Nghĩ về năm 2011 - Tân Mão

Chia sẻ thơ ca, nhạc họa, các trải nghiệm của cuộc sống
mysterious
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1578
Tham gia: 10:51, 10/05/10

TL: Nghĩ về năm 2011 - Tân Mão

Gửi bài gửi bởi mysterious »

Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ.
Hưng tộ diêm trường ức vạn xuân. ( Năm 1991 , Tân Mùi )
- Hồng : có thể hiểu là sông , là nước , là ánh sáng màu hồng , hồng Quang
- Lam : là Lâm , là rừng
- Năm Tân Mão 2011 , Tân Mùi >> Tân Mão là 20 Năm , Can Tân ( Cung Ly) , Tân là mới
- Ngũ Bách , 5 Tùng Bách Mộc
- Hưng tộ là tên gọi tắt của Hưng Đạo Đại Vương ( Trần Quốc Tuấn )
- diêm trường , là lửa chiến trường , 3 lần chống giặc , sự mạnh mẽ
( Phải Tính : TBĐ) xem sao :D
Đông a nhập địa
Dị mộc tái sinh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh


-Đông A thì là chữ Trần , vậy họ Trần Vượng Địa

- Chấn - Đoài là Trục Mão , Dậu ;

- Đông - Tây , Phương trình 3-5-7

- Kiến là thấy , Nhật là 1 , là mặt trời , Vậy Kiến Nhật là 1 ánh Sáng mới

- Ấn Tinh là một vì sao trên Bầu Trời

- Dị mộc tái sinh : Tái là trở lại , sinh là sống , Mộc là Cây , trong 12 Chi cung Chấn là Mão (3)

- Dị là kỳ lạ , hiện tượng lạ
Sửa lần cuối bởi mysterious vào lúc 13:12, 26/03/11 với 2 lần sửa.
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: Nghĩ về năm 2011 - Tân Mão

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

Hà Uyên đã viết:
Laido đã viết:Hình ảnh

Uploaded with ImageShack.us
anh033 đã viết:Đây là trình Excel lấy lá số Thái ất của tác giả Lê Trung Tú, bạn nào rành ứng dụng thái ất xem thế sự, đất trời thì nên lập topic để mọi người tham khảo.
http://www.mediafire.com/?4scij4b42u5o7qu" target="_blank



Thật tiện ích, nhiều phương pháp lập quẻ Ất mà đỡ bị lầm sai.



Ta thực chẳng biết tại sao ? từ ngày 17/02/2011, vào hồi 11:43, khi tính Ngũ âm, sao ta lại lập ngôn: "Lục gia tác quyền". Lạ thật ???


Cho đến hôm nay, rồi cho đến ngày 04/02/2012, có đúng là 6 đại gia tác quyền không ?

Bây giờ ta ngồi đếm vậy, một là có phải Gaddafi không ? Hai là ...







Hà Uyên đã viết:
Lục gia tác quyền

Âm chế kỳ dương




Chào Laido



Theo Laido đã nghiên cứu về Thái ất và Kỳ môn cũng đã lâu, thì tôi nói như vậy liệu bao nhiêu % là đúng ?



Hà Uyên
Đầu trang

mysterious
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1578
Tham gia: 10:51, 10/05/10

TL: Nghĩ về năm 2011 - Tân Mão

Gửi bài gửi bởi mysterious »

mysterious đã viết:Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ.
Hưng tộ diêm trường ức vạn xuân. ( Năm 1991 , Tân Mùi )
- Hồng : có thể hiểu là sông , là nước , là ánh sáng màu hồng , hồng Quang
- Lam : là Lâm , là rừng
- Năm Tân Mão 2011 , Tân Mùi >> Tân Mão là 20 Năm , Can Tân ( Cung Ly) , Tân là mới
- Ngũ Bách , 5 Tùng Bách Mộc
- Hưng tộ là tên gọi tắt của Hưng Đạo Đại Vương ( Trần Quốc Tuấn )
- diêm trường , là lửa chiến trường , 3 lần chống giặc , sự mạnh mẽ
( Phải Tính : TBĐ) xem sao :D
Đông a nhập địa
Dị mộc tái sinh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh


-Đông A thì là chữ Trần , vậy họ Trần Vượng Địa
- Chấn - Đoài là Trục Mão , Dậu ;
- Đông - Tây , Phương trình 3-5-7
- Kiến là thấy , Nhật là 1 , là mặt trời , Vậy Kiến Nhật là 1 ánh Sáng mới
- Ấn Tinh là một vì sao trên Bầu Trời
- Dị mộc tái sinh : Tái là trở lại , sinh là sống , Mộc là Cây , trong 12 Chi cung Chấn là Mão (3)
- Dị là kỳ lạ , hiện tượng lạ

Bắc hữu Kim thành tráng
Nam hữu Ngọc bích thành
Phân phân tùng bách khởi
Nhiễu nhiễu xuất đông chinh




- Kim thành hay Kinh Thành , Ngọc Bích , Tùng Bách , Xuất Đông
- Tráng là ý chỉ con Trai , Trạng
- Khởi Chinh thành tráng , là sự di chuyển ,rời đô , thay đổi , xuất ở Đông , Thành ở Nam , Ngự ở Bắc vậy là ý gì ?
-Phân Phân , Nhiễu Nhiễu là chữ "Lưỡng " rồi
* Bắc Nam Phân Nhiễu
* Hữu Hữu Phân Nhiễu
* Kim Ngọc Tùng Xuất
* Thành Bích Bách Đông
* Tráng Thành Khởi Chinh
- Tổng Ngang hay dọc đều là 4 câu x 5 chữ = 20 chữ


