Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Hôm trước có giới thiệu Tứ đại danh lâu, 4 Thi lâu nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc.
Về Hoàng hạc lâu, nhiều bạn đã nói. Hôm nay Mai Hoa dẫn lại bài thơ nổi tiếng của Vương Bột, một trong Tứ kiệt thời Sơ Đường, bài thơ làm cho Đằng Vương Các trở nên bất hủ.
Đằng Vương Các tự (Hán văn)
Nam Xương cố quận, Hồng Đô tân phủ.
Tinh phân Dực Chẩn, địa tiếp Hành Lư.
Khâm tam giang nhi đới ngũ hồ, khống Man Kinh nhi dẫn Âu Việt.
Vật hoa thiên bảo, long quang xạ Ngưu Đẩu chi khư;
Nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp.
Hùng châu vụ liệt, tuấn thái tinh trì,
Đài hoàng chẩm Di Hạ chi giao, tân chủ tận đông nam chi mỹ.
Đô đốc Diêm công chi nhã vọng, khể kích dao lâm;
Vũ Văn tân châu chi ý phạm, xiêm duy tạm trú.
Thập tuần hưu hạ, thắng hữu như vân;
Thiên lý phùng nghinh, cao bằng mãn toạ.
Đằng giao khởi phụng, Mạnh học sĩ chi từ tông;
Tử điện thanh sương, Vương tướng quân chi võ khố.
Gia quân tác tể, lộ xuất danh khu;
Đồng tử hà tri, cung phùng thắng tiễn.
Thời duy cửu nguyệt, tự thuộc tam thu.
Lạo thuỷ tận nhi hàn đàm thanh, yên quang ngưng nhi mộ sơn tử.
Nghiễm tham phi ư thượng lộ, phỏng phong cảnh vu sùng a.
Lâm đế tử chi Trường Châu, đắc tiên nhân chi cựu quán.
Tằng đài tủng thuý, thượng xuất trùng tiêu;
Phi các lưu đan, hạ lâm vô địa.
Hạc đinh phù chử, cùng đảo tự chi oanh hồi;
Quế điện lan cung, liệt cương loan chi thể thế.
Phi tú thát, phủ điêu manh,
Sơn nguyên khoáng kỳ doanh thị, xuyên trạch hu kỳ hãi chúc.
Lư diêm phác địa, chung minh đỉnh thực chi gia;
Khả hạm mê tân, thanh tước hoàng long chi trục.
Hồng tiêu vũ tễ, thái triệt vân cù.
Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.
Ngư chu xướng vãn, hưởng cùng Bành Lễ chi tân;
Nhạn trận kinh hàn, thanh đoạn Hành Dương chi phố.
Dao khâm phủ sướng, dật hứng thuyên phi.
Sảng lại phát nhi thanh phong sinh, tiêm ca ngưng nhi bạch vân át.
Kỳ Viên lục trúc, khí lăng Bành Trạch chi tôn;
Nghiệp thuỷ châu hoa, quang chiếu Lâm Xuyên chi bút.
Tứ mỹ cụ, nhị nan tinh.
Cùng thê miện vu trung thiên, cực ngu du ư hạ nhật.
Thiên cao địa huýnh, giác vũ trụ chi vô cùng;
Hứng tận bi lai, thức doanh hư chi hữu số.
Vọng Trường An vu nhật hạ, chỉ Ngô Hội ư vân gian.
Địa thế cực nhi nam minh thâm, thiên trụ cao nhi bắc thần viễn.
Quan san nan việt, thuỳ bi thất lộ chi nhân ?
Bình thuỷ tương phùng, tận thị tha hương chi khách.
Hoài đế hôn nhi bất kiến, phụng Tuyên thất dĩ hà niên ?
Ta hồ!
Thời vận bất tế, mệnh đồ đa suyễn.
Phùng Đường dị lão, Lý Quảng nan phong.
Khuất Giả Nghị vu Trường Sa, phi vô thánh chủ;
Thoán Lương Hồng vu Hải Khúc, khởi phạp minh thời.
Sở lại quân tử an bần, đạt nhân tri mệnh.
Lão đương ích tráng, ninh tri bạch thủ chi tâm ?
Cùng thả ích kiên, bất truỵ thanh vân chi chí.
Chước Tham tuyền nhi giác sảng, xử hạc triệt dĩ do hoan.
Bắc hải tuy xa, phù dao khả tiếp;
Đông ngung dĩ thệ, tang du phi vãn.
Mạnh Thường cao khiết, không hoài báo quốc chi tâm;
Nguyễn Tịch xướng cuồng, khởi hiệu cùng đồ chi khốc!
Bột tam xích vi mệnh, nhất giới thư sinh.
Vô lộ thỉnh anh, đẳng Chung Quân chi nhược quán;
Hữu hoài đầu bút, mộ Tông Xác chi trường phong.
Xả trâm hốt ư bách linh, phụng thần hôn ư vạn lý.
Phi Tạ gia chi bảo thụ, tiếp Mạnh thị chi phương lân.
Tha nhật xu đình, thao bồi Lý đối;
Kim thần phủng duệ, hỉ thác Long môn.
Dương Ý bất phùng, phủ Lăng vân nhi tự tích;
Chung Kỳ ký ngộ, tấu lưu thuỷ dĩ hà tàm ?
Ô hô!
Thắng địa bất thường, thịnh diên nan tái.
Lan Đình dĩ hĩ, Tử Trạch khâu khư.
Lâm biệt tặng ngôn, hạnh thừa ân ư vĩ tiễn;
Đăng cao tác phú, thị sở vọng ư quần công.
Cảm kiệt bỉ thành, cung sơ đoản dẫn.
Nhất ngôn quân phú, tứ vận câu thành.
Thỉnh sái Phan giang, các khuynh lục hải vân nhĩ.
Đằng Vương cao các lâm giang chử,
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ.
Hoạ đống triêu phi Nam Phố vân,
Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di kỷ độ thu.
Các trung đế tử kim hà tại ?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu.
Về Hoàng hạc lâu, nhiều bạn đã nói. Hôm nay Mai Hoa dẫn lại bài thơ nổi tiếng của Vương Bột, một trong Tứ kiệt thời Sơ Đường, bài thơ làm cho Đằng Vương Các trở nên bất hủ.
Đằng Vương Các tự (Hán văn)
Nam Xương cố quận, Hồng Đô tân phủ.
Tinh phân Dực Chẩn, địa tiếp Hành Lư.
Khâm tam giang nhi đới ngũ hồ, khống Man Kinh nhi dẫn Âu Việt.
Vật hoa thiên bảo, long quang xạ Ngưu Đẩu chi khư;
Nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp.
Hùng châu vụ liệt, tuấn thái tinh trì,
Đài hoàng chẩm Di Hạ chi giao, tân chủ tận đông nam chi mỹ.
Đô đốc Diêm công chi nhã vọng, khể kích dao lâm;
Vũ Văn tân châu chi ý phạm, xiêm duy tạm trú.
Thập tuần hưu hạ, thắng hữu như vân;
Thiên lý phùng nghinh, cao bằng mãn toạ.
Đằng giao khởi phụng, Mạnh học sĩ chi từ tông;
Tử điện thanh sương, Vương tướng quân chi võ khố.
Gia quân tác tể, lộ xuất danh khu;
Đồng tử hà tri, cung phùng thắng tiễn.
Thời duy cửu nguyệt, tự thuộc tam thu.
Lạo thuỷ tận nhi hàn đàm thanh, yên quang ngưng nhi mộ sơn tử.
Nghiễm tham phi ư thượng lộ, phỏng phong cảnh vu sùng a.
Lâm đế tử chi Trường Châu, đắc tiên nhân chi cựu quán.
Tằng đài tủng thuý, thượng xuất trùng tiêu;
Phi các lưu đan, hạ lâm vô địa.
Hạc đinh phù chử, cùng đảo tự chi oanh hồi;
Quế điện lan cung, liệt cương loan chi thể thế.
Phi tú thát, phủ điêu manh,
Sơn nguyên khoáng kỳ doanh thị, xuyên trạch hu kỳ hãi chúc.
Lư diêm phác địa, chung minh đỉnh thực chi gia;
Khả hạm mê tân, thanh tước hoàng long chi trục.
Hồng tiêu vũ tễ, thái triệt vân cù.
Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.
Ngư chu xướng vãn, hưởng cùng Bành Lễ chi tân;
Nhạn trận kinh hàn, thanh đoạn Hành Dương chi phố.
Dao khâm phủ sướng, dật hứng thuyên phi.
Sảng lại phát nhi thanh phong sinh, tiêm ca ngưng nhi bạch vân át.
Kỳ Viên lục trúc, khí lăng Bành Trạch chi tôn;
Nghiệp thuỷ châu hoa, quang chiếu Lâm Xuyên chi bút.
Tứ mỹ cụ, nhị nan tinh.
Cùng thê miện vu trung thiên, cực ngu du ư hạ nhật.
Thiên cao địa huýnh, giác vũ trụ chi vô cùng;
Hứng tận bi lai, thức doanh hư chi hữu số.
Vọng Trường An vu nhật hạ, chỉ Ngô Hội ư vân gian.
Địa thế cực nhi nam minh thâm, thiên trụ cao nhi bắc thần viễn.
Quan san nan việt, thuỳ bi thất lộ chi nhân ?
Bình thuỷ tương phùng, tận thị tha hương chi khách.
Hoài đế hôn nhi bất kiến, phụng Tuyên thất dĩ hà niên ?
Ta hồ!
Thời vận bất tế, mệnh đồ đa suyễn.
Phùng Đường dị lão, Lý Quảng nan phong.
Khuất Giả Nghị vu Trường Sa, phi vô thánh chủ;
Thoán Lương Hồng vu Hải Khúc, khởi phạp minh thời.
Sở lại quân tử an bần, đạt nhân tri mệnh.
Lão đương ích tráng, ninh tri bạch thủ chi tâm ?
Cùng thả ích kiên, bất truỵ thanh vân chi chí.
Chước Tham tuyền nhi giác sảng, xử hạc triệt dĩ do hoan.
Bắc hải tuy xa, phù dao khả tiếp;
Đông ngung dĩ thệ, tang du phi vãn.
Mạnh Thường cao khiết, không hoài báo quốc chi tâm;
Nguyễn Tịch xướng cuồng, khởi hiệu cùng đồ chi khốc!
Bột tam xích vi mệnh, nhất giới thư sinh.
Vô lộ thỉnh anh, đẳng Chung Quân chi nhược quán;
Hữu hoài đầu bút, mộ Tông Xác chi trường phong.
Xả trâm hốt ư bách linh, phụng thần hôn ư vạn lý.
Phi Tạ gia chi bảo thụ, tiếp Mạnh thị chi phương lân.
Tha nhật xu đình, thao bồi Lý đối;
Kim thần phủng duệ, hỉ thác Long môn.
Dương Ý bất phùng, phủ Lăng vân nhi tự tích;
Chung Kỳ ký ngộ, tấu lưu thuỷ dĩ hà tàm ?
Ô hô!
Thắng địa bất thường, thịnh diên nan tái.
Lan Đình dĩ hĩ, Tử Trạch khâu khư.
Lâm biệt tặng ngôn, hạnh thừa ân ư vĩ tiễn;
Đăng cao tác phú, thị sở vọng ư quần công.
Cảm kiệt bỉ thành, cung sơ đoản dẫn.
Nhất ngôn quân phú, tứ vận câu thành.
Thỉnh sái Phan giang, các khuynh lục hải vân nhĩ.
Đằng Vương cao các lâm giang chử,
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ.
Hoạ đống triêu phi Nam Phố vân,
Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di kỷ độ thu.
Các trung đế tử kim hà tại ?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu.
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Bản dịch của Trần Trọng San
Bài Tự về gác Đằng Vương
(Đây là) quận cũ Nam Xương; phủ mới Hồng Đô.
Sao chia ngôi Dực, ngôi Chẩn; đất nối núi Hành, núi Lư.
Như cổ áo của ba sông, vòng đai của năm hồ; khuất phục đất Man Kinh, tiếp dẫn miền Âu Việt.
Vẻ rực rỡ của vật chính là đồ quý báu của trời; ánh sáng vằn rồng chiếu lên khu vực sao Đẩu sao Ngưu.
Bậc hào kiệt nơi người do khí linh tú của đất mà có; nhà cao sĩ Từ Trĩ hạ chiếc giường treo của Trần Phồn.
Chốn hùng châu như sương mù giải giăng; nguời anh tuấn như ngôi sao rong ruổi.
Đài, hào nằm gối lên giao giới vùng Di, Hạ; khách, chủ đều là những vẻ đẹp miền đông, nam.
Tiếng tăm tốt của đô đốc Diêm Bá Tự cùng với những khải kích đi đến miền xa.
Quan thái thú Vũ Văn Quân, là mô phạm của châu mới, tạm dừng xe tại chốn này.
Mười tuần nhàn rỗi, bạn tốt như mây.
Ngàn dặm đón chào, bạn hiền đầy chỗ.
Giao long vượt cao, phụng hoàng nổi dậy, đó là tài hoa của Mạnh học sĩ, ông tổ của từ chương.
Tia chớp tía, hạt sương trong, đó là tiết tháo của Vương tướng quân, nhà cai quản võ khố.
Nhân gia quân làm quan tể tại Giao Châu, tôi đi thăm miền nổi tiếng đó.
Kẻ đồng tử này đâu biết có việc chi, hân hạnh gặp buổi tiệc linh đình.
Lúc này đương là tháng chín, thuộc về ba thu.
Nước rãnh cạn, đầm lạch trong; ánh khói đọng, núi chiều tia.
Trông ngựa xe trên đường cái; hỏi phong cảnh nơi gò cao.
Đến miền Trường Châu của đế tử; tìm được quán cũ của người tiên.
Núi non cao biếc, nhô khỏi lớp mây; bóng gác bay, màu son chày, dưới không sát đất.
Bến hạc, bãi phù quanh co đến tận đảo cồn; điện quế, cung lan bày ra cái thể thế của núi non.
Mở rộng cửa tô; cúi xem cột chạm.
Đồng núi trông rộng khắp; sông đầm nhìn hãi kinh.
Cửa ngõ giăng mặt đất, đó là những nhà rung chuông, bày vạc.
Thuyền bè chật bến sông, trục vẽ chim sẻ xanh, rồng vàng.
Cầu vồng tan, cơn mưa tạnh; vẻ rực sáng, suốt đường mây.
Ráng chiều rơi xuống, cùng cái cò đơn chiếc đều bay; làn nước sông thu với bầu trời kéo dài một sắc.
Thuyền câu hát ban chiều, tiếng vang đến bến Bành Lễ.
Bầy nhạn kinh giá rét, tiếng kêu dứt bờ Hành Dương.
Khúc ngâm xa xôi sảng khoái; hứng thú phiêu dật bay nhanh.
Tiếng vui phát sinh, gió mát nổi dậy; ca nhẹ lắng chìm, mây trắng lưu lại.
Tre lục vườn Kỳ, khí lan chén rượu Bành Trạch.
Sắc đỏ sông Nghiệp, ánh soi ngọn bút Lâm Xuyên.
Sẵn bốn điều hay; đủ hai bậc tốt.
Ngắm trông khắp cả khoảng trời; vui chơi hết ngày nhàn rỗi.
Trời cao, đất xa, biết vũ trụ rộng vô cùng.
Hứng hết, buồn về, hiểu đầy vơi là có số.
Trông Trường An dưới mặt trời; trỏ Ngô Hội trong khoảng mây.
Thế đất tận cùng, biển Nam sâu thẳm; cột trời cao ngất, sao Bắc xa xôi.
Quan san khó vượt, nào ai sót thương người lạc lối ?
Bèo nước gặp nhau, hết thảy đều là khách tha hương.
Tưởng nhớ chốn cửa vua, không trông thấy được; phụng chiếu nơi Tuyên Thất, chẳng biết năm nào.
Than ôi!
Thời vận chẳng bình thường; đường đời nhiều ngang trái.
Phùng Đường dễ thành già cả; Lý Quảng khó được phong hầu.
Giả Nghị bị khuất nơi Trường Sa, chẳng phải không vua hiền thánh.
Lương Hồng phái náu miền Hải Khúc, đâu có thiếu thời quang minh.
Nhờ được: người quân tử vui cảnh nghèo; bậc đạt nhân biết rõ mệnh.
Tuổi già càng phải mạnh hơn, nên hiểu lòng ông đầu bạc.
Lúc cùng hãy nên thêm vững, không rớt chí đường mây xanh.
Uống nước suối Tham, lòng vẫn sáng; ở nơi cùng khổ, bụng còn vui.
Biển bắc tuy xa xôi, nhưng cưỡi gió có thể đi tới.
Đã để trôi qua lúc mặt trời mọc ở phương đông, nhưng khi bóng lặn khóm tang du, phải đâu đã muộn.
Mạnh Thường thanh cao, vẫn mang tấm lòng báo quốc.
Nguyễn Tịch rồ dại, há bắt chước tiếng khóc đường cùng.
Bột này là đứa nhỏ cao ba thước, một gã học trò.
Không có đường xin dải dây dài, như tuổi niên thiếu của Chung Quân.
Nhưng có hoài bão vứt cây bút, yêu mến cơn gió dài của Tông Xác.
Bỏ rơi trâm hốt ở trăm năm; theo việc thần hôn ngoài vạn dặm.
Tuy không phải là cây báu nhà họ Tạ; nhưng được ở gần hàng xóm tốt của họ Mạnh.
Ngày sau, tôi sẽ rảo bước trước sân, lạm phụ thêm lời đối đáp của ông Lý.
Sớm nay, nâng tay áo, vui mừng được gửi gắm họ tên tại cổng rồng.
Không còn được gặp Dương Ý, nên đọc thiên lăng vân mà tự tiếc.
Nhưng đã gặp Chung Kỳ, thì tấu khúc lưu thuỷ có hổ thẹn gì.
Than ôi!
Chốn danh thắng chẳng thường tồn tại; bữa tiệc lớn khó gặp hai lần.
Lan Đình còn đâu nữa, Tử Trạch thành gò hoang.
Hân hạnh được thừa ân Diêm công trong bữa tiệc vĩ đại này, tôi viết lời tặng khi lâm biệt.
Còn như lên cao làm phú, đó là việc mong mỏi nơi các ông.
Xin dốc lòng thành quê kệch; cung kính làm bài tự ngắn.
Trước ngỏ một lời, sau bày tình ý; đồng thời bốn vận đều xong.
Mời rảy nước sông Phan, cùng làm cho nghiêng mây trong đất liền lẫn mây ngoài biển vậy.
Bên sông, đây gác Đằng Vương.
Múa ca đã tắt, ngọc vàng nào ai ?
Cột rồng Nam Phố mây bay.
Rèm châu mưa cuốn ngàn Tây, sớm chiều.
In đầm, mây vẩn vơ trôi.
Tang thương vật đổi, sao dời mấy thâu.
Đằng vương trong gác giờ đâu ?
Trường Giang nước vẫn chảy mau mé ngoài.
Bài Tự về gác Đằng Vương
(Đây là) quận cũ Nam Xương; phủ mới Hồng Đô.
Sao chia ngôi Dực, ngôi Chẩn; đất nối núi Hành, núi Lư.
Như cổ áo của ba sông, vòng đai của năm hồ; khuất phục đất Man Kinh, tiếp dẫn miền Âu Việt.
Vẻ rực rỡ của vật chính là đồ quý báu của trời; ánh sáng vằn rồng chiếu lên khu vực sao Đẩu sao Ngưu.
Bậc hào kiệt nơi người do khí linh tú của đất mà có; nhà cao sĩ Từ Trĩ hạ chiếc giường treo của Trần Phồn.
Chốn hùng châu như sương mù giải giăng; nguời anh tuấn như ngôi sao rong ruổi.
Đài, hào nằm gối lên giao giới vùng Di, Hạ; khách, chủ đều là những vẻ đẹp miền đông, nam.
Tiếng tăm tốt của đô đốc Diêm Bá Tự cùng với những khải kích đi đến miền xa.
Quan thái thú Vũ Văn Quân, là mô phạm của châu mới, tạm dừng xe tại chốn này.
Mười tuần nhàn rỗi, bạn tốt như mây.
Ngàn dặm đón chào, bạn hiền đầy chỗ.
Giao long vượt cao, phụng hoàng nổi dậy, đó là tài hoa của Mạnh học sĩ, ông tổ của từ chương.
Tia chớp tía, hạt sương trong, đó là tiết tháo của Vương tướng quân, nhà cai quản võ khố.
Nhân gia quân làm quan tể tại Giao Châu, tôi đi thăm miền nổi tiếng đó.
Kẻ đồng tử này đâu biết có việc chi, hân hạnh gặp buổi tiệc linh đình.
Lúc này đương là tháng chín, thuộc về ba thu.
Nước rãnh cạn, đầm lạch trong; ánh khói đọng, núi chiều tia.
Trông ngựa xe trên đường cái; hỏi phong cảnh nơi gò cao.
Đến miền Trường Châu của đế tử; tìm được quán cũ của người tiên.
Núi non cao biếc, nhô khỏi lớp mây; bóng gác bay, màu son chày, dưới không sát đất.
Bến hạc, bãi phù quanh co đến tận đảo cồn; điện quế, cung lan bày ra cái thể thế của núi non.
Mở rộng cửa tô; cúi xem cột chạm.
Đồng núi trông rộng khắp; sông đầm nhìn hãi kinh.
Cửa ngõ giăng mặt đất, đó là những nhà rung chuông, bày vạc.
Thuyền bè chật bến sông, trục vẽ chim sẻ xanh, rồng vàng.
Cầu vồng tan, cơn mưa tạnh; vẻ rực sáng, suốt đường mây.
Ráng chiều rơi xuống, cùng cái cò đơn chiếc đều bay; làn nước sông thu với bầu trời kéo dài một sắc.
Thuyền câu hát ban chiều, tiếng vang đến bến Bành Lễ.
Bầy nhạn kinh giá rét, tiếng kêu dứt bờ Hành Dương.
Khúc ngâm xa xôi sảng khoái; hứng thú phiêu dật bay nhanh.
Tiếng vui phát sinh, gió mát nổi dậy; ca nhẹ lắng chìm, mây trắng lưu lại.
Tre lục vườn Kỳ, khí lan chén rượu Bành Trạch.
Sắc đỏ sông Nghiệp, ánh soi ngọn bút Lâm Xuyên.
Sẵn bốn điều hay; đủ hai bậc tốt.
Ngắm trông khắp cả khoảng trời; vui chơi hết ngày nhàn rỗi.
Trời cao, đất xa, biết vũ trụ rộng vô cùng.
Hứng hết, buồn về, hiểu đầy vơi là có số.
Trông Trường An dưới mặt trời; trỏ Ngô Hội trong khoảng mây.
Thế đất tận cùng, biển Nam sâu thẳm; cột trời cao ngất, sao Bắc xa xôi.
Quan san khó vượt, nào ai sót thương người lạc lối ?
Bèo nước gặp nhau, hết thảy đều là khách tha hương.
Tưởng nhớ chốn cửa vua, không trông thấy được; phụng chiếu nơi Tuyên Thất, chẳng biết năm nào.
Than ôi!
Thời vận chẳng bình thường; đường đời nhiều ngang trái.
Phùng Đường dễ thành già cả; Lý Quảng khó được phong hầu.
Giả Nghị bị khuất nơi Trường Sa, chẳng phải không vua hiền thánh.
Lương Hồng phái náu miền Hải Khúc, đâu có thiếu thời quang minh.
Nhờ được: người quân tử vui cảnh nghèo; bậc đạt nhân biết rõ mệnh.
Tuổi già càng phải mạnh hơn, nên hiểu lòng ông đầu bạc.
Lúc cùng hãy nên thêm vững, không rớt chí đường mây xanh.
Uống nước suối Tham, lòng vẫn sáng; ở nơi cùng khổ, bụng còn vui.
Biển bắc tuy xa xôi, nhưng cưỡi gió có thể đi tới.
Đã để trôi qua lúc mặt trời mọc ở phương đông, nhưng khi bóng lặn khóm tang du, phải đâu đã muộn.
Mạnh Thường thanh cao, vẫn mang tấm lòng báo quốc.
Nguyễn Tịch rồ dại, há bắt chước tiếng khóc đường cùng.
Bột này là đứa nhỏ cao ba thước, một gã học trò.
Không có đường xin dải dây dài, như tuổi niên thiếu của Chung Quân.
Nhưng có hoài bão vứt cây bút, yêu mến cơn gió dài của Tông Xác.
Bỏ rơi trâm hốt ở trăm năm; theo việc thần hôn ngoài vạn dặm.
Tuy không phải là cây báu nhà họ Tạ; nhưng được ở gần hàng xóm tốt của họ Mạnh.
Ngày sau, tôi sẽ rảo bước trước sân, lạm phụ thêm lời đối đáp của ông Lý.
Sớm nay, nâng tay áo, vui mừng được gửi gắm họ tên tại cổng rồng.
Không còn được gặp Dương Ý, nên đọc thiên lăng vân mà tự tiếc.
Nhưng đã gặp Chung Kỳ, thì tấu khúc lưu thuỷ có hổ thẹn gì.
Than ôi!
Chốn danh thắng chẳng thường tồn tại; bữa tiệc lớn khó gặp hai lần.
Lan Đình còn đâu nữa, Tử Trạch thành gò hoang.
Hân hạnh được thừa ân Diêm công trong bữa tiệc vĩ đại này, tôi viết lời tặng khi lâm biệt.
Còn như lên cao làm phú, đó là việc mong mỏi nơi các ông.
Xin dốc lòng thành quê kệch; cung kính làm bài tự ngắn.
Trước ngỏ một lời, sau bày tình ý; đồng thời bốn vận đều xong.
Mời rảy nước sông Phan, cùng làm cho nghiêng mây trong đất liền lẫn mây ngoài biển vậy.
Bên sông, đây gác Đằng Vương.
Múa ca đã tắt, ngọc vàng nào ai ?
Cột rồng Nam Phố mây bay.
Rèm châu mưa cuốn ngàn Tây, sớm chiều.
In đầm, mây vẩn vơ trôi.
Tang thương vật đổi, sao dời mấy thâu.
Đằng vương trong gác giờ đâu ?
Trường Giang nước vẫn chảy mau mé ngoài.
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Bài thơ trên Mai Hoa tất nhiên phải copy lại từ Thi Viện bởi chẳng thuộc nổi. Nguyên văn chữ Hán chắc cũng không lấy làm thú vị lắm với nhiều người vì đọc ... chẳng hiểu. Còn dich ra quốc ngữ thì quả thực lời văn lối cổ cũng khó vào. Tuy nhiên Giai thoại về Vương Bột và bài thơ này thì thật là thú vị.
Mai Hoa lại tìm trên mạng rồi copy vào vì... lưòi đánh máy lại
Vương Bột tự Tử An, người đất Long Môn. Sáu tuổi đã biết làm văn. Mười sáu, mười bảy tuổi nổi danh hạ bút nên vần. Vương có thói quen, mỗi khi làm văn, mài mực sửa soạn nghiên bút rồi nằm đắp chăn ngủ. Khi tỉnh dậy, cầm ngay bút viết. Vương nổi tiếng là một thi sĩ cao danh thời Sơ Đường (618-713).
Con của vua Cao Tông nhà Đường bấy giờ làm Thái Sử ở Hồng Châu, được phong là Đằng Vương, có dựng một cái gác bên sông Tầm Dương gọi là "Đằng Vương Các". Lúc Diêm Bá Dư ra giữ chức Đô Đốc Hàng Châu, đặt tiệc tại gác Đằng Vương để thết tân khách. Muốn khoe tài chàng rể, bảo làm trước một bài tự, rồi mời tất cả các nhà quyền quý, các mặc khách tao nhân xa gần đến dự; và yêu cầu mỗi người làm một bài tự ngay bữa tiệc.
Vương Bột lúc bấy giờ, tuổi vừa 15, 16. Hay tin ấy, nhưng vì đường xá xa xôi có mấy trăm dặm, không đến họp được, lấy làm tiếc. Một ông già khuyên chàng cứ sửa soạn thuyền buồm, tự nhiên sẽ có gió thổi. Quả nhiên đêm đó có gió lớn. Vương cho thuyền khởi hành, và hôm sau tới Đằng Vương các vừa kịp lúc vào tiệc.
Thấy Vương Bột, viên Đô Đốc họ Diêm khinh là con nít, miễn cưỡng cấp giấy bút. Nhưng cho người đứng bên cạnh Vương, hễ Vương viết được câu nào thì chép lại cho ông xem.
Mới đọc hàng đầu, họ Diêm đã ngạc nhiên vì lời già giặn. Đến câu:
Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thủy cộng tràng thiên nhất sắc
Nghĩa:
Ráng chiều với cò lẻ cùng bay,
Nước thu cùng trời dài một sắc
thì ông vô cùng khâm phục.
Bài của họ Vương đặc sắc hơn tất cả. Từ đó, danh càng vang dậy khắp nơi.
Bài phú "Đằng Vương các" viết theo thể biền ngẫu, dùng nhiều chữ cầu kỳ, nhiều điển khó hiểu nhưng lời thì cực đẹp nên rất khó dịch. Trong bài, Vương Bột nhắc qua địa lý và nhân vật ở quận, nơi xây gác Đằng Vương, rồi tả chủ khách trong tiệc, phong cảnh chung quanh khi ngồi trong gác trông ra, sau cùng kể cảm tưởng của chính mình.
Cuối bài thơ, có 8 câu tuyệt diệu, nhất là 4 câu cuối:
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di, không độ thu?
Các trung đế tử kim hà tại?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu.
Nghĩa:
Đầm chiếu mây bay, trời lửng lơ,
Sao dời vật đổi, mấy thu rồi.
Con vua trong gác nào đâu nhỉ?
Dòng nước ngoài hiên vẫn tự trôi.
Nhưng người có tài như thế mà mạng yểu. Nhân khi đi thăm cha làm quan ở Giao Chỉ, Vương bị đắm thuyền, chết ở giữa biển giữa 29 xuân xanh.
Tương truyền rằng hai câu thơ:
Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thủy cộng tràng thiên nhất sắc.
tuyệt diệu như thế mà có người cho Vương Bột còn dốt, nhưng không chỉ dốt chỗ nào. Vì thế khi chết, hồn còn uất ức nên trong đêm khuya thanh vắng thường hiện hình trên bãi bể, níu áo những văn nhân sĩ tử qua đường, miệng ngâm nga hai câu thơ trên và hỏi dốt chỗ nào, xin chỉ giúp. Nhưng ai nấy đều khen hay. Hồn Vương không bằng lòng, cho rằng sĩ tử kia còn dốt, thi khoa này không thể đậu. Quả thật như thế.
Rồi, cũng từ đó, giọng ngâm hai câu thơ kia vẫn còn văng vẳng bi ai theo hình bóng họ Vương thơ thẩn, dật dờ trên bãi biển.
Nhưng một hôm có một văn nhân đi ngang qua đấy, hồn Vương hiện hình níu lại hỏi, thì chàng văn nhân ấy cười bảo:
- Hai câu thơ ấy không phải sai nhưng nhà ngươi còn dốt thật. Đã bao năm có tiếng là tứ kiệt Sơ Đường mà không nhận biết được cái dốt của mình trong hai câu thơ ấy ư?
Nói xong dứt áo ra đi. Vương tha thiết yêu cầu giải thích. Khách không phụ lòng, nên bảo:
- Hai câu thơ thừa chữ "dữ" và chữ "cộng". Nếu bỏ hai chữ thì thật tuyệt, vừa gọn vừa thanh thoát, lại nhất khí:
Lạc hà cô vụ tề phi,
Thu thủy tràng thiên nhất sắc.
Vương Bột nhận ra, quả còn dốt thật, mới bái tạ lãnh lời chỉ giáo.
Từ đó, trong đêm khuya thanh vắng, trên bãi biển không còn hình bóng của nhà thơ tài danh trẻ tuổi hiện ra nữa. Và giọng ngâm hai câu thơ bất hủ bi ai, não ruột kia cũng chìm mất trong không gian cao rộng, mịt mờ. Đây là một câu chuyện hoang đường.
Mai Hoa lại tìm trên mạng rồi copy vào vì... lưòi đánh máy lại
Vương Bột tự Tử An, người đất Long Môn. Sáu tuổi đã biết làm văn. Mười sáu, mười bảy tuổi nổi danh hạ bút nên vần. Vương có thói quen, mỗi khi làm văn, mài mực sửa soạn nghiên bút rồi nằm đắp chăn ngủ. Khi tỉnh dậy, cầm ngay bút viết. Vương nổi tiếng là một thi sĩ cao danh thời Sơ Đường (618-713).
Con của vua Cao Tông nhà Đường bấy giờ làm Thái Sử ở Hồng Châu, được phong là Đằng Vương, có dựng một cái gác bên sông Tầm Dương gọi là "Đằng Vương Các". Lúc Diêm Bá Dư ra giữ chức Đô Đốc Hàng Châu, đặt tiệc tại gác Đằng Vương để thết tân khách. Muốn khoe tài chàng rể, bảo làm trước một bài tự, rồi mời tất cả các nhà quyền quý, các mặc khách tao nhân xa gần đến dự; và yêu cầu mỗi người làm một bài tự ngay bữa tiệc.
Vương Bột lúc bấy giờ, tuổi vừa 15, 16. Hay tin ấy, nhưng vì đường xá xa xôi có mấy trăm dặm, không đến họp được, lấy làm tiếc. Một ông già khuyên chàng cứ sửa soạn thuyền buồm, tự nhiên sẽ có gió thổi. Quả nhiên đêm đó có gió lớn. Vương cho thuyền khởi hành, và hôm sau tới Đằng Vương các vừa kịp lúc vào tiệc.
Thấy Vương Bột, viên Đô Đốc họ Diêm khinh là con nít, miễn cưỡng cấp giấy bút. Nhưng cho người đứng bên cạnh Vương, hễ Vương viết được câu nào thì chép lại cho ông xem.
Mới đọc hàng đầu, họ Diêm đã ngạc nhiên vì lời già giặn. Đến câu:
Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thủy cộng tràng thiên nhất sắc
Nghĩa:
Ráng chiều với cò lẻ cùng bay,
Nước thu cùng trời dài một sắc
thì ông vô cùng khâm phục.
Bài của họ Vương đặc sắc hơn tất cả. Từ đó, danh càng vang dậy khắp nơi.
Bài phú "Đằng Vương các" viết theo thể biền ngẫu, dùng nhiều chữ cầu kỳ, nhiều điển khó hiểu nhưng lời thì cực đẹp nên rất khó dịch. Trong bài, Vương Bột nhắc qua địa lý và nhân vật ở quận, nơi xây gác Đằng Vương, rồi tả chủ khách trong tiệc, phong cảnh chung quanh khi ngồi trong gác trông ra, sau cùng kể cảm tưởng của chính mình.
Cuối bài thơ, có 8 câu tuyệt diệu, nhất là 4 câu cuối:
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di, không độ thu?
Các trung đế tử kim hà tại?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu.
Nghĩa:
Đầm chiếu mây bay, trời lửng lơ,
Sao dời vật đổi, mấy thu rồi.
Con vua trong gác nào đâu nhỉ?
Dòng nước ngoài hiên vẫn tự trôi.
Nhưng người có tài như thế mà mạng yểu. Nhân khi đi thăm cha làm quan ở Giao Chỉ, Vương bị đắm thuyền, chết ở giữa biển giữa 29 xuân xanh.
Tương truyền rằng hai câu thơ:
Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thủy cộng tràng thiên nhất sắc.
tuyệt diệu như thế mà có người cho Vương Bột còn dốt, nhưng không chỉ dốt chỗ nào. Vì thế khi chết, hồn còn uất ức nên trong đêm khuya thanh vắng thường hiện hình trên bãi bể, níu áo những văn nhân sĩ tử qua đường, miệng ngâm nga hai câu thơ trên và hỏi dốt chỗ nào, xin chỉ giúp. Nhưng ai nấy đều khen hay. Hồn Vương không bằng lòng, cho rằng sĩ tử kia còn dốt, thi khoa này không thể đậu. Quả thật như thế.
Rồi, cũng từ đó, giọng ngâm hai câu thơ kia vẫn còn văng vẳng bi ai theo hình bóng họ Vương thơ thẩn, dật dờ trên bãi biển.
Nhưng một hôm có một văn nhân đi ngang qua đấy, hồn Vương hiện hình níu lại hỏi, thì chàng văn nhân ấy cười bảo:
- Hai câu thơ ấy không phải sai nhưng nhà ngươi còn dốt thật. Đã bao năm có tiếng là tứ kiệt Sơ Đường mà không nhận biết được cái dốt của mình trong hai câu thơ ấy ư?
Nói xong dứt áo ra đi. Vương tha thiết yêu cầu giải thích. Khách không phụ lòng, nên bảo:
- Hai câu thơ thừa chữ "dữ" và chữ "cộng". Nếu bỏ hai chữ thì thật tuyệt, vừa gọn vừa thanh thoát, lại nhất khí:
Lạc hà cô vụ tề phi,
Thu thủy tràng thiên nhất sắc.
Vương Bột nhận ra, quả còn dốt thật, mới bái tạ lãnh lời chỉ giáo.
Từ đó, trong đêm khuya thanh vắng, trên bãi biển không còn hình bóng của nhà thơ tài danh trẻ tuổi hiện ra nữa. Và giọng ngâm hai câu thơ bất hủ bi ai, não ruột kia cũng chìm mất trong không gian cao rộng, mịt mờ. Đây là một câu chuyện hoang đường.
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Cám ơn Mai Hoa đã đưa lên cả bài thơ Đằng Vương Các tự và giai thoại về 2 câu thơ của Vương Bột. Đồ này đọc mà thấy.... ngậm ngùi cho cái nợ văn chương, có khi... một câu viết ra là vận cả vào đời người viết. Một trong Tứ kiệt Sơ Đường mà chỉ vì hận 2 câu thơ chưa hoàn hảo mà thác rồi mà hồn phách không tan.
Có câu "Thời lai phong tống Đằng Vương Các" ý nói kẻ may mắn gặp thời quả thực Đồ thấy chả xứng với cái nho nhã của thi ca khi đem sánh với cái sự tham của người đời. Lại nghĩ đến Đằng Vương Các của Đồ, gió chưa nổi nên chẳng có bóng ai cùng,..... giờ lại vắng lạnh hoang phế mà buồn thay...
"Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa",... bao giờ Đồ mới gặp được.
Có câu "Thời lai phong tống Đằng Vương Các" ý nói kẻ may mắn gặp thời quả thực Đồ thấy chả xứng với cái nho nhã của thi ca khi đem sánh với cái sự tham của người đời. Lại nghĩ đến Đằng Vương Các của Đồ, gió chưa nổi nên chẳng có bóng ai cùng,..... giờ lại vắng lạnh hoang phế mà buồn thay...
"Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa",... bao giờ Đồ mới gặp được.
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Sáng mở quán sớm, thấy đã nhiều khách thăm thật là hân hạnh.
Đồ già dạo này đi đâu mất hút con mẹ hàng lươn, còn nợ nàng tiền rượu chưa giả. Thơ đâu? thơ đâu?
Đồ già dạo này đi đâu mất hút con mẹ hàng lươn, còn nợ nàng tiền rượu chưa giả. Thơ đâu? thơ đâu?
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Đọc mà ngậm ngùi cho cái chữ tài danh, phải làm ma trên biển. Cha của Vương Bột chắc cũng để lại vài giọt máu trên đất giao chỉ, nên lắm kẻ tài thi phú sinh ra thời nay...hiihi.
Đúng là thơ nó vận vào người, Vương Bột tự chết yểu vì bài thơ của mình chăng? Lão đồ văn vẻ phảng phất buồn bã....phải chăng đường danh, duyên vẫn chưa hanh thông? hic! đùa lão tý nhé, lão đừng có mà báng bổ họ Lã...hhiihii
Còn người chanh chua, văn cũng chanh chua, con người tự nhiên sinh ra chẳng lẽ đã chua lòm lòm? tất nhiên là không phải, mà do thổ nhưỡng? hay do số má? hay do bất mãn với tài năng? thật là câu hỏi khó. Người đời có câu: Thánh nhân đãi kẻ khù khờ....Đần độn dốt nát như Quách tinh mà ôm người đẹp Hoàng Dung, Thánh thiện như thánh cô mà nằm với đạo tặc... thật ác thay tạo hoá...
Nguoi đời vẫn thường vắt chanh bỏ vỏ, nhưng cái vỏ ấy vẫn còn chua lắm....
Chủ quán đâu mang cho họ Lã chai rượu dấm nào...
Đúng là thơ nó vận vào người, Vương Bột tự chết yểu vì bài thơ của mình chăng? Lão đồ văn vẻ phảng phất buồn bã....phải chăng đường danh, duyên vẫn chưa hanh thông? hic! đùa lão tý nhé, lão đừng có mà báng bổ họ Lã...hhiihii
Còn người chanh chua, văn cũng chanh chua, con người tự nhiên sinh ra chẳng lẽ đã chua lòm lòm? tất nhiên là không phải, mà do thổ nhưỡng? hay do số má? hay do bất mãn với tài năng? thật là câu hỏi khó. Người đời có câu: Thánh nhân đãi kẻ khù khờ....Đần độn dốt nát như Quách tinh mà ôm người đẹp Hoàng Dung, Thánh thiện như thánh cô mà nằm với đạo tặc... thật ác thay tạo hoá...
Nguoi đời vẫn thường vắt chanh bỏ vỏ, nhưng cái vỏ ấy vẫn còn chua lắm....
Chủ quán đâu mang cho họ Lã chai rượu dấm nào...
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Chủ quán đây, chủ quán đây!
Bàn chi những chuyện Vương Bột, Quách Tĩnh Hoàng Dung... Hôm nay Chủ quán xin mời Lã công tử 3 chén
Lã công tử chơi ở diễn đàn này chắc cũng thừa duyên với các môn lý số, lại thấy Lã công tử luận Đào hoa Thiên không thực là mọi vẻ thông hiểu, chủ quán xin mời Lã công tử Chén thứ nhất .... coi như mừng cái duyên với Lý số
Thiên Không hội với Đào Hoa,
Cầm, kỳ, thi, họa tài ba tuyệt vời
Cơ mưu quyền biến hơn người
Ngàn năm mệnh bạc một đời tài hoa
Lã công tử lấy nick name là kẻ buôn vua, xảo quyệt gian hùng thay đổi cả lịch sử, công danh tối thượng dưới 1 người mà trên cả muôn người... Cứ lấy cái việc chọn nick name mà đoán chắc Lã công tử công cũng có chút thành, danh cũng có chút toại. Nhưng hậu vận tránh sao khỏi 1 chén thuốc độc, buôn vua lại bị chính món hàng của mình giết, nhơ nhuốc ngàn thu...
Chén thứ hai mời Lã công tử, nhắc lại lời Tần vương khi xưa phủi tình với Lã:
Ông có công gì với Tần, mà Tần phong ông ở Hà Nam, ăn thuế của mười vạn hộ. Ông thân thích gì với Tần mà hiệu là Trọng Phụ?
Chén thứ 3... Ngẫm lại chuyện Triệu Cơ... thương cho phận đàn bà rơi vào tay kẻ vô tình dẫn đến một đời chìm trong mê loạn
Chén này mời Lã công tử một nửa, một nửa hắt xuống đất...
Từ ngàn xưa loạn thế xuất anh hùng
Dựng cơ dồ từ hai bàn tay trắng
Vung gươm chớp lóa vạn ngàn binh tướng
Ngoảnh đầu nhìn không một bóng thân nhân.
Cõi hồng trần chinh phạt bấy nhiêu năm
Ôm giấc mộng một lần làm bá chủ
Trái tim đá chưa từng nghe khuất phục
Bỗng ngập ngừng trước giọt lệ giai nhân.
Bao mưu toan bao lừa gạt dối gian
Vinh quang tột cùng mà tột cùng cay đắng
Miệng thế gian ai khen chê oán trách
Ngạo danh cao bậc loạn thế anh hùng
Bàn chi những chuyện Vương Bột, Quách Tĩnh Hoàng Dung... Hôm nay Chủ quán xin mời Lã công tử 3 chén
Lã công tử chơi ở diễn đàn này chắc cũng thừa duyên với các môn lý số, lại thấy Lã công tử luận Đào hoa Thiên không thực là mọi vẻ thông hiểu, chủ quán xin mời Lã công tử Chén thứ nhất .... coi như mừng cái duyên với Lý số
Thiên Không hội với Đào Hoa,
Cầm, kỳ, thi, họa tài ba tuyệt vời
Cơ mưu quyền biến hơn người
Ngàn năm mệnh bạc một đời tài hoa
Lã công tử lấy nick name là kẻ buôn vua, xảo quyệt gian hùng thay đổi cả lịch sử, công danh tối thượng dưới 1 người mà trên cả muôn người... Cứ lấy cái việc chọn nick name mà đoán chắc Lã công tử công cũng có chút thành, danh cũng có chút toại. Nhưng hậu vận tránh sao khỏi 1 chén thuốc độc, buôn vua lại bị chính món hàng của mình giết, nhơ nhuốc ngàn thu...
Chén thứ hai mời Lã công tử, nhắc lại lời Tần vương khi xưa phủi tình với Lã:
Ông có công gì với Tần, mà Tần phong ông ở Hà Nam, ăn thuế của mười vạn hộ. Ông thân thích gì với Tần mà hiệu là Trọng Phụ?
Chén thứ 3... Ngẫm lại chuyện Triệu Cơ... thương cho phận đàn bà rơi vào tay kẻ vô tình dẫn đến một đời chìm trong mê loạn
Chén này mời Lã công tử một nửa, một nửa hắt xuống đất...
Từ ngàn xưa loạn thế xuất anh hùng
Dựng cơ dồ từ hai bàn tay trắng
Vung gươm chớp lóa vạn ngàn binh tướng
Ngoảnh đầu nhìn không một bóng thân nhân.
Cõi hồng trần chinh phạt bấy nhiêu năm
Ôm giấc mộng một lần làm bá chủ
Trái tim đá chưa từng nghe khuất phục
Bỗng ngập ngừng trước giọt lệ giai nhân.
Bao mưu toan bao lừa gạt dối gian
Vinh quang tột cùng mà tột cùng cay đắng
Miệng thế gian ai khen chê oán trách
Ngạo danh cao bậc loạn thế anh hùng
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Hỏi rược dấm, ắt có rượu dấm! Chữ Nhẫn của Nàng quả là đáng nể, nhẫn nhịn thế này mà làm dâu nhà ai thì quả là đại phúc ...phải tới bài thứ 3, chữ nhẫn mới hết công hiệu, Lã mới có 1 chén rượu 1 nửa hắt xuống đất, cách uống này quả là độc địa có 1 không 2....
Chả hiểu lôi đâu ra nguyên bài hát trong phim...cũng kể là 1 kỳ công.
Họ Lã giống Lao đồ già, chỉ là văn khách mà thôi...chữ Lã bất vi...lấy để chơi...cũng vì nể người gian hùng làm được chuyện kinh thiên động địa.....
Ba chén rượu nàng tặng Lã xin uống cạn...duy chén thứ 3, vì chỉ được uống một nửa, nên có lời lại thế này:
Trái tìm đá chưa từng nghe khuất phục.. cũng chả còn tình cảm gì mà ngập ngừng trước giọt lệ giai nhân nữa. Chỉ còn cách phá cũ mà xây mới....ngươi đã chai sạn, tình cảm đã gỗ đá...xong trên sỏi đá cũng có cây mọc, trong gỗ đá cũng sẽ có các loài lan....
Mong rằng với Nàng sẽ sảy ra cảnh: Sen tàn cúc lại nở hoa, sầu dài, ngày ngắn...đông đà sang xuân...
Cúc có nở muộn nhưng đẹp và bền....phải không nào?
Chả hiểu lôi đâu ra nguyên bài hát trong phim...cũng kể là 1 kỳ công.
Họ Lã giống Lao đồ già, chỉ là văn khách mà thôi...chữ Lã bất vi...lấy để chơi...cũng vì nể người gian hùng làm được chuyện kinh thiên động địa.....
Ba chén rượu nàng tặng Lã xin uống cạn...duy chén thứ 3, vì chỉ được uống một nửa, nên có lời lại thế này:
Trái tìm đá chưa từng nghe khuất phục.. cũng chả còn tình cảm gì mà ngập ngừng trước giọt lệ giai nhân nữa. Chỉ còn cách phá cũ mà xây mới....ngươi đã chai sạn, tình cảm đã gỗ đá...xong trên sỏi đá cũng có cây mọc, trong gỗ đá cũng sẽ có các loài lan....
Mong rằng với Nàng sẽ sảy ra cảnh: Sen tàn cúc lại nở hoa, sầu dài, ngày ngắn...đông đà sang xuân...
Cúc có nở muộn nhưng đẹp và bền....phải không nào?
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Hic, nàng lấy tên quán là "Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng" cũng chỉ mong người qua đây có đuợc cái duyên tương phùng mà hạ bút để chủ quán học đòi chút chữ nghĩa. Nàng từ lâu phá rào, vất bỏ mọi thứ văn vẻ khách sáo ủy mị.... thơ nhạc có xá chi mà Lã công tử bảo là.. kỳ công, chả lẽ coi thường nàng đến vậy??
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
là ý cụ Nguyễn tả cảnh 4 mùa thay đổi qua 1 năm, cảnh ấy ai chả phải chứng kiến (không được chứng kiến họa chăng có tù nhân bị giam hay bệnh nhân tâm thần nhìn đời lộn ngược),... dám hỏi Lã công tử chúc nàng có cái cảnh ấy với ý nào vậy?
Vì chưng tham chút nhụy vàng
Cho nên cúc phải muộn màng về thu
Cái gì cũng có giá của nó cả, hoa nào cũng có lúc tàn. Ngàn cái Xuân Hạ Thu Đông qua đi mà Lã Bất Vi chả khỏi tiếng nhơ, có gì hay ho mà Lã công tử nể?
Lại nói đến chữ Nhẫn, quán nàng đây khách hạ bút mà tương phùng, Lã công tử văn lạc ý, thơ lạc vận, Nàng xét thấy quả thực cái món văn chương ít duyên với Lã công tử, xin thất lễ vậy!
Chuyện Lã Thừa tướng xưa hẳn công tử còn nhớ, nhặt nhạnh văn chương thiên hạ, làm ra bộ Lã Thị Xuân Thu nhưng hỏi có ai khen mà còn mang tiếng là kẻ đạo văn. Mong Lã Công tử học người xưa ở cái Chí làm quan, cái Gan làm giàu nhưng không Quá!
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
là ý cụ Nguyễn tả cảnh 4 mùa thay đổi qua 1 năm, cảnh ấy ai chả phải chứng kiến (không được chứng kiến họa chăng có tù nhân bị giam hay bệnh nhân tâm thần nhìn đời lộn ngược),... dám hỏi Lã công tử chúc nàng có cái cảnh ấy với ý nào vậy?
Vì chưng tham chút nhụy vàng
Cho nên cúc phải muộn màng về thu
Cái gì cũng có giá của nó cả, hoa nào cũng có lúc tàn. Ngàn cái Xuân Hạ Thu Đông qua đi mà Lã Bất Vi chả khỏi tiếng nhơ, có gì hay ho mà Lã công tử nể?
Lại nói đến chữ Nhẫn, quán nàng đây khách hạ bút mà tương phùng, Lã công tử văn lạc ý, thơ lạc vận, Nàng xét thấy quả thực cái món văn chương ít duyên với Lã công tử, xin thất lễ vậy!
Chuyện Lã Thừa tướng xưa hẳn công tử còn nhớ, nhặt nhạnh văn chương thiên hạ, làm ra bộ Lã Thị Xuân Thu nhưng hỏi có ai khen mà còn mang tiếng là kẻ đạo văn. Mong Lã Công tử học người xưa ở cái Chí làm quan, cái Gan làm giàu nhưng không Quá!
-
- Nhất đẳng
- Bài viết: 168
- Tham gia: 02:47, 08/03/09
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Ghé quán văn mà văn chương ém trong bụng thì ắy thấy hổ thẹn.
Kẻ học trò nay gặp các bác thì cũng cứ múa rìu góp vui. Không duyên để thông hiểu cổ kim nên cứ chút tấm lòng thành mà tri ân vậy.
Quán của Nàng nhộn nhịp mà lại toàn tao nhân mặc khách hẳn là đắc địa. Đã có thiên thời, nhân hoà thì ngày càng thịnh chứ chả đùa.
Quán sá đông vui đến lạ thường
Thi nhân thi hữu đất văn chương
Có duyên chẳng nỡ rời nơi ấy
Nhận chén "quỳnh tương" nợ ngàn trùng.
Đã đến thì ta mãi nhớ thôi
Sầu ưu chia sẽ sớm sinh vui
ở sân chơi ảo tâm tư thực
Há chẳng hơn chen lối ngoài đời
Người đến rồi đi không vướng bận
Đã là "mặc khách" ước mong chi
Hạnh ngộ đã là duyên đó nhỉ
Nên lòng vương vấn phút chia ly
Kẻ học trò nay gặp các bác thì cũng cứ múa rìu góp vui. Không duyên để thông hiểu cổ kim nên cứ chút tấm lòng thành mà tri ân vậy.
Quán của Nàng nhộn nhịp mà lại toàn tao nhân mặc khách hẳn là đắc địa. Đã có thiên thời, nhân hoà thì ngày càng thịnh chứ chả đùa.
Quán sá đông vui đến lạ thường
Thi nhân thi hữu đất văn chương
Có duyên chẳng nỡ rời nơi ấy
Nhận chén "quỳnh tương" nợ ngàn trùng.
Đã đến thì ta mãi nhớ thôi
Sầu ưu chia sẽ sớm sinh vui
ở sân chơi ảo tâm tư thực
Há chẳng hơn chen lối ngoài đời
Người đến rồi đi không vướng bận
Đã là "mặc khách" ước mong chi
Hạnh ngộ đã là duyên đó nhỉ
Nên lòng vương vấn phút chia ly