PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(Tiếp)
Đến đây chúng ta đã rõ: Nhân quả phước nghiệp mà hơn 26 thế kỷ trước Đức Thế Tôn nói là gì?
Như vậy, ngay tại giây phút hiện tại - dù xung quanh chúng ra là sự gì thì nhờ rắc rối lượng tử và con mèo lượng tử mà: Chắc chắn có những lượng tử thứ 2 và con mèo lượng tử thứ 2 ở: TƯƠNG LAI đã được xác lập trạng thái và chỉ đợi một lúc nó sẽ hiện ra ở quả cầu vector giây phút sắp đến cho chúng ta an trú vào.
Chúng ta phải nhớ: Quả cầu vector dù có vô lượng ảnh cho chúng ta chọn nhưng hoàn toàn tất cả mọi ảnh trong số chúng đều chứa trạng thái của lượng tử thứ 2 đã xác lập bởi quá khứ của chúng ta.
Chúng ta đã hiểu thêm 1 tý về lý thuyết đời này - được trước tác từ Đạo chưa? - Chúng ta trước tác lý thuyết này để phục vụ chúng ta tu Đạo, không phải để dành danh hay giải Nobel.v.v. Nên sẽ không nói những tính chất sự đời định lượng định tính không phục vụ Đạo. Dù chỉ nói những thứ phục vụ việc tu Đạo, nó cũng có nhiều thứ “hại đời”, làm người thèm khát nó.
Đây chính là nhân quả nghiệp báo. Và phương thức lưu trữ nhân quả nghiệp báo ở thế giới 4 chiều đồng nhất chân thực này - là vô lượng ảnh như số vi trần lấp đầy cả thế giới, không một chỗ nào không chứa ảnh.
Nên: Nhân quả nghiệp báo: Nặng nề lắm!
Đến đây chúng ta đã rõ: Nhân quả phước nghiệp mà hơn 26 thế kỷ trước Đức Thế Tôn nói là gì?
Như vậy, ngay tại giây phút hiện tại - dù xung quanh chúng ra là sự gì thì nhờ rắc rối lượng tử và con mèo lượng tử mà: Chắc chắn có những lượng tử thứ 2 và con mèo lượng tử thứ 2 ở: TƯƠNG LAI đã được xác lập trạng thái và chỉ đợi một lúc nó sẽ hiện ra ở quả cầu vector giây phút sắp đến cho chúng ta an trú vào.
Chúng ta phải nhớ: Quả cầu vector dù có vô lượng ảnh cho chúng ta chọn nhưng hoàn toàn tất cả mọi ảnh trong số chúng đều chứa trạng thái của lượng tử thứ 2 đã xác lập bởi quá khứ của chúng ta.
Chúng ta đã hiểu thêm 1 tý về lý thuyết đời này - được trước tác từ Đạo chưa? - Chúng ta trước tác lý thuyết này để phục vụ chúng ta tu Đạo, không phải để dành danh hay giải Nobel.v.v. Nên sẽ không nói những tính chất sự đời định lượng định tính không phục vụ Đạo. Dù chỉ nói những thứ phục vụ việc tu Đạo, nó cũng có nhiều thứ “hại đời”, làm người thèm khát nó.
Đây chính là nhân quả nghiệp báo. Và phương thức lưu trữ nhân quả nghiệp báo ở thế giới 4 chiều đồng nhất chân thực này - là vô lượng ảnh như số vi trần lấp đầy cả thế giới, không một chỗ nào không chứa ảnh.
Nên: Nhân quả nghiệp báo: Nặng nề lắm!
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Dù sao đây là 1 lý thuyết (pháp) mô tả về “Tam muội Phật thần thông” - dù dùng ngôn từ và cách diễn đạt ở thế giới này thế nào đi chăng nữa nó cũng giống thuyết tương đối của Anh Tanh. Hầu như không ai trên thế hiểu được cho đến khi dần dần có người chứng nghiệm thấy.
Thứ chúng ta đang nói đây cũng chỉ là 1 phần vắn lược của “thuyết này” phục vụ cho việc tu Đạo của chúng ta, có tác dụng cho chúng ta nên được giản ra trình vào đây. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu nó mới dùng được. Chỉ cần hiểu là dùng được. Trên đời này không còn một sự gì có thể làm khó người tu Đạo chúng ta nữa dù sự đã xảy ra, đang xảy ra, chưa xảy ra.
Trình pháp là 1 khía cạnh. Chúng ta hiểu được, dùng được là 1 khía cạnh. Tuy nhiên, nó sẽ không khó như tu hành pháp Đạo: “Quán Niệm hơi thở” chẳng hạn.
Nói về tu hành Đạo, đang vừa nhắc tới Quán niệm hơi thở thì chúng ta dùng luôn pháp này làm ví dụ (phía tới sẽ có nhiều ví dụ trong hệ thống Giới Kinh):
1: Khi tôi thở vào, tôi biết tôi thở vào. Khi tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra…
Hai hơi này chỉ để: Người tu Đạo chúng ta trở về với thực tại - giây phút hiện tại hay cái bức ảnh hiện tại, chúng ta trở về (chú tâm về, nhận thức về, ý thức về.v.v. - không rong ruổi đi đâu, bị quấn ở sự nào).
2/ Tôi đang thở vào và tôi có ý thức về toàn thân, thở ra (cũng vậy).
Đây là chúng ta lựa chọn ảnh cho giây phút tiếp theo của giây phút hiện tại (1/).
Nhờ việc “tác ý - pháp tác” mà quả cầu vector ảnh giây phút tiếp theo hiện ra cho chúng ta lựa chọn phải chứa “thông tin lượng tử” là: Tôi có ý thức về toàn thân - ở giây phút sắp đến tiếp theo - và ngay lập tức nó đến (vì cái gọi là thời gian luôn trôi mà).
3/ Tôi đang thở vào và tôi làm thân tôi an tịnh, thở ra (cũng vậy).
Đến đây thì Đạo Đức Thế Tôn bắt đầu “thần kỳ” rồi. Nhờ việc lựa chọn lượng tử hay chính là ảnh của giây phút tiếp theo mà bản thân muốn an trú vào mà đến đây, người tu bắt đầu chỉ tìm chọn ảnh có: Tôi làm thân tôi an tịnh ở giây phút theo làm giây phút hiện tại của người tu. Khi lượng tử ở 1/ được xác lập thực tại thì một lượng thứ 2 của 1/ được xác lập. Khi lượng tử ở 2/ xác lập thực tại thì một lượng tử thứ 2 của 2/ được xác lập… cứ như vậy 3/ và ..v..v…
4/ Tôi đang thở vào và làm thân tôi vui mừng…
5/…
…
Chúng ta đã thấy: Cả một quá trình lựa chọn ảnh đời theo một CON ĐƯỜNG ĐỊNH SẴN HƯỚNG - đường này là đường giải thoát mà Đức Thế Tôn đã chứng về tuyên giảng lại…
Đường này có đến đích giải thoát hay không thì đợi mỗi người tự chứng thấy nhưng chỉ cần nhìn vào Pháp và từng bước đi của Người mà chúng ta biết: Con Người vĩ đại, bất tư nghì, vô thượng trí của hơn 26 thế kỷ trước.
Nay chúng ta mới men mon tới cái rìa bằng khoa học (như đã biết và đã nói: Rắc rối lượng tử, bất định, vũ trụ ảo ảnh, vũ trụ không thời hấp dẫn, vũ trụ điện, vũ trụ bigbag lỗ đen lỗ trắng.v..vv. - Nhưng dù có gộp hết lại khoa học… tất cả đều chỉ đang dường như cố đi lại và thực nghiệm lại, quan sát lại… những lời Đức Thế Tôn đã nói.
Tất nhiên, mỗi thời mỗi khác. Thời Đức Thế Tôn dùng ngôn từ thế này để mô tả nội dung, bản chất, thời nay dùng ngôn từ khác để nêu thì mọi người mới hiểu. Nên sự khác nhau chỉ là ngôn từ. Giống như giờ nói gen x, gen z, chém gió v.v.v. - những ngôn từ này thời Đức Thế Tôn thì có khi đếm chưa nổi 2 bàn tay số người hiểu được những “vị thần tương lai” đang nói gì…
Thứ chúng ta đang nói đây cũng chỉ là 1 phần vắn lược của “thuyết này” phục vụ cho việc tu Đạo của chúng ta, có tác dụng cho chúng ta nên được giản ra trình vào đây. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu nó mới dùng được. Chỉ cần hiểu là dùng được. Trên đời này không còn một sự gì có thể làm khó người tu Đạo chúng ta nữa dù sự đã xảy ra, đang xảy ra, chưa xảy ra.
Trình pháp là 1 khía cạnh. Chúng ta hiểu được, dùng được là 1 khía cạnh. Tuy nhiên, nó sẽ không khó như tu hành pháp Đạo: “Quán Niệm hơi thở” chẳng hạn.
Nói về tu hành Đạo, đang vừa nhắc tới Quán niệm hơi thở thì chúng ta dùng luôn pháp này làm ví dụ (phía tới sẽ có nhiều ví dụ trong hệ thống Giới Kinh):
1: Khi tôi thở vào, tôi biết tôi thở vào. Khi tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra…
Hai hơi này chỉ để: Người tu Đạo chúng ta trở về với thực tại - giây phút hiện tại hay cái bức ảnh hiện tại, chúng ta trở về (chú tâm về, nhận thức về, ý thức về.v.v. - không rong ruổi đi đâu, bị quấn ở sự nào).
2/ Tôi đang thở vào và tôi có ý thức về toàn thân, thở ra (cũng vậy).
Đây là chúng ta lựa chọn ảnh cho giây phút tiếp theo của giây phút hiện tại (1/).
Nhờ việc “tác ý - pháp tác” mà quả cầu vector ảnh giây phút tiếp theo hiện ra cho chúng ta lựa chọn phải chứa “thông tin lượng tử” là: Tôi có ý thức về toàn thân - ở giây phút sắp đến tiếp theo - và ngay lập tức nó đến (vì cái gọi là thời gian luôn trôi mà).
3/ Tôi đang thở vào và tôi làm thân tôi an tịnh, thở ra (cũng vậy).
Đến đây thì Đạo Đức Thế Tôn bắt đầu “thần kỳ” rồi. Nhờ việc lựa chọn lượng tử hay chính là ảnh của giây phút tiếp theo mà bản thân muốn an trú vào mà đến đây, người tu bắt đầu chỉ tìm chọn ảnh có: Tôi làm thân tôi an tịnh ở giây phút theo làm giây phút hiện tại của người tu. Khi lượng tử ở 1/ được xác lập thực tại thì một lượng thứ 2 của 1/ được xác lập. Khi lượng tử ở 2/ xác lập thực tại thì một lượng tử thứ 2 của 2/ được xác lập… cứ như vậy 3/ và ..v..v…
4/ Tôi đang thở vào và làm thân tôi vui mừng…
5/…
…
Chúng ta đã thấy: Cả một quá trình lựa chọn ảnh đời theo một CON ĐƯỜNG ĐỊNH SẴN HƯỚNG - đường này là đường giải thoát mà Đức Thế Tôn đã chứng về tuyên giảng lại…
Đường này có đến đích giải thoát hay không thì đợi mỗi người tự chứng thấy nhưng chỉ cần nhìn vào Pháp và từng bước đi của Người mà chúng ta biết: Con Người vĩ đại, bất tư nghì, vô thượng trí của hơn 26 thế kỷ trước.
Nay chúng ta mới men mon tới cái rìa bằng khoa học (như đã biết và đã nói: Rắc rối lượng tử, bất định, vũ trụ ảo ảnh, vũ trụ không thời hấp dẫn, vũ trụ điện, vũ trụ bigbag lỗ đen lỗ trắng.v..vv. - Nhưng dù có gộp hết lại khoa học… tất cả đều chỉ đang dường như cố đi lại và thực nghiệm lại, quan sát lại… những lời Đức Thế Tôn đã nói.
Tất nhiên, mỗi thời mỗi khác. Thời Đức Thế Tôn dùng ngôn từ thế này để mô tả nội dung, bản chất, thời nay dùng ngôn từ khác để nêu thì mọi người mới hiểu. Nên sự khác nhau chỉ là ngôn từ. Giống như giờ nói gen x, gen z, chém gió v.v.v. - những ngôn từ này thời Đức Thế Tôn thì có khi đếm chưa nổi 2 bàn tay số người hiểu được những “vị thần tương lai” đang nói gì…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(Tiếp)
Thiền là Quán, quán là tư duy, suy xét, quan sát … (đối tượng)… từ đối tượng ở thế giới (đối tượng tưởng ảo, ảnh) gọi là quán tưởng tới đối tượng chân như thường hằng, thật, gọi là quán thấy.
Định là kết quả của thiền, hay là kết quả của quán.
Giới là cơ sở để có thể có định.
Giống như chúng ta có tiền. Chúng ta bắt buộc phải hành 1 hành gì đó thì chúng ta mới có cái xe, dù hành này là chỉ đạo người khác mua, giao nhiệm vụ..v.v. Như vậy, cái hành như ý chí, như 1 thứ nhất định phải có thì mới có được cái xe. Nhưng không có tiền thì cũng sẽ không có xe dù ý chí hành gì đi nữa (chỉ là tưởng ở trong đầu: Xe hiện ra, xe hiện ra…). Nên thiền là quán là cái phải có thì mới có cái định, nhưng không có giới thì định này chỉ có ở trên trời với sức mạnh ảo tưởng.
Đây là đơn giản về giới, thiền, quán, định, Đạo.
Thiền là Quán nên chúng ta gọi lấy Quán vào Đạo là vậy.
Rất rõ: Về mặt lý thuyết đang trình: Khi một người tu hành Đạo Đức Thế Tôn có thể thấy rõ hết thực tại hay nhìn rõ trạng thái thực tại của lượng tử số 1 tại giây phút thực tại hay nhìn thấy rõ trạng thái thực tại (chết, sống) của con mèo lượng tử trong hộp đen: Lúc này, người tu Đạo đã thấy rõ mọi thứ trong hộp đen.
Khi mọi thứ đều rõ như vậy: Chúng ta - bất kỳ ai có cần suy nghĩ gì về việc “lựa chọn bức ảnh nào” nữa không? - Bởi vì không cần suy nghĩ gì nữa nên… niệm suy nghĩ cũng không còn.
Khi chúng ta thấy hết vô lượng ảnh của thế giới này. Chúng ta đâu có cần quan tâm bất cứ thứ gì ở thế giới nữa, tương lai, quá khứ, hiện tại.
Nên người tu đạt định hiện tại an lạc trú.
Chúng ta phải quán sát, hay tu tập Quán là vậy. Chứ không phải tu tập định.
Bằng chứng: Bất kỳ 1 ai nếu đọc được theo realtime từ bài viết đầu tiên pic tới chỗ này đều tự chứng thấy: Bản thân có định lực lớn hơn so với trước đó. Cảm giác như bản thân vững chắc hơn dù sự ở đời chưa chắc đã ít hơn nhiều (vì chúng ta bây giờ mới tới chỗ này).
Vì sao lại thấy và đạt được cái định này? - Vì chúng ta Quán - tức là chúng ta bỏ công bỏ sức bỏ thời gian đọc tập luận này đấy. Chúng ta bỏ thời gian quán từ đầu tập luận đến giờ, nên chúng ta thấy và đạt định lực như vậy.
Còn cưỡi ngựa xem hoa - chúng ta sẽ không bao giờ đạt được cái gì.
Đó là do chúng ta đang tu hành Quán. Vì tu hành Quán nên chúng ta đã thấy và tưởng thấy và hành nhiều thứ khác và đó là kết quả... Nhưng bé tẹo thôi. Phía sau không dễ.
Khi đẩy trí quán lên tới tận cùng, mọi thứ minh tức là mọi lượng tử đều có thể được chúng ta quan sát (quán thấy) biết rất rõ trạng thái thực tại. Mọi vật lượng tử (như con mèo hộp đen) cũng như vậy - không còn thông bít, không còn mê mờ, không còn che lấp.v.v. - Chúng ta tự thấy rõ ràng chân như sự thật và không hề cần bàn cãi: chúng ta đã vào định Đạo.
Nên, chúng ta đã hiểu, từ đầu đến giờ đều cứ thấy nói phê phán chuyện tu định của bao nhiêu người … làm gì có. Định là kết quả của tu hành Quán.
Thiền là Quán, quán là tư duy, suy xét, quan sát … (đối tượng)… từ đối tượng ở thế giới (đối tượng tưởng ảo, ảnh) gọi là quán tưởng tới đối tượng chân như thường hằng, thật, gọi là quán thấy.
Định là kết quả của thiền, hay là kết quả của quán.
Giới là cơ sở để có thể có định.
Giống như chúng ta có tiền. Chúng ta bắt buộc phải hành 1 hành gì đó thì chúng ta mới có cái xe, dù hành này là chỉ đạo người khác mua, giao nhiệm vụ..v.v. Như vậy, cái hành như ý chí, như 1 thứ nhất định phải có thì mới có được cái xe. Nhưng không có tiền thì cũng sẽ không có xe dù ý chí hành gì đi nữa (chỉ là tưởng ở trong đầu: Xe hiện ra, xe hiện ra…). Nên thiền là quán là cái phải có thì mới có cái định, nhưng không có giới thì định này chỉ có ở trên trời với sức mạnh ảo tưởng.
Đây là đơn giản về giới, thiền, quán, định, Đạo.
Thiền là Quán nên chúng ta gọi lấy Quán vào Đạo là vậy.
Rất rõ: Về mặt lý thuyết đang trình: Khi một người tu hành Đạo Đức Thế Tôn có thể thấy rõ hết thực tại hay nhìn rõ trạng thái thực tại của lượng tử số 1 tại giây phút thực tại hay nhìn thấy rõ trạng thái thực tại (chết, sống) của con mèo lượng tử trong hộp đen: Lúc này, người tu Đạo đã thấy rõ mọi thứ trong hộp đen.
Khi mọi thứ đều rõ như vậy: Chúng ta - bất kỳ ai có cần suy nghĩ gì về việc “lựa chọn bức ảnh nào” nữa không? - Bởi vì không cần suy nghĩ gì nữa nên… niệm suy nghĩ cũng không còn.
Khi chúng ta thấy hết vô lượng ảnh của thế giới này. Chúng ta đâu có cần quan tâm bất cứ thứ gì ở thế giới nữa, tương lai, quá khứ, hiện tại.
Nên người tu đạt định hiện tại an lạc trú.
Chúng ta phải quán sát, hay tu tập Quán là vậy. Chứ không phải tu tập định.
Bằng chứng: Bất kỳ 1 ai nếu đọc được theo realtime từ bài viết đầu tiên pic tới chỗ này đều tự chứng thấy: Bản thân có định lực lớn hơn so với trước đó. Cảm giác như bản thân vững chắc hơn dù sự ở đời chưa chắc đã ít hơn nhiều (vì chúng ta bây giờ mới tới chỗ này).
Vì sao lại thấy và đạt được cái định này? - Vì chúng ta Quán - tức là chúng ta bỏ công bỏ sức bỏ thời gian đọc tập luận này đấy. Chúng ta bỏ thời gian quán từ đầu tập luận đến giờ, nên chúng ta thấy và đạt định lực như vậy.
Còn cưỡi ngựa xem hoa - chúng ta sẽ không bao giờ đạt được cái gì.
Đó là do chúng ta đang tu hành Quán. Vì tu hành Quán nên chúng ta đã thấy và tưởng thấy và hành nhiều thứ khác và đó là kết quả... Nhưng bé tẹo thôi. Phía sau không dễ.
Khi đẩy trí quán lên tới tận cùng, mọi thứ minh tức là mọi lượng tử đều có thể được chúng ta quan sát (quán thấy) biết rất rõ trạng thái thực tại. Mọi vật lượng tử (như con mèo hộp đen) cũng như vậy - không còn thông bít, không còn mê mờ, không còn che lấp.v.v. - Chúng ta tự thấy rõ ràng chân như sự thật và không hề cần bàn cãi: chúng ta đã vào định Đạo.
Nên, chúng ta đã hiểu, từ đầu đến giờ đều cứ thấy nói phê phán chuyện tu định của bao nhiêu người … làm gì có. Định là kết quả của tu hành Quán.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(067 tiếp)
Mỗi một bức ảnh sẽ mang trong nó một mức năng lượng gọi là “lượng năng” (để tên gọi có tính tương đồng với lượng tử (vật lý), lượng giác (toán)…).
Lượng năng được quy định bởi 3 thông số: Tần số, độ rung và năng lượng.
Như vậy, bằng việc mô tả quy chiếu trong thế giới lượng năng: Mọi sự, mọi sắc, mọi trần, mọi hiện tượng, sự vật sự việc, danh, thức.v.v. - đều đã được quy ra lượng năng bao gồm: Tần số, độ rung và năng lượng.
Tần số: số giao động của lượng tử (vi mô, vĩ mô) trong một đơn vị lượng vận không đổi xét làm quy chiếu. Lượng vận giống như lượng tử, lượng giác, lượng năng, lượng vận mô tả một quá trình vận động nhỏ tới mức tiến tới 0 có nội dung theo khái niệm thời gian là: từ giây phút hiện tại tới giây phút tiếp theo.
Độ rung: Được hiểu tương đương như khái niệm biên độ giao động.
Năng lượng: Năng lượng của mỗi lượng tử.
Như vậy, mỗi ảnh chứa một mức năng lượng cụ thể liên quan tới toàn bộ lượng tử tham gia trong bức ảnh. Tổng hợp tất cả lại, chúng ta gọi là lương năng của ảnh với một (tần số, độ rung, năng lượng) cụ thể.
Những điều trên có vẻ khó hiểu với một số chúng ta khi chưa từng có nhiều văn trí về khoa học vật lý lượng tử hiện tại. Tuy nhiên, chúng ta quan tâm hơn về những hệ quả rút ra phía dưới:
1/ Như vậy, tại giây phút hiện tại, ảnh của giây phút hiện tại sẽ có một mức tần số, độ rung và năng lượng cụ thể - đây là chúng ta hiện tại đấy. (Gọi là lượng năng hiện tại của ta).
Lượng năng hiện tại của ta = (tổng tất cả các năng lượng lượng tử tham gia vào bức ảnh tại giây phút hiện tại đó).
Ví dụ: Sự a có mức năng lượng a, sự b có mức năng lượng b, sự c có mức năng lượng c…. Thọ j có mức năng lượng j. Tưởng k có mức năng lượng k, .v.v.: rất nhiều, rất nhiều - tất cả đều là những “lượng tử/phần tử” tham gia trong ảnh. Mỗi lượng tử mang một mức năng lượng và tạo nên bức ảnh về Ta giây phút hiện tại cũng có một mức năng lượng cụ thể.
2/ Chính vì có lượng năng hiện tại (tần số, độ rung, năng lượng) mà chúng ta thành như 1 cái ăng ten, Chúng ta phát ra cái sóng năng lượng này và từ đó thu hút “các ảnh có mức năng lượng tương đương” đến để cho ta chọn an trú vào cho giây phút tiếp theo.
Như vậy, chúng ta đã rõ: Nguyên lý xuất hiện quả cầu vector ảnh giây phút tiếp theo cho chúng ta chọn là gì. Quả cầu vector ảnh giây phút tiếp theo - không thể nào chứa các ảnh một cách ngẫu nhiên và không theo nguyên lý, quy luật nào.
Chính vì chúng ta là ảnh giây phút hiện tại và ảnh này có một lượng năng cụ thể (với tần số, độ rung, năng lượng nhất định), - chính nó phát ra sóng cộng hưởng thu hút các ảnh có mức năng lượng tương đương xuất hiện và tập hợp thành quả cầu vector ảnh giây phút tiếp theo cho chúng ta lựa chọn.
Chúng ta không có “quyền năng” đang ở một mức năng lượng này mà lại muốn xuất hiện vô lượng ảnh ở một mức năng lượng cao hơn cho chúng ta lựa chọn.
Tất nhiên, một lượng năng cao luôn có tính chất giống như mọi “lượng” khác… có thể tự phân chia thành các mức lượng năng thấp hơn.
(Như vậy, đi xuống thì dễ, đi lên khó).
3/ Lượng năng của 1 ảnh giây phút hiện tại, tuy vậy, được tổng hợp chủ yếu từ một số nhóm như đã trình: Là tổng của:
+ Nhóm lượng tử chứa danh sắc đã hiện rõ, nhận thấy rõ ở khi lựa chọn.
+ Nhóm lượng tử chứa thọ của mọi sự
+ Nhóm lượng tử chứa tưởng về mọi sự
+ Nhóm lượng tử được nhận biết ở ngay giây phút thực tại khi phần “cái hộp đen” lượng tử mở ra (bao gồm cả danh, sắc, thọ, tưởng.v.v.) khi mở hộp (an trú thực tại).
Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể nắm rõ cách thức để: Nâng mức lượng năng giây phút hiện tại để “cảm ứng” các ảnh có mức năng lượng như ý đến xuất hiện ở vòng tròn vector giây phút tiếp theo cho chúng ta lựa chọn.
Mỗi một bức ảnh sẽ mang trong nó một mức năng lượng gọi là “lượng năng” (để tên gọi có tính tương đồng với lượng tử (vật lý), lượng giác (toán)…).
Lượng năng được quy định bởi 3 thông số: Tần số, độ rung và năng lượng.
Như vậy, bằng việc mô tả quy chiếu trong thế giới lượng năng: Mọi sự, mọi sắc, mọi trần, mọi hiện tượng, sự vật sự việc, danh, thức.v.v. - đều đã được quy ra lượng năng bao gồm: Tần số, độ rung và năng lượng.
Tần số: số giao động của lượng tử (vi mô, vĩ mô) trong một đơn vị lượng vận không đổi xét làm quy chiếu. Lượng vận giống như lượng tử, lượng giác, lượng năng, lượng vận mô tả một quá trình vận động nhỏ tới mức tiến tới 0 có nội dung theo khái niệm thời gian là: từ giây phút hiện tại tới giây phút tiếp theo.
Độ rung: Được hiểu tương đương như khái niệm biên độ giao động.
Năng lượng: Năng lượng của mỗi lượng tử.
Như vậy, mỗi ảnh chứa một mức năng lượng cụ thể liên quan tới toàn bộ lượng tử tham gia trong bức ảnh. Tổng hợp tất cả lại, chúng ta gọi là lương năng của ảnh với một (tần số, độ rung, năng lượng) cụ thể.
Những điều trên có vẻ khó hiểu với một số chúng ta khi chưa từng có nhiều văn trí về khoa học vật lý lượng tử hiện tại. Tuy nhiên, chúng ta quan tâm hơn về những hệ quả rút ra phía dưới:
1/ Như vậy, tại giây phút hiện tại, ảnh của giây phút hiện tại sẽ có một mức tần số, độ rung và năng lượng cụ thể - đây là chúng ta hiện tại đấy. (Gọi là lượng năng hiện tại của ta).
Lượng năng hiện tại của ta = (tổng tất cả các năng lượng lượng tử tham gia vào bức ảnh tại giây phút hiện tại đó).
Ví dụ: Sự a có mức năng lượng a, sự b có mức năng lượng b, sự c có mức năng lượng c…. Thọ j có mức năng lượng j. Tưởng k có mức năng lượng k, .v.v.: rất nhiều, rất nhiều - tất cả đều là những “lượng tử/phần tử” tham gia trong ảnh. Mỗi lượng tử mang một mức năng lượng và tạo nên bức ảnh về Ta giây phút hiện tại cũng có một mức năng lượng cụ thể.
2/ Chính vì có lượng năng hiện tại (tần số, độ rung, năng lượng) mà chúng ta thành như 1 cái ăng ten, Chúng ta phát ra cái sóng năng lượng này và từ đó thu hút “các ảnh có mức năng lượng tương đương” đến để cho ta chọn an trú vào cho giây phút tiếp theo.
Như vậy, chúng ta đã rõ: Nguyên lý xuất hiện quả cầu vector ảnh giây phút tiếp theo cho chúng ta chọn là gì. Quả cầu vector ảnh giây phút tiếp theo - không thể nào chứa các ảnh một cách ngẫu nhiên và không theo nguyên lý, quy luật nào.
Chính vì chúng ta là ảnh giây phút hiện tại và ảnh này có một lượng năng cụ thể (với tần số, độ rung, năng lượng nhất định), - chính nó phát ra sóng cộng hưởng thu hút các ảnh có mức năng lượng tương đương xuất hiện và tập hợp thành quả cầu vector ảnh giây phút tiếp theo cho chúng ta lựa chọn.
Chúng ta không có “quyền năng” đang ở một mức năng lượng này mà lại muốn xuất hiện vô lượng ảnh ở một mức năng lượng cao hơn cho chúng ta lựa chọn.
Tất nhiên, một lượng năng cao luôn có tính chất giống như mọi “lượng” khác… có thể tự phân chia thành các mức lượng năng thấp hơn.
(Như vậy, đi xuống thì dễ, đi lên khó).
3/ Lượng năng của 1 ảnh giây phút hiện tại, tuy vậy, được tổng hợp chủ yếu từ một số nhóm như đã trình: Là tổng của:
+ Nhóm lượng tử chứa danh sắc đã hiện rõ, nhận thấy rõ ở khi lựa chọn.
+ Nhóm lượng tử chứa thọ của mọi sự
+ Nhóm lượng tử chứa tưởng về mọi sự
+ Nhóm lượng tử được nhận biết ở ngay giây phút thực tại khi phần “cái hộp đen” lượng tử mở ra (bao gồm cả danh, sắc, thọ, tưởng.v.v.) khi mở hộp (an trú thực tại).
Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể nắm rõ cách thức để: Nâng mức lượng năng giây phút hiện tại để “cảm ứng” các ảnh có mức năng lượng như ý đến xuất hiện ở vòng tròn vector giây phút tiếp theo cho chúng ta lựa chọn.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Đầu tiên, nói về hộp đen lượng tử: Cái này ở giây phút hiện tại chúng ra mới nhận thức được thực tại của nó. Rất rõ là: Ngay khi mở ra hộp đen đó thì nó có thể chứa (đem đến ta) năng lượng cao hay thấp hay không đổi và cái chính là: Chúng ta chưa kiểm soát được hộp đen nên không thể biết nó mang năng lượng nào. Bởi vậy, chúng ta không thể kỳ vọng vào hộp đen lượng tử để nâng mức năng lượng của ảnh hiện tại lên được.
Nói về tưởng, điều này rất tốt: Rất nhiều người đã “thành công rực rỡ” ở đời nhờ có tưởng, lý tưởng, ý tưởng.v.v. - một sự tưởng về cuộc đời ở tương lai mà người đó luôn luôn nhớ và theo đuổi - nó mang người này tới thành công. Với lý thuyết này, không có gì ở đời sự là không lý giải được.
Năng lượng của tưởng này ở đời là rất lớn và cũng là thứ dễ xuất hiện nhất.
Vì như đã nói: Chúng ta không tạo ra một lý thuyết đời sự để “hại đời” nên sẽ không trình bày (lượng hoá, định lượng) mức năng lượng của mỗi nhóm vector tưởng cụ thể thì sẽ có mức năng lượng như thế nào (thứ này quá vị dục lạc).
Chúng ta chỉ cần biết: Vector tưởng giải thoát, vector tưởng Đạo, vector tưởng của dục như ý túc: Trị số định lượng của nhóm vector này: Đứng hàng đầu và cao nhất.
Biết vậy là đủ cho chúng ta.
Nói về thọ: Chắc ai cũng có thể mường tượng và có văn trí ít nhiều về chỗ này:
Nhóm thọ không khổ không lạc mang năng lượng thấp nhất.
Nhóm thọ khổ mang năng lượng thấp thứ nhì
Nhóm thọ lạc mang năng lượng cao hơn nữa
Và cao nhất là nhóm thọ Cực Lạc - tức cái lạc mà không phải là lạc dục.
Chúng ta cũng không trình cách định lượng. Nhưng chúng ta rõ: Nhóm trang nghiêm tâm vô lượng thọ cực lạc là nhóm hướng tới năng lượng thọ cao nhất.
Nói về sắc/trần/và danh/ pháp….v.v
Để cụ thể, nhóm này phải phân ra rất nhiều chi nhỏ hơn thì mới rõ ràng, tỷ như:
Nhóm vật vô cơ, nhóm vật hữu cơ, nhóm vật hữu tình, nhóm người, nhóm pháp, nhóm danh.v.v.v. Rất nhiều, rất nhiều, rất nhiều phân chi nhỏ.
Chúng ta ở đây đang thực hành: Bố thí ba la mật: Có nghĩa buông bỏ nhóm này đầu tiên… đang thực hành tu xả bỏ nhóm này.
Vì sao, có những điều trên, dần dần chúng ta sẽ thấy rõ, tại sao lại vậy.
Nói về tưởng, điều này rất tốt: Rất nhiều người đã “thành công rực rỡ” ở đời nhờ có tưởng, lý tưởng, ý tưởng.v.v. - một sự tưởng về cuộc đời ở tương lai mà người đó luôn luôn nhớ và theo đuổi - nó mang người này tới thành công. Với lý thuyết này, không có gì ở đời sự là không lý giải được.
Năng lượng của tưởng này ở đời là rất lớn và cũng là thứ dễ xuất hiện nhất.
Vì như đã nói: Chúng ta không tạo ra một lý thuyết đời sự để “hại đời” nên sẽ không trình bày (lượng hoá, định lượng) mức năng lượng của mỗi nhóm vector tưởng cụ thể thì sẽ có mức năng lượng như thế nào (thứ này quá vị dục lạc).
Chúng ta chỉ cần biết: Vector tưởng giải thoát, vector tưởng Đạo, vector tưởng của dục như ý túc: Trị số định lượng của nhóm vector này: Đứng hàng đầu và cao nhất.
Biết vậy là đủ cho chúng ta.
Nói về thọ: Chắc ai cũng có thể mường tượng và có văn trí ít nhiều về chỗ này:
Nhóm thọ không khổ không lạc mang năng lượng thấp nhất.
Nhóm thọ khổ mang năng lượng thấp thứ nhì
Nhóm thọ lạc mang năng lượng cao hơn nữa
Và cao nhất là nhóm thọ Cực Lạc - tức cái lạc mà không phải là lạc dục.
Chúng ta cũng không trình cách định lượng. Nhưng chúng ta rõ: Nhóm trang nghiêm tâm vô lượng thọ cực lạc là nhóm hướng tới năng lượng thọ cao nhất.
Nói về sắc/trần/và danh/ pháp….v.v
Để cụ thể, nhóm này phải phân ra rất nhiều chi nhỏ hơn thì mới rõ ràng, tỷ như:
Nhóm vật vô cơ, nhóm vật hữu cơ, nhóm vật hữu tình, nhóm người, nhóm pháp, nhóm danh.v.v.v. Rất nhiều, rất nhiều, rất nhiều phân chi nhỏ.
Chúng ta ở đây đang thực hành: Bố thí ba la mật: Có nghĩa buông bỏ nhóm này đầu tiên… đang thực hành tu xả bỏ nhóm này.
Vì sao, có những điều trên, dần dần chúng ta sẽ thấy rõ, tại sao lại vậy.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Rất rõ: Lượng năng ảnh hiện tại của chúng ta là tổng hợp lượng năng của các nhóm tham gia vào bức ảnh. Tuy nhiên, không phải cộng số học đơn thuần.
Ở đây là vector năng lượng, vector lượng tử, spin. Phương chiều và độ lớn chứ không chỉ độ lớn đơn lẻ.
Một thọ dục lạc nhờ hành ác thì có thể cũng mang đến trị số năng lượng như 1 hành thiện nào đó nhưng phương chiều thì hoàn toàn trái ngược với hành thiện. Nên cái nào kéo năng lượng lên cao, cái nào làm tiêu hao năng lượng - chúng ta đã rõ dù trị số lớn năng lượng có vẻ không khác, nhưng có âm có dương. Cũng như spin của lượng tử và cặp rối lượng tử… đều có đôi, có cặp cả.
Bởi thế chúng ta lưu ý: Phương Chiều vec tor lượng năng của lượng tử mới là thứ quyết định việc tổng hợp lượng năng ảnh lên cao hay thấp.
Dù không cần phải chứng minh lần nêu đi nêu lại ở chỗ này, chúng ta đều có thể biết rõ: Với lý thuyết này thì cấp Phật, Chúa, xuất thế gian mang mức lượng năng lớn nhất, (bao nhiêu thì có nói ra chúng ta cũng có thấy được ngay đâu).
Như vậy, đối với chúng ta: Chúng ta phải xác định rõ rằng: Phương chiều của các vector lượng năng, nhóm lượng năng, phải phục vụ việc tăng mức năng lượng dần lên, hay phương chiều hướng Đức Thế Tôn/Phật.
Đặc trưng của một lượng năng bao gồm: Tần số, độ rung, năng lượng.
Rất rõ, ai cũng được biết từ khi đi học văn trí rồi: Tần số và độ rung đều ảnh hưởng tới trị số năng lượng.
Giả sử tần số tiến tới vô cùng thì độ rung tiến tới 0 và năng lượng tiến tới vô cùng. Nó sẽ được gọi là “kỳ dị”. Còn kỳ dị này bản chất là gì thì sau này đợi chúng ta chứng thấy thôi.
Tuy nhiên, ở thế giới bình thường này, hoặc lượng tử vĩ mô (được gọi là vật) sẽ tính năng lượng thông qua độ rung, còn tần số thì biểu hiện sóng quá nhỏ, họ bỏ qua. Ngược lại, những lượng tử lượng tử (vi mô, gọi là hạt lượng tử) như photon, e.v.v. Họ lại tính thông qua tần số, và bỏ độ rung do tính chất hạt biểu hiện quá nhỏ bị bỏ qua.
Dù vậy, nhờ vào khoa học chúng ta thấy: Vật, sắc, trần..v.v.: Nhóm này có hình tướng và năng lượng lượng tử hầu như không biểu hiện, bị bỏ qua.
Về mặt ảnh: Nhóm vật là tập hợp lượng tử, trị số năng lượng cao nhưng để tập hợp lượng tử và giữ liên kết lượng tử đó: Nó lại lấy mất năng lượng ở ngoài nó để nó có năng lượng tập hợp. Nên, phương chiều của nhóm này rất rõ mang phương chiều ngược với các nhóm khác để tạo nên một phương chiều chung hướng lên mức lượng năng cao hơn.
Dù trị số độ lớn, khả năng rất lớn, cả quả đất chẳng hạn… nhưng trong bức ảnh tổng thể, nó mang phương chiều tổng hợp kéo ngược lại lượng năng lên mức cao hơn.
Nếu một người có thể tổng hợp được tất cả thế giới, vũ trụ vào 1 vật sắc tướng hình thì: Đây chính là cực duy vật. Mức lượng năng của ảnh này cũng là vô cùng. Nhưng Đức Thế Tôn đã nói: Điều này là không thể xảy ra.
Bởi vì 1 bức ảnh là tổng hợp của nhiều vector phương chiều và sự thực là: Phương chiều tổng hợp của 1 lượng năng ảnh luôn ngược với phương chiều của tổng hợp nhóm vật/trần/sắc/danh.v.v.v
- Đức Thế Tôn nói: Chúng ta đang sống ở trong thế giới điên đảo, vô minh .v.v. Nhưng lại cứ nghĩ điều mình cho là đúng là chân như. - Ở đây, ý này được giải thích rất cụ thể: Do ai cũng nghĩ vật, sắc, trần, danh.v.v. - những thứ này rất rõ mang trị số năng lượng lớn, thì chiều của nó phải là chiều chi phối chung hay là chiều của ảnh lượng năng. Làm gì có chuyện trị số nó lớn vậy mà nó lại không chi phối phương chiều lượng năng được…
Nhưng bản chất thực: Chiều, phương của lượng năng ảnh lại luôn ngược với chiều phương của nhóm lượng sắc trần vật tướng hình danh.v.v. - Thế mới là vi diệu
Lý do: Dù năng lượng của các nhóm còn lại (tưởng, thọ) luôn có trị số nhỏ hơn trị số nhóm lượng sắc nhưng có một thứ kỳ diệu là: Cái hộp đen lượng tử nó cứ mở ra tại giây phút hiện tại để nhận biết thực tại thì nó bao giờ cũng gồm 2 phần: Một phần là tất cả các chi tiết, sự, giống như toàn phần bức ảnh (sắc, thọ tưởng). Nhưng một phần còn lại - là gì, không ai biết, chúng ta cũng gọi nó theo khoa học hiện đại bây giờ: Năng lượng tối
Cái thứ lượng tử thực (hạt lượng tử) thật rắc rối đúng không?
Dù tổng hợp lượng năng trước khi mở hộp đen lượng tử, phần sắc có mức lượng năng lớn thế nào, khi mở hộp đen lượng tử phần sắc vật trong hộp đen lớn đến ra sao nữa thì tổng hợp 2 loại lượng năng của sắc vật này vẫn nhỏ hơn cái trị số của lượng năng “vật chất tối” - mà cái “vật chất tối” này nó lại: Không tham gia vào bất cứ một sự gì, một thọ gì, 1 tưởng gì đối với người an trú (ta ở trong ảnh). Kỳ lạ.
Toàn bộ chiều lượng năng ảnh bị thay đổi chỉ vì cái “vật chất tối” mà không ai cảm nhận được vì nó không ảnh hưởng 1 tẹo gì đến sự (sắc), thọ, tưởng của người an trú. Nó chỉ ảnh hưởng duy nhất cái chiều của lượng năng ảnh, luôn tham gia để xác định chiều lượng năng ảnh ngược chiều nhóm lượng vật sắc.
Đây là thứ Đức Thế Tôn đã nhìn thấy rất rõ, chỉ là không mô tả theo ngôn ngữ lý thuyết bây giờ.
Như vậy, tổng chiều lượng năng lượng tử mới là thứ quyết định, không phải chiều của lượng vật, sắc. Điều này, khoa học cũng rõ rằng: Tổng lượng vật chất ở vũ trụ là một con số tỷ lệ nhỏ khi so với tổng lượng năng lượng (bao gồm cái gọi là năng lượng tối).
Khoa học còn chưa nhận chân thực sự năng lượng/vật chất tối là gì. Nhưng chúng ta có thể từ Đạo Đức Thế Tôn biết rất rõ: Thứ này là gì.
Tuy nhiên, chúng ta không đi sâu những điều này, nó là gì sau này đều sẽ rõ cả. Ở đây chúng ta hiểu để phục vụ đường tu:
Lượng năng của ảnh hiện tại luôn luôn có chiều ngược với tổng lượng năng nhóm lượng sắc vật xuất hiện trong ảnh.
Vì lý do này chúng ta mới biết: Phải buông bỏ vật, sắc, phải phá ngay lập tức và bằng được: Vọng tưởng kiên cố - thứ vọng tưởng của sắc ấm.
Đạo Đức Thế Tôn đã nói. Nay, dùng khoa học, những thành tựu lớn nhất của loài người tới khi này đều đã trình lý thuyết và rõ ràng: Cái sắc vật dính líu chúng ta là cái kéo lui chúng ta chứ không phải là phục vụ chúng ta.
Ở đây là vector năng lượng, vector lượng tử, spin. Phương chiều và độ lớn chứ không chỉ độ lớn đơn lẻ.
Một thọ dục lạc nhờ hành ác thì có thể cũng mang đến trị số năng lượng như 1 hành thiện nào đó nhưng phương chiều thì hoàn toàn trái ngược với hành thiện. Nên cái nào kéo năng lượng lên cao, cái nào làm tiêu hao năng lượng - chúng ta đã rõ dù trị số lớn năng lượng có vẻ không khác, nhưng có âm có dương. Cũng như spin của lượng tử và cặp rối lượng tử… đều có đôi, có cặp cả.
Bởi thế chúng ta lưu ý: Phương Chiều vec tor lượng năng của lượng tử mới là thứ quyết định việc tổng hợp lượng năng ảnh lên cao hay thấp.
Dù không cần phải chứng minh lần nêu đi nêu lại ở chỗ này, chúng ta đều có thể biết rõ: Với lý thuyết này thì cấp Phật, Chúa, xuất thế gian mang mức lượng năng lớn nhất, (bao nhiêu thì có nói ra chúng ta cũng có thấy được ngay đâu).
Như vậy, đối với chúng ta: Chúng ta phải xác định rõ rằng: Phương chiều của các vector lượng năng, nhóm lượng năng, phải phục vụ việc tăng mức năng lượng dần lên, hay phương chiều hướng Đức Thế Tôn/Phật.
Đặc trưng của một lượng năng bao gồm: Tần số, độ rung, năng lượng.
Rất rõ, ai cũng được biết từ khi đi học văn trí rồi: Tần số và độ rung đều ảnh hưởng tới trị số năng lượng.
Giả sử tần số tiến tới vô cùng thì độ rung tiến tới 0 và năng lượng tiến tới vô cùng. Nó sẽ được gọi là “kỳ dị”. Còn kỳ dị này bản chất là gì thì sau này đợi chúng ta chứng thấy thôi.
Tuy nhiên, ở thế giới bình thường này, hoặc lượng tử vĩ mô (được gọi là vật) sẽ tính năng lượng thông qua độ rung, còn tần số thì biểu hiện sóng quá nhỏ, họ bỏ qua. Ngược lại, những lượng tử lượng tử (vi mô, gọi là hạt lượng tử) như photon, e.v.v. Họ lại tính thông qua tần số, và bỏ độ rung do tính chất hạt biểu hiện quá nhỏ bị bỏ qua.
Dù vậy, nhờ vào khoa học chúng ta thấy: Vật, sắc, trần..v.v.: Nhóm này có hình tướng và năng lượng lượng tử hầu như không biểu hiện, bị bỏ qua.
Về mặt ảnh: Nhóm vật là tập hợp lượng tử, trị số năng lượng cao nhưng để tập hợp lượng tử và giữ liên kết lượng tử đó: Nó lại lấy mất năng lượng ở ngoài nó để nó có năng lượng tập hợp. Nên, phương chiều của nhóm này rất rõ mang phương chiều ngược với các nhóm khác để tạo nên một phương chiều chung hướng lên mức lượng năng cao hơn.
Dù trị số độ lớn, khả năng rất lớn, cả quả đất chẳng hạn… nhưng trong bức ảnh tổng thể, nó mang phương chiều tổng hợp kéo ngược lại lượng năng lên mức cao hơn.
Nếu một người có thể tổng hợp được tất cả thế giới, vũ trụ vào 1 vật sắc tướng hình thì: Đây chính là cực duy vật. Mức lượng năng của ảnh này cũng là vô cùng. Nhưng Đức Thế Tôn đã nói: Điều này là không thể xảy ra.
Bởi vì 1 bức ảnh là tổng hợp của nhiều vector phương chiều và sự thực là: Phương chiều tổng hợp của 1 lượng năng ảnh luôn ngược với phương chiều của tổng hợp nhóm vật/trần/sắc/danh.v.v.v
- Đức Thế Tôn nói: Chúng ta đang sống ở trong thế giới điên đảo, vô minh .v.v. Nhưng lại cứ nghĩ điều mình cho là đúng là chân như. - Ở đây, ý này được giải thích rất cụ thể: Do ai cũng nghĩ vật, sắc, trần, danh.v.v. - những thứ này rất rõ mang trị số năng lượng lớn, thì chiều của nó phải là chiều chi phối chung hay là chiều của ảnh lượng năng. Làm gì có chuyện trị số nó lớn vậy mà nó lại không chi phối phương chiều lượng năng được…
Nhưng bản chất thực: Chiều, phương của lượng năng ảnh lại luôn ngược với chiều phương của nhóm lượng sắc trần vật tướng hình danh.v.v. - Thế mới là vi diệu
Lý do: Dù năng lượng của các nhóm còn lại (tưởng, thọ) luôn có trị số nhỏ hơn trị số nhóm lượng sắc nhưng có một thứ kỳ diệu là: Cái hộp đen lượng tử nó cứ mở ra tại giây phút hiện tại để nhận biết thực tại thì nó bao giờ cũng gồm 2 phần: Một phần là tất cả các chi tiết, sự, giống như toàn phần bức ảnh (sắc, thọ tưởng). Nhưng một phần còn lại - là gì, không ai biết, chúng ta cũng gọi nó theo khoa học hiện đại bây giờ: Năng lượng tối
Cái thứ lượng tử thực (hạt lượng tử) thật rắc rối đúng không?
Dù tổng hợp lượng năng trước khi mở hộp đen lượng tử, phần sắc có mức lượng năng lớn thế nào, khi mở hộp đen lượng tử phần sắc vật trong hộp đen lớn đến ra sao nữa thì tổng hợp 2 loại lượng năng của sắc vật này vẫn nhỏ hơn cái trị số của lượng năng “vật chất tối” - mà cái “vật chất tối” này nó lại: Không tham gia vào bất cứ một sự gì, một thọ gì, 1 tưởng gì đối với người an trú (ta ở trong ảnh). Kỳ lạ.
Toàn bộ chiều lượng năng ảnh bị thay đổi chỉ vì cái “vật chất tối” mà không ai cảm nhận được vì nó không ảnh hưởng 1 tẹo gì đến sự (sắc), thọ, tưởng của người an trú. Nó chỉ ảnh hưởng duy nhất cái chiều của lượng năng ảnh, luôn tham gia để xác định chiều lượng năng ảnh ngược chiều nhóm lượng vật sắc.
Đây là thứ Đức Thế Tôn đã nhìn thấy rất rõ, chỉ là không mô tả theo ngôn ngữ lý thuyết bây giờ.
Như vậy, tổng chiều lượng năng lượng tử mới là thứ quyết định, không phải chiều của lượng vật, sắc. Điều này, khoa học cũng rõ rằng: Tổng lượng vật chất ở vũ trụ là một con số tỷ lệ nhỏ khi so với tổng lượng năng lượng (bao gồm cái gọi là năng lượng tối).
Khoa học còn chưa nhận chân thực sự năng lượng/vật chất tối là gì. Nhưng chúng ta có thể từ Đạo Đức Thế Tôn biết rất rõ: Thứ này là gì.
Tuy nhiên, chúng ta không đi sâu những điều này, nó là gì sau này đều sẽ rõ cả. Ở đây chúng ta hiểu để phục vụ đường tu:
Lượng năng của ảnh hiện tại luôn luôn có chiều ngược với tổng lượng năng nhóm lượng sắc vật xuất hiện trong ảnh.
Vì lý do này chúng ta mới biết: Phải buông bỏ vật, sắc, phải phá ngay lập tức và bằng được: Vọng tưởng kiên cố - thứ vọng tưởng của sắc ấm.
Đạo Đức Thế Tôn đã nói. Nay, dùng khoa học, những thành tựu lớn nhất của loài người tới khi này đều đã trình lý thuyết và rõ ràng: Cái sắc vật dính líu chúng ta là cái kéo lui chúng ta chứ không phải là phục vụ chúng ta.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Như vậy, có câu nói của triết học: Vật chất quyết định ý thức hay ý thức quyết định vật chất?
Cả hai đều không đúng bản chất. - Hoá ra cả duy vật, duy tâm đều lầm?
Đạo Đức Thế Tôn chúng ta đã nói ngay từ đầu luận. Đến đây, dùng lý thuyết sự đời đang trình nói lại:
[Spin của] “Năng lượng tối” là thứ quyết định cả vật chất và ý thức.
Còn năng lượng tối là vật chất hay ý thức hay cả 2 thì chúng ta phải đợi khoa học. Chúng ta không nêu thuyết triết vì chúng ta đã đang theo 1 thuyết triết Đạo bất khả tư nghì - xuất thế gian rồi.
(Phần tưởng: Với những gì chúng ta đã biết về Đạo Đức Thế Tôn và khoa học: Năng lượng tối phải là thứ “rắc rối lượng tử” cấp 2 mặt (giống như âm dương, giống như vật chất ý thứcv.v.v.). Chúng ta đã sơ sơ biết rắc rối lượng tử là có 2 lượng tử rồi - dù cách xa nhau hai bên bờ cả 1 vũ trụ thì nó vẫn liên hệ với nhau 1 cách tức thì….
Chúng ta đợi xem. Nhưng có lẽ đợi khoa học sẽ “hơi lâu”. Đồ rằng dùng Đạo Đức Thế Tôn đi chứng thấy sẽ nhanh hơn dù trong hệ thống giới kinh nhan nhản cấp thời gian vô lượng đời vô lượng kiếp tu mới may ra có kết quả… nhưng có lẽ vẫn nhanh hơn “khoa học”.
Trở về với ảnh
Từ đây, chúng ta đã rõ hơn 1 chút nữa về vũ trụ thế giới 4 chiều đồng nhất ảnh này.
Cũng rõ: Tu Đạo Đức Thế Tôn (hay kể cả tu sự đời dục lạc) thì: Đều cần phải có 1 “quy trình” lựa chọn để cái hướng là đồng nhất hoặc ít ra là không đi theo kiểu lung tung hướng - nó mới giúp nâng cấp mức lượng năng của người ở trong ảnh dần dần tăng lên.
Một người, kiên nhẫn với 1 hướng đã chọn: Luôn luôn thành công
Cả hai đều không đúng bản chất. - Hoá ra cả duy vật, duy tâm đều lầm?
Đạo Đức Thế Tôn chúng ta đã nói ngay từ đầu luận. Đến đây, dùng lý thuyết sự đời đang trình nói lại:
[Spin của] “Năng lượng tối” là thứ quyết định cả vật chất và ý thức.
Còn năng lượng tối là vật chất hay ý thức hay cả 2 thì chúng ta phải đợi khoa học. Chúng ta không nêu thuyết triết vì chúng ta đã đang theo 1 thuyết triết Đạo bất khả tư nghì - xuất thế gian rồi.
(Phần tưởng: Với những gì chúng ta đã biết về Đạo Đức Thế Tôn và khoa học: Năng lượng tối phải là thứ “rắc rối lượng tử” cấp 2 mặt (giống như âm dương, giống như vật chất ý thứcv.v.v.). Chúng ta đã sơ sơ biết rắc rối lượng tử là có 2 lượng tử rồi - dù cách xa nhau hai bên bờ cả 1 vũ trụ thì nó vẫn liên hệ với nhau 1 cách tức thì….
Chúng ta đợi xem. Nhưng có lẽ đợi khoa học sẽ “hơi lâu”. Đồ rằng dùng Đạo Đức Thế Tôn đi chứng thấy sẽ nhanh hơn dù trong hệ thống giới kinh nhan nhản cấp thời gian vô lượng đời vô lượng kiếp tu mới may ra có kết quả… nhưng có lẽ vẫn nhanh hơn “khoa học”.
Trở về với ảnh
Từ đây, chúng ta đã rõ hơn 1 chút nữa về vũ trụ thế giới 4 chiều đồng nhất ảnh này.
Cũng rõ: Tu Đạo Đức Thế Tôn (hay kể cả tu sự đời dục lạc) thì: Đều cần phải có 1 “quy trình” lựa chọn để cái hướng là đồng nhất hoặc ít ra là không đi theo kiểu lung tung hướng - nó mới giúp nâng cấp mức lượng năng của người ở trong ảnh dần dần tăng lên.
Một người, kiên nhẫn với 1 hướng đã chọn: Luôn luôn thành công
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Đến đây, chúng ta cũng rõ: Không thể khinh thường bất cứ 1 cực nào ở thế này, vì sao?
- Vì đơn giản: “Năng lượng tối” không tham gia vào sự, thọ, tưởng của chúng ta ở đời. Điều đó có nghĩa “thế giới chủ quan” ở trong đầu chúng ta không có sự hiện diện của năng lượng tối. Lẽ đó, rất tất nhiên và lý đời: spin lượng tử sắc vật sẽ là thứ ảnh hưởng quyết định chúng ta lựa chọn ảnh gì ở đời thế - vì chúng ta chỉ biết đến lực lượng này, còn cái khác là vô hình, chúng ta đâu thấy ảnh hưởng gì cuộc sống chúng ta…
Nên trầm luân cũng là vậy. Cũng khó thoát ra. Nên gọi là vọng tưởng kiên cố.
- Còn cực duy tâm tinh thần: Rất rõ bằng những pháp “kỳ đặc” nào đó, họ kết nối trong mê mờ với các spin “năng lượng tối” và thấy rõ một số “công năng” trong việc “định hình tương lai” họ… vì thế họ “tôn thờ” Thần.
Kiểu như Anh Tanh, sau khi vào tưởng thức và viết ra 2 thuyết tương đối thì 30 năm sau cuối đời đều đi tìm cái ông gọi là “hạt của Chúa” và đi tìm Thần… cuối cùng cũng công cốc.
Còn Tesla thì cuối cùng chết cô độc chỉ vì chìm trong cái gọi là: 3,6,9 - Tần số, rung động, năng lượng.v.v.
Tất cả đều là thiếu Pháp Phật. Dù Anh Tanh ngưỡng mộ Phật, nhưng ông lại theo Chúa, phí hoài…
Dù vậy, Chúa là một đấng đáng tôn kính như Phật với người đời chúng ta.
Chúng ta cũng đã thấy: Con đường của chúng ta phải đi rất dài. Còn nếu để chất trong đầu thì “chẳng để làm gì”. Chúng ta có thể nói về văn trí tưởng thế giới như thế này từ giờ đến lúc chết -30-50 năm nhưng lượng hoá có lẽ chưa bằng 1 hạt cát trong 1 trái đất chứa toàn cát.
Bởi vậy, chúng ta đi. Vừa đi vừa nói.
- Vì đơn giản: “Năng lượng tối” không tham gia vào sự, thọ, tưởng của chúng ta ở đời. Điều đó có nghĩa “thế giới chủ quan” ở trong đầu chúng ta không có sự hiện diện của năng lượng tối. Lẽ đó, rất tất nhiên và lý đời: spin lượng tử sắc vật sẽ là thứ ảnh hưởng quyết định chúng ta lựa chọn ảnh gì ở đời thế - vì chúng ta chỉ biết đến lực lượng này, còn cái khác là vô hình, chúng ta đâu thấy ảnh hưởng gì cuộc sống chúng ta…
Nên trầm luân cũng là vậy. Cũng khó thoát ra. Nên gọi là vọng tưởng kiên cố.
- Còn cực duy tâm tinh thần: Rất rõ bằng những pháp “kỳ đặc” nào đó, họ kết nối trong mê mờ với các spin “năng lượng tối” và thấy rõ một số “công năng” trong việc “định hình tương lai” họ… vì thế họ “tôn thờ” Thần.
Kiểu như Anh Tanh, sau khi vào tưởng thức và viết ra 2 thuyết tương đối thì 30 năm sau cuối đời đều đi tìm cái ông gọi là “hạt của Chúa” và đi tìm Thần… cuối cùng cũng công cốc.
Còn Tesla thì cuối cùng chết cô độc chỉ vì chìm trong cái gọi là: 3,6,9 - Tần số, rung động, năng lượng.v.v.
Tất cả đều là thiếu Pháp Phật. Dù Anh Tanh ngưỡng mộ Phật, nhưng ông lại theo Chúa, phí hoài…
Dù vậy, Chúa là một đấng đáng tôn kính như Phật với người đời chúng ta.
Chúng ta cũng đã thấy: Con đường của chúng ta phải đi rất dài. Còn nếu để chất trong đầu thì “chẳng để làm gì”. Chúng ta có thể nói về văn trí tưởng thế giới như thế này từ giờ đến lúc chết -30-50 năm nhưng lượng hoá có lẽ chưa bằng 1 hạt cát trong 1 trái đất chứa toàn cát.
Bởi vậy, chúng ta đi. Vừa đi vừa nói.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(067 tiếp)
Thế giới là ảo ảnh, vậy chúng ta đang thấy thế giới là thấy thứ ảo hết sao?
Để trả lời câu hỏi này, Đức Thế Tôn đã nói rõ ràng, chi tiết, cụ thể ở nhiều kinh Pháp trong hệ thống giới kinh. Ở đây, trước tác lại:
Mắt chúng ta bình thường không bị cận, khi nhìn thấy 1 vật A, chúng ta nói rằng chúng ta thấy vật A thật. Nhiều người khác cũng nhìn thấy vật A như vậy, hơn nữa còn có thể sờ được, nghe được, ngửi được, nếm được… chẳng lẽ nó lại ảo? - Nhưng chúng ta rõ ràng là nhìn vật ảo. - Ai nói thế này có khi bị cho là ảo giác.?
- Khi chúng ta cận thị hoặc viễn thị, nếu chúng ta nhìn vật A chúng ta sẽ thấy mờ, không rõ. Chúng ta được đeo cái kính cận hoặc kính viễn.
Với lý thuyết vật lý về thấu kính hội tụ và thấu kính phân kỳ, với thực tế của kính cận và kính viễn mà ai cũng có thể thực chứng, sự thực: Sau khi đeo kính cận hoặc viễn, cái chúng ta thấy là ảnh ảo của A
Như vậy, người đeo kính cận, viễn: Thấy vật A thật hay thấy ảnh ảo của A (rồi cho là như thật)? - Tuy rằng, khi đeo kính, chúng ta chỉ thấy ảnh ảo của A nhưng ai cũng bảo là thật, lại cầm nắm nếm được.v.v. Nên chúng ta cũng vẫn tự nhiên tin ở trong óc rằng: Chúng ta thấy vật A thật chứ không phải thấy ảnh ảo của A.
Lại nữa, giả dụ một người không bị bệnh mắt, không đeo kính: Điều gì khẳng định người này đang thực thấy vật A khi mà ánh sáng từ vật A hoặc ánh sáng chiếu tới vật A đã đi qua vô lượng delta(§) khoảng cách bị phản chiếu, khúc xạ, hấp thụ bởi vô lượng hạt vi trần như không khí, phân tử, nguyên tử, lượng tử.v.v.v?
Một sự thật đơn giản mà chẳng ai chịu tin.
Khi chúng ta nghe một âm thanh cũng vậy. Một người chỉ biết tiếng Việt và nói được tiếng Việt (A) và một người biết (nghe, nói) cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh (B) cùng một người thổ dân không biết cả tiếng Việt, tiếng Anh, chỉ biết tiếng thổ dân (tiếng hú hét chẳng hạn) (C) gặp nhau.
Người A dù không biết được người B nói tiếng Anh có nội dung gì nhưng tự thấy rõ: Họ đang nói, ta đang nghe âm, và dường như đây là lời chào hỏi.v.v.. Tuy nhiên, người thổ dân thì lại phản ứng ở trong đầu rằng họ đang tuyên chiến và hú hét gọi “đồng đội” tới đánh người B.
Rất rõ: Cùng là âm vậy nhưng khi vào đầu 2 người (A và C) đã trở thành nội dung khác nhau và một sự thực là: Cả 2 A và C đều không biết rõ nội dung của B nói. A và C đều tự tưởng ảo ra.
Lại nữa: Nếu khoảng cách giữa họ là chân không thì sao? - Dù rằng họ ở rất gần nhau theo đơn vị đo khoảng cách?
Khi tất cả cùng công nhận cho một âm j nào đó có nội dung là x thì sau đó và mãi sau đó, ai ai khi nghe âm j đều hình thành trong đầu “nội dung x”. Và rồi, ai cũng bảo x là thật, âm thanh rõ ràng như vậy mà lại bảo là “ảo”. - có người bị ảo giác thì đúng hơn là bảo cả thế giới này bị “ảo giác”.
Chúng ta có 6 giác quan. Hai giác quan vừa được nêu đã đều là giác quan đang thấy thứ ảo chứ không phải là thứ thật. Vậy 4 giác quan còn lại sẽ thấy thứ thật?
Khi chúng ta ở mặt đất và nhìn lên bầu trời. Chúng ta sẽ tin rằng: Mặt đất thì bịt, ngăn. Nước thì lỏng, không sống được và nếu ta đi ra ngoài “hư không” - chân không thì sẽ chết.
Tuy nhiên, con cá ở trong nước thì nước giống như môi trường không khí đối với con người. Và con cá vào môi trường không khí thì cũng giống như con người vào môi trường “chân không”.
- Khả năng, con cá nếu có “ý thức” - cộng đồng này sẽ cùng “khái niệm” bề mặt không khí trái đất là “chân không”, còn môi trường nước nó sống là “bầu khí quyển”. Có điều gì lại không được ở đây? - Hoàn toàn có logic và được. Bởi con người giờ đây biết rất rõ: Cái gọi là hư không - chân không - không phải là không có gì mà chứa đầy các thứ “có gì”.
Như vậy, đặc tính của vật cũng là thứ ảo nốt - do tự con người “tưởng ra”.
…
Thế giới là ảo ảnh, vậy chúng ta đang thấy thế giới là thấy thứ ảo hết sao?
Để trả lời câu hỏi này, Đức Thế Tôn đã nói rõ ràng, chi tiết, cụ thể ở nhiều kinh Pháp trong hệ thống giới kinh. Ở đây, trước tác lại:
Mắt chúng ta bình thường không bị cận, khi nhìn thấy 1 vật A, chúng ta nói rằng chúng ta thấy vật A thật. Nhiều người khác cũng nhìn thấy vật A như vậy, hơn nữa còn có thể sờ được, nghe được, ngửi được, nếm được… chẳng lẽ nó lại ảo? - Nhưng chúng ta rõ ràng là nhìn vật ảo. - Ai nói thế này có khi bị cho là ảo giác.?
- Khi chúng ta cận thị hoặc viễn thị, nếu chúng ta nhìn vật A chúng ta sẽ thấy mờ, không rõ. Chúng ta được đeo cái kính cận hoặc kính viễn.
Với lý thuyết vật lý về thấu kính hội tụ và thấu kính phân kỳ, với thực tế của kính cận và kính viễn mà ai cũng có thể thực chứng, sự thực: Sau khi đeo kính cận hoặc viễn, cái chúng ta thấy là ảnh ảo của A
Như vậy, người đeo kính cận, viễn: Thấy vật A thật hay thấy ảnh ảo của A (rồi cho là như thật)? - Tuy rằng, khi đeo kính, chúng ta chỉ thấy ảnh ảo của A nhưng ai cũng bảo là thật, lại cầm nắm nếm được.v.v. Nên chúng ta cũng vẫn tự nhiên tin ở trong óc rằng: Chúng ta thấy vật A thật chứ không phải thấy ảnh ảo của A.
Lại nữa, giả dụ một người không bị bệnh mắt, không đeo kính: Điều gì khẳng định người này đang thực thấy vật A khi mà ánh sáng từ vật A hoặc ánh sáng chiếu tới vật A đã đi qua vô lượng delta(§) khoảng cách bị phản chiếu, khúc xạ, hấp thụ bởi vô lượng hạt vi trần như không khí, phân tử, nguyên tử, lượng tử.v.v.v?
Một sự thật đơn giản mà chẳng ai chịu tin.
Khi chúng ta nghe một âm thanh cũng vậy. Một người chỉ biết tiếng Việt và nói được tiếng Việt (A) và một người biết (nghe, nói) cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh (B) cùng một người thổ dân không biết cả tiếng Việt, tiếng Anh, chỉ biết tiếng thổ dân (tiếng hú hét chẳng hạn) (C) gặp nhau.
Người A dù không biết được người B nói tiếng Anh có nội dung gì nhưng tự thấy rõ: Họ đang nói, ta đang nghe âm, và dường như đây là lời chào hỏi.v.v.. Tuy nhiên, người thổ dân thì lại phản ứng ở trong đầu rằng họ đang tuyên chiến và hú hét gọi “đồng đội” tới đánh người B.
Rất rõ: Cùng là âm vậy nhưng khi vào đầu 2 người (A và C) đã trở thành nội dung khác nhau và một sự thực là: Cả 2 A và C đều không biết rõ nội dung của B nói. A và C đều tự tưởng ảo ra.
Lại nữa: Nếu khoảng cách giữa họ là chân không thì sao? - Dù rằng họ ở rất gần nhau theo đơn vị đo khoảng cách?
Khi tất cả cùng công nhận cho một âm j nào đó có nội dung là x thì sau đó và mãi sau đó, ai ai khi nghe âm j đều hình thành trong đầu “nội dung x”. Và rồi, ai cũng bảo x là thật, âm thanh rõ ràng như vậy mà lại bảo là “ảo”. - có người bị ảo giác thì đúng hơn là bảo cả thế giới này bị “ảo giác”.
Chúng ta có 6 giác quan. Hai giác quan vừa được nêu đã đều là giác quan đang thấy thứ ảo chứ không phải là thứ thật. Vậy 4 giác quan còn lại sẽ thấy thứ thật?
Khi chúng ta ở mặt đất và nhìn lên bầu trời. Chúng ta sẽ tin rằng: Mặt đất thì bịt, ngăn. Nước thì lỏng, không sống được và nếu ta đi ra ngoài “hư không” - chân không thì sẽ chết.
Tuy nhiên, con cá ở trong nước thì nước giống như môi trường không khí đối với con người. Và con cá vào môi trường không khí thì cũng giống như con người vào môi trường “chân không”.
- Khả năng, con cá nếu có “ý thức” - cộng đồng này sẽ cùng “khái niệm” bề mặt không khí trái đất là “chân không”, còn môi trường nước nó sống là “bầu khí quyển”. Có điều gì lại không được ở đây? - Hoàn toàn có logic và được. Bởi con người giờ đây biết rất rõ: Cái gọi là hư không - chân không - không phải là không có gì mà chứa đầy các thứ “có gì”.
Như vậy, đặc tính của vật cũng là thứ ảo nốt - do tự con người “tưởng ra”.
…
Sửa lần cuối bởi hathao207 vào lúc 22:29, 09/07/24 với 2 lần sửa.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Khi cả thế giới loài người chúng ta, với 6 giác quan như nhau, ai cũng có - Tất cả, bình thường đều sẽ thấy: Cùng như nhau - vì dù sao 6 giác quan của loài người có công năng như nhau.
Nhưng nếu có người có tai dơi, mũi chó, mắt mèo… - Thế giới, vũ trụ này và tất cả mọi thứ trên trái đất này hiện ra trong đầu của người này: Khác hoàn toàn so với mọi người còn lại?
Vậy ai thấy thế giới thực?
- Không cân phải đi tìm lời giải ai thấy thế giới thực mà từ các lập luận này, chúng ra rất rõ: - Thế giới thực, hoá ra không phải là thế giới như trong đầu ta và mọi người.
Đơn giản lắm: Chúng ta chưa nhìn qua được vật bít hay nếu vào ban đêm không đèn, chúng ta không thấy gì nhưng không có nghĩa: Không có 1 đôi mắt vẫn có thể thấy mọi thứ trong trời tối… tìm ở con vật cũng đầy.
Cũng vậy, chúng ta chỉ thấy các màu cơ bản và dải phối trộn của chúng từ đỏ tới tím - và với cái thấy này, thế giới chỉ lên trong mắt chúng ta như chúng ta vẫn đang thấy: Tuy nhiên, ở con mắt của nhiều con vật khác, thế giới hoàn toàn có thể rực rỡ hơn hay hoàn toàn có thể đơn điệu hơn.
Chúng ta không thể đi xuyên qua vật bít nhưng vẫn vô lượng thứ có thể đi xuyên qua vật bít (còn gọi là vật ngăn cách, vật rắn, vật đặc…). Điều này rất rõ: Vật bít không hoàn toàn bít.
Như vậy, có thứ gì là thật ở thế giới này? - Đức Thế Tôn mới nói: Ảo cả là vậy.
Chứ không phải giải thích theo kiểu: Chiếc bàn giờ gọi là chiếc bàn, nó gãy đi 4 chân thì nó không còn là chiếc bàn. Nên nó ảo. Thân người gọi là thân người, khi chết rồi thì bị thối rữa, phân huỷ.v.v.v không còn thân người, thành tro, thành đất, nước.v.v. - nên thân người là ảo.v.v.v - Cách giải thích này là của người chưa quán thấy, bị nhầm lẫn giữa lý VÔ THƯỜNG và lý THẬT ẢO.
Nhưng nếu có người có tai dơi, mũi chó, mắt mèo… - Thế giới, vũ trụ này và tất cả mọi thứ trên trái đất này hiện ra trong đầu của người này: Khác hoàn toàn so với mọi người còn lại?
Vậy ai thấy thế giới thực?
- Không cân phải đi tìm lời giải ai thấy thế giới thực mà từ các lập luận này, chúng ra rất rõ: - Thế giới thực, hoá ra không phải là thế giới như trong đầu ta và mọi người.
Đơn giản lắm: Chúng ta chưa nhìn qua được vật bít hay nếu vào ban đêm không đèn, chúng ta không thấy gì nhưng không có nghĩa: Không có 1 đôi mắt vẫn có thể thấy mọi thứ trong trời tối… tìm ở con vật cũng đầy.
Cũng vậy, chúng ta chỉ thấy các màu cơ bản và dải phối trộn của chúng từ đỏ tới tím - và với cái thấy này, thế giới chỉ lên trong mắt chúng ta như chúng ta vẫn đang thấy: Tuy nhiên, ở con mắt của nhiều con vật khác, thế giới hoàn toàn có thể rực rỡ hơn hay hoàn toàn có thể đơn điệu hơn.
Chúng ta không thể đi xuyên qua vật bít nhưng vẫn vô lượng thứ có thể đi xuyên qua vật bít (còn gọi là vật ngăn cách, vật rắn, vật đặc…). Điều này rất rõ: Vật bít không hoàn toàn bít.
Như vậy, có thứ gì là thật ở thế giới này? - Đức Thế Tôn mới nói: Ảo cả là vậy.
Chứ không phải giải thích theo kiểu: Chiếc bàn giờ gọi là chiếc bàn, nó gãy đi 4 chân thì nó không còn là chiếc bàn. Nên nó ảo. Thân người gọi là thân người, khi chết rồi thì bị thối rữa, phân huỷ.v.v.v không còn thân người, thành tro, thành đất, nước.v.v. - nên thân người là ảo.v.v.v - Cách giải thích này là của người chưa quán thấy, bị nhầm lẫn giữa lý VÔ THƯỜNG và lý THẬT ẢO.