Cửu cửu càn khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ

9x9=81 năm , Ứng với Đại Hội Đảng kỷ niệm lần thữ 81
Từ Đông Chí đến Thanh Minh là 105 ngày
Tính Từ Lập Xuân thì :
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thanh minh trong tiết tháng Ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
- Thanh Minh ( từ giữa tháng Mão , Tức ngày Giáp Tuất ( 16/02 âm Lịch) , >> Quý Mão (15/03 âm lịch ) ,hiện tại thì thời tiết mưa gió thất thường , tuyết rơi ở miền Bắc , đúng là " Hoa Tàn " , tượng lòng người buồn.
- À Phân Phân là Xuân Phân và Thu Phân tức O độ và 180 độ
- Khi kết trái là lúc hoa tàn, đến mùa thu thường là mùa thu hoạch trái chín. "Trực đáo dương đầu mã vĩ", vì "trực đáo" là đi thẳng đến nhanh nên "dương đầu mã vĩ" ám chỉ thời điểm tháng (dương - mùi - tháng 6, mã - ngọ - tháng 5).
- Ứng tháng sáu là thời kỳ cuối của Quẻ Phục
Đầu trang

mysterious
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1578
Tham gia: 10:51, 10/05/10

TL: Nghĩ về năm 2011 - Tân Mão

Gửi bài gửi bởi mysterious »

Công CHA như núi Thái Sơn
Nghĩa MẸ như nước trong nguồn chảy ra

Thật là không còn câu ca nào hay hơn trên đời này và ý nghĩa cho bằng câu ca dao này, mà hễ là người Việt thì ai cũng đã thuộc nằm lòng từ lúc cắp sách đến trường hay ngay từ lúc ấu thời khi mới vào tuổi biết khôn.
Nhân dịp ngày lễ Cha (Father's Day= Fête des Pères), vào trung tuần tháng 6 Dương Lịch, theo phong tục Tây Phương, với 3 tuần hay một tháng sau ngày lễ Mẹ (Mother's Day= Fête des Mères) là dịp để cho mọi người con tưởng nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của Cha Mẹ mình, và là dịp để đoàn tụ sum vầy trong bầu khí ấm gia đình, như mọi người đều đã làm và sắp làm trong vài ngày nữa với tinh thần đó.

Ở đây trong khuôn khổ của bài viết này, tôi xin phép mạo muội nói lên cái ý "Công Cha" và "Nghĩa Mẹ" dưới cái nhìn của Triết theo nền tảng của Đạo Trời, theo nhân sinh quan của tổ tiên Viêm tộc. Nên nếu bạn là người Việt chính tông (nghĩa là không chỉ biết ăn nước mắm hay biết nói tiếng Việt và sống theo phong tục Việt) mà là có "tâm tính" Việt thì chắc chắn là bạn sẽ hiểu và có lẽ đã biết những gì tôi sắp viết ra đây.

Như trong các bài viết của tôi mà có lẽ bạn đã có dịp đọc qua, và như tôi đã và hay nói là tất cả những nghĩa được diễn giải theo chủ đề mà tôi đã chọn để viết ra cái nghĩa vượt trên cái chữ, đều là cái Cảm mà tôi đã hứng được từ trên Cao, để ghi lại và chia sẻ với bạn trong tình tương thân tương đồng của anh em cùng bọc, với ước nguyện cho nó trở thành những viên đá lót đường cho bạn và dẫn đường bạn đến ĐẠO.

Nên vẫn trên nền tảng "Âm Dương chi vị Đạo" với cơ cấu bất dịch nhưng biến dịch của Ngũ Hành, mọi ý nghĩa đều quy về đó như câu: "Thiên Địa Vũ Trụ Vạn Vật Nhất Thể." Vì vậy mà tổ tiên với Đại Ngã Tâm Linh không những đã Cảm, đã Sống với chiều kích vô biên của Đạo Trời, mà còn đã làm một chuyện siêu Việt hơn nữa, đó là đã đúc kết và ghi khắc lại được "cái nghĩa vô biên" đó trong hai câu ca dao trên, để làm gia tài cho con cháu, thì quả đúng như câu tổ tiên đã nói là: "mạc hiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi "(Kinh Lễ), tức "không gì hiện rõ bằng cái ẩn tàng, không gì tỏ rõ bằng cái tế vi".

Có lẽ bạn sẽ bảo thì "Công CHA như núi Thái Sơn", mà núi Thái Sơn là núi to nhất lớn nhất trong dãy núi ở bên Tàu, theo địa lý ở vào khoảng Hồ Nam Quảng Đông và Quảng Tây thì gọi là Ngũ Lĩnh Sơn Mạch, đó là 5 cái núi: Hoa Sơn, Thái Sơn, Hằng Sơn, Hành Sơn và Tung Sơn. Nói lên ý nghĩa công lao, công sức, công phu, công khó, công trình của người Cha trong việc xây dựng nhà cửa, giáo huấn con cái và lo lắng vật chất để bảo vệ gia đình,... thì hùng vĩ, to lớn như núi Thái Sơn. Như vậy ai mà chắng biết, thì có gì mà phải nói?

Tương tự câu "Nghĩa MẸ như nước trong nguồn chảy ra", thì để đối đáp với câu trên cho đúng chữ đúng nghĩa, để cho hay với thể âm vần tiết nhịp; và vì cùng một nghĩa như "công Cha" thì khổ cực kiên trì giống như núi, còn "nghĩa Mẹ" là tình bao la để yêu chồng thương con, cách nhẹ nhàng, êm ái, chịu đựng, nhẫn nại, rĩ rã, tuôn tràn... giống như nước. Thì mọi người đều hiểu như vậy, tại sao lại phải nói ?!
Nói như bạn với nghĩa mà tôi vừa nhắc lại ở trên, thì đương nhiên là đúng và dĩ nhiên là tôi không thể bảo bạn hiểu sai. Nhưng nếu nói theo nghĩa của câu "mạc hiện hồ ẩn", tức không gì hiện rõ ra bằng cái ẩn tàng, theo nghĩa của Đạo thì hai câu ca dao này không chỉ có nghĩa như bạn nghĩ đâu. Nên nếu bạn để ý và biết thắc mắc thì sẽ tự hỏi tại sao ông bà mình lại nói:
1/ "Công Cha Nghĩa Mẹ", mà không nói "Công Mẹ Nghĩa Cha"? Như vậy là "công Mẹ" không đáng kể sao, hay là tại vì đầu óc phong kiến trọng nam khinh nữ ?
2/ Như núi Thái Sơn thì đó là "Công Cha", còn "Nghĩa Mẹ" sao lại không ví với Thái Bình Dương cho đối xứng, mà lại ví như nước trong nguồn chảy ra?

Cho nên như tôi đã nói ca dao cả là một kho tàng vô giá của văn hóa Việt tộc vì qua những câu ca và những bài đồng dao của dân gian, ẩn chứa cả một nền Minh Triết của Việt tộc.

Có lẽ bạn sẽ nghĩ như có người đã nói, ca dao là cách nói của người bình dân để nói lên thế thái nhân tình hay thói tục của dân gian, chớ người thường dân không có biết chữ, thì làm sao biết Triết là gì để mà ẩn giấu nền tảng Minh Triết hay Đạo trong đó? Cho nên nói như tôi là không thiết thực và chỉ là diễn giải theo đầu óc quá khích với tưởng tượng quá mức của tôi.

Bạn nghĩ đúng, nhưng chỉ đúng cho bạn và những người như bạn. Như tôi vừa nói ở trên, cũng như trong các bài viết của tôi, là chuyện đúng hay sai của một vấn đề phải được xét trên một nền tảng vững chắc với một cơ cấu toàn diện. Như cổ nhân có câu:"tri chu hồ vạn vật nhi đạo tế thiên hạ cố bất quá" dịch là "biết vạn vật đến chỗ tròn đầy thì mới là con đường tế thế mà không rơi vào quá đáng". Mà nền tảng và cơ cấu đó không gì khác hơn là Âm Dương với Ngũ Hành theo luật quân bình động. Điều này ngày nay, các khoa học gia cũng đành phải công nhận với kiểm chứng thực nghiệm cái tỷ lệ 3/2, khi đo hai tia sáng lóe ra của âm điện tử và dương điện tử bằng cách cho nổ hạt nhân nguyên tử. Nhưng họ đã cũng không hiểu được lý do tại sao? Trái lại tổ tiên Việt tộc đã khám phá và hiểu biết cái "quân bình động" này với câu nói "tham thiên lưỡng địa"(trời 3 đất 2) cách đây ít nữa hơn 4 ngàn năm.

Làm sao có thể hiểu được cái "quân bình động" đó khi mà các nhà khoa học phương Tây chỉ có biết cái "quân bình tĩnh" (=chết cứng). Mà phải nói đúng là "chết cứng" vì họ đã đặt nền tảng của mọi sự vật trên cái "thuyết nhị nguyên" với một là Có hai là Không, thì làm sao mà hiểu hay cảm được cái "ngộ không" của cái "lưỡng nhất tính" vừa Có lại vừa Không, của cái "nhất âm nhất dương chi vị Đạo"?

Đó là nền tảng bất dịch mà lại biến dịch, không có khởi đầu mà cũng chẳng có tận cùng, nhưng lại là Một Lượt, Một Thể, Một Không (gian), Một Thời, để sinh sinh hóa hóa không ngừng. Như vậy mới "ngộ" chứ, và mới đúng là NGỘ KHÔNG (?). Chớ đâu cần phải bỏ ra bạc tỷ Mỹ kim ($) với tỷ Ơ rô (€) để đi tìm hiểu sự tạo thành trời đất vạn vật cách rời rạc phân ly, theo "giả" thuyết khởi đầu bằng "nổ tung"(big-bang), thì làm sao kiếm ra cái "thiệt" của cái phối hợp tuyệt diệu và hòa hợp tuyệt vời như "thiên địa vũ trụ vạn vật Nhất Thể "?

Có phải là mất giờ, mất công, mất tiền mà lại mất luôn mình, tức vong thân nghĩa là quên mất mình, không biết mình là ai ở thế giới này, rồi bảo đời này là kiếp phù du để đi tin "cái ảo" (tưởng) sẽ tìm lại mình "sáng láng" ở thế giới bên kia ?! Có phải đúng là vu vơ vì vong bản nghĩa là mất gốc, không giữ được nguồn gốc, không có căn bản nền tảng, nên mới mơ tưởng mông lung rồi sống luôn với ảo tượng (fantasme) vì tưởng là thiệt, như vậy có phải là lơ lững... ở lưng chừng Trời không ?!!!

Trước khi tôi đi vào ý nghĩa của nền tảng Minh Triết chứa đựng trong hai câu ca dao nói trên, tôi trở về câu hỏi mà có lẽ bạn đã nghĩ, là làm sao cái ý nghĩa Minh Triết lại có thể ẩn giấu trong ca dao phát xuất từ dân gian, là những người thường dân không biết chữ, quê mùa không có học?

Thưa rằng, với nền văn hóa nông nghiệp, Việt tộc đã sống gần với thiên nhiên nhất và dĩ nhiên là sống lâu với thiên nhiên nữa, thì tự nhiên là hiểu biết thiên nhiên hơn bằng kinh nghiệm sống với mồ hôi nước mắt, thì đương nhiên sự hiểu biết với cảm nghiệm đó mới thiết thực, mới đúng nghĩa theo luật của trời đất vũ trụ. Rồi sau đó với thời gian mới tìm cách ghi chép lại dưới dạng chữ bằng nét vẻ lên đá trong hang trên tường, trên cây trên gỗ, v.v...

Tại vì mình viết chữ Việt cách máy móc, hay nói tiếng mẹ đẻ cách thuộc lòng mà không hề ý thức cái nghĩa uyên nguyên trong cái tiếng "thường dân" mà mình nói. Nên có khi nào bạn thắc mắc, tại sao lại bảo là "thường" hay nói là "bình thường" không? Hay bạn đã có thật thấu triệt nghĩa nguyên thủy của những tiếng đó là gì chưa ? Nếu chưa thì bạn đừng thấy "thường" mà "tưởng" là thường ! Chính vì cái nghĩa "Thường Hằng" như "Thường Thường" đó thì lại là luôn luôn ở trong cái "Phi Thường" để lớn mãi và thành cái "Vô Thường" tức là KHÔNG (có) !

Cho nên "thường dân", với nghĩa nguyên thủy là người Hiền (triết) thường luôn sống "thuận thiên" thì tự nhiên là "phi thường" vì cảm được cái "vô thường", tức "NGỘ KHÔNG" nghĩa là BIẾT cái KHÔNG, tức là đạt ĐẠO, tức mới Thành Nhân. Vì nếu hiểu theo nghĩa Đạo, chỉ khi nào con người Thành Nhân, hay ý thức mình là Nhân với Đức của Trời Đất thì mới thật là "Người bình thường" ("thường" này chữ hán viết với bộ Cân) là nghĩa người đã đạt được chí Trung Hòa để làm "bình dân", nghĩa là Hiến thân để phục vụ cho con người (văn hiến) để lo cho dân (chúng) được An Vui Hạnh Phúc.

Chính những người "thường dân" hay "bình dân" này mới là tác giả của những câu ca dao bất hủ mà qua bao thời đại, dưới nhiều chế độ chuyên chế độc ác dã man trên đất tổ, cái tinh hoa của văn hóa Việt tộc vẫn còn tồn tại qua ca dao tục ngữ, thì phải nói họ đúng là "hiền nhân" với nghĩa nhân tài với thiên tài và địa tài, vì quả thật là người tài ba, đức đạo, mới có thể nói những câu như:
Trăm năm bia đá cũng mòn
Ngàn năm bia miệng cũng còn trơ trơ.

hay
Công Cha như núi Thái Sơn
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra.


Vì vậy mà hai câu ca dao này theo tôi, phải hiểu với nghĩa sơ thủy của nó. "Công" ở đây là nghĩa "cùng chung" như Một hay nghĩa "của chung" như nói công thiên hạ, công thể, công lý, công bình, công ích, công thổ, công điền, công quỹ, công vụ, công chúng, công dân, công cộng,... (Cộng Hòa với nghĩa nguyên sơ là cùng chung hòa hợp lại, nhưng hiểu theo nghĩa chính trị thì hơi khác, nghĩa là chính quyền quốc gia nằm ở toàn thể nhân dân).

Còn Cha phải hiểu là nghĩa "dương", như thái dương, đại dương nghĩa là những gì lộ ra, ló ra, tỏ ra, hiện ra, như vạn vật mà mình thấy được biết được, là nghĩa của Đất.
Cho nên "công cha" là nghĩa "cùng chung một" Cha mà Thành ra Ta và Vạn Vật. Đó là nghĩa "của chung" nghĩa là chung đến cùng cực để thành "chung thủy" trong "Nhất Thể". Nên tiếng Việt mới có chữ "bình sản" (tài sản chia đều), và cũng với ý nghĩa "của chung" đó mà ca dao mới có câu:
Ở đời muôn sự của chung
Hơn nhau hai tiếng anh hùng mà thôi.

Cũng từ quan niệm đó mà dân Á Đông mình không có biết "bản quyền", (hay biết có cũng chỉ mới đây thôi với ảnh hưởng phương Tây) cho nên người Á châu mình hay nói có bị ăn cắp cũng không sao, vì là "của chung" nên thì để cho người khác xài, có cần thì làm cái khác, hay quá lắm đi đòi lại. Nhưng bây giờ thì mình đã bị mất Đạo, nên mất luôn cái Nhân tài để tài tác cho tài nghệ với tài đức, thì lại đi tham tài, tham nhũng, đi "chôm" cho dễ, cho lẹ, cho mau giàu, thì làm sao mà thành Nhân được, cho nên chỉ là thành Quỷ như hiện nay mọi người đều đã thấy !

Điều quan trọng ở đời là hai tiếng "anh hùng", chớ không phải vật chất tài sản. Mà tại sao lại nói "anh" hùng, mà không nói "chị" (hùng)?

Thưa nghĩa "anh hùng" ở đây không phải là nghĩa người oai phong lẫm liệt, can đảm tài ba, kiểu siêu quần vô địch để sẵn sàng hy sinh cứu chúa hay vì chính nghĩa. Nhưng là phải hiểu với nghĩa Thành Nhân mới là Anh Hùng, vì chỉ khi đó mình mới là Nhân Hoàng với Thiên Hoàng và Địa Hoàng.

Nhưng để trở lại ý nghĩa núi Thái Sơn trong câu ca dao này là ẩn nghĩa "Sơn Tinh", là Dương Khí có tận đến Thái Cực để thành núi ở đây và thành mặt trời (thái dương) hay các tinh tú ở trên Không kia, mà tỏ hiện ra cho mình thấy được.


Còn "Nghĩa" (chữ hán viết với bộ Dương) cũng có nghĩa là việc có lợi chung, như Tình Nghĩa, vì tình nghĩa không vì lợi ích riêng, như chữ "nghĩa thục" là trường học chung dạy không lấy tiền, hay chữ "nghĩa binh" là quân nổi dậy vì lợi ích chung.

Còn Mẹ là nghĩa Âm, là Đức, là Trời, là thần lực tiềm ẩn để sinh ra. Nên "Nghĩa Mẹ" là sự sinh ra và liên kết chung với nhau bởi sợi giây Tình như giây rún nối Mẹ với Con. Cái Tình Nghĩa đó là cái gì "Âm u", âm thầm lặng lẽ, tàng ẩn, nhưng lại có sức xúc động phi thường, tuy không thấy được nhưng mình lại Cảm nhận được như là yếu tố không thể thiếu để cho mình sống thành người. Trong cuộc đời mình, ai cũng đã cảm nhận được cái đó như hơi thở của mình, qua tình mẹ con, tình vợ chồng, tình anh em, tình thân thuộc, tình đồng loại... Vì nếu không có cái Tình Nghĩa này thì không có gì có thể sinh ra và thắt chặt để liên kết vạn vật cho Chung Thủy thành "Nhất Thể".

Nên như Nước ở đây là "Thủy Tinh", là Âm Khí, là Thần Khí ở khắp mọi nơi từ trên cao xuống thấp, từ ngoài vào trong, khắp hang cùng ngõ hẻm, mà mình không thấy không biết, nhưng lại là nguồn lực bao la, để sinh ra sự sống cho vạn vật, khi tương giao hòa hợp với Dương Khí.

Vì vậy mà :
"Công Cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra"

là hình ảnh "non nước" để cắt nghĩa cho chúng ta cái Đạo làm Người, là phải tri thức để nhận thức và ý thức là mình chỉ Thành Nhân, thành Con (Người) của Cha Mẹ, khi mình biết sống với "công Cha nghĩa Mẹ", tức là biết sống Hòa đến cùng cực, thì mình mới là Hạnh Phúc, là Thái Hòa với "thiên địa vũ trụ vạn vật Nhất Thể".

Tôi hy vọng từ nay bạn sẽ thích thú khi đọc lại hai câu ca dao này, và sẽ có chút hãnh diện mình là người Việt, vì cái tinh hoa của văn hóa Việt tộc, độc nhất vô nhị trên đời này.
Viết xong nơi đất khách vào đầu mùa Hạ,
13 tháng 6 năm 2008.
(tức mồng 10 tháng 5 năm Mậu Tý)
Nguyễn Sơn Hà - Việt Học.
Nguồn: http://www.anviettoancau.net/anviett...temid=99999999" target="_blank
Dẫn chứng bài này nhằm xác minh tính chân thực của sấm Trạng Trình.
( Sưu Tầm)
Đầu trang

mysterious
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1578
Tham gia: 10:51, 10/05/10

TL: Nghĩ về năm 2011 - Tân Mão

Gửi bài gửi bởi mysterious »

Nhân đây ta cùng tìm hiểu thêm một đoạn nữa của sấm Trạng Trình
"
Phú quý hồng trần mộng.
Bần cùng bạch phát sinh.
Hỏa thôn đa khuyển phệ.
Mục giã giục nhân canh.
Bắc hữu kim thành tráng.
Nam tạc ngọc bích thành.
Phân phân tùng bách khởi.
Nhiễu nhiễu xuất đông chinh.
Bảo giang thiên tử xuất.
Bất chiến tự nhiên thành.
"
"Phú quý hồng trần mộng." khi mà phú quý là giấc mộng hồng trần.
"Bần cùng bạch phát sinh." bần cùng sẽ phát sinh vùng trắng, người lao động bị bần cùng hóa đến trắng tay.
"Hỏa thôn đa khuyển phệ." bài trên ta đã phân tích hỏa thôn là phương nam hay gọi là phương nam hỏa vận. Câu này có nghĩa là khi đó phương nam sẽ có nhiều tiếng chó sủa. Có thể do trộm cắp nổi lên, hay có sự trà trộn "đi đêm về hôm" của một số thành phần bất hảo.
"Mục giã giục nhân canh." Những con mắt nhìn thấy được nên giục người ra canh giữ, có thể là những cảnh báo và giục giã của giới trí thức về hiểm họa ngoại xâm.
"Bắc hữu kim thành tráng." một địa danh ở bắc, có thể là Hà nội (kim thành).
"Nam tạc ngọc bích thành." một địa danh ở nam, có thể là Sài gòn (hòn ngọc viễn đông).
"Phân phân tùng bách khởi." khởi sự vào khoảng năm tùng bách mộc (Canh dần và Tân mão).
"Nhiễu nhiễu xuất đông chinh." khởi sự để giải quyết tranh chấp ở phía đông.
"Bảo giang thiên tử xuất." Thiên tử xuất hiện ở sông quí.
"Bất chiến tự nhiên thành." không chiến tự nhiên thành công.
Đầu trang

mysterious
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1578
Tham gia: 10:51, 10/05/10

TL: Nghĩ về năm 2011 - Tân Mão

Gửi bài gửi bởi mysterious »

Trong bài dịch về dự ngôn trên bia đá của Lưu Bá Ôn
http://www.vietlyso.com/forums/showthread.php?t=12154" target="_blank
có đoạn:
"
44. Hỏi năm thái bình như thế nào.
45. Dựng cầu đón chủ nhân mới.
46. Thượng nguyên Giáp Tí đến. (Thượng nguyên Giáp Tí: Bề trên mới đứng đầu hoa giáp hay người cầm đầu thiên hạ)
47. Người người cười khanh khách.
48. Hỏi sao cười như ma (làm) vậy?
49. Nghênh tiếp chủ đất mới.
50. Trên quản đất ba tất.
51. Tối không nạn trộm cướp.
52. Thôi thì cầu là chủ.
53. Chủ ngồi giữa trung ương.
"
nói về sau đại kiếp nạn ở Trung Hoa, nhân dân dựng cầu nghênh tiếp chủ nhân mới đó là Thượng Nguyên Giáp Tí.
Một cách trùng hợp, có một bài thơ của Hà Lạc dã phu Việt Viên Tử trong quyển Tướng pháp áo bí:
"
Thượng nguyên Giáp Tí huyền thiên cơ.
Nhật nguyệt quang minh như hải huy.
Thiên hạ thánh nhân giai xuất thế.
Chính đương Di Lặc nại sinh thời.
"
Như vậy, dẫn đến dự đoán rằng thánh nhân Việt Nam trong sấm Trạng Trình nói đến chính là hóa thân của Đức Phật Di Lặc và còn gọi là Thượng nguyên Giáp Tí.
Điều này cũng dẫn đến việc hiểu được câu:
"
Phá điền thiên tử xuất.
Bất chiến tự nhiên thành.
"
"Phá điền" chính là chữ Vạn:

khi chữ Điền 田 phá bỏ bốn nửa cạnh xung quanh. Nhà Phật 佛 nói rằng khi Phật giáng sinh trước ngực có hiện ra hình chữ 卐 người sau mới biết chữ ấy.
Như vậy, thánh nhân Việt chính là Phật Di Lặc giáng sinh.
"Bất chiến tự nhiên thành" là đường lối giải thoát không dùng chiến tranh mà bằng con đường tâm linh của nhà Phật, chính là "Chân - Tâm - Thiện".
Đầu trang

mysterious
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1578
Tham gia: 10:51, 10/05/10

TL: Nghĩ về năm 2011 - Tân Mão

Gửi bài gửi bởi mysterious »

Nhân đây, ta điểm qua một số các giải mã về từ "phá điền"

1. Theo Việt Sử Siêu Linh thì:
"Ca dao có câu :
Nhất cao là núi Tản viên
Núi thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh
hoặc đồng dao :
Bổng bồng bông núi thắt cổ bồng mà có thánh sinh
Câu sấm này lại nhắc tới lọng vua ( hoàng cái ) tức Tản viên, ở quí phương tức phương vàng ( kim ) là phương Tây. Trong chữ lựu có chữ điền, khai lựu diệp cũng có nghĩa như phá điền thiên tử giáng trần, cổ nhân muốn gợi ý thánh Tản xuất. Phá chữ điền lộ ra chữ thập , là thấy danh ' nhân thập ' trong câu ' có thầy nhân thập đi về, tả phù hữu trì, cây cỏ làm binh '.".
Như vậy, phá chữ điền 田 ra chữ 十 để cuối cùng chỉ ra danh phù tá "Nhân thập" rồi nhảy sang đoạn nói về các phù tá của thiên tử là sự gán ghép hơi gò ép, vì đang nói về thiên tử trong câu:
"
Phá điền thiên tử giáng trần.
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm.
"
Nguyên câu sau đã thể hiện sự phò tá của các dũng sĩ, mưu thần rồi.

2. Đời Gia Long, đầu thế kỷ XIX, Lê Duy Hoán khởi nghĩa ở Thanh Hóa, làm lá cờ thêu chữ ‘Phá Điền’, lấy từ câu ‘Phá điền Thiên tử giáng trần’ của Sấm Trạng Trình, Lê Duy Hoán tuổi Thân, cho rằng phá điền chiết tự có thể thành chữ Thân. Chữ 申 có thể là chữ điền 田 thêm một nét chấm phá vào giữa. Nếu đúng thì cách chiết tự này sẽ mâu thuẫn với câu:
"
Phá điền đầu khỉ cuối thu.
Tái binh mới động thập thò liền sang.
"
Nếu phá điền là năm Thân thì không cần đầu khỉ nữa.

3. Có người giải thích như sau:
Điền = ruộng = trống lớn = đi săn

Nghĩa đen: Phá bỏ ruộng ông vua xuống thế
Ý nói: phá chữ Điền thì chữ Vương sẽ hiện ra
Chiết tự: là chữ Quốc

Chữ Quốc có hai cách viết. Thông dụng nhất là chữ Quốc 國 giống như tên nước Trung Quốc. Chữ Quốc thứ hai囯 là chữ vương (vua hay thiên tử) nằm bên trong bốn bức tường.

Mạc Đỉnh Chi đi sứ sang Tàu đã từng dùng câu “Tù, nhân xuất, Vương lai thành Quốc” để đối với câu “An, nữ khứ, thỉ nhập vi Gia” của triều thần nước Tàu.

Chữ Tù囚gồm chữ Nhân人nằm bên trong 4 bức tường giam囗

“Tù: Nhân xuất Vương lai thành Quốc” tức là từ chữ Tù bỏ đi chữ Nhân thì còn lại chữ Điền (thiếu nét) 囗rồi đặt vào chữ Vương 王 thì thành chữ Quốc囯
Chữ điền viết như thế này: 田. Nhưng đ ôi khi trong lối chiết tự người ta dùng 4 bức tường chung quanh không có gạch thập bên trong mà vẫn nói là chữ Điền.

Do đó câu sấm nói “phá điền thiên tử giángtrần” hay là nói “phá điền thiên tử xuất” tức là nói phá bỏ 4 khung tường thì chữ Vương (thiên tử) sẽ hiển lộ. Đây là lối chiết tự để nói về chữ Quốc. Vì từ chữ Quốc囯phá đi 4 bức tường (chử Điền thiếu nét) thì chữ Vương 王sẽ lộ ra. .

Song ở đây có vấn đề là chữ quốc 囯 lại là dạng giản thể mà gần đây TQ mới đưa vào sử dụng, còn trước là chữ 國. Hơn nữa, giai thoại câu đối "Tù nhân xuất vương lai thành quốc" bản thân có xuất xứ không rõ ràng.

4. Lại có người cho rằng "phá điền" là con trâu phá ruộng và như vậy là chỉ năm Trâu hay thiên tử tuổi Sửu. Nhưng từ trước đến giờ chúng ta chỉ biết con trâu cày ruộng mà không biết trâu phá ruộng. Hơn nữa, nếu theo cách suy luận này thì cũng có thể là năm Ngọ, vì ngựa cũng được dùng để kéo cày, dẫn đến xác xuất đúng rất thấp.
Đầu trang

mysterious
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1578
Tham gia: 10:51, 10/05/10

TL: Nghĩ về năm 2011 - Tân Mão

Gửi bài gửi bởi mysterious »

Nguyễn Bỉnh Khiêm và những điều tiên đoán

30/08/2010 06:27:24
- Bạn đọc Nguyễn Đình Khiết, thôn An Tân, xã Gia Tân, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương có hỏi: Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi tiếng vì biết trước được các diễn biến của thời cuộc.

Vậy tại sao ông lại vận động học trò cũ là Nguyễn Quyện đang phục vụ cho nhà Lê về với nhà Mạc dù biết nhà Mạc sẽ suy? Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của tác giả Phan Duy Kha về vấn đề này.

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) là nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Ông quê ở làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là Vĩnh Bảo, Hải Phòng).

Nguyễn Bỉnh Khiêm học giỏi nhưng thời thế hỗn loạn, nhà Lê suy vong, nhà Mạc nổi lên cướp ngôi, ông không muốn đi thi và làm quan. Mãi đến năm 45 tuổi (1535), ông mới đi thi và đỗ ngay trạng nguyên.

Lúc này đất nước đang bị chia đôi, ở phía Bắc, từ Ninh Bình trở ra thuộc nhà Mạc. Ở phía Nam, từ Thanh Hóa trở vào thuộc nhà Lê. Sử gọi là Nam Bắc triều... Các nhà nho, các anh hùng hào kiệt, người thì theo Mạc, người thì chạy vào Nam theo Lê (thực chất là bù nhìn, do Nguyễn Kim dựng nên). Không thể nói rằng ai chính, ai tà.

Nguyễn Bỉnh Khiêm làm quan cho nhà Mạc cũng không như ý. Mới được 8 năm (đến năm 1542), thấy cảnh quan lại lộng quyền, tham nhũng, gian thần hoành hành trong triều, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất bức xúc.

Ông dâng sớ xin chém 18 gian thần nhưng không được vua Mạc đồng ý, nên xin từ quan về quê dạy học (sự kiện này giống với Chu Văn An đời Trần dâng Thất trảm sớ).

Sau này, ông lại được vua Mạc mời ra làm quan, được thăng Tả Thị Lang bộ Lại, rồi Thượng thư bộ Lại, tước Trình Quốc công. Vì vậy, dân gian quen gọi là Trạng Trình.

Đến năm 70 tuổi, ông lại xin về quê mở trường dạy học. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng, có người theo Lê như Phùng Khắc Khoan, người theo Mạc như Nguyễn Quyện, có người lại ở ẩn không ra làm quan (như Nguyễn Dữ, tác giả Truyền kỳ mạn lục).




Nguyễn Bỉnh Khiêm được cho là người có tài tiên tri. Các giai thoại, các chuyện kể dân gian thường cho rằng, chính ông là người tiên tri cho Nguyễn Hoàng vào Nam để xây dựng cơ nghiệp muôn đời (Hoành Sơn nhất Đới, vạn đại dung thân), tiên tri cho họ Trịnh phải tôn phò vua Lê (thờ Phật để được ăn oản), hay tiên tri cho nhà Mạc lên giữ đất Cao Bằng, thì sẽ kéo dài thêm được mấy đời nữa.
Người ta còn cho rằng, thậm chí Nguyễn Bỉnh Khiêm còn tiên tri được đến thời đại của chúng ta. Các tác giả nghiên cứu thường trích dẫn câu: "Long vĩ xà đầu khổ chiến tranh/Can qua xứ xứ khởi đao binh/Mã đề dương cước anh hùng tận/Thân Dậu niên lai kiến thái bình" (Cuối năm Thìn (1940), đầu năm Tỵ (1941), khổ vì chiến tranh/Can qua nổi lên khắp nơi/Cuối năm Ngọ (1942), năm Mùi (1943), anh hùng hết/Đến năm Thân (1944), năm Dậu (1945), thiên hạ thái bình).

Người ta cho rằng, những câu này ứng với giai đoạn lịch sử từ 1940 - 1945. Thật ra thì đến năm 1945, dân ta đâu đã được hưởng thái bình, khi mà thù trong giặc ngoài còn đầy rẫy. Năm 1946, toàn quốc kháng chiến, để rồi 29 năm sau mới có ngày toàn thắng.
Xem thế, thì nhiều câu được gọi là "sấm ký" của Nguyên Bỉnh Khiêm, được người đời suy luận ra, sao cho phù hợp với một giai đoạn lịch sử nào đó mà thôi (tức là sự gán ghép sao cho hợp lý).


Phan Duy Kha
(Sưu Tầm)
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: Nghĩ về năm 2011 - Tân Mão

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

Hà Uyên đã viết:
Hà Uyên đã viết:
Laido đã viết:Hình ảnh

Uploaded with ImageShack.us
anh033 đã viết:Đây là trình Excel lấy lá số Thái ất của tác giả Lê Trung Tú, bạn nào rành ứng dụng thái ất xem thế sự, đất trời thì nên lập topic để mọi người tham khảo.
http://www.mediafire.com/?4scij4b42u5o7qu" target="_blank

Thật tiện ích, nhiều phương pháp lập quẻ Ất, thêm trình Excel số Thái ất, mà đỡ bị lầm sai.

Ta thực chẳng biết tại sao ? từ ngày 17/02/2011, vào hồi 11:43, khi tính Ngũ âm, sao ta lại lập ngôn: "Lục gia tác quyền". Lạ thật ???

Cho đến hôm nay, rồi cho đến ngày 04/02/2012, có đúng là 6 đại gia tác quyền không ?

Bây giờ ta ngồi đếm vậy, một là có phải Gaddafi không ? Hai là ...
Hà Uyên đã viết:
Lục gia tác quyền

Âm chế kỳ dương
Chào Laido

Theo Laido đã nghiên cứu về Thái ất và Kỳ môn cũng đã lâu, thì tôi nói "Lục gia" như vậy liệu bao nhiêu % là đúng ?



Hà Uyên
Đầu trang

Laido
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 270
Tham gia: 11:07, 24/12/08

TL: Nghĩ về năm 2011 - Tân Mão

Gửi bài gửi bởi Laido »

Hà Uyên đã viết:
Hà Uyên đã viết:[quote="Hà Uyên

Thật tiện ích, nhiều phương pháp lập quẻ Ất, thêm trình Excel số Thái ất, mà đỡ bị lầm sai.

Ta thực chẳng biết tại sao ? từ ngày 17/02/2011, vào hồi 11:43, khi tính Ngũ âm, sao ta lại lập ngôn: "Lục gia tác quyền". Lạ thật ???

Cho đến hôm nay, rồi cho đến ngày 04/02/2012, có đúng là 6 đại gia tác quyền không ?

Bây giờ ta ngồi đếm vậy, một là có phải Gaddafi không ? Hai là ...
Hà Uyên đã viết:

Lục gia tác quyền

Âm chế kỳ dương


Chào Laido

Theo Laido đã nghiên cứu về Thái ất và Kỳ môn cũng đã lâu, thì tôi nói "Lục gia" như vậy liệu bao nhiêu % là đúng ?



Hà Uyên
[/quote]
Laido kính chào Cụ Hà Uyên,
Thưa Cụ, về "Lục gia .... " có lẽ không sai. Nó đang hiển hiện vậy. Ta chờ tiếp xem sự thể thế nào. Nếu có thời gian, Cụ Hà Uyên thử tính cho ngày 20,21/12/2012 xem sao. Laido cũng đã thử lập quẻ Ất cho ngày này và sẽ post lên để cùng chiêm nghiệm.



Kính

Laido
Đầu trang

Trả lời bài viết