Tuệ Trung Thượng Sĩ
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Tuệ Trung Thượng Sĩ
生死閑而已
心之生兮生死生,
心之滅兮生死滅。
生死元來自性空,
此幻化身亦當滅。
煩惱菩提暗消磨,
地獄天堂自枯竭。
鑊湯爐炭頓清涼,
劍樹刀山立摧折。
聲聞坐禪我無坐,
菩薩說法我實說。
生自妄生死妄死,
四大本空從何起。
莫為渴鹿趁陽燄,
東走西馳無暫已。
法身無去亦無來,
真性無非亦無是。
到家須知罷問程,
見月安能苦尋指。
愚人顛倒怖生死,
智者達官閑而已。
Sinh tử nhàn nhi dĩ
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Tâm chi sinh hề sinh tử sinh,
Tâm chi diệt hề sinh tử diệt.
Sinh tử nguyên lai tự tính không,
Thử huyễn hoá thân diệc đương diệt.
Phiền não Bồ đề ám tiêu ma,
Địa ngục thiên đường tự khô kiệt.
Hoạch thang lô thán đốn thanh lương,
Kiếm thụ đao sơn lập tồi chiết.
Thanh văn toạ thiền ngã vô toạ,
Bồ Tát thuyết pháp ngã thực thuyết.
Sinh tự vọng sinh tử vọng tử,
Tứ đại bản không tòng hà khỉ (khởi)?
Mạc vi khát lộc sấn dương diễm,
Đông tẩu tây trì vô tạm dĩ.
Pháp thân vô khứ diệc vô lai,
Chân tính vô phi diệc vô thị.
Đáo gia tu tri bãi vấn trình,
Kiến nguyệt an năng khổ tầm chỉ.
Ngu nhân điên đảo bố sinh tử,
Trí giả đạt quan nhàn nhi dĩ.
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch:
SỐNG CHẾT NHÀN MÀ THÔI
Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh
Tâm mà diệt chừ sanh tử diệt.
Sanh tử xưa nay tự tánh không
Thân huyễn hóa này rồi sẽ diệt.
Phiền não Bồ-đề thầm tiêu mòn
Địa ngục thiên đường tự khô kiệt.
Lò lửa dầu sôi chóng mát lành
Cây kiếm núi đao liền gãy hết.
Thanh văn ngồi thiền, ta không ngồi
Bồ-tát nói pháp, ta nói thật.
Sống tự dối sống, chết dối chết
Bốn đại vốn không, từ đâu khởi?
Chớ như nai khát đuổi sóng nắng
Chạy đông tìm tây không tạm nghỉ.
Pháp thân không đến cũng không đi
Chân tánh không phải cũng không quấy.
Đến nhà, nên biết thôi hỏi đường
Thấy trăng, đâu nhọc tìm tay ấy.
Kẻ ngu điên đảo sợ sống chết
Người trí thấy suốt nhàn thôi vậy.
心之生兮生死生,
心之滅兮生死滅。
生死元來自性空,
此幻化身亦當滅。
煩惱菩提暗消磨,
地獄天堂自枯竭。
鑊湯爐炭頓清涼,
劍樹刀山立摧折。
聲聞坐禪我無坐,
菩薩說法我實說。
生自妄生死妄死,
四大本空從何起。
莫為渴鹿趁陽燄,
東走西馳無暫已。
法身無去亦無來,
真性無非亦無是。
到家須知罷問程,
見月安能苦尋指。
愚人顛倒怖生死,
智者達官閑而已。
Sinh tử nhàn nhi dĩ
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Tâm chi sinh hề sinh tử sinh,
Tâm chi diệt hề sinh tử diệt.
Sinh tử nguyên lai tự tính không,
Thử huyễn hoá thân diệc đương diệt.
Phiền não Bồ đề ám tiêu ma,
Địa ngục thiên đường tự khô kiệt.
Hoạch thang lô thán đốn thanh lương,
Kiếm thụ đao sơn lập tồi chiết.
Thanh văn toạ thiền ngã vô toạ,
Bồ Tát thuyết pháp ngã thực thuyết.
Sinh tự vọng sinh tử vọng tử,
Tứ đại bản không tòng hà khỉ (khởi)?
Mạc vi khát lộc sấn dương diễm,
Đông tẩu tây trì vô tạm dĩ.
Pháp thân vô khứ diệc vô lai,
Chân tính vô phi diệc vô thị.
Đáo gia tu tri bãi vấn trình,
Kiến nguyệt an năng khổ tầm chỉ.
Ngu nhân điên đảo bố sinh tử,
Trí giả đạt quan nhàn nhi dĩ.
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch:
SỐNG CHẾT NHÀN MÀ THÔI
Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh
Tâm mà diệt chừ sanh tử diệt.
Sanh tử xưa nay tự tánh không
Thân huyễn hóa này rồi sẽ diệt.
Phiền não Bồ-đề thầm tiêu mòn
Địa ngục thiên đường tự khô kiệt.
Lò lửa dầu sôi chóng mát lành
Cây kiếm núi đao liền gãy hết.
Thanh văn ngồi thiền, ta không ngồi
Bồ-tát nói pháp, ta nói thật.
Sống tự dối sống, chết dối chết
Bốn đại vốn không, từ đâu khởi?
Chớ như nai khát đuổi sóng nắng
Chạy đông tìm tây không tạm nghỉ.
Pháp thân không đến cũng không đi
Chân tánh không phải cũng không quấy.
Đến nhà, nên biết thôi hỏi đường
Thấy trăng, đâu nhọc tìm tay ấy.
Kẻ ngu điên đảo sợ sống chết
Người trí thấy suốt nhàn thôi vậy.
Tuệ Trung Thượng Sĩ
放狂吟
天地眺望兮何茫茫,
杖策懮遊兮方外方。
或高高兮雲之山,
或深深兮水之洋。
饑則餐兮和羅飯,
困則眠兮何有鄉。
興時吹兮無孔笛,
靜處焚兮解脫香。
倦小憩兮歡喜地,
渴飽啜兮逍遙湯。
溈山作鄰兮牧水牯,
謝三同舟兮歌滄浪。
訪曹溪兮揖盧氏,
謁石頭兮儕老龐。
樂吾樂兮布袋樂,
狂吾狂兮普化狂。
咄咄浮雲兮富貴,
吁吁過隙兮年光。
胡為兮官途險阻,
叵耐兮世態炎涼。
深則厲兮淺則揭,
用則行兮捨則藏。
放四大兮莫把捉,
了一生兮休奔忙。
適我願兮得我所,
生死相逼兮於我何妨。
Phóng cuồng ngâm
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Thiên địa diểu vọng hề hà mang mang,
Trượng sách ưu du hề phương ngoại phương.
Hoặc cao cao hề vân chi sơn,
Hoặc thâm thâm hề thuỷ chi dương.
Cơ tắc xan hề hoà-la phạn,
Khốn tắc miên hề hà hữu hương.
Hứng thì xuy hề vô khổng địch,
Tĩnh xứ phần hề giải thoát hương.
Quyện tiểu khế hề hoan hỉ địa,
Khát bão xuyết hề tiêu dao thang.
Quy Sơn tác lân hề mục thuỷ cổ,
Tạ Tam đồng chu hề ca “Thương lương”.
Phỏng Tào Khê hề ấp Lư thị,
Yết Thạch Đầu hề sài Lão Bàng.
Lạc ngô lạc hề Bố Đại lạc,
Cuồng ngô cuồng hề Phổ Hoá cuồng.
Đốt đốt phù vân hề phú quý,
Hu hu quá khích hề niên quang.
Hồ vi hề quan đồ hiểm trở,
Phả nại hề thế thái viêm lương.
Thâm tắc lệ hề thiển tắc yết,
Dụng tắc hành hề xả tắc tàng.
Phóng tứ đại hề mạc bả tróc,
Liễu nhất sinh hề hưu bôn mang.
Thích ngã nguyện hề đắc ngã sở,
Sinh tử tương bức hề ư ngã hà phương.
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch:
BÀI NGÂM PHÓNG CUỒNG
Trời đất liếc trông chừ sao thênh thang
Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương.
Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương.
Đói thì ăn chừ cơm tùy ý
Mệt thì ngủ chừ nào có quê hương.
Hứng lên chừ thổi sáo không lỗ
Chỗ lặng chừ đốt giải thoát hương.
Nhọc chút chừ nghỉ đất hoan hỉ
Khát uống no chừ thang tiêu dao.
Qui Sơn láng giềng chừ chăn con trâu nước
Tạ Tam đồng thuyền chừ hát khúc Thương Lang.
Thăm Tào Khê chừ chào Lư Thị
Viếng Thạch Đầu chừ sánh lão Bàng.
Vui ta vui chừ Bố Đại vui
Cuồng ta cuồng chừ Phổ Hóa cuồng.
Chao! Chao! Chừ giàu sang mây nổi
Năm tháng chừ cửa sổ ngựa qua.
Đi càn chừ đường quan hiểm trở
Chịu sao chừ ấm lạnh tình đời.
Sâu thì xắn chừ cạn thì vén.
Dùng thì hành chừ bỏ thì tàng.
Buông bốn đại chừ đừng nắm bắt
Tỉnh một đời chừ thôi chạy quàng.
Thỏa nguyện ta chừ được sở thích
Sống chết bức nhau chừ nơi ta ngại gì.
天地眺望兮何茫茫,
杖策懮遊兮方外方。
或高高兮雲之山,
或深深兮水之洋。
饑則餐兮和羅飯,
困則眠兮何有鄉。
興時吹兮無孔笛,
靜處焚兮解脫香。
倦小憩兮歡喜地,
渴飽啜兮逍遙湯。
溈山作鄰兮牧水牯,
謝三同舟兮歌滄浪。
訪曹溪兮揖盧氏,
謁石頭兮儕老龐。
樂吾樂兮布袋樂,
狂吾狂兮普化狂。
咄咄浮雲兮富貴,
吁吁過隙兮年光。
胡為兮官途險阻,
叵耐兮世態炎涼。
深則厲兮淺則揭,
用則行兮捨則藏。
放四大兮莫把捉,
了一生兮休奔忙。
適我願兮得我所,
生死相逼兮於我何妨。
Phóng cuồng ngâm
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Thiên địa diểu vọng hề hà mang mang,
Trượng sách ưu du hề phương ngoại phương.
Hoặc cao cao hề vân chi sơn,
Hoặc thâm thâm hề thuỷ chi dương.
Cơ tắc xan hề hoà-la phạn,
Khốn tắc miên hề hà hữu hương.
Hứng thì xuy hề vô khổng địch,
Tĩnh xứ phần hề giải thoát hương.
Quyện tiểu khế hề hoan hỉ địa,
Khát bão xuyết hề tiêu dao thang.
Quy Sơn tác lân hề mục thuỷ cổ,
Tạ Tam đồng chu hề ca “Thương lương”.
Phỏng Tào Khê hề ấp Lư thị,
Yết Thạch Đầu hề sài Lão Bàng.
Lạc ngô lạc hề Bố Đại lạc,
Cuồng ngô cuồng hề Phổ Hoá cuồng.
Đốt đốt phù vân hề phú quý,
Hu hu quá khích hề niên quang.
Hồ vi hề quan đồ hiểm trở,
Phả nại hề thế thái viêm lương.
Thâm tắc lệ hề thiển tắc yết,
Dụng tắc hành hề xả tắc tàng.
Phóng tứ đại hề mạc bả tróc,
Liễu nhất sinh hề hưu bôn mang.
Thích ngã nguyện hề đắc ngã sở,
Sinh tử tương bức hề ư ngã hà phương.
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch:
BÀI NGÂM PHÓNG CUỒNG
Trời đất liếc trông chừ sao thênh thang
Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương.
Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương.
Đói thì ăn chừ cơm tùy ý
Mệt thì ngủ chừ nào có quê hương.
Hứng lên chừ thổi sáo không lỗ
Chỗ lặng chừ đốt giải thoát hương.
Nhọc chút chừ nghỉ đất hoan hỉ
Khát uống no chừ thang tiêu dao.
Qui Sơn láng giềng chừ chăn con trâu nước
Tạ Tam đồng thuyền chừ hát khúc Thương Lang.
Thăm Tào Khê chừ chào Lư Thị
Viếng Thạch Đầu chừ sánh lão Bàng.
Vui ta vui chừ Bố Đại vui
Cuồng ta cuồng chừ Phổ Hóa cuồng.
Chao! Chao! Chừ giàu sang mây nổi
Năm tháng chừ cửa sổ ngựa qua.
Đi càn chừ đường quan hiểm trở
Chịu sao chừ ấm lạnh tình đời.
Sâu thì xắn chừ cạn thì vén.
Dùng thì hành chừ bỏ thì tàng.
Buông bốn đại chừ đừng nắm bắt
Tỉnh một đời chừ thôi chạy quàng.
Thỏa nguyện ta chừ được sở thích
Sống chết bức nhau chừ nơi ta ngại gì.
Tuệ Trung Thượng Sĩ
上福堂逍遙禪師
身雖肥遯寓鄉關,
四重恩深未敢寒。
意拙少逢添意氣,
心灰孤守寸心丹。
春回虛對開桃蘂,
風起空聞擊竹竿。
當日到家參問罷,
沒絃琴子請今彈。
Thướng Phúc Đường Tiêu Dao thiền sư
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Thân tuy phì độn ngụ hương quan,
Tứ trọng ân thâm vị cảm hàn.
Ý chuyết thiểu phùng thiêm ý khí,
Tâm hôi cô thủ thốn tâm đan.
Xuân hồi hư đối khai đào nhị,
Phong khởi không văn kích trúc can.
Đương nhật đáo gia tham vấn bãi,
Một huyền cầm tử thỉnh kim đàn.
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch:
LỄ THIỀN SƯ TIÊU DAO Ở PHƯỚC ĐƯỜNG
Thân tuy quê kệch ngụ nơi này
Bốn trọng ân nào dám lãng khuây.
Ý vụng sớm nhờ thêm ý khí
Lòng tàn riêng giữ tấc lòng son.
Xuân về ngắm rỗng hoa đào nở
Gió thổi nghe hờ tiếng trúc lay.
Ngày trước đến nhà thăm hỏi hết
Không dây nay thỉnh dạo cung đàn.
身雖肥遯寓鄉關,
四重恩深未敢寒。
意拙少逢添意氣,
心灰孤守寸心丹。
春回虛對開桃蘂,
風起空聞擊竹竿。
當日到家參問罷,
沒絃琴子請今彈。
Thướng Phúc Đường Tiêu Dao thiền sư
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Thân tuy phì độn ngụ hương quan,
Tứ trọng ân thâm vị cảm hàn.
Ý chuyết thiểu phùng thiêm ý khí,
Tâm hôi cô thủ thốn tâm đan.
Xuân hồi hư đối khai đào nhị,
Phong khởi không văn kích trúc can.
Đương nhật đáo gia tham vấn bãi,
Một huyền cầm tử thỉnh kim đàn.
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch:
LỄ THIỀN SƯ TIÊU DAO Ở PHƯỚC ĐƯỜNG
Thân tuy quê kệch ngụ nơi này
Bốn trọng ân nào dám lãng khuây.
Ý vụng sớm nhờ thêm ý khí
Lòng tàn riêng giữ tấc lòng son.
Xuân về ngắm rỗng hoa đào nở
Gió thổi nghe hờ tiếng trúc lay.
Ngày trước đến nhà thăm hỏi hết
Không dây nay thỉnh dạo cung đàn.
Tuệ Trung Thượng Sĩ
上福堂逍遙禪師
暫來省問古錐禪,
像貌期頤壯且堅。
慧可身慚皮髓記,
趙州天與鶴龜年。
須知世有人中佛,
休怪爐開火裏蓮。
珍重伽陀隨興禮,
幾多漫卻紫茸羶。
Thướng Phúc Đường Tiêu Dao thiền sư
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Tạm lai tỉnh vấn cổ chuỳ thiền,
Tượng mạo kỳ di tráng thả kiên.
Tuệ Khả thân tàm bì tuỷ ký,
Triệu Châu thiên dữ hạc quy niên.
Tu tri thế hữu nhân trung Phật,
Hưu quái lô khai hoả lý liên.
Trân trọng già đà tuỳ hứng lễ,
Kỷ đa mạn khước tử nhung chiên.
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch:
LỄ THIỀN SƯ TIÊU DAO Ở PHƯỚC ĐƯỜNG
Tạm qua thăm hỏi Cổ chùy thiền
Tướng mạo mười mươi khỏe lại bền.
Huệ Khả thân buồn, da tủy ký
Triệu Châu tuổi thọ, hạc qui niên.
Nên biết thế gian người có Phật
Lạ gì lò lửa nở hoa sen.
Trân trọng dâng lên lời tụng hứng
Chớ từ chút ít lễ vật hèn.
暫來省問古錐禪,
像貌期頤壯且堅。
慧可身慚皮髓記,
趙州天與鶴龜年。
須知世有人中佛,
休怪爐開火裏蓮。
珍重伽陀隨興禮,
幾多漫卻紫茸羶。
Thướng Phúc Đường Tiêu Dao thiền sư
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Tạm lai tỉnh vấn cổ chuỳ thiền,
Tượng mạo kỳ di tráng thả kiên.
Tuệ Khả thân tàm bì tuỷ ký,
Triệu Châu thiên dữ hạc quy niên.
Tu tri thế hữu nhân trung Phật,
Hưu quái lô khai hoả lý liên.
Trân trọng già đà tuỳ hứng lễ,
Kỷ đa mạn khước tử nhung chiên.
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch:
LỄ THIỀN SƯ TIÊU DAO Ở PHƯỚC ĐƯỜNG
Tạm qua thăm hỏi Cổ chùy thiền
Tướng mạo mười mươi khỏe lại bền.
Huệ Khả thân buồn, da tủy ký
Triệu Châu tuổi thọ, hạc qui niên.
Nên biết thế gian người có Phật
Lạ gì lò lửa nở hoa sen.
Trân trọng dâng lên lời tụng hứng
Chớ từ chút ít lễ vật hèn.
Tuệ Trung Thượng Sĩ
問福堂大師疾
風水到時波忽動,
火薪交處燄纔生。
方知四大元無際,
一任沿流劍閣行。
Vấn Phước Đường đại sư tật
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Phong thuỷ đáo thì ba hốt động,
Hoả tân giao xứ diễm tài sinh.
Phương tri tứ đại nguyên vô tế,
Nhất nhậm duyên lưu Kiếm Các hành.
Hòa Thượng Thích Thanh Từ Dịch:
THĂM BỆNH ĐẠI SƯ PHƯỚC ĐƯỜNG
Gió, nước gặp nhau sóng dấy lên
Lửa, cây chạm phải chùm lửa bùng.
Mới hay bốn đại không ranh giới
Núi kiếm mặc tình men theo dòng.
風水到時波忽動,
火薪交處燄纔生。
方知四大元無際,
一任沿流劍閣行。
Vấn Phước Đường đại sư tật
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Phong thuỷ đáo thì ba hốt động,
Hoả tân giao xứ diễm tài sinh.
Phương tri tứ đại nguyên vô tế,
Nhất nhậm duyên lưu Kiếm Các hành.
Hòa Thượng Thích Thanh Từ Dịch:
THĂM BỆNH ĐẠI SƯ PHƯỚC ĐƯỜNG
Gió, nước gặp nhau sóng dấy lên
Lửa, cây chạm phải chùm lửa bùng.
Mới hay bốn đại không ranh giới
Núi kiếm mặc tình men theo dòng.
Tuệ Trung Thượng Sĩ
悼先師
一曲無生唱了時,
擔橫篳栗故鄉歸。
上頭打過胡何有,
一箇泥牛任倒騎。
Điệu tiên sư
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Nhất khúc vô sinh xướng liễu thì,
Đảm hoành tất lật cố hương quy.
Thượng đầu đả quá hồ hà hữu,
Nhất cá nê ngưu nhậm đảo ky (kỵ).
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch:
ĐIỆU TIÊN SƯ
Một khúc vô sanh hát vừa im
Vác ngang cây gậy về cố hương.
Đầu trên qua khỏi nơi nào có
Trâu đất tha hồ cỡi ngược lên.
一曲無生唱了時,
擔橫篳栗故鄉歸。
上頭打過胡何有,
一箇泥牛任倒騎。
Điệu tiên sư
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Nhất khúc vô sinh xướng liễu thì,
Đảm hoành tất lật cố hương quy.
Thượng đầu đả quá hồ hà hữu,
Nhất cá nê ngưu nhậm đảo ky (kỵ).
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch:
ĐIỆU TIÊN SƯ
Một khúc vô sanh hát vừa im
Vác ngang cây gậy về cố hương.
Đầu trên qua khỏi nơi nào có
Trâu đất tha hồ cỡi ngược lên.
Tuệ Trung Thượng Sĩ
佛心歌
佛佛佛不可見,
心心心不可說。
若心生時是佛生,
若佛滅時是心滅。
滅心存佛是處無,
滅佛存心何時歇。
欲知佛心生滅心,
直待當來彌勒決。
昔無心,
今無佛,
凡聖人天如電拂。
心體無是亦無非,
佛性非虛又非實。
忽時起,
忽時止,
往古來今徒擬擬。
豈惟埋沒祖宗乘,
更起妖魔自家祟。
欲求心,
休外覓,
本體如如似空寂。
涅槃生死漫羅籠,
煩惱菩提閑對敵。
心即佛,
佛即心,
妙旨明明達古今。
春來自是春花笑,
秋到無非秋水深。
捨妄心,
守真性,
似人尋影而忘鏡。
豈知影現鏡中來,
不覺妄從真裏蹦。
妄來非實亦非虛,
鏡受無邪亦無正。
也無罪,
也無福,
錯比摩尼兼白玉。
玉有瑕兮珠有纇,
性底無紅也無綠。
亦無得,
亦無失,
四十九來是七七。
六度萬行海上波,
三毒九情空裏日。
默默默,
沈沈沈,
萬法之心即佛心。
佛心卻與我心合,
法爾如然亙古今。
行亦禪,
坐亦禪,
一朵紅爐火裏蓮。
沒意氣時添意氣,
得安便處且安便。
咦咦咦,
咄咄咄,
大海中漚閑出沒。
諸行無常一切空,
何處先師覓靈骨。
醒醒著,
著醒醒,
四稜踏地勿欹傾。
阿誰於此信得及,
高步毗盧頂上行。
喝!
Phật tâm ca
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Phật Phật Phật bất khả kiến,
Tâm tâm tâm bất khả thuyết.
Nhược Tâm sinh thì thị Phật sinh,
Nhược Phật diệt thì thị Tâm diệt.
Diệt Tâm tồn Phật thị xứ vô,
Diệt Phật tồn Tâm hà thì yết.
Dục tri Phật Tâm, sinh diệt Tâm,
Trực đãi đương lai Di Lặc quyết.
Tích vô Tâm,
Kim vô Phật,
Phàm thánh nhân thiên như điện phất.
Tâm thể vô thị diệc vô phi,
Phật tính, phi hư hựu phi thật.
Hốt thì khỉ (khởi),
Hốt thì chỉ,
Vãng cổ lai kim đồ nghĩ nghĩ.
Khởi duy mai một tổ tông thừa,
Cánh khởi yêu ma tự gia tuý.
Dục cầu tâm,
Hưu ngoại mịch,
Bản thể như như tự không tịch.
Niết bàn sinh tử mạn la lung,
Phiền não bồ-đề nhàn đối địch.
Tâm tức Phật,
Phật tức Tâm,
Diệu chỉ minh minh đạt cổ câm (kim).
Xuân lai tự thị xuân hoa tiếu,
Thu đáo vô phi thu thuỷ thâm.
Xả vọng tâm,
Thủ chân tính,
Tự nhân tầm ảnh nhi vong kính.
Khởi tri ảnh hiện kính trung lai,
Bất giác vọng tòng chân lý bính.
Vọng lai phi thực diệc phi hư,
Kính thụ vô tà diệc vô chính.
Dã vô tội,
Dã vô phúc,
Thác tỷ ma-ni kiêm bạch ngọc.
Ngọc hữu hà hề, châu hữu lỗi,
Tính để vô hồng dã vô lục.
Diệc vô đắc,
Diệc vô thất,
Tứ thập cửu lai thị thất thất.
Lục độ vạn hạnh hải thượng ba,
Tam độc cửu tình không lý nhật.
Mặc mặc mặc,
Trầm trầm trầm,
Vạn pháp chi tâm tức Phật tâm.
Phật tâm khước dữ ngã tâm hợp,
Pháp nhĩ như nhiên cắng cổ câm (kim).
Hành diệc thiền,
Toạ diệc thiền,
Nhất đoá hồng lô hoả lý liên.
Một ý khí thì thiêm ý khí,
Đắc an tiện xứ thả an tiên (tiện).
Di di di,
Đốt đốt đốt,
Đại hải trung âu nhàn xuất một.
Chư hành vô thường nhất thiết không,
Hà xứ tiên sư mịch linh cốt.
Tinh tinh trước,
Trước tinh tinh,
Tứ lăng đạp địa vật khi khuynh.
A thuỳ ư thử tín đắc cập,
Cao bộ tỳ-lư đính thượng hành.
Hát!
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch:
BÀI CA TÂM PHẬT
Phật! Phật! Phật! Không thể thấy
Tâm! Tâm! Tâm! Không thể nói.
Nếu khi tâm sanh là Phật sanh
Nếu khi Phật diệt là tâm diệt.
Diệt tâm còn Phật chuyện không đâu
Diệt Phật còn tâm khi nào hết?
Muốn biết Phật tâm, sanh diệt tâm
Đợi đến sau này Di-lặc quyết.
Xưa không tâm, nay không Phật
Phàm, Thánh, người, trời như điện chớp.
Tâm thể không thị cũng không phi
Phật tánh chẳng hư cũng chẳng thật.
Bỗng dưng dấy, bỗng dưng dừng
Xưa qua nay lại luống nghĩ bàn.
Đâu chỉ chôn vùi thừa Tổ tông
Lại khiến yêu ma nhà mình lộng.
Muốn tìm tâm, đừng tìm ngoài
Bản thể như nhiên tự rỗng lặng.
Niết-bàn sanh tử buộc ràng suông
Phiền não Bồ-đề đối địch rỗng.
Tâm tức Phật, Phật tức tâm
Diệu chỉ sáng ngời suốt cổ kim.
Xuân đến, tự nhiên hoa xuân nở
Thu về, hiện rõ nước thu sâu.
Bỏ vọng tâm, giữ Chân tánh
Như người tìm bóng mà quên kính.
Đâu biết bóng có từ nơi gương
Chẳng rõ vọng từ trong chân hiện.
Vọng đến không thật cũng không hư
Gương nhận không cong cũng không thẳng.
Cũng không tội, cũng không phước
Lầm sánh ma-ni cùng bạch ngọc.
Ngọc có vết chừ châu có tỳ
Tánh vốn không hồng cũng không lục.
Cũng không được, cũng không mất,
Bảy lần bảy là bốn mươi chín.
Tam độc cửu tình nhật trong không
Lục độ vạn hạnh sóng trên biển.
Lặng, lặng, lặng, chìm, chìm, chìm
Cái tâm muôn pháp là tâm Phật.
Tâm Phật lại cùng tâm ta hợp
Lẽ ấy như nhiên suốt cổ kim.
Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền
Trong lò lửa rực, một hoa sen.
Ý khí mất thì thêm ý khí
Được nơi an tiện hãy an tiện.
Chao! Chao! Chao! Ối! Ối! Ối!
Bọt trong biển cả nổi chìm rỗng.
Các hạnh vô thường tất cả không
Linh cốt Tiên sư chỗ nào thấy?
Tỉnh tỉnh thức, thức tỉnh tỉnh
Bốn góc đạp đất chớ chinh nghiêng.
Người nào nơi đây tin được đến
Trên đảnh Tỳ-lô cất bước đi
Hét!
佛佛佛不可見,
心心心不可說。
若心生時是佛生,
若佛滅時是心滅。
滅心存佛是處無,
滅佛存心何時歇。
欲知佛心生滅心,
直待當來彌勒決。
昔無心,
今無佛,
凡聖人天如電拂。
心體無是亦無非,
佛性非虛又非實。
忽時起,
忽時止,
往古來今徒擬擬。
豈惟埋沒祖宗乘,
更起妖魔自家祟。
欲求心,
休外覓,
本體如如似空寂。
涅槃生死漫羅籠,
煩惱菩提閑對敵。
心即佛,
佛即心,
妙旨明明達古今。
春來自是春花笑,
秋到無非秋水深。
捨妄心,
守真性,
似人尋影而忘鏡。
豈知影現鏡中來,
不覺妄從真裏蹦。
妄來非實亦非虛,
鏡受無邪亦無正。
也無罪,
也無福,
錯比摩尼兼白玉。
玉有瑕兮珠有纇,
性底無紅也無綠。
亦無得,
亦無失,
四十九來是七七。
六度萬行海上波,
三毒九情空裏日。
默默默,
沈沈沈,
萬法之心即佛心。
佛心卻與我心合,
法爾如然亙古今。
行亦禪,
坐亦禪,
一朵紅爐火裏蓮。
沒意氣時添意氣,
得安便處且安便。
咦咦咦,
咄咄咄,
大海中漚閑出沒。
諸行無常一切空,
何處先師覓靈骨。
醒醒著,
著醒醒,
四稜踏地勿欹傾。
阿誰於此信得及,
高步毗盧頂上行。
喝!
Phật tâm ca
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Phật Phật Phật bất khả kiến,
Tâm tâm tâm bất khả thuyết.
Nhược Tâm sinh thì thị Phật sinh,
Nhược Phật diệt thì thị Tâm diệt.
Diệt Tâm tồn Phật thị xứ vô,
Diệt Phật tồn Tâm hà thì yết.
Dục tri Phật Tâm, sinh diệt Tâm,
Trực đãi đương lai Di Lặc quyết.
Tích vô Tâm,
Kim vô Phật,
Phàm thánh nhân thiên như điện phất.
Tâm thể vô thị diệc vô phi,
Phật tính, phi hư hựu phi thật.
Hốt thì khỉ (khởi),
Hốt thì chỉ,
Vãng cổ lai kim đồ nghĩ nghĩ.
Khởi duy mai một tổ tông thừa,
Cánh khởi yêu ma tự gia tuý.
Dục cầu tâm,
Hưu ngoại mịch,
Bản thể như như tự không tịch.
Niết bàn sinh tử mạn la lung,
Phiền não bồ-đề nhàn đối địch.
Tâm tức Phật,
Phật tức Tâm,
Diệu chỉ minh minh đạt cổ câm (kim).
Xuân lai tự thị xuân hoa tiếu,
Thu đáo vô phi thu thuỷ thâm.
Xả vọng tâm,
Thủ chân tính,
Tự nhân tầm ảnh nhi vong kính.
Khởi tri ảnh hiện kính trung lai,
Bất giác vọng tòng chân lý bính.
Vọng lai phi thực diệc phi hư,
Kính thụ vô tà diệc vô chính.
Dã vô tội,
Dã vô phúc,
Thác tỷ ma-ni kiêm bạch ngọc.
Ngọc hữu hà hề, châu hữu lỗi,
Tính để vô hồng dã vô lục.
Diệc vô đắc,
Diệc vô thất,
Tứ thập cửu lai thị thất thất.
Lục độ vạn hạnh hải thượng ba,
Tam độc cửu tình không lý nhật.
Mặc mặc mặc,
Trầm trầm trầm,
Vạn pháp chi tâm tức Phật tâm.
Phật tâm khước dữ ngã tâm hợp,
Pháp nhĩ như nhiên cắng cổ câm (kim).
Hành diệc thiền,
Toạ diệc thiền,
Nhất đoá hồng lô hoả lý liên.
Một ý khí thì thiêm ý khí,
Đắc an tiện xứ thả an tiên (tiện).
Di di di,
Đốt đốt đốt,
Đại hải trung âu nhàn xuất một.
Chư hành vô thường nhất thiết không,
Hà xứ tiên sư mịch linh cốt.
Tinh tinh trước,
Trước tinh tinh,
Tứ lăng đạp địa vật khi khuynh.
A thuỳ ư thử tín đắc cập,
Cao bộ tỳ-lư đính thượng hành.
Hát!
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch:
BÀI CA TÂM PHẬT
Phật! Phật! Phật! Không thể thấy
Tâm! Tâm! Tâm! Không thể nói.
Nếu khi tâm sanh là Phật sanh
Nếu khi Phật diệt là tâm diệt.
Diệt tâm còn Phật chuyện không đâu
Diệt Phật còn tâm khi nào hết?
Muốn biết Phật tâm, sanh diệt tâm
Đợi đến sau này Di-lặc quyết.
Xưa không tâm, nay không Phật
Phàm, Thánh, người, trời như điện chớp.
Tâm thể không thị cũng không phi
Phật tánh chẳng hư cũng chẳng thật.
Bỗng dưng dấy, bỗng dưng dừng
Xưa qua nay lại luống nghĩ bàn.
Đâu chỉ chôn vùi thừa Tổ tông
Lại khiến yêu ma nhà mình lộng.
Muốn tìm tâm, đừng tìm ngoài
Bản thể như nhiên tự rỗng lặng.
Niết-bàn sanh tử buộc ràng suông
Phiền não Bồ-đề đối địch rỗng.
Tâm tức Phật, Phật tức tâm
Diệu chỉ sáng ngời suốt cổ kim.
Xuân đến, tự nhiên hoa xuân nở
Thu về, hiện rõ nước thu sâu.
Bỏ vọng tâm, giữ Chân tánh
Như người tìm bóng mà quên kính.
Đâu biết bóng có từ nơi gương
Chẳng rõ vọng từ trong chân hiện.
Vọng đến không thật cũng không hư
Gương nhận không cong cũng không thẳng.
Cũng không tội, cũng không phước
Lầm sánh ma-ni cùng bạch ngọc.
Ngọc có vết chừ châu có tỳ
Tánh vốn không hồng cũng không lục.
Cũng không được, cũng không mất,
Bảy lần bảy là bốn mươi chín.
Tam độc cửu tình nhật trong không
Lục độ vạn hạnh sóng trên biển.
Lặng, lặng, lặng, chìm, chìm, chìm
Cái tâm muôn pháp là tâm Phật.
Tâm Phật lại cùng tâm ta hợp
Lẽ ấy như nhiên suốt cổ kim.
Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền
Trong lò lửa rực, một hoa sen.
Ý khí mất thì thêm ý khí
Được nơi an tiện hãy an tiện.
Chao! Chao! Chao! Ối! Ối! Ối!
Bọt trong biển cả nổi chìm rỗng.
Các hạnh vô thường tất cả không
Linh cốt Tiên sư chỗ nào thấy?
Tỉnh tỉnh thức, thức tỉnh tỉnh
Bốn góc đạp đất chớ chinh nghiêng.
Người nào nơi đây tin được đến
Trên đảnh Tỳ-lô cất bước đi
Hét!
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục Giảng Giải
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Thi Ca 12
Dịch:
BẢO HỌC GIẢ
Học giả rối bời biết là sao
Luống đem gạch ngói uổng công mài.
Bảo anh thôi chớ nương cửa khác
Một điểm ánh xuân chốn chốn hoa.
Giảng:
Bảo học giả là khuyên người trí thức chớ nghiên cứu tìm tòi.
Học giả rối bời biết là sao
Luống đem gạch ngói uổng công mài.
Học giả là người chuyên nghiên cứu sách vở, để tìm tòi những điều hay đẹp ở trong ấy, nên tâm họ luôn rối bời, do đó mà không đạt được chỗ chân thật cứu kính, giống như người đem gạch ngói mài để làm gương. Câu này Thượng Sĩ dẫn chuyện mài gạch của Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng. Sau khi đắc pháp nơi Lục Tổ, Thiền sư Hoài Nhượng đến trụ ở dãy Hoành Nhạc. Một hôm đi dạo núi thấy một vị Tăng tên Đạo Nhất ngồi thiền trên phiến đá, Ngài đi đến hỏi:
- Đại đức ngồi thiền để làm gì?
Đạo Nhất thưa:
- Để làm Phật.
Sau đó Ngài lấy một cục gạch đến trên phiến đá trước am Đạo Nhất ngồi mài, Đạo Nhất thấy lạ hỏi:
- Hòa thượng mài gạch để làm gì?
- Mài để làm gương.
- Mài gạch đâu có thể thành gương được?
- Ngồi thiền đâu có thể thành Phật được?
- Vậy làm thế nào mới phải?
- Như trâu kéo xe, xe không đi, vậy đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?
Dốt nát như chúng ta, ai cũng biết đánh trâu là phải. Thí dụ này rất hay, con trâu kéo xe, xe là cái bị động, trâu là cái chủ động, muốn cái bị động di chuyển thì phải điều khiển cái chủ động.
Đạo Nhất lặng thinh. Ngài nói tiếp:
- Ông học ngồi Thiền hay học ngồi Phật? Nếu học ngồi thiền, thiền không phải ngồi nằm. Nếu học ngồi Phật, Phật không có tướng nhất định, đối pháp không trụ, chẳng nên thủ xả, ông nếu ngồi Phật tức là giết Phật, nếu chấp tướng ngồi chẳng đạt ý kia.
Hằng ngày Phật không những ngồi mà còn đi khất thực, tối còn nằm nghỉ. Vậy lúc đi lúc nằm gọi là gì? Ngồi cũng Phật mà đi cũng Phật, nói nín đều là Phật. Như quí thầy tu lúc ngồi là thầy tu hay đi đứng là thầy tu? Nếu vô chùa thấy quí thầy quí cô ngồi thiền nói quí thầy quí cô tu, một lát quí thầy quí cô xả thiền có tu không? Dầu ngồi hay đi bất cứ ở hành động nào cũng là thầy tu. Cũng vậy Phật ở trong hành động nào cũng là Phật. Tóm lại, ý Thượng Sĩ muốn nhắc chúng ta rằng, khi tu đừng chấp vào hình thức nào cố định, hình thức chỉ là phương tiện chớ không phải cứu kính. Phương tiện nào thích hợp và giúp cho chúng ta tiến đạo thì chúng ta ứng dụng. Ví dụ chúng ta muốn tâm được yên tịnh mà nằm ngủ mãi ngáy pho pho thì tâm không an định. Đi dạo chơi với huynh này huynh kia, nói chuyện năm trước năm sau thì tâm không an định. Tốt hơn hết là ngồi lại nghiêm chỉnh ngó xuống, không có chuyện gì rối rắm, nhưng phải biết ngồi là phương tiện chớ không phải cứu kính, nếu nói ngồi thiền là cứu kính ấy là sai. Cho nên chư Tổ sau này nói tu trong bốn oai nghi, chớ không hạn cuộc vào một oai nghi nào. Nhưng trong bốn oai nghi, ngồi là thù thắng hơn hết, nên chúng ta lấy phương tiện thù thắng mà ứng dụng. Phải nói rõ cho quí vị hiểu, chớ không khéo mai kia một vài Sư nào đó hỏi rằng: “Tại sao Tổ quở ngồi thiền, mà ở đây Thầy chủ trương ngồi, vậy là đã trái ý Tổ.” Nói nghe hay lắm nhưng nếu không ngồi thiền thì làm gì? Đi tới đi lui nói chuyện tạp tâm loạn tưởng, thêm phiền não chớ không lợi ích gì, nên tôi bắt ngồi. Thượng Sĩ nói “luống đem gạch ngói uổng công mài”. Mài gạch ngói để làm gương là việc làm phí công vô ích.
Bảo anh thôi chớ nương cửa khác
Một điểm ánh xuân chốn chốn hoa.
Thôi anh đừng tới nhà người mà trông cậy người ta chỉ dạy, chỉ cần một điểm sáng của mùa Xuân thì tất cả hoa đều đua nhau nở rộ. Nghĩa là hoa đã có sẵn cái mầm ở trong thân cây, chỉ cần ánh nắng mùa Xuân chiếu tới thì nó nở, chớ không cần tìm kiếm đâu xa. Cũng vậy ở nơi mỗi chúng ta đều có sẵn cái mầm giác ngộ, chỉ cần nhân duyên thuận tiện thì nó bừng sáng, chớ nên tìm kiếm trông chờ ở bên ngoài.
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Thi Ca 12
Dịch:
BẢO HỌC GIẢ
Học giả rối bời biết là sao
Luống đem gạch ngói uổng công mài.
Bảo anh thôi chớ nương cửa khác
Một điểm ánh xuân chốn chốn hoa.
Giảng:
Bảo học giả là khuyên người trí thức chớ nghiên cứu tìm tòi.
Học giả rối bời biết là sao
Luống đem gạch ngói uổng công mài.
Học giả là người chuyên nghiên cứu sách vở, để tìm tòi những điều hay đẹp ở trong ấy, nên tâm họ luôn rối bời, do đó mà không đạt được chỗ chân thật cứu kính, giống như người đem gạch ngói mài để làm gương. Câu này Thượng Sĩ dẫn chuyện mài gạch của Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng. Sau khi đắc pháp nơi Lục Tổ, Thiền sư Hoài Nhượng đến trụ ở dãy Hoành Nhạc. Một hôm đi dạo núi thấy một vị Tăng tên Đạo Nhất ngồi thiền trên phiến đá, Ngài đi đến hỏi:
- Đại đức ngồi thiền để làm gì?
Đạo Nhất thưa:
- Để làm Phật.
Sau đó Ngài lấy một cục gạch đến trên phiến đá trước am Đạo Nhất ngồi mài, Đạo Nhất thấy lạ hỏi:
- Hòa thượng mài gạch để làm gì?
- Mài để làm gương.
- Mài gạch đâu có thể thành gương được?
- Ngồi thiền đâu có thể thành Phật được?
- Vậy làm thế nào mới phải?
- Như trâu kéo xe, xe không đi, vậy đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?
Dốt nát như chúng ta, ai cũng biết đánh trâu là phải. Thí dụ này rất hay, con trâu kéo xe, xe là cái bị động, trâu là cái chủ động, muốn cái bị động di chuyển thì phải điều khiển cái chủ động.
Đạo Nhất lặng thinh. Ngài nói tiếp:
- Ông học ngồi Thiền hay học ngồi Phật? Nếu học ngồi thiền, thiền không phải ngồi nằm. Nếu học ngồi Phật, Phật không có tướng nhất định, đối pháp không trụ, chẳng nên thủ xả, ông nếu ngồi Phật tức là giết Phật, nếu chấp tướng ngồi chẳng đạt ý kia.
Hằng ngày Phật không những ngồi mà còn đi khất thực, tối còn nằm nghỉ. Vậy lúc đi lúc nằm gọi là gì? Ngồi cũng Phật mà đi cũng Phật, nói nín đều là Phật. Như quí thầy tu lúc ngồi là thầy tu hay đi đứng là thầy tu? Nếu vô chùa thấy quí thầy quí cô ngồi thiền nói quí thầy quí cô tu, một lát quí thầy quí cô xả thiền có tu không? Dầu ngồi hay đi bất cứ ở hành động nào cũng là thầy tu. Cũng vậy Phật ở trong hành động nào cũng là Phật. Tóm lại, ý Thượng Sĩ muốn nhắc chúng ta rằng, khi tu đừng chấp vào hình thức nào cố định, hình thức chỉ là phương tiện chớ không phải cứu kính. Phương tiện nào thích hợp và giúp cho chúng ta tiến đạo thì chúng ta ứng dụng. Ví dụ chúng ta muốn tâm được yên tịnh mà nằm ngủ mãi ngáy pho pho thì tâm không an định. Đi dạo chơi với huynh này huynh kia, nói chuyện năm trước năm sau thì tâm không an định. Tốt hơn hết là ngồi lại nghiêm chỉnh ngó xuống, không có chuyện gì rối rắm, nhưng phải biết ngồi là phương tiện chớ không phải cứu kính, nếu nói ngồi thiền là cứu kính ấy là sai. Cho nên chư Tổ sau này nói tu trong bốn oai nghi, chớ không hạn cuộc vào một oai nghi nào. Nhưng trong bốn oai nghi, ngồi là thù thắng hơn hết, nên chúng ta lấy phương tiện thù thắng mà ứng dụng. Phải nói rõ cho quí vị hiểu, chớ không khéo mai kia một vài Sư nào đó hỏi rằng: “Tại sao Tổ quở ngồi thiền, mà ở đây Thầy chủ trương ngồi, vậy là đã trái ý Tổ.” Nói nghe hay lắm nhưng nếu không ngồi thiền thì làm gì? Đi tới đi lui nói chuyện tạp tâm loạn tưởng, thêm phiền não chớ không lợi ích gì, nên tôi bắt ngồi. Thượng Sĩ nói “luống đem gạch ngói uổng công mài”. Mài gạch ngói để làm gương là việc làm phí công vô ích.
Bảo anh thôi chớ nương cửa khác
Một điểm ánh xuân chốn chốn hoa.
Thôi anh đừng tới nhà người mà trông cậy người ta chỉ dạy, chỉ cần một điểm sáng của mùa Xuân thì tất cả hoa đều đua nhau nở rộ. Nghĩa là hoa đã có sẵn cái mầm ở trong thân cây, chỉ cần ánh nắng mùa Xuân chiếu tới thì nó nở, chớ không cần tìm kiếm đâu xa. Cũng vậy ở nơi mỗi chúng ta đều có sẵn cái mầm giác ngộ, chỉ cần nhân duyên thuận tiện thì nó bừng sáng, chớ nên tìm kiếm trông chờ ở bên ngoài.
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục Giảng Giải
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Thi Ca 12
Dịch:
BẢO CHÚNG (1)
Thôi tìm Thiếu Thất với Tào Khê
Thể tánh sáng ngời chửa từng mê.
Trăng cổ chiếu soi nào cận viễn
Gió trời thổi mát thấp cao chê.
Ánh thu đen trắng tùy duyên sắc
Sen nở thơm hồng bùn chẳng hề.
Diệu khúc xưa nay cần cứ hát
Chớ tìm nam bắc với đông tê.
Giảng:
Bài này Thượng Sĩ nhắc nhở chúng ta tu, nên gọi là Bảo Chúng. Chúng ở đây gồm có hai hạng xuất gia và tại gia, là những người đến học với Ngài. Ngài khuyên rằng:
Thôi tìm Thiếu Thất với Tào Khê
Thể tánh sáng ngời chửa từng mê.
Thượng Sĩ khuyên chúng ta muốn tu muốn đạt được đạo, không phải tìm tới Thiếu Lâm chỗ Tổ Bồ-đề-đạt-ma ở, hay phải tìm tới Tào Khê chỗ Lục tổ Huệ Năng trụ xứ giáo hóa mới tu được. Vì hai nơi đó tuy là chỗ của Sơ Tổ và Lục Tổ nhưng nó là cảnh tướng, có chỗ nơi không phải là gốc của sự giác ngộ. Gốc của sự giác ngộ là “Thể tánh sáng ngời chửa từng mê”. Mỗi chúng ta ai cũng có Thể tánh sáng suốt lúc nào cũng hiện tiền chưa từng bị mê, vậy mà chúng ta không nhận ra. Sở dĩ chúng ta không nhận ra Thể tánh sáng suốt của chính mình là, tại những vọng niệm lăng xăng tiếp nối lôi kéo chúng ta cứ chạy theo nó, mà quên mất Thể tánh sáng suốt của mình. Như vậy muốn được giác ngộ không phải tới Tào Khê hay Thiếu Thất, mà phải khéo buông bỏ những vọng niệm lăng xăng nơi tâm mình thì Thể tánh sáng ngời hiện tiền, chớ không tìm kiếm đâu xa.
Trăng cổ chiếu soi nào cận viễn
Gió trời thổi mát thấp cao chê.
Mặt trăng xưa chiếu ánh sáng xuống mọi vật một cách đầy đủ và bình đẳng, không câu nệ xa gần. Gió từ phương trời thổi lại, nó không chê chỗ thấp chọn chỗ cao, cao thấp nó đều thổi bình đẳng. Tuy nhiên, chỗ khuất lấp thì gió thổi tạt lên chỗ cao, đó là tại chỗ nơi chớ không phải tại gió lựa chọn. Đó là hai hình ảnh trăng cổ gió trời không phân biệt xa gần cao thấp.
Ánh thu đen trắng tùy duyên sắc
Sen nở thơm hồng bùn chẳng hề.
Bầu trời mùa Thu có ánh trăng sáng trong, nhưng ánh sáng ấy không nhất định màu vàng, màu xanh hay màu trắng, mà tùy duyên. Nếu cảnh vật trắng thì nó hiện sắc trắng. Cảnh vật xanh nó hiện sắc xanh, đỏ thì nó hiện sắc đỏ. Ánh sáng vàng, xanh v.v... là tại những hình sắc bên ngoài: Như ánh sáng đang chiếu mà chúng ta để hạt lưu-ly ở trên miếng giấy đỏ thì thấy ánh sáng màu đỏ, để trên miếng giấy xanh thấy ánh sáng màu xanh v.v... Như vậy phản ảnh màu này màu nọ là tại màu sắc chớ ánh sáng không có màu này màu nọ. Hoa sen nở ra từ dưới bùn mà nó không hề bị bùn làm cho hôi hám. Đó là những hình ảnh trăng cổ, gió trời, ánh sáng mùa thu, hoa sen nở, tất cả những thứ đó đều không có phân biệt so sánh gần xa, cao thấp, trắng đen và thơm hôi. Nghĩa là nó không bị sự so sánh làm cho mất đi tính chất bình đẳng. Thượng Sĩ mượn cái bình đẳng để nói lên Thể sáng ngời của chúng ta nó cũng không phân biệt xa gần, cao thấp, trắng đen hay thơm hôi. Sở dĩ có những cái phân biệt đó là do tùy duyên bên ngoài như thế nào thấy như thế ấy. Ý Thượng Sĩ nói: nơi mọi người chúng ta có sẵn cái Thể tánh bình đẳng trong sáng, chưa bao giờ có niệm phân biệt so sánh. Nếu khởi niệm phân biệt so sánh là thiếu bình đẳng tự nhiên.
Diệu khúc xưa nay cần cứ hát
Chớ tìm nam bắc với đông tê.
Diệu khúc là bản nhạc nhiệm mầu có sẵn từ xưa tới nay, nếu cần thì cứ hát, chớ đừng tìm tới phương Nam, phương Tây, phương Bắc. Theo Thượng Sĩ bản nhạc nhiệm mầu này chỉ cho Thể tánh sáng ngời hằng hữu nơi mỗi chúng ta. Cứ sống với Thể tánh ấy đừng chạy nơi này nơi nọ tìm kiếm vô ích.
Bài thơ này Thượng Sĩ dạy chúng ta, là người học đạo muốn sáng được đạo thì phải nhận nơi mình có Thể tánh sáng suốt bình đẳng, không bị cái so sánh phân biệt che lấp. Nó đã có sẵn cứ ngay đó mà sống, đừng tìm kiếm phí công.
Vậy quí vị đã hát được bản nhạc nhiệm mầu mà Thượng Sĩ nói chưa, hay chỉ hát những bài ca thế tục? Những bản nhạc thế tục thì dễ nhớ, còn diệu khúc này thì mau quên! Tại chúng ta chạy theo sáu trần mà quên nó chớ nó đâu có mất.
Tóm lại, bài này Thượng Sĩ khuyên người tu Phật, phải trực nhận nơi mình có sẵn cái Thể tánh sáng suốt không bao giờ mê mờ, tại chúng ta chạy theo vọng tưởng quên nó mà thôi. Biết rồi thì đừng thắc mắc rằng mình ở đây tu lâu ngộ, phải tới Thiếu Lâm hay Tào Khê tu mới mau ngộ. Đừng có khao khát ước mơ tìm kiếm đâu xa, mà phải quay lại nơi mình nhận ra tánh sáng suốt của mình và hằng sống với nó. Nếu khởi niệm phân biệt so sánh thì Thể tánh sáng suốt bị che khuất, Thượng Sĩ muốn cụ thể hóa cho nên nói bản nhạc xưa có sẵn, muốn hát lúc nào thì hát, đừng tìm kiếm ở đâu xa. Đó là lời nhắc nhở của Thượng Sĩ, ai là người học đạo phải mau hiểu lấy.
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Thi Ca 12
Dịch:
BẢO CHÚNG (1)
Thôi tìm Thiếu Thất với Tào Khê
Thể tánh sáng ngời chửa từng mê.
Trăng cổ chiếu soi nào cận viễn
Gió trời thổi mát thấp cao chê.
Ánh thu đen trắng tùy duyên sắc
Sen nở thơm hồng bùn chẳng hề.
Diệu khúc xưa nay cần cứ hát
Chớ tìm nam bắc với đông tê.
Giảng:
Bài này Thượng Sĩ nhắc nhở chúng ta tu, nên gọi là Bảo Chúng. Chúng ở đây gồm có hai hạng xuất gia và tại gia, là những người đến học với Ngài. Ngài khuyên rằng:
Thôi tìm Thiếu Thất với Tào Khê
Thể tánh sáng ngời chửa từng mê.
Thượng Sĩ khuyên chúng ta muốn tu muốn đạt được đạo, không phải tìm tới Thiếu Lâm chỗ Tổ Bồ-đề-đạt-ma ở, hay phải tìm tới Tào Khê chỗ Lục tổ Huệ Năng trụ xứ giáo hóa mới tu được. Vì hai nơi đó tuy là chỗ của Sơ Tổ và Lục Tổ nhưng nó là cảnh tướng, có chỗ nơi không phải là gốc của sự giác ngộ. Gốc của sự giác ngộ là “Thể tánh sáng ngời chửa từng mê”. Mỗi chúng ta ai cũng có Thể tánh sáng suốt lúc nào cũng hiện tiền chưa từng bị mê, vậy mà chúng ta không nhận ra. Sở dĩ chúng ta không nhận ra Thể tánh sáng suốt của chính mình là, tại những vọng niệm lăng xăng tiếp nối lôi kéo chúng ta cứ chạy theo nó, mà quên mất Thể tánh sáng suốt của mình. Như vậy muốn được giác ngộ không phải tới Tào Khê hay Thiếu Thất, mà phải khéo buông bỏ những vọng niệm lăng xăng nơi tâm mình thì Thể tánh sáng ngời hiện tiền, chớ không tìm kiếm đâu xa.
Trăng cổ chiếu soi nào cận viễn
Gió trời thổi mát thấp cao chê.
Mặt trăng xưa chiếu ánh sáng xuống mọi vật một cách đầy đủ và bình đẳng, không câu nệ xa gần. Gió từ phương trời thổi lại, nó không chê chỗ thấp chọn chỗ cao, cao thấp nó đều thổi bình đẳng. Tuy nhiên, chỗ khuất lấp thì gió thổi tạt lên chỗ cao, đó là tại chỗ nơi chớ không phải tại gió lựa chọn. Đó là hai hình ảnh trăng cổ gió trời không phân biệt xa gần cao thấp.
Ánh thu đen trắng tùy duyên sắc
Sen nở thơm hồng bùn chẳng hề.
Bầu trời mùa Thu có ánh trăng sáng trong, nhưng ánh sáng ấy không nhất định màu vàng, màu xanh hay màu trắng, mà tùy duyên. Nếu cảnh vật trắng thì nó hiện sắc trắng. Cảnh vật xanh nó hiện sắc xanh, đỏ thì nó hiện sắc đỏ. Ánh sáng vàng, xanh v.v... là tại những hình sắc bên ngoài: Như ánh sáng đang chiếu mà chúng ta để hạt lưu-ly ở trên miếng giấy đỏ thì thấy ánh sáng màu đỏ, để trên miếng giấy xanh thấy ánh sáng màu xanh v.v... Như vậy phản ảnh màu này màu nọ là tại màu sắc chớ ánh sáng không có màu này màu nọ. Hoa sen nở ra từ dưới bùn mà nó không hề bị bùn làm cho hôi hám. Đó là những hình ảnh trăng cổ, gió trời, ánh sáng mùa thu, hoa sen nở, tất cả những thứ đó đều không có phân biệt so sánh gần xa, cao thấp, trắng đen và thơm hôi. Nghĩa là nó không bị sự so sánh làm cho mất đi tính chất bình đẳng. Thượng Sĩ mượn cái bình đẳng để nói lên Thể sáng ngời của chúng ta nó cũng không phân biệt xa gần, cao thấp, trắng đen hay thơm hôi. Sở dĩ có những cái phân biệt đó là do tùy duyên bên ngoài như thế nào thấy như thế ấy. Ý Thượng Sĩ nói: nơi mọi người chúng ta có sẵn cái Thể tánh bình đẳng trong sáng, chưa bao giờ có niệm phân biệt so sánh. Nếu khởi niệm phân biệt so sánh là thiếu bình đẳng tự nhiên.
Diệu khúc xưa nay cần cứ hát
Chớ tìm nam bắc với đông tê.
Diệu khúc là bản nhạc nhiệm mầu có sẵn từ xưa tới nay, nếu cần thì cứ hát, chớ đừng tìm tới phương Nam, phương Tây, phương Bắc. Theo Thượng Sĩ bản nhạc nhiệm mầu này chỉ cho Thể tánh sáng ngời hằng hữu nơi mỗi chúng ta. Cứ sống với Thể tánh ấy đừng chạy nơi này nơi nọ tìm kiếm vô ích.
Bài thơ này Thượng Sĩ dạy chúng ta, là người học đạo muốn sáng được đạo thì phải nhận nơi mình có Thể tánh sáng suốt bình đẳng, không bị cái so sánh phân biệt che lấp. Nó đã có sẵn cứ ngay đó mà sống, đừng tìm kiếm phí công.
Vậy quí vị đã hát được bản nhạc nhiệm mầu mà Thượng Sĩ nói chưa, hay chỉ hát những bài ca thế tục? Những bản nhạc thế tục thì dễ nhớ, còn diệu khúc này thì mau quên! Tại chúng ta chạy theo sáu trần mà quên nó chớ nó đâu có mất.
Tóm lại, bài này Thượng Sĩ khuyên người tu Phật, phải trực nhận nơi mình có sẵn cái Thể tánh sáng suốt không bao giờ mê mờ, tại chúng ta chạy theo vọng tưởng quên nó mà thôi. Biết rồi thì đừng thắc mắc rằng mình ở đây tu lâu ngộ, phải tới Thiếu Lâm hay Tào Khê tu mới mau ngộ. Đừng có khao khát ước mơ tìm kiếm đâu xa, mà phải quay lại nơi mình nhận ra tánh sáng suốt của mình và hằng sống với nó. Nếu khởi niệm phân biệt so sánh thì Thể tánh sáng suốt bị che khuất, Thượng Sĩ muốn cụ thể hóa cho nên nói bản nhạc xưa có sẵn, muốn hát lúc nào thì hát, đừng tìm kiếm ở đâu xa. Đó là lời nhắc nhở của Thượng Sĩ, ai là người học đạo phải mau hiểu lấy.
Được cảm ơn bởi: vn007
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục Giảng Giải
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Thi Ca 12
Dịch:
BẢO CHÚNG (2)
Người đời ưa vọng chẳng ưa chân
Chân vọng tâm kia cũng là trần.
Cốt muốn nhảy thẳng lên bờ ấy
Hãy tham đồng tử đang có đây.
Giảng:
Người đời ưa vọng chẳng ưa chân.
Người đời ưa vọng chẳng ưa chân là phải rồi, còn người tu thì ưa chân chẳng ưa vọng hay như người đời ưa vọng không ưa chân? Nhưng Thượng Sĩ nói:
Chân vọng tâm kia cũng là trần.
Tâm chân tâm vọng cả hai thuộc về trần, tức là thuộc về sanh diệt. Cái vọng thuộc về trần, nó sanh diệt là phải, nhưng sao cái chân cũng thuộc sanh diệt? - Thể tánh bất sanh bất diệt, tự nó không nói là chân hay vọng. Vì tâm chúng ta còn nhiều vọng niệm lăng xăng nên gọi là vọng, khi chúng ta buông những vọng niệm, tâm yên lặng tạm gọi là chân. Nói chân là do có vọng mà nói, nếu vọng hết rồi thì chân cũng không còn. Cũng như cái nhà này chúng ta nói sáng vì không có bóng tối, nói tối là do không có ánh sáng. Song, ai cũng ưa sáng mà không ưa tối, nhưng nếu không có tối thì có sáng không? Ngược lại cũng vậy. Giả sử ở nơi nào đó chưa bao giờ có đêm thì có ngày không? Sở dĩ có tối có sáng là do đối đãi nhau mà lập không phải thật. Cũng như nói vọng là đối với chân mà nói, nói chân là đối với vọng mà nói. Thể tánh sáng suốt không thuộc chân vọng vì chân vọng là hai cái giả lập.
Cốt muốn nhảy thẳng lên bờ ấy.
Bờ ấy là chỉ cho bờ giác hay là Niết-bàn. Muốn nhảy thẳng đến bờ giác thì phải:
Hãy tham đồng tử đang có đây.
Phải tham vấn chú bé đang ở đây. Chú bé đang ở đây là chú bé nào? Chữ này có hai cách giải. Trong kinh Hoa Nghiêm thường gọi Bồ-tát là đồng tử. Đồng tử là chỉ cho những đứa bé, tại sao gọi Bồ-tát là đồng tử? Bồ-tát gọi là giác mà cái giác của Bồ-tát đối với cái giác của Phật thì chưa viên mãn, Bồ-tát thì từng phần giác chớ chưa giác ngộ viên mãn như Phật. Như người đứng tuổi thì các bộ phận trong cơ thể và sự khôn ngoan sáng suốt phát triển đầy đủ, còn đứa bé thì các bộ phận trong cơ thể tuy đủ, nhưng chưa phát triển toàn diện, nên đối với người lớn thì nó là đứa bé. Cũng vậy đứng về mặt giác ngộ thì đức Phật đã viên mãn nên coi như người lớn, Bồ-tát mới giác ngộ từng phần nên đối với Phật coi như là đứa bé, cho nên các kinh Đại thừa thường gọi Bồ-tát là đồng tử. Nhưng đồng tử đối với Phật chớ không phải đối với chúng ta. Chúng ta thì thấy Bồ-tát là những vị trưởng thượng, chỉ có Phật mới coi Bồ-tát như đứa bé thôi. Đó là nói theo kinh. Nhưng ở đây thì khác, Thượng Sĩ nói người tu muốn nhảy thẳng tới bờ giác ngộ thì phải tham vấn đồng tử đang có đây, tức là muốn giác ngộ thì phải nhận ra cái Tánh giác sẵn có nơi mình, chớ đừng tìm đâu xa hết. Tại sao gọi Tánh giác là đồng tử? Vì Tánh giác là viên mãn trùm khắp mà người mới nhận ra thì chỉ giác từng phần chưa viên mãn, ví như đứa bé nên gọi là đồng tử.
Bốn câu kệ này Thượng Sĩ dạy chúng ta, vọng chân gì cũng phải buông và muốn giác ngộ thì phải nhận ra cái Thể tánh sáng suốt sẵn có nơi mình, chớ không tìm đâu xa.
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Thi Ca 12
Dịch:
BẢO CHÚNG (2)
Người đời ưa vọng chẳng ưa chân
Chân vọng tâm kia cũng là trần.
Cốt muốn nhảy thẳng lên bờ ấy
Hãy tham đồng tử đang có đây.
Giảng:
Người đời ưa vọng chẳng ưa chân.
Người đời ưa vọng chẳng ưa chân là phải rồi, còn người tu thì ưa chân chẳng ưa vọng hay như người đời ưa vọng không ưa chân? Nhưng Thượng Sĩ nói:
Chân vọng tâm kia cũng là trần.
Tâm chân tâm vọng cả hai thuộc về trần, tức là thuộc về sanh diệt. Cái vọng thuộc về trần, nó sanh diệt là phải, nhưng sao cái chân cũng thuộc sanh diệt? - Thể tánh bất sanh bất diệt, tự nó không nói là chân hay vọng. Vì tâm chúng ta còn nhiều vọng niệm lăng xăng nên gọi là vọng, khi chúng ta buông những vọng niệm, tâm yên lặng tạm gọi là chân. Nói chân là do có vọng mà nói, nếu vọng hết rồi thì chân cũng không còn. Cũng như cái nhà này chúng ta nói sáng vì không có bóng tối, nói tối là do không có ánh sáng. Song, ai cũng ưa sáng mà không ưa tối, nhưng nếu không có tối thì có sáng không? Ngược lại cũng vậy. Giả sử ở nơi nào đó chưa bao giờ có đêm thì có ngày không? Sở dĩ có tối có sáng là do đối đãi nhau mà lập không phải thật. Cũng như nói vọng là đối với chân mà nói, nói chân là đối với vọng mà nói. Thể tánh sáng suốt không thuộc chân vọng vì chân vọng là hai cái giả lập.
Cốt muốn nhảy thẳng lên bờ ấy.
Bờ ấy là chỉ cho bờ giác hay là Niết-bàn. Muốn nhảy thẳng đến bờ giác thì phải:
Hãy tham đồng tử đang có đây.
Phải tham vấn chú bé đang ở đây. Chú bé đang ở đây là chú bé nào? Chữ này có hai cách giải. Trong kinh Hoa Nghiêm thường gọi Bồ-tát là đồng tử. Đồng tử là chỉ cho những đứa bé, tại sao gọi Bồ-tát là đồng tử? Bồ-tát gọi là giác mà cái giác của Bồ-tát đối với cái giác của Phật thì chưa viên mãn, Bồ-tát thì từng phần giác chớ chưa giác ngộ viên mãn như Phật. Như người đứng tuổi thì các bộ phận trong cơ thể và sự khôn ngoan sáng suốt phát triển đầy đủ, còn đứa bé thì các bộ phận trong cơ thể tuy đủ, nhưng chưa phát triển toàn diện, nên đối với người lớn thì nó là đứa bé. Cũng vậy đứng về mặt giác ngộ thì đức Phật đã viên mãn nên coi như người lớn, Bồ-tát mới giác ngộ từng phần nên đối với Phật coi như là đứa bé, cho nên các kinh Đại thừa thường gọi Bồ-tát là đồng tử. Nhưng đồng tử đối với Phật chớ không phải đối với chúng ta. Chúng ta thì thấy Bồ-tát là những vị trưởng thượng, chỉ có Phật mới coi Bồ-tát như đứa bé thôi. Đó là nói theo kinh. Nhưng ở đây thì khác, Thượng Sĩ nói người tu muốn nhảy thẳng tới bờ giác ngộ thì phải tham vấn đồng tử đang có đây, tức là muốn giác ngộ thì phải nhận ra cái Tánh giác sẵn có nơi mình, chớ đừng tìm đâu xa hết. Tại sao gọi Tánh giác là đồng tử? Vì Tánh giác là viên mãn trùm khắp mà người mới nhận ra thì chỉ giác từng phần chưa viên mãn, ví như đứa bé nên gọi là đồng tử.
Bốn câu kệ này Thượng Sĩ dạy chúng ta, vọng chân gì cũng phải buông và muốn giác ngộ thì phải nhận ra cái Thể tánh sáng suốt sẵn có nơi mình, chớ không tìm đâu xa.