TỔNG HỢP KIẾN THỨC TRÍ TUỆ THIỀN !
TL: TỔNG HỢP KIẾN THỨC TRÍ TUỆ THIỀN !
Nhẫn, nhẫn, nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử tận,
Nhiêu, nhiêu, nhiêu, thiên tai vạn họa nhất tề tiêu.
Mặc, mặc, mặc, vô hạn thần tiên tùng thử đắc,
Hưu, hưu, hưu, cái thế công danh bất tự do.
Nhiêu, nhiêu, nhiêu, thiên tai vạn họa nhất tề tiêu.
Mặc, mặc, mặc, vô hạn thần tiên tùng thử đắc,
Hưu, hưu, hưu, cái thế công danh bất tự do.
TL: TỔNG HỢP KIẾN THỨC TRÍ TUỆ THIỀN !
Đạo Phật không là thuốcThiện Minh đã viết:
Y dược trăm thứ vị.
Tùy bệnh mà kê toa.
Giáo pháp củng như thế.
Khả thuyết, phi khả thuyết ?
Đạo Phật là cơm canh
Ai cũng có thể uống
Ai cũng có thể ăn
TL: TỔNG HỢP KIẾN THỨC TRÍ TUỆ THIỀN !
Nói hay lắm ;)thuquanvn đã viết:Đạo Phật không là thuốcThiện Minh đã viết:
Y dược trăm thứ vị.
Tùy bệnh mà kê toa.
Giáo pháp củng như thế.
Khả thuyết, phi khả thuyết ?
Đạo Phật là cơm canh
Ai cũng có thể uống
Ai cũng có thể ăn
Nhưng chị nghĩ nếu dùng từ "Phật pháp" thì chuẩn hơn

Được cảm ơn bởi: thuquanvn
TL: TỔNG HỢP KIẾN THỨC TRÍ TUỆ THIỀN !
Nếu bảo không có gì khác, cớ sao đang là ThienThai lại đổi thành Thiện Minh? Trên đời này có cái gì là tự nhiên, khi không mà có sao?Thiện Minh đã viết:Thiện Minh hay ThienThai.
Chỉ là một tên gọi.
Tuy khac nhưng không khac.
Vì thể không là hai.
-
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 1578
- Tham gia: 10:51, 10/05/10
TL: TỔNG HỢP KIẾN THỨC TRÍ TUỆ THIỀN !
Ôi ! Nơi này là chỉ viết ra Kiến Thức của mỗi người , trong khung cảnh Thiền , từ đầu đã ghi là Miễn Bình Phẩm . Vì nơi đây không muốn giải thích đúng và sai , được mất , hơn thua , sâu dày , chỉ là viết ra , ai cảm nhận được Ý hay như thế nào là tự mỗi người nghiệm cho riêng mình , vì hiểu được mình chỉ có mình . Bản Tánh vốn Căn Cơ khác nhau , Tàng Thức của mỗi người đã có sẵn bên trong cũng thế . Còn vào đây là để tìm Kiến Thức Tương Đồng . Bởi khi viết ra dù là một chữ , trong chữ ấy đã có Pháp hay gọi là Hồn Văn .
- Mys là Thích dùng cái Thuật Biến Chữ hay gọi là Chơi Chữ , vì cuộc đời này chỉ là một Trò chơi .
- Từ Tiếng Phạn biến ra Chữ Thuần Việt và từ Thuần Việt biến về Tiếng Phạn . Một trong những Pháp Biến .
ví dụ :
- Tương => Tưởng => Tượng => Tướng => Tường =>Tương là một món làm thức ăn .
- Ví dụ : Mưa Bão Gió Lớn , Gió Lớn thì cây Đổ , mà Đổ vào Chùa thì Tượng Lo , mà Tượng Lo là Lọ Tương . Ăn Món Tương hiểu được nhiều ý nghĩa . Gọi là khi ăn cũng có Sách vở để học
- Ghép , Vô Tưởng , Vô Tướng , Vô Tường => nhìn vào Tường mà thấy Tướng , Tướng của Tượng trên Tường . nhìn vào những Đồ hình Cổ để mà học .
- Chữ ghép sau Tương là Tự => Tương Tự
- Tường là làm từ Đất , vô là không , Đất không thì không có gì tồn tại , Chỉ có Động Đất là rơi vào tình trạng không trọng lực sẽ không sống được . Từ 1 Chữ Mys biến ra rất nhiều ý hay để mình hiểu . Gọi là Sát Na Giao Duyên .
* Đồng => Đông => Động , Hướng Đông là Mặt Trời mọc , vậy Mặt Trời là gì ?, là nuôi dưỡng sự sống , như thế gọi là Chiết Tự , Biến Chữ , mới học được Huyền học . Mới Tự Nguyên Cứu .
- Mà chữ " Tự " biến là Từ là Tứ là 4 Nguyên Tố , Vậy chỉ có Đất , Nước , Gió , Lửa là 4 thứ lớn nhất .
- Chữ Từ trong 4 chữ : Từ , Bi , Hỷ , Xã . lại là 4 Chữ . Ý Nghĩa nó như thế nào ? , Sao có nhiều sự trung khớp Thông Tin đến vậy ?
- Vậy 4 Nguyên Tố này tìm Như thế nào ?
- Không có Nước , không có sự sống
- Không có Gió sẽ không có tác động
- Không có Lửa sẽ không nuôi được sự sống
- Không có Đất sẽ miễn bàn , vậy rốt ráo là từ " Đất " => Địa Cầu và tất cả các Hành Tinh trong toàn bộ dãi Ngân Hà kia có vô số mà mình không biết đến được , giống như có vô số siêu vi khuẩn mà mắt thường không nhìn thấy được trong không khí , chỉ khi đưa lên kính hiển vi mới thấu rõ , vậy nên mới Chuyên Tâm , Dùng Cảnh Thức để nhớ về Tiền Kiếp , Mở Luân Xa để có được sự Thông Thái . Ở một giới hạn là Kiếp con người tuổi thọ chỉ 100 năm , như thế sẽ nâng cao Tư Duy , gọi là DUY LÝ
- Duy Lý trong câu : DUY TUỆ THỊ NGHIỆP
- Mys hiểu được vấn đề này Từ Lâu rồi , nên chẳng còn thời gian để mà giận , hay vui , hay buồn , hay để mà lo đến những vấn đề xung quanh , Chỉ Chuyên Tâm cho Kiến Thức của Trí Tuệ Thiền , bởi suy nghĩ nhiều sẽ tăng lượng máu lưu thông nên não , dễ gây bệnh rối loạn tiền Đình , nếu không dùng Thiền sẽ có sự nguy hại . Để vào Thần Kinh Trung Ương Cột Sống từ đó mà hiểu thêm , nói chung có rất nhiều cái đễ nghĩ , Mys chỉ Nguyên Cứu quan trọng nhất là Tâm Thức của Con Người , Như thế mới hiểu được một chữ : Y , và Chữ O nữa , các bạn phải viết rất nhiều mới đọc là hiểu được , còn Nếu với Thiền Sư thì chỉ cần nói từng âm tiết là đủ . Hoặc chỉ viết một dấu chấm
- Mys là Thích dùng cái Thuật Biến Chữ hay gọi là Chơi Chữ , vì cuộc đời này chỉ là một Trò chơi .
- Từ Tiếng Phạn biến ra Chữ Thuần Việt và từ Thuần Việt biến về Tiếng Phạn . Một trong những Pháp Biến .
ví dụ :
- Tương => Tưởng => Tượng => Tướng => Tường =>Tương là một món làm thức ăn .

- Ví dụ : Mưa Bão Gió Lớn , Gió Lớn thì cây Đổ , mà Đổ vào Chùa thì Tượng Lo , mà Tượng Lo là Lọ Tương . Ăn Món Tương hiểu được nhiều ý nghĩa . Gọi là khi ăn cũng có Sách vở để học

- Ghép , Vô Tưởng , Vô Tướng , Vô Tường => nhìn vào Tường mà thấy Tướng , Tướng của Tượng trên Tường . nhìn vào những Đồ hình Cổ để mà học .
- Chữ ghép sau Tương là Tự => Tương Tự
- Tường là làm từ Đất , vô là không , Đất không thì không có gì tồn tại , Chỉ có Động Đất là rơi vào tình trạng không trọng lực sẽ không sống được . Từ 1 Chữ Mys biến ra rất nhiều ý hay để mình hiểu . Gọi là Sát Na Giao Duyên .
* Đồng => Đông => Động , Hướng Đông là Mặt Trời mọc , vậy Mặt Trời là gì ?, là nuôi dưỡng sự sống , như thế gọi là Chiết Tự , Biến Chữ , mới học được Huyền học . Mới Tự Nguyên Cứu .
- Mà chữ " Tự " biến là Từ là Tứ là 4 Nguyên Tố , Vậy chỉ có Đất , Nước , Gió , Lửa là 4 thứ lớn nhất .
- Chữ Từ trong 4 chữ : Từ , Bi , Hỷ , Xã . lại là 4 Chữ . Ý Nghĩa nó như thế nào ? , Sao có nhiều sự trung khớp Thông Tin đến vậy ?
- Vậy 4 Nguyên Tố này tìm Như thế nào ?
- Không có Nước , không có sự sống
- Không có Gió sẽ không có tác động
- Không có Lửa sẽ không nuôi được sự sống
- Không có Đất sẽ miễn bàn , vậy rốt ráo là từ " Đất " => Địa Cầu và tất cả các Hành Tinh trong toàn bộ dãi Ngân Hà kia có vô số mà mình không biết đến được , giống như có vô số siêu vi khuẩn mà mắt thường không nhìn thấy được trong không khí , chỉ khi đưa lên kính hiển vi mới thấu rõ , vậy nên mới Chuyên Tâm , Dùng Cảnh Thức để nhớ về Tiền Kiếp , Mở Luân Xa để có được sự Thông Thái . Ở một giới hạn là Kiếp con người tuổi thọ chỉ 100 năm , như thế sẽ nâng cao Tư Duy , gọi là DUY LÝ
- Duy Lý trong câu : DUY TUỆ THỊ NGHIỆP
- Mys hiểu được vấn đề này Từ Lâu rồi , nên chẳng còn thời gian để mà giận , hay vui , hay buồn , hay để mà lo đến những vấn đề xung quanh , Chỉ Chuyên Tâm cho Kiến Thức của Trí Tuệ Thiền , bởi suy nghĩ nhiều sẽ tăng lượng máu lưu thông nên não , dễ gây bệnh rối loạn tiền Đình , nếu không dùng Thiền sẽ có sự nguy hại . Để vào Thần Kinh Trung Ương Cột Sống từ đó mà hiểu thêm , nói chung có rất nhiều cái đễ nghĩ , Mys chỉ Nguyên Cứu quan trọng nhất là Tâm Thức của Con Người , Như thế mới hiểu được một chữ : Y , và Chữ O nữa , các bạn phải viết rất nhiều mới đọc là hiểu được , còn Nếu với Thiền Sư thì chỉ cần nói từng âm tiết là đủ . Hoặc chỉ viết một dấu chấm

- Tây Đô đạo sĩ
- Bát đẳng
- Bài viết: 7976
- Tham gia: 19:37, 19/10/10
- Đến từ: Tây Đô
TL: TỔNG HỢP KIẾN THỨC TRÍ TUỆ THIỀN !
"thuquanvn"
Đạo Phật không là thuốc
Đạo Phật là cơm canh
Ai cũng có thể uống
Ai cũng có thể ăn
Thức ăn cũng là thuốc
Chữa "đói bụng"đấy mà
Ai bị "suy dinh dưỡng"
Dùng ngay thuốc cơm canh!!!
;) ;)

Đạo Phật không là thuốc
Đạo Phật là cơm canh
Ai cũng có thể uống
Ai cũng có thể ăn
Thức ăn cũng là thuốc
Chữa "đói bụng"đấy mà
Ai bị "suy dinh dưỡng"
Dùng ngay thuốc cơm canh!!!
;) ;)


Được cảm ơn bởi: thuquanvn
- tigerstock68
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2135
- Tham gia: 14:12, 29/03/11
TL: TỔNG HỢP KIẾN THỨC TRÍ TUỆ THIỀN !
Hiểu thế nào về Thiền và Đại định
Samadhi
Vì chúng ta là người, các điều hiểu biết của chúng ta (mà chúng ta cho là hợp lý) đều đến với chúng ta do tâm thức (conscience). Vì tôi ý thức được cái bàn nầy và sự hiện diện của ông nên tôi mới biết được cái bàn và ông ở đó. Tuy nhiên, về một phần lớn ở đời sống tôi, tôi không ý thức gì cả; ví dụ, tôi đâu có biết chi về các cơ quan trong con người tôi hay các bộ phận của khối óc tôi.
Khi tôi ăn, tôi ý thức được việc nầy, nhưng khi tôi đồng hóa nó, tôi làm một cách vô thức. Khi ăn, thức ăn biến thành máu, tôi cũng không hay biết gì. Khi máu huyết đem sinh lực cho toàn cơ thể tôi, đó cũng là một hiện tượng vô thức. Nhưng chính tôi làm các công việc đó, chứ không lẽ có đến hai chục người trong thân thể tôi.
Tại sao chính tôi làm các công việc nầy chớ không phải một kẻ nào khác ? Có người nói là tôi ăn, còn một kẻ khác biến chuyển các thức ăn nầy thành sinh lực. Điều nầy không thể có được là vì các sự việc vô thức nầy có thể đưa lên bình diện hữu thức. Ví dụ quả tim tôi, nó không tùy tôi chút nào, nó muốn đập, muốn ngưng lúc nào tùy nó. Nhưng với một ít công phu luyện tập, người ta có thể điều khiển nó được, bắt nó đập mau, đập chậm gì tùy ý. Điều nầy chỉ rằng sự điều hành các bộ phận của con người, tuy chúng ta không ý thức được, nhưng cũng do chúng ta làm một cách vô thức.
Thế là tâm chúng ta hoạt động trên hai bình diện : bình diện hữu thức trên đó mọi hoạt động đều ích kỷ và bình diện vô thức ở đây, tính cách ích kỷ nầy không còn. Ở loài cầm thú, hoạt động vô thức được gọi là bản năng, còn ở con người, hoạt động hữu thức chiếm được ưu thế.
Nhưng hai bình diện ấy không phải là tất cả. Tâm chúng ta có thể hoạt động ở một cõi cao hơn. Tâm có thể vượt ngoài tầm ý thức. Dưới tâm thức, có hoạt động vô thức. Trên tâm thức, còn có một thứ hoạt động khác và hoạt động nầy cũng không ích kỷ. Sự ích kỷ chỉ có ở bình diện giữa là bình diện hữu thức. Khi tâm vượt khỏi bình diện nầy dù trên cao hay dưới thấp thