phước-điền, chẳng thấy nghiệp, chẳng thấy báo, chẳng thấy quả, chẳng thấy đại-quả, chẳng thấy tiểu-quả.
Lúc bấy giờ Bồ-Tát quán thân của tất cả tam-thế chúng-sanh đều liền hoại-diệt, mà nghĩ rằng: Lạ thay cho chúng-sanh ngu-si, vô-trí, ở trong sanh tử, thọ vô-số thân mỏng manh chẳng tạm dừng, mau về nơi hoại diệt, hoặc đã, hoặc hiện, hoặc sẽ hoại-diệt, mà họ chẳng thể đem thân chẳng bền để cầu thân kiên-cố.
Tôi phải học tập những điều mà chư Phật đã học tập, để được chứng nhứt-thiết-trí, biết nhứt-thiết-pháp, rồi vì chúng-sanh diễn thuyết tam-thế bình-đẳng tùy thuận pháp-tánh tịch-tịnh bất-hoại, khiến họ được vĩnh-viễn an-ổn khoái-lạc.
Đây gọi là Bồ-Tát Hoan-Hỷ-Hạnh thứ nhứt…“
Rõ ràng phương pháp tu hành, thực tập khác hoàn toàn so với chư chúng sinh ta thường hiểu, đang hiểu, sẽ hiểu.
- Đây chẳng lẽ không phải là pháp Quán vô thường vô ngã? - Một sự thực tập Quán được chỉ ra rất chi tiết cụ thể để Quán ra vô thường vô ngã của vạn pháp và “bản thân”, đồng thời cùng một lúc tạo ra, phát triển TÂM TỪ?
- Đọc Kinh cũng rõ: Đâu có phải là Chư thí thủ sẽ “tái sinh luân hồi” ở một kiếp hay các kiếp sau để tu hạnh Bồ Tát đầu tiên này.
Sau khi đã “thực tập” theo “đại cương về 6 nan hoa” của đường Bồ Tát Thừa. - Cái này là để “lây duyên” thôi. Còn Đạo thì Chư chúng sinh ta nghe/đọc Kinh:
(Trích - Hoa Nghiêm Kinh, quyển 21, HT Thích Trí Tịnh Việt dịch)
“… Những gì là hạnh của Bồ-Tát?
Thưa chư Phật-tử! Đại Bồ-Tát có mười hạnh sau đây, mà tam-thế chư Phật đều tuyên nói:
Một là Hoan-hỷ-hạnh; hai là Nhiêu-ích-hạnh; ba là Vô-vi-nghịch hạnh, bốn là Vô-khuất-nhiễu-hạnh; năm là Vô-si-loạn-hạnh; sáu là Thiện-hiện-hạnh; bảy là Vô-trước-hạnh; tám là Nan-đắc-hạnh; chín là Thiện-pháp-hạnh; mười là Chơn-thiệt-hạnh.
Thế nào là Bồ-Tát hoan-hỷ-hạnh?
Bồ-Tát này làm đại-thí-chủ, phàm có vật gì đều bố-thí được cả, lòng bình-đẳng không hề hối tiếc, chẳng trông quả báo, chẳng cầu tiếng tăm, chẳng tham lợi-tức, chỉ vì cứu-hộ tất cả chúng-sanh, vì nhiếp-thọ chúng-sanh, vì lợi-ích chúng-sanh, vì học tập bổn-hạnh của chư Phật, vì nhớ đến bổn-hạnh của chư Phật, vì thích mến bổn-hạnh của chư Phật, vì thanh-tịnh bổn-hạnh của chư Phật, vì tăng-trưởng bổn-hạnh của chư Phật, vì trụ-trì bổn-hạnh của chư Phật, vì hiển-hiện bổn-hạnh của chư Phật, vì diễn thuyết bổn-hạnh của chư Phật, vì khiến chúng-sanh thoát khổ được vui.
Lúc đại Bồ-Tát tu hạnh này, khiến tất cả chúng-sanh hoan-hỷ mến thích.
Chốn nào, cõi nào nghèo thiếu, Bồ-Tát dùng nguyện-lực sanh nơi đó, làm nhà hào quý giàu có vô-tận; Giả-sử trong mỗi niệm có vô-lượng chúng-sanh đến chỗ Bồ-Tát, vì đói khát mà xin thịt nơi thân Bồ-Tát để ăn, Bồ-Tát liền móc thịt nơi thân mình để dưng cho họ, khiến lòng họ thỏa mãn vui mừng, không hề khiếp sợ từ chối, chỉ càng tăng-trưởng tâm từ-bình-đẳng. Vì thế nên chúng-sanh đều đến để xin cầu. Bồ-Tát thấy họ đến xin, lòng thêm hoan-hỷ, vì nghĩ rằng tôi được lợi lớn, các chúng-sanh này là phước-điền của tôi, là thiện-hữu của tôi. Tôi chẳng cầu chẳng thỉnh mà họ đến dạy tôi vào trong phật-pháp. Tôi phải tu học thật-hành như vậy không để trái ý chúng-sanh.
Bồ-Tát lại nghĩ rằng: Nguyện những căn lành mà tôi đã, sẽ, hay đương thật hành làm cho tôi thọ thân hình to lớn trong tất cả thế-giới để được đem thịt nơi thân cung cấp cho tất cả chúng-sanh bị đói khổ, thịt còn mãi cắt lấy vô-tận, nhẫn đến còn một chúng-sanh nhỏ chưa no đủ thời tôi nguyện không xả mạng. Do thiện-căn này nguyện được vô-thượng bồ-đề, chứng đại-niết-bàn. Nguyện cho những chúng-sanh đã ăn thịt tôi, cũng đều được vô-thượng bồ-đề, được trí bình-đẳng, đủ những phật-pháp, rộng làm phật-sự, nhẫn đến nhập vô-dư niết-bàn.
Nếu còn một chúng-sanh lòng chưa thỏa-mãn, tôi trọn chẳng chứng vô-thượng bồ-đề. Bồ-Tát lợi-ích chúng-sanh như vậy mà không ngã-tưởng, chúng-sanh-tưởng, hữu-tưởng, mạng-tưởng, các thứ tưởng, bổ-đặc-già-la-tưởng, nhơn-tưởng, ma-nạp-bà-tưởng, tác-giả-tưởng, thọ-giả-tưởng. Chỉ quán pháp-giới chúng-sanh-giới vô-biên-tế, quán không-pháp, vô-sở-hữu pháp, vô-tướng-pháp, vô-thể-pháp, vô-xứ-pháp, vô-y-pháp, vô-tác-pháp.
Lúc quán như vậy, chẳng thấy tự thân, chẳng thấy vật-bố-thí, chẳng thấy người thọ, chẳng thấy phước-điền, chẳng thấy nghiệp, chẳng thấy báo, chẳng thấy quả, chẳng thấy đại-quả, chẳng thấy tiểu-quả.
Lúc bấy giờ Bồ-Tát quán thân của tất cả tam-thế chúng-sanh đều liền hoại-diệt, mà nghĩ rằng: Lạ thay cho chúng-sanh ngu-si, vô-trí, ở trong sanh tử, thọ vô-số thân mỏng manh chẳng tạm dừng, mau về nơi hoại diệt, hoặc đã, hoặc hiện, hoặc sẽ hoại-diệt, mà họ chẳng thể đem thân chẳng bền để cầu thân kiên-cố.
Tôi phải học tập những điều mà chư Phật đã học tập, để được chứng nhứt-thiết-trí, biết nhứt-thiết-pháp, rồi vì chúng-sanh diễn thuyết tam-thế bình-đẳng tùy thuận pháp-tánh tịch-tịnh bất-hoại, khiến họ được vĩnh-viễn an-ổn khoái-lạc.
Đây gọi là Bồ-Tát Hoan-Hỷ-Hạnh thứ nhứt…“
Rõ ràng phương pháp tu hành, thực tập khác hoàn toàn so với chư chúng sinh ta thường hiểu, đang hiểu, sẽ hiểu.
- Đây chẳng lẽ không phải là pháp Quán vô thường vô ngã? - Một sự thực tập Quán được chỉ ra rất chi tiết cụ thể để Quán ra vô thường vô ngã của vạn pháp và “bản thân”, đồng thời cùng một lúc tạo ra, phát triển TÂM TỪ?
- Đọc Kinh cũng rõ: Đâu có phải là Chư thí thủ sẽ “tái sinh luân hồi” ở một kiếp hay các kiếp sau để tu hạnh Bồ Tát đầu tiên này.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Đọc Kinh Pháp, mới một đoạn trích Kinh thôi, cũng đã thấy: Thì ra, tu Bồ Tát khác với tu Bồ Tát mà ai ai cũng vẫn đang hiểu.
Chuyện Bố Thí, cứu giúp, cho đi .v.v. (Kiểu vô lượng vô biên như câu từ trong Kinh Pháp hay được hiểu, giảng giải) - thì ra chỉ là “cái ngón tay chỉ”.
Còn Pháp Để thực hành điều trên là “cái mặt trăng được chỉ”. - Không ngoài Pháp Quán
Tuy nhiên, với nhiều người, có đọc đi đọc lại đoạn trích Kinh trên cũng vẫn chỉ thấy Kinh Pháp nói: Bồ Tát là phải cho đi vô lượng vô biên vật và hiến dâng cả mạng sống và cứu độ vô lượng chúng sinh..v..v - Chưa nói đến đọc hết Quyển Kinh này hay hệ Giới Kinh Đại Thừa. Mà Kinh Đại Thừa thường được gọi là Kinh Liễu Nghĩa - Thế mới kỳ… đọc vào lại hầu như không thấy liễu. Nhưng nó liễu nghĩa thật - Thế mới gọi là các phương tiện dùng để trang nghiêm Tâm Phật hay các phương pháp cụ thể chi tiết rõ ràng để tu tập các pháp được nhắc đến ở trong Giới Kinh.
Chuyện Bố Thí, cứu giúp, cho đi .v.v. (Kiểu vô lượng vô biên như câu từ trong Kinh Pháp hay được hiểu, giảng giải) - thì ra chỉ là “cái ngón tay chỉ”.
Còn Pháp Để thực hành điều trên là “cái mặt trăng được chỉ”. - Không ngoài Pháp Quán
Tuy nhiên, với nhiều người, có đọc đi đọc lại đoạn trích Kinh trên cũng vẫn chỉ thấy Kinh Pháp nói: Bồ Tát là phải cho đi vô lượng vô biên vật và hiến dâng cả mạng sống và cứu độ vô lượng chúng sinh..v..v - Chưa nói đến đọc hết Quyển Kinh này hay hệ Giới Kinh Đại Thừa. Mà Kinh Đại Thừa thường được gọi là Kinh Liễu Nghĩa - Thế mới kỳ… đọc vào lại hầu như không thấy liễu. Nhưng nó liễu nghĩa thật - Thế mới gọi là các phương tiện dùng để trang nghiêm Tâm Phật hay các phương pháp cụ thể chi tiết rõ ràng để tu tập các pháp được nhắc đến ở trong Giới Kinh.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(95 tiếp)
(Trích Đại Thừa Hoa Nghiêm Kinh -quyển 21 - (tiếp))
“… Chư Phật-tử ! Những gì là Bồ-Tát Nhiêu-Ích-Hạnh?
Bồ-Tát này hộ-trì tịnh-giới, lòng không nhiễm trước sắc thinh hương vị xúc. Cũng đem sự vô-trước ấy nói với chúng-sanh, chẳng cầu oai-thế, chẳng cầu chủng-tộc, chẳng cầu giàu có, chẳng cầu sắc-tướng, chẳng cầu ngôi vua, tất cả đều không nhiễm trước. Chỉ bền giữ tịnh-giới. Tự nghĩ: Tôi trì tịnh-giới, quyết sẽ bỏ lìa tất cả triền phược, tham cầu, nhiệt não các nạn bức ngặt, hủy báng loạn trược, mà được chánh-pháp bình-đẳng của Phật khen ngợi.
Lúc Bồ-Tát trì tịnh-giới như vậy, trong một ngày, giả-sử có vô-số đại ác-ma đem vô-số thiên-nữ tuyệt đẹp trang-sức lộng lẫy vũ nhạc đờn cát-tường đến muốn làm mê loạn đạo-tâm của Bồ-Tát này.
Bồ-Tát này liền suy nghĩ rằng: Cảnh ngũ-dục này là thứ chướng đạo, nhẫn đến chướng vô-thượng bồ-đề. Do đây nên Bồ-Tát chẳng có một niệm dục-tưởng, lòng thanh-tịnh như Phật.
Chỉ trừ phương-tiện giáo-hóa chúng-sanh, nhưng vẫn không rời tâm nhứt-thiết-trí.
Bồ-Tát không vì nhơn-duyên ngũ-dục mà làm não hại một chúng-sanh, thà bỏ thân mạng chớ trọn không làm sự não chúng-sanh.
Bồ-Tát từ khi được thấy Phật đến nay, chưa từng có một niệm dục-tưởng, huống là làm theo.
Bồ-Tát thường nghĩ: Các chúng-sanh mãi tưởng nhớ ngũ-dục, xu hướng ngũ-dục, tham trước ngũ-dục, lòng họ quyết phải say mê chìm đắm, rồi theo đó mà lưu-chuyển không được tự-tại.
Nay tôi phải nên khiến bọn ma này cùng các thiên-nữ trụ nơi tịnh-giới, không thối-chuyển nơi nhứt-thiết-trí, được vô-thượng bồ-đề nhẫn đến vào vô-dư-niết-bàn. Vì đây là việc mà tôi phải thật hành.
Tôi phải học tập theo Phật, phải rời bỏ ác-hạnh, chấp-ngã, si-mê. Dùng trí-huệ vào tất cả phật-pháp. Giảng thuyết cho chúng-sanh khiến họ trừ điên-đảo. Nhưng biết không ngoài chúng-sanh có điên-đảo, không ngoài điên-đảo có chúng-sanh, chẳng ở trong điên-đảo có chúng-sanh, chẳng ở trong chúng-sanh có điên-đảo. Cũng chẳng phải điên-đảo là chúng-sanh, chẳng phải chúng-sanh là điên-đảo. Điên-đảo chẳng phải nội- pháp ngoại-pháp, chúng-sanh cũng chẳng phải nội-pháp ngoại-pháp. Tất cả các pháp đều hư-vọng chẳng thiệt, chóng sanh chóng diệt không kiên-cố như mộng, như huyễn, như bóng, như vang, nói dối phỉnh kẻ ngu.
Hiểu được như vậy liền giác-ngộ được tất cả hành-pháp, thông đạt sanh tử và niết-bàn, chứng Phật bồ-đề, tự được độ và khiến người được độ, tự giải-thoát và khiến người giải-thoát, tự điều-phục và khiến người điều-phục, được tịch-tịnh và khiến người tịch-tịnh, tự an-ổn và khiến người an-ổn, tự ly-cấu và khiến người ly-cấu, tự thanh-tịnh và khiến người thanh-tịnh, tự niết-bàn và khiến người niết-bàn, tự khoái-lạc và khiến người khoái-lạc.
Bồ-Tát này lại tự nghĩ rằng: Tôi phải tùy thuận tất cả Như-Lai, rời tất cả hành-vi thế-gian, trọn nên tất cả phật-pháp, trụ nơi vô-thượng bình-đẳng, xem chúng-sanh bình-đẳng, rõ suốt cảnh-giới lìa lỗi, dứt phân biệt, bỏ chấp-trước, khéo xuất-ly, tâm luôn an-trụ nơi thậm-thâm trí-huệ vô-thượng vô-thuyết vô-y vô-độc vô-lượng vô-biên vô-tận vô-sắc.
Đây gọi là Bồ-Tát Nhiêu-Ích-Hạnh thứ hai.
Những gì là Bồ-Tát Vô-Vi-Nghịch-Hạnh?
Bồ-Tát này thường tu nhẫn pháp: Khiêm hạ cung-kính, chẳng tự hại, chẳng hại người, chẳng hại mình người, chẳng tự thủ-trước, chẳng thủ-trước người, chẳng thủ-trước cả hai, cũng chẳng tham cầu danh tiếng lợi lộc.
Chỉ nghĩ rằng: Tôi phải luôn thuyết-pháp cho chúng-sanh, khiến họ lìa tất cả sự ác, dứt phiền-não, khiến họ luôn nhẫn-nhục nhu hòa.
Bồ-Tát thành-tựu nhẫn-pháp như vậy, giả-sử có vô-số chúng-sanh ác, đến chỗ Bồ-Tát, đem vô-số lời ác mắng nhiếc trêu chọc nguyền rủa, đồng thời cầm dao gậy đập chém trải qua vô-số kiếp không thôi.
Bồ-Tát bị sự bức khổ vô cùng này, sắp phải chết, tự nghĩ rằng: Tôi nhơn sự khổ nhục này, nếu lòng động loạn thời là tự chẳng điều-phục, tự chẳng giữ-gìn, tự chẳng sáng suốt, tự chẳng tu-tập, tự chẳng chánh-định, tự chẳng tịch-tịnh, tự chẳng ái-tích, tự sanh chấp-trước, thời đâu có thể làm cho người khác lòng được thanh-tịnh.
Lúc đó Bồ-Tát lại nghĩ: Tôi từ vô-thỉ kiếp trụ nơi sanh-tử chịu nhiều khổ não.
Suy nghĩ như vậy rồi càng tự khích lệ thêm, khiến lòng thanh-tịnh mà được vui mừng, khéo tự điều-nhiếp, tự có thể tự an-trụ nơi trong phật-pháp, cũng khiến chúng-sanh đồng được pháp này.
Lại suy nghĩ: thân này không tịch, không ngã, ngã-sở, không thiệt, tánh trống rỗng không hai, đều không có hoặc khổ hoặc vui, vì tất cả pháp đều trống không vậy. Tôi phải hiểu rõ để nói rộng cho người, khiến các chúng-sanh diệt trừ kiến-chấp này. Vì thế nên dầu nay tôi bị khổ nhục, tôi phải nhẫn thọ, vì thương xót chúng-sanh, vì lợi-ích chúng-sanh, vì an vui chúng-sanh, vì nhiếp-thọ chúng-sanh, vì chẳng bỏ chúng-sanh, vì để tự giác-ngộ và khiến người giác-ngộ, vì lòng không thối-chuyển xu-hướng phật-đạo.
Đây là Bồ-Tát Vô-Vi-Nghịch-Hạnh thứ ba…”
(Trích Đại Thừa Hoa Nghiêm Kinh -quyển 21 - (tiếp))
“… Chư Phật-tử ! Những gì là Bồ-Tát Nhiêu-Ích-Hạnh?
Bồ-Tát này hộ-trì tịnh-giới, lòng không nhiễm trước sắc thinh hương vị xúc. Cũng đem sự vô-trước ấy nói với chúng-sanh, chẳng cầu oai-thế, chẳng cầu chủng-tộc, chẳng cầu giàu có, chẳng cầu sắc-tướng, chẳng cầu ngôi vua, tất cả đều không nhiễm trước. Chỉ bền giữ tịnh-giới. Tự nghĩ: Tôi trì tịnh-giới, quyết sẽ bỏ lìa tất cả triền phược, tham cầu, nhiệt não các nạn bức ngặt, hủy báng loạn trược, mà được chánh-pháp bình-đẳng của Phật khen ngợi.
Lúc Bồ-Tát trì tịnh-giới như vậy, trong một ngày, giả-sử có vô-số đại ác-ma đem vô-số thiên-nữ tuyệt đẹp trang-sức lộng lẫy vũ nhạc đờn cát-tường đến muốn làm mê loạn đạo-tâm của Bồ-Tát này.
Bồ-Tát này liền suy nghĩ rằng: Cảnh ngũ-dục này là thứ chướng đạo, nhẫn đến chướng vô-thượng bồ-đề. Do đây nên Bồ-Tát chẳng có một niệm dục-tưởng, lòng thanh-tịnh như Phật.
Chỉ trừ phương-tiện giáo-hóa chúng-sanh, nhưng vẫn không rời tâm nhứt-thiết-trí.
Bồ-Tát không vì nhơn-duyên ngũ-dục mà làm não hại một chúng-sanh, thà bỏ thân mạng chớ trọn không làm sự não chúng-sanh.
Bồ-Tát từ khi được thấy Phật đến nay, chưa từng có một niệm dục-tưởng, huống là làm theo.
Bồ-Tát thường nghĩ: Các chúng-sanh mãi tưởng nhớ ngũ-dục, xu hướng ngũ-dục, tham trước ngũ-dục, lòng họ quyết phải say mê chìm đắm, rồi theo đó mà lưu-chuyển không được tự-tại.
Nay tôi phải nên khiến bọn ma này cùng các thiên-nữ trụ nơi tịnh-giới, không thối-chuyển nơi nhứt-thiết-trí, được vô-thượng bồ-đề nhẫn đến vào vô-dư-niết-bàn. Vì đây là việc mà tôi phải thật hành.
Tôi phải học tập theo Phật, phải rời bỏ ác-hạnh, chấp-ngã, si-mê. Dùng trí-huệ vào tất cả phật-pháp. Giảng thuyết cho chúng-sanh khiến họ trừ điên-đảo. Nhưng biết không ngoài chúng-sanh có điên-đảo, không ngoài điên-đảo có chúng-sanh, chẳng ở trong điên-đảo có chúng-sanh, chẳng ở trong chúng-sanh có điên-đảo. Cũng chẳng phải điên-đảo là chúng-sanh, chẳng phải chúng-sanh là điên-đảo. Điên-đảo chẳng phải nội- pháp ngoại-pháp, chúng-sanh cũng chẳng phải nội-pháp ngoại-pháp. Tất cả các pháp đều hư-vọng chẳng thiệt, chóng sanh chóng diệt không kiên-cố như mộng, như huyễn, như bóng, như vang, nói dối phỉnh kẻ ngu.
Hiểu được như vậy liền giác-ngộ được tất cả hành-pháp, thông đạt sanh tử và niết-bàn, chứng Phật bồ-đề, tự được độ và khiến người được độ, tự giải-thoát và khiến người giải-thoát, tự điều-phục và khiến người điều-phục, được tịch-tịnh và khiến người tịch-tịnh, tự an-ổn và khiến người an-ổn, tự ly-cấu và khiến người ly-cấu, tự thanh-tịnh và khiến người thanh-tịnh, tự niết-bàn và khiến người niết-bàn, tự khoái-lạc và khiến người khoái-lạc.
Bồ-Tát này lại tự nghĩ rằng: Tôi phải tùy thuận tất cả Như-Lai, rời tất cả hành-vi thế-gian, trọn nên tất cả phật-pháp, trụ nơi vô-thượng bình-đẳng, xem chúng-sanh bình-đẳng, rõ suốt cảnh-giới lìa lỗi, dứt phân biệt, bỏ chấp-trước, khéo xuất-ly, tâm luôn an-trụ nơi thậm-thâm trí-huệ vô-thượng vô-thuyết vô-y vô-độc vô-lượng vô-biên vô-tận vô-sắc.
Đây gọi là Bồ-Tát Nhiêu-Ích-Hạnh thứ hai.
Những gì là Bồ-Tát Vô-Vi-Nghịch-Hạnh?
Bồ-Tát này thường tu nhẫn pháp: Khiêm hạ cung-kính, chẳng tự hại, chẳng hại người, chẳng hại mình người, chẳng tự thủ-trước, chẳng thủ-trước người, chẳng thủ-trước cả hai, cũng chẳng tham cầu danh tiếng lợi lộc.
Chỉ nghĩ rằng: Tôi phải luôn thuyết-pháp cho chúng-sanh, khiến họ lìa tất cả sự ác, dứt phiền-não, khiến họ luôn nhẫn-nhục nhu hòa.
Bồ-Tát thành-tựu nhẫn-pháp như vậy, giả-sử có vô-số chúng-sanh ác, đến chỗ Bồ-Tát, đem vô-số lời ác mắng nhiếc trêu chọc nguyền rủa, đồng thời cầm dao gậy đập chém trải qua vô-số kiếp không thôi.
Bồ-Tát bị sự bức khổ vô cùng này, sắp phải chết, tự nghĩ rằng: Tôi nhơn sự khổ nhục này, nếu lòng động loạn thời là tự chẳng điều-phục, tự chẳng giữ-gìn, tự chẳng sáng suốt, tự chẳng tu-tập, tự chẳng chánh-định, tự chẳng tịch-tịnh, tự chẳng ái-tích, tự sanh chấp-trước, thời đâu có thể làm cho người khác lòng được thanh-tịnh.
Lúc đó Bồ-Tát lại nghĩ: Tôi từ vô-thỉ kiếp trụ nơi sanh-tử chịu nhiều khổ não.
Suy nghĩ như vậy rồi càng tự khích lệ thêm, khiến lòng thanh-tịnh mà được vui mừng, khéo tự điều-nhiếp, tự có thể tự an-trụ nơi trong phật-pháp, cũng khiến chúng-sanh đồng được pháp này.
Lại suy nghĩ: thân này không tịch, không ngã, ngã-sở, không thiệt, tánh trống rỗng không hai, đều không có hoặc khổ hoặc vui, vì tất cả pháp đều trống không vậy. Tôi phải hiểu rõ để nói rộng cho người, khiến các chúng-sanh diệt trừ kiến-chấp này. Vì thế nên dầu nay tôi bị khổ nhục, tôi phải nhẫn thọ, vì thương xót chúng-sanh, vì lợi-ích chúng-sanh, vì an vui chúng-sanh, vì nhiếp-thọ chúng-sanh, vì chẳng bỏ chúng-sanh, vì để tự giác-ngộ và khiến người giác-ngộ, vì lòng không thối-chuyển xu-hướng phật-đạo.
Đây là Bồ-Tát Vô-Vi-Nghịch-Hạnh thứ ba…”
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Như vậy, tương ứng với ba hạnh của Bồ Tát - đều đi (tu) thực hành/thực tập để vào bằng Pháp Quán. Người thực hành Bồ Tát Đạo phải Quán như vậy, và nhiều hơn như vậy (vì còn rất nhiều Kinh pháp diễn nghĩa cụ thể chi tiết hơn).
Ba hạnh đầu này, đọc cũng rõ thấy nó tương với 3 nan hoa: Bố thí ba la mật, trì giới ba la mật, nhẫn nhục ba la mật.
Khi tham nghiên hết 7 hạnh còn lại, chư chúng sinh ta đều thấy: Vậy là cả một hệ thống Giới Kinh không hề rời rạc hay độc lập - nó là một hệ thống xuyên suốt mà không thể nói rằng: Phần này không cần hay phần kia là thừa.v.v - Dù giới thiệu vô số phương tiện cho mọi căn tánh bằng đủ các ngôn từ và hình thức khác nhau thì: Hệ thống giới Kinh vẫn đi từ thấp đến cao và dần dần tập hợp tất cả vào 1 con đường duy nhất ở phía sau này.
Rõ ràng, hệ thống giới Kinh đi theo 1 trục chính, từ thấp đến cao và không bỏ sót một phương diện căn tánh hay chúng sinh nào.
Từ Thanh văn đến Duyên giác đến Tình giác (Bồ Tát hay Bồ Đề Tát Đoả chính là giác ngộ chữ tình hay Tình giác (theo Hán ngữ từ duyên giác, tình giác)
Tuy nhiên, nói là tình giác hay giác tình, nhiều người sẽ lộn xộn vì thấy mới lạ quá. Tu Phật mà lại nói đi “giác tình với tình giác” - có vẻ ma? - Nhưng chính là vậy. Chắc chắn rồi, thể tánh ngữ nghĩa của chữ tình này khác với chữ tình yêu hay tình bạn hay tình tình gì đó ở thế giới chúng ta. Chữ tình này là ngữ tướng của chữ Từ Bi mà chúng ta đang đi tìm.
Thanh văn: Cái văn/trí được nghe (pháp được nghe)
Duyên Giác: Tức là từ đây Giác Ngộ hay Bồ Đề: Sợi dây nhân duyên quả.
Bồ Tát (Bồ đề Tát đoả - Giác tình): Tức là từ đây Giác Ngộ hay Bồ Đề: Về cái tình trong cái gọi là hữu tình hay Giác Ngộ Từ Bi.
Như vậy, vong tình có tu được ra vô thượng Bồ Đề không? - Chẳng bao giờ!
Nên bài học sẽ là: Cứ thế trầm luân mà học. Học khi nào giác ngộ điều cần giác ngộ thì thôi!
Chữ tình nó bao la hùng vĩ, đâu có phải chỉ gói gọn ở chữ tình yêu nam nữ trai gái. Nên chữ tình cũng đâu phải chỉ ở nghĩa hạn hẹp là tham ái, thích thú, tham trước.
Giác chữ tình - dù tên là Hữu tình nhưng điều này không phải để hữu duyên sanh (trong mắt xích nhân duyên). Giác cái này là để chặt đứt vòng luân hồi duyên quả nhưng không phải là “vong” theo nghĩa bỏ - đoạn đứt tuyệt mặc kệ “thế giới và chúng sinh”.
Về mặt lý: Đều là chặt hết, nhưng về mặt sự thì người tu không quan tâm đến Bồ Tát (Giác Tình) sẽ chỉ đạp vào đến sự thanh tịnh Quả A La Hán là hết đường, ở đây, rõ ràng: Vô thượng trí tuệ hay trí tuệ xuất thế gian mới là cái rốt ráo thù thắng cuối cùng ở thế gian này.
Không gì ngoài Quán Pháp - mọi tông thừa, mọi phương tiện, mọi thứ đều ở trong 1 thứ mà người thực hành Phật giờ đây đã thấy rõ: QUÁN PHÁP
Không Quán không thể thấy gì.
Vậy, Quán là gì, Pháp Quán là gì? - Lần nhắc lại thứ 3 chỉ ở trong chính tập luận này:
- Có pháp môn thường được nhắc - Như Mật Tông: - Được nhắc rằng có thể vào định luôn khi thấy. Trực chỉ thẳng bản Tâm, chỉ cần thấy cơ. Một câu, 1 từ mà vào được thiền cơ là thấy luôn - giống như kiểu được truyền tâm ấn… “mặt trăng luôn” - Làm gì có chuyện này?
Một vị “đệ tử” khả năng nghĩ về 1 công án, 1 câu, 1 từ, 1 ngữ… nhiều chục năm. Người có căn tánh trí tuệ thật cao mới có khả năng từ đây đột phá vào thiền cơ để “thấy”. - Thời gian này, cũng không phải là dùng pháp Quán sao? - Không Quán nên mới nghe xong công án - như bò nghe sấm, nước đổ đầu vịt là vậy. Dù chúng ta tự biết, chúng ta có Quán hết sức - khả năng cũng chẳng thấy cơ mà vào. Tuy nhiên, để vào được, cũng không thể không qua QUÁN.
Vậy Quán là gì?
- QUÁN chính là: Trí huệ, là Bồ Đề, là Giác, là thấy, là trí tuệ ba la mật, là minh, là quang, là vô lượng quang. Quán mới xua tan vô minh, quán mới lật ngược điên đảo, quán mới đả phá được vọng tưởng.
Nên ban đầu: Quán rõ ràng ở trong thế giới này nên nó cũng là vọng tưởng, là điên đảo, bởi thế gọi là Quán tưởng. Hiểu 1 cách nôm na thì lúc này quán giống như: Suy nghĩ, tư duy, suy tưởng, lập luận, logic…
Sau đó: Lực Quán tăng lên, Quán đã trở thành Quán Thấy, đã có những tia minh đầu tiên, nên quán lúc này đã không thuần tuý là tư duy, suy nghĩ, tìm tòi, tầm tứ các thứ được gọi là “chân lý, chân như” ở thế giới vọng tưởng này như Quán giai đoạn đầu nữa. Quán này đã ở chỗ: Quán thấy gì thì thấy vậy, không còn bị phân biệt nữa. Tuy nhiên, quán lúc này vẫn chưa đi đến cuối.
Vô lượng Quán viên mãn là thứ cuối cùng cũng là thứ không dùng 1 niệm gì nữa. Đến niệm Quán cũng không còn. Đây là tối thắng trí, trí tuệ xuất thế gian, trí huệ ba la mật..v.v.
Như vậy, Quán và Định không rời nhau. Chúng ta có định - tuệ không thể thiếu - vì nó là thứ tổ hợp lên cái “xuất thế gian” kia. Quán là dùng Tuệ để tu. Vậy dùng định để tu là gì? - Chính là TUỲ PHÁP.
CHƯ CHÚNG SINH TA hướng đến thứ gọi là “định - tuệ” - thứ này chỉ có khi ở trong GIỚI PHẬT - Chứ không thể ở trong giới Chúa, giới Tiên, giới Thần, giới ngoại Đạo mà có được. Vậy thì đã không gọi là Đạo Phật. Vì ở trong Giới nên mới có khả năng tu ra định tuệ.
Bây giờ, phải tu tu tu vô lượng kiếp mới có được định, tuệ, mới có được quả gì đó hay chỉ cần: Tu tập, tu tập trong Giới Phật là đã dần dần có được những tia định, tia tuệ, rồi những chút chút định tuệ đó sẽ dần dần lớn lên theo thời gian tu và đến cuối cùng là viên mãn?
Rõ ràng: Khi tu tập đúng Giới Phật thì định tuệ đã bắt đầu sinh ra. Nhưng người tu vẫn phải tiếp tục tu tập rất lâu dài thì cái định tuệ này mới viên mãn được. Không tu là thối lui do vẫn đang ở thế giới - sẽ tạo nghiệp.
Vấn đề ở đây, đang được nói đến là: Khi tu tập được 1 thời gian rồi thì cái định tuệ nếu sinh ra đó: CÓ NHIỆM MÀU GÌ KHÔNG, DÙNG ĐƯỢC KHÔNG, DÙNG THẾ NÀO?
Rõ ràng, nó phải có nhiệm màu, phải có diệu dụng, phải có công năng để phụ trợ, hỗ trợ người tu (phước) chứ.
Cái công năng diệu dụng này chính là: Tuệ dùng để Quán. Định dùng để Tuỳ.
Nếu tu bao nhiêu lâu, bằng đủ các mọi phương tiện dù là đọc Kinh nhớ Pháp, tham nghiên luận hay ngày ngày đêm đêm thực hành thiền định hay giờ giờ phút phút nguyện tâm Bồ Tát Đạo mà: Không thấy Quán Pháp tiến triển, không thấy Tuỳ pháp có thể dùng càng ngày càng thuần thục thì: định và tuệ không hề sinh ra: Như vậy, người tu dậm chân tại chỗ!
2 thứ Quán Tuỳ - Định Tuệ này luôn đi cùng với nhau và cái nọ bổ trợ cái kia làm trau dồi nhau. Một cái là lý, 1 cái là sự. Một cái sở năng, một cái là tánh năng. Không rời nhau được. Không có cái này, không có cái kia. Đã thấy có cái này thì phải thấy dùng được cái kia. Đã thấy dùng được cái kia thì cái này đã thấy.
Quán và Tuệ là tánh và diệu dụng của nó.
Tuỳ và Định là tánh và diệu dụng của nó.
Tuệ đã có mà không diệu dụng được (dùng để Quán) thì đây không phải là tánh. Lầm tưởng.
Định đã có mà không diệu dụng được (dùng để Tuỳ) thì đây không phải là tánh. Lầm tưởng.
Bởi thế, gọi là nhiệm màu, diệu dụng là vậy, là vì: Không thấy không dùng được. Không dùng được nhưng lại cứ ảo tưởng là thấy, ví dụ:
+ Đọc nhớ hết mọi kinh sử pháp thế gian trong ngoài Đạo - cho rằng đã có trí tuệ giải thoát hay đã huệ hay đã minh. Cái gì gì cũng thông suốt, biết tuốt. Nhưng đưa vào Quán được bao nhiêu thì mới thấy cái tuệ tánh thì ra mới chỉ có trở về được vậy.
+ Tu thực hành theo đủ các pháp thiền định. Khả năng cấp bậc rất cao - cho rằng đã chứng định rốt ráo thù thắng của Đạo Đức Thế Tôn. Có khi còn hiện được hết thần thông nọ, diệu kì kia. Nhưng, đưa vào thế gian TUỲ được bao nhiêu mới thấy được cái tánh thì ra mới trở về có được ngần vậy.
Đây là CHỨNG VÀ TRÚ!
Ba hạnh đầu này, đọc cũng rõ thấy nó tương với 3 nan hoa: Bố thí ba la mật, trì giới ba la mật, nhẫn nhục ba la mật.
Khi tham nghiên hết 7 hạnh còn lại, chư chúng sinh ta đều thấy: Vậy là cả một hệ thống Giới Kinh không hề rời rạc hay độc lập - nó là một hệ thống xuyên suốt mà không thể nói rằng: Phần này không cần hay phần kia là thừa.v.v - Dù giới thiệu vô số phương tiện cho mọi căn tánh bằng đủ các ngôn từ và hình thức khác nhau thì: Hệ thống giới Kinh vẫn đi từ thấp đến cao và dần dần tập hợp tất cả vào 1 con đường duy nhất ở phía sau này.
Rõ ràng, hệ thống giới Kinh đi theo 1 trục chính, từ thấp đến cao và không bỏ sót một phương diện căn tánh hay chúng sinh nào.
Từ Thanh văn đến Duyên giác đến Tình giác (Bồ Tát hay Bồ Đề Tát Đoả chính là giác ngộ chữ tình hay Tình giác (theo Hán ngữ từ duyên giác, tình giác)
Tuy nhiên, nói là tình giác hay giác tình, nhiều người sẽ lộn xộn vì thấy mới lạ quá. Tu Phật mà lại nói đi “giác tình với tình giác” - có vẻ ma? - Nhưng chính là vậy. Chắc chắn rồi, thể tánh ngữ nghĩa của chữ tình này khác với chữ tình yêu hay tình bạn hay tình tình gì đó ở thế giới chúng ta. Chữ tình này là ngữ tướng của chữ Từ Bi mà chúng ta đang đi tìm.
Thanh văn: Cái văn/trí được nghe (pháp được nghe)
Duyên Giác: Tức là từ đây Giác Ngộ hay Bồ Đề: Sợi dây nhân duyên quả.
Bồ Tát (Bồ đề Tát đoả - Giác tình): Tức là từ đây Giác Ngộ hay Bồ Đề: Về cái tình trong cái gọi là hữu tình hay Giác Ngộ Từ Bi.
Như vậy, vong tình có tu được ra vô thượng Bồ Đề không? - Chẳng bao giờ!
Nên bài học sẽ là: Cứ thế trầm luân mà học. Học khi nào giác ngộ điều cần giác ngộ thì thôi!
Chữ tình nó bao la hùng vĩ, đâu có phải chỉ gói gọn ở chữ tình yêu nam nữ trai gái. Nên chữ tình cũng đâu phải chỉ ở nghĩa hạn hẹp là tham ái, thích thú, tham trước.
Giác chữ tình - dù tên là Hữu tình nhưng điều này không phải để hữu duyên sanh (trong mắt xích nhân duyên). Giác cái này là để chặt đứt vòng luân hồi duyên quả nhưng không phải là “vong” theo nghĩa bỏ - đoạn đứt tuyệt mặc kệ “thế giới và chúng sinh”.
Về mặt lý: Đều là chặt hết, nhưng về mặt sự thì người tu không quan tâm đến Bồ Tát (Giác Tình) sẽ chỉ đạp vào đến sự thanh tịnh Quả A La Hán là hết đường, ở đây, rõ ràng: Vô thượng trí tuệ hay trí tuệ xuất thế gian mới là cái rốt ráo thù thắng cuối cùng ở thế gian này.
Không gì ngoài Quán Pháp - mọi tông thừa, mọi phương tiện, mọi thứ đều ở trong 1 thứ mà người thực hành Phật giờ đây đã thấy rõ: QUÁN PHÁP
Không Quán không thể thấy gì.
Vậy, Quán là gì, Pháp Quán là gì? - Lần nhắc lại thứ 3 chỉ ở trong chính tập luận này:
- Có pháp môn thường được nhắc - Như Mật Tông: - Được nhắc rằng có thể vào định luôn khi thấy. Trực chỉ thẳng bản Tâm, chỉ cần thấy cơ. Một câu, 1 từ mà vào được thiền cơ là thấy luôn - giống như kiểu được truyền tâm ấn… “mặt trăng luôn” - Làm gì có chuyện này?
Một vị “đệ tử” khả năng nghĩ về 1 công án, 1 câu, 1 từ, 1 ngữ… nhiều chục năm. Người có căn tánh trí tuệ thật cao mới có khả năng từ đây đột phá vào thiền cơ để “thấy”. - Thời gian này, cũng không phải là dùng pháp Quán sao? - Không Quán nên mới nghe xong công án - như bò nghe sấm, nước đổ đầu vịt là vậy. Dù chúng ta tự biết, chúng ta có Quán hết sức - khả năng cũng chẳng thấy cơ mà vào. Tuy nhiên, để vào được, cũng không thể không qua QUÁN.
Vậy Quán là gì?
- QUÁN chính là: Trí huệ, là Bồ Đề, là Giác, là thấy, là trí tuệ ba la mật, là minh, là quang, là vô lượng quang. Quán mới xua tan vô minh, quán mới lật ngược điên đảo, quán mới đả phá được vọng tưởng.
Nên ban đầu: Quán rõ ràng ở trong thế giới này nên nó cũng là vọng tưởng, là điên đảo, bởi thế gọi là Quán tưởng. Hiểu 1 cách nôm na thì lúc này quán giống như: Suy nghĩ, tư duy, suy tưởng, lập luận, logic…
Sau đó: Lực Quán tăng lên, Quán đã trở thành Quán Thấy, đã có những tia minh đầu tiên, nên quán lúc này đã không thuần tuý là tư duy, suy nghĩ, tìm tòi, tầm tứ các thứ được gọi là “chân lý, chân như” ở thế giới vọng tưởng này như Quán giai đoạn đầu nữa. Quán này đã ở chỗ: Quán thấy gì thì thấy vậy, không còn bị phân biệt nữa. Tuy nhiên, quán lúc này vẫn chưa đi đến cuối.
Vô lượng Quán viên mãn là thứ cuối cùng cũng là thứ không dùng 1 niệm gì nữa. Đến niệm Quán cũng không còn. Đây là tối thắng trí, trí tuệ xuất thế gian, trí huệ ba la mật..v.v.
Như vậy, Quán và Định không rời nhau. Chúng ta có định - tuệ không thể thiếu - vì nó là thứ tổ hợp lên cái “xuất thế gian” kia. Quán là dùng Tuệ để tu. Vậy dùng định để tu là gì? - Chính là TUỲ PHÁP.
CHƯ CHÚNG SINH TA hướng đến thứ gọi là “định - tuệ” - thứ này chỉ có khi ở trong GIỚI PHẬT - Chứ không thể ở trong giới Chúa, giới Tiên, giới Thần, giới ngoại Đạo mà có được. Vậy thì đã không gọi là Đạo Phật. Vì ở trong Giới nên mới có khả năng tu ra định tuệ.
Bây giờ, phải tu tu tu vô lượng kiếp mới có được định, tuệ, mới có được quả gì đó hay chỉ cần: Tu tập, tu tập trong Giới Phật là đã dần dần có được những tia định, tia tuệ, rồi những chút chút định tuệ đó sẽ dần dần lớn lên theo thời gian tu và đến cuối cùng là viên mãn?
Rõ ràng: Khi tu tập đúng Giới Phật thì định tuệ đã bắt đầu sinh ra. Nhưng người tu vẫn phải tiếp tục tu tập rất lâu dài thì cái định tuệ này mới viên mãn được. Không tu là thối lui do vẫn đang ở thế giới - sẽ tạo nghiệp.
Vấn đề ở đây, đang được nói đến là: Khi tu tập được 1 thời gian rồi thì cái định tuệ nếu sinh ra đó: CÓ NHIỆM MÀU GÌ KHÔNG, DÙNG ĐƯỢC KHÔNG, DÙNG THẾ NÀO?
Rõ ràng, nó phải có nhiệm màu, phải có diệu dụng, phải có công năng để phụ trợ, hỗ trợ người tu (phước) chứ.
Cái công năng diệu dụng này chính là: Tuệ dùng để Quán. Định dùng để Tuỳ.
Nếu tu bao nhiêu lâu, bằng đủ các mọi phương tiện dù là đọc Kinh nhớ Pháp, tham nghiên luận hay ngày ngày đêm đêm thực hành thiền định hay giờ giờ phút phút nguyện tâm Bồ Tát Đạo mà: Không thấy Quán Pháp tiến triển, không thấy Tuỳ pháp có thể dùng càng ngày càng thuần thục thì: định và tuệ không hề sinh ra: Như vậy, người tu dậm chân tại chỗ!
2 thứ Quán Tuỳ - Định Tuệ này luôn đi cùng với nhau và cái nọ bổ trợ cái kia làm trau dồi nhau. Một cái là lý, 1 cái là sự. Một cái sở năng, một cái là tánh năng. Không rời nhau được. Không có cái này, không có cái kia. Đã thấy có cái này thì phải thấy dùng được cái kia. Đã thấy dùng được cái kia thì cái này đã thấy.
Quán và Tuệ là tánh và diệu dụng của nó.
Tuỳ và Định là tánh và diệu dụng của nó.
Tuệ đã có mà không diệu dụng được (dùng để Quán) thì đây không phải là tánh. Lầm tưởng.
Định đã có mà không diệu dụng được (dùng để Tuỳ) thì đây không phải là tánh. Lầm tưởng.
Bởi thế, gọi là nhiệm màu, diệu dụng là vậy, là vì: Không thấy không dùng được. Không dùng được nhưng lại cứ ảo tưởng là thấy, ví dụ:
+ Đọc nhớ hết mọi kinh sử pháp thế gian trong ngoài Đạo - cho rằng đã có trí tuệ giải thoát hay đã huệ hay đã minh. Cái gì gì cũng thông suốt, biết tuốt. Nhưng đưa vào Quán được bao nhiêu thì mới thấy cái tuệ tánh thì ra mới chỉ có trở về được vậy.
+ Tu thực hành theo đủ các pháp thiền định. Khả năng cấp bậc rất cao - cho rằng đã chứng định rốt ráo thù thắng của Đạo Đức Thế Tôn. Có khi còn hiện được hết thần thông nọ, diệu kì kia. Nhưng, đưa vào thế gian TUỲ được bao nhiêu mới thấy được cái tánh thì ra mới trở về có được ngần vậy.
Đây là CHỨNG VÀ TRÚ!
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Như vậy, người thực hành theo Bồ Tát Đạo, việc đầu tiên là phải Quán thấy: Bố Thí Ba La Mật là gì, - Chứng, trú vào trong đó… mới có những thứ tiếp theo. Còn không thấy thì khác gì ngoại Đạo. Người thiện lương - thế gian này không thiếu, ngoại Đạo rất nhiều.
Như ở phía trước đã nói, một người có đủ phước đức căn cơ - sinh ra ở hiện thế đã sớm được “nương theo Phật” - xuất gia chẳng hạn - rõ ràng khác với người “thí chủ” - tóc đầy đầu như chư chúng sinh ta. Không thể dùng những phương tiện giống nhau và càng không thể khởi hành như nhau. - Dù thứ đó là giống nhau, không phân chia, không thiên vị, không ưu tiên ưu ái hay khinh trọng bên nào. Căn tánh nào, căn cơ nào cũng được thừa hưởng cái này như nhau - vấn đề là phải phù hợp. Đúng căn cơ, đúng thời, đúng vị.
Ví dụ: Chúng sinh ta đang trôi nổi ở đời với muôn ngàn dính mắc - không thể nào tu thiền định niệm hơi thở mà vào Đạo được - Chẳng bao giờ gặp “Bồ Tát thật” nào truyền cho cái pháp này cả. Kể cả các Chư Tôn xuất gia cũng sẽ tự biết rất rõ: Điều này là không đi đến đâu.
Nhưng để có được Duyên Giác cấp rồi Bồ Tát cấp - thứ đầu tiên là phải vào được cái cửa kia để BẤT THỐI.
Tất nhiên, cấp bất thối vẫn có thể đạt được bởi nhiều phương tiện khác nhau được trình bày trong giới Kinh nhưng ai cũng biết, không qua cửa định kia, không thể nào vào được. Dù định có vô lượng định nhưng không nắm được cơ thì khi luân hồi chắc chắn lại quay lại từ đầu. Đã biết thế này mà cứ xông vào - khác gì thiêu thân xông lửa.
Trong khi, hệ thống giới Kinh đại thừa lại mô tả những phương tiện hữu hiệu, rõ ràng, chi tiết, cụ thể để một người dù chỉ là tập thực hành theo, nương theo và không thể nào cầm nắm được cơ trong hiện đời thì sau khi luân hồi, kiếp sau sẽ vẫn được thừa hưởng những sự tu tập nương theo từ những kiếp trước mà huân tập, trồng nên cây Nhân Duyên Phật, để ở 1 kiếp vị lai hoặc ngay ở tương lai sẽ bước vào nhân duyên “xuất gia” để tu chứng cái hạnh bất thối.
Cũng như, việc đã bước vào cửa Đạo với rất nhiều nhiệm màu việc ở đời nương theo, thực tập theo đúng như Bồ Tát Đạo - kết quả hiện đời và vị lai: Phải thù thắng hơn - vì dù sao mọi phước nghiệp này đều là điên đảo, không thật có nên việc trở thành ông nọ bà kia, đại thí chủ nọ kia.v.v. Nó rất dễ, dù người nương theo không đặt tham cầu, mục đích nông cạn thấp kém này.
Cái chính là thắp đèn hay ở đây gọi là ba la mật
Dù có hàng trăm ngàn phương tiện ba la mật đều sẽ đưa đến những kết quả thù thắng hiện đời, phước báu hiện đời nhưng tựu chung lại, vẫn là những nét cơ bản được thoả mãn:
1/ Biến mãn khắp chúng sinh.
2/ Còn ba mẹ thì phải “bố thí” được đến mức làm sao “tuỳ pháp” như thường - tức là lúc nào ba mẹ cũng phải an vui về mình. Ba mẹ muốn gì ở mình là mình phải “bố thí” được để ba mẹ được cái an vui.
3/ Còn vợ/chồng con thì cũng phải làm được đến mức như 2/
4/ Người thân, người quen, người thương… và chúng sinh cũng dần phải được như 3/
5/ Bản thân khi “bố thí” được như trên thì cũng phải cảm thấy “hỉ lạc” - là cái cảm giác “hỉ lạc” giống như được mô tả ở sơ thiền Đạo Đức Thế Tôn. Không phải sự dục lạc, dục hỉ.
6/ Không thể nào dùng PHÁP NÓI mà “bố thí” được ra kết quả như trên.
Cái số 6/ rất nhiệm màu và nó là cái điểm mấu chốt mà chỉ người thực/thật tu mới thấy rõ.
Chư chúng sinh ta càng dùng Pháp nói - dù nói hay, nói đúng, nói logic, nói với lòng tốt, nói hợp lý hợp tình thế nào, nói ít hay nói nhiều: Hiệu quả gần như là sẽ chệch đường.
Như vậy, cái số 6/ đã không có tác dụng với 5 cái đổ về trước thì nó sẽ càng không có tác dụng gì đối với việc chỉ thực hành cho cái 4/ hay thực hành nói cho vô lượng chúng sinh. Ví dụ: Tập luận này hay bất cứ cái gì khác của mọi chúng sinh cũng thế, nó sẽ không có tác dụng BA LA MẬT.
Vì sao? - Vì Pháp nói chỉ có cấp cảnh Bồ Tát trở lên như Chư Bồ Tát hay Chư Phật. Các cấp này, lại trọng yếu dùng phương tiện này, và pháp các Chư Tôn Đức này nói lại chỉ là Pháp Phật độ Duyên.
Chư chúng sinh ta, khi THẬT thực hành nương theo Bồ Tát Đạo thì cần phải rất tỉnh thức ở chỗ này: Pháp nói là pháp đem lại ít thù thắng kết quả nhất vì vị trí xuất phát của chúng ta.
Chư chúng sinh ta dùng pháp nói - dù chỉ là vài câu, một câu mà có thể khiến 1/ 2/ 3/4/ 5/ - cảm thấy “khổ đau” - không “hỉ lạc” dù chỉ là vài câu, 1 câu.
Pháp nói không nên được dùng dù nó có mang hàm ý Đạo Lý và chân lý hay đến đâu chăng nữa thì 5 đối tượng thọ dụng trên đều có khả năng không hoan hỷ, vui lạc vì tất cả bao gồm cả người thực tập đều đang ở thế giới điên đảo, vọng tưởng. Đã vậy, càng sa đà vào pháp này, càng tạo nên 1 mớ gọi là “quan điểm ta tôi” và “tranh luận” từ đây và phước chưa thấy, lại chỉ thấy nghiệp…
Pháp nào nên được áp dụng: PHÁP TUỲ. Ai mà thực hành được pháp này, thì dù “bố thí” cái không gì cũng là “đại bố thí” công đức cho những đối tượng thọ hưởng đó. Thực hành được càng nhiều thì càng thấy kết quả rốt ráo hiện đời. - Lại càng thấy định- tuệ tăng lên, lại càng ngày càng chìm đắm “hỉ lạc” vào trong pháp tuỳ pháp quán, càng thấy phước đức, nhiệm màu hiện đời.
Sở nguyện là biến mãn khắp chúng sinh nhưng để được vậy thì phải đi từ tâm (hay từ bản thân) biến tới được cái gần nhất là con, cha mẹ, vợ/chồng rồi đến người thân, người quen rồi đến xa hơn rồi đến khắp xã hội loài người, đến khắp chúng sinh hữu tình, đến khắp chúng sinh 10 phương.
Không thể nào có chuyên ba la mật sẽ đạt được khi mà: Bỏ qua ba mẹ con chồng vợ, người ngay ở bên không đoái hoài nhưng lại muốn giúp toàn thế giới chúng sinh được an lạc và hết khổ được. Đây là sự “bịt tai trộm chuông”. Mang cái gọi là ngoại Đạo như “vị công diệt tư” để lấp liếm cho hành động thực hành trái ba la mật.
Cũng như vậy, không thể nào vì sự lợi lạc của 1 hay 1 nhóm đối tượng nào đó như vì sự lợi lạc của bản thân, gia đình, người thân..v.v. Mà ảnh hưởng tới chúng sinh khác. Phải nhớ cái 1/ là xếp đầu tiên.
Nếu làm khổ người để cho 1 người khác hỉ lạc hết khổ thì cũng không khác gì uống nước biển thay nước.
Như vậy, thực hành ra ba la mật không hề dễ. Cái “trí ba la mật” xuất hiện được để có được cái “bố thí ba la mật” đúng nghĩa là một quá trình thực tập “bố thí” -như người bình thường ở đời + Quán Pháp rốt ráo. Sẽ thấy!. Và cũng lúc đó mới thấy tuỳ pháp dù được mô tả giải thích thật ít ở đây nhưng lại mang ý nghĩa phục vụ việc hành như thế nào.
Khi đã có được “bố thí ba la mật” thì chắc chắn cái tia minh “trí tuệ ba la mật” đã loé. Việc tinh tấn tu tập ở đời không khó.
Phương tiện nào cũng thế, có được tia minh, phía sau rất dễ.
Tuy nhiên, cái gì cũng cần thời gian - thứ gọi là dùng để: TU/Thực hành. Ngược lại tất cả chỉ là pháp nói và trí hữu lậu.v..v
Như ở phía trước đã nói, một người có đủ phước đức căn cơ - sinh ra ở hiện thế đã sớm được “nương theo Phật” - xuất gia chẳng hạn - rõ ràng khác với người “thí chủ” - tóc đầy đầu như chư chúng sinh ta. Không thể dùng những phương tiện giống nhau và càng không thể khởi hành như nhau. - Dù thứ đó là giống nhau, không phân chia, không thiên vị, không ưu tiên ưu ái hay khinh trọng bên nào. Căn tánh nào, căn cơ nào cũng được thừa hưởng cái này như nhau - vấn đề là phải phù hợp. Đúng căn cơ, đúng thời, đúng vị.
Ví dụ: Chúng sinh ta đang trôi nổi ở đời với muôn ngàn dính mắc - không thể nào tu thiền định niệm hơi thở mà vào Đạo được - Chẳng bao giờ gặp “Bồ Tát thật” nào truyền cho cái pháp này cả. Kể cả các Chư Tôn xuất gia cũng sẽ tự biết rất rõ: Điều này là không đi đến đâu.
Nhưng để có được Duyên Giác cấp rồi Bồ Tát cấp - thứ đầu tiên là phải vào được cái cửa kia để BẤT THỐI.
Tất nhiên, cấp bất thối vẫn có thể đạt được bởi nhiều phương tiện khác nhau được trình bày trong giới Kinh nhưng ai cũng biết, không qua cửa định kia, không thể nào vào được. Dù định có vô lượng định nhưng không nắm được cơ thì khi luân hồi chắc chắn lại quay lại từ đầu. Đã biết thế này mà cứ xông vào - khác gì thiêu thân xông lửa.
Trong khi, hệ thống giới Kinh đại thừa lại mô tả những phương tiện hữu hiệu, rõ ràng, chi tiết, cụ thể để một người dù chỉ là tập thực hành theo, nương theo và không thể nào cầm nắm được cơ trong hiện đời thì sau khi luân hồi, kiếp sau sẽ vẫn được thừa hưởng những sự tu tập nương theo từ những kiếp trước mà huân tập, trồng nên cây Nhân Duyên Phật, để ở 1 kiếp vị lai hoặc ngay ở tương lai sẽ bước vào nhân duyên “xuất gia” để tu chứng cái hạnh bất thối.
Cũng như, việc đã bước vào cửa Đạo với rất nhiều nhiệm màu việc ở đời nương theo, thực tập theo đúng như Bồ Tát Đạo - kết quả hiện đời và vị lai: Phải thù thắng hơn - vì dù sao mọi phước nghiệp này đều là điên đảo, không thật có nên việc trở thành ông nọ bà kia, đại thí chủ nọ kia.v.v. Nó rất dễ, dù người nương theo không đặt tham cầu, mục đích nông cạn thấp kém này.
Cái chính là thắp đèn hay ở đây gọi là ba la mật
Dù có hàng trăm ngàn phương tiện ba la mật đều sẽ đưa đến những kết quả thù thắng hiện đời, phước báu hiện đời nhưng tựu chung lại, vẫn là những nét cơ bản được thoả mãn:
1/ Biến mãn khắp chúng sinh.
2/ Còn ba mẹ thì phải “bố thí” được đến mức làm sao “tuỳ pháp” như thường - tức là lúc nào ba mẹ cũng phải an vui về mình. Ba mẹ muốn gì ở mình là mình phải “bố thí” được để ba mẹ được cái an vui.
3/ Còn vợ/chồng con thì cũng phải làm được đến mức như 2/
4/ Người thân, người quen, người thương… và chúng sinh cũng dần phải được như 3/
5/ Bản thân khi “bố thí” được như trên thì cũng phải cảm thấy “hỉ lạc” - là cái cảm giác “hỉ lạc” giống như được mô tả ở sơ thiền Đạo Đức Thế Tôn. Không phải sự dục lạc, dục hỉ.
6/ Không thể nào dùng PHÁP NÓI mà “bố thí” được ra kết quả như trên.
Cái số 6/ rất nhiệm màu và nó là cái điểm mấu chốt mà chỉ người thực/thật tu mới thấy rõ.
Chư chúng sinh ta càng dùng Pháp nói - dù nói hay, nói đúng, nói logic, nói với lòng tốt, nói hợp lý hợp tình thế nào, nói ít hay nói nhiều: Hiệu quả gần như là sẽ chệch đường.
Như vậy, cái số 6/ đã không có tác dụng với 5 cái đổ về trước thì nó sẽ càng không có tác dụng gì đối với việc chỉ thực hành cho cái 4/ hay thực hành nói cho vô lượng chúng sinh. Ví dụ: Tập luận này hay bất cứ cái gì khác của mọi chúng sinh cũng thế, nó sẽ không có tác dụng BA LA MẬT.
Vì sao? - Vì Pháp nói chỉ có cấp cảnh Bồ Tát trở lên như Chư Bồ Tát hay Chư Phật. Các cấp này, lại trọng yếu dùng phương tiện này, và pháp các Chư Tôn Đức này nói lại chỉ là Pháp Phật độ Duyên.
Chư chúng sinh ta, khi THẬT thực hành nương theo Bồ Tát Đạo thì cần phải rất tỉnh thức ở chỗ này: Pháp nói là pháp đem lại ít thù thắng kết quả nhất vì vị trí xuất phát của chúng ta.
Chư chúng sinh ta dùng pháp nói - dù chỉ là vài câu, một câu mà có thể khiến 1/ 2/ 3/4/ 5/ - cảm thấy “khổ đau” - không “hỉ lạc” dù chỉ là vài câu, 1 câu.
Pháp nói không nên được dùng dù nó có mang hàm ý Đạo Lý và chân lý hay đến đâu chăng nữa thì 5 đối tượng thọ dụng trên đều có khả năng không hoan hỷ, vui lạc vì tất cả bao gồm cả người thực tập đều đang ở thế giới điên đảo, vọng tưởng. Đã vậy, càng sa đà vào pháp này, càng tạo nên 1 mớ gọi là “quan điểm ta tôi” và “tranh luận” từ đây và phước chưa thấy, lại chỉ thấy nghiệp…
Pháp nào nên được áp dụng: PHÁP TUỲ. Ai mà thực hành được pháp này, thì dù “bố thí” cái không gì cũng là “đại bố thí” công đức cho những đối tượng thọ hưởng đó. Thực hành được càng nhiều thì càng thấy kết quả rốt ráo hiện đời. - Lại càng thấy định- tuệ tăng lên, lại càng ngày càng chìm đắm “hỉ lạc” vào trong pháp tuỳ pháp quán, càng thấy phước đức, nhiệm màu hiện đời.
Sở nguyện là biến mãn khắp chúng sinh nhưng để được vậy thì phải đi từ tâm (hay từ bản thân) biến tới được cái gần nhất là con, cha mẹ, vợ/chồng rồi đến người thân, người quen rồi đến xa hơn rồi đến khắp xã hội loài người, đến khắp chúng sinh hữu tình, đến khắp chúng sinh 10 phương.
Không thể nào có chuyên ba la mật sẽ đạt được khi mà: Bỏ qua ba mẹ con chồng vợ, người ngay ở bên không đoái hoài nhưng lại muốn giúp toàn thế giới chúng sinh được an lạc và hết khổ được. Đây là sự “bịt tai trộm chuông”. Mang cái gọi là ngoại Đạo như “vị công diệt tư” để lấp liếm cho hành động thực hành trái ba la mật.
Cũng như vậy, không thể nào vì sự lợi lạc của 1 hay 1 nhóm đối tượng nào đó như vì sự lợi lạc của bản thân, gia đình, người thân..v.v. Mà ảnh hưởng tới chúng sinh khác. Phải nhớ cái 1/ là xếp đầu tiên.
Nếu làm khổ người để cho 1 người khác hỉ lạc hết khổ thì cũng không khác gì uống nước biển thay nước.
Như vậy, thực hành ra ba la mật không hề dễ. Cái “trí ba la mật” xuất hiện được để có được cái “bố thí ba la mật” đúng nghĩa là một quá trình thực tập “bố thí” -như người bình thường ở đời + Quán Pháp rốt ráo. Sẽ thấy!. Và cũng lúc đó mới thấy tuỳ pháp dù được mô tả giải thích thật ít ở đây nhưng lại mang ý nghĩa phục vụ việc hành như thế nào.
Khi đã có được “bố thí ba la mật” thì chắc chắn cái tia minh “trí tuệ ba la mật” đã loé. Việc tinh tấn tu tập ở đời không khó.
Phương tiện nào cũng thế, có được tia minh, phía sau rất dễ.
Tuy nhiên, cái gì cũng cần thời gian - thứ gọi là dùng để: TU/Thực hành. Ngược lại tất cả chỉ là pháp nói và trí hữu lậu.v..v
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(95 tiếp)
Như vậy, tác pháp thâm sâu, tuỳ pháp nhiệm màu.
Quán đến đây đã thấy cửa vào!
Dù đã đi qua những thiên rung địa chuyển. Chỉ đến khi này, mới thấy “ánh sáng nhiệm màu” chiếu rọi khắp 10 phương.
Tạ ơn đức thế gian này!
Như vậy, nếu không còn tông vị Chư Tôn Đức nào đến nữa, hoan hỉ cho chúng sinh tôi được “giải thoát” từ đây chứ thực là quán lực cũng tận rồi - vô lực tòng tâm nhiếp phục thế...
Năm nay, thời Phật Đản
Hội Pháp Hoa lại mở?
Ánh sáng vô lượng màu
Đã rọi khắp muôn phương
…
Lần này, ai được nghe, ai được dự, ai được thọ ký đây……
“Tưởng” thôi mà đã thấy “ngọt ngào”.
Chư chúng sinh tôi cũng đi đây, “tự ảo tưởng sức mạnh xem lần này có nghe được tiếng Pháp nào không”…
Kính chư chúng sinh!
Như vậy, tác pháp thâm sâu, tuỳ pháp nhiệm màu.
Quán đến đây đã thấy cửa vào!
Dù đã đi qua những thiên rung địa chuyển. Chỉ đến khi này, mới thấy “ánh sáng nhiệm màu” chiếu rọi khắp 10 phương.
Tạ ơn đức thế gian này!
Như vậy, nếu không còn tông vị Chư Tôn Đức nào đến nữa, hoan hỉ cho chúng sinh tôi được “giải thoát” từ đây chứ thực là quán lực cũng tận rồi - vô lực tòng tâm nhiếp phục thế...
Năm nay, thời Phật Đản
Hội Pháp Hoa lại mở?
Ánh sáng vô lượng màu
Đã rọi khắp muôn phương
…
Lần này, ai được nghe, ai được dự, ai được thọ ký đây……
“Tưởng” thôi mà đã thấy “ngọt ngào”.
Chư chúng sinh tôi cũng đi đây, “tự ảo tưởng sức mạnh xem lần này có nghe được tiếng Pháp nào không”…
Kính chư chúng sinh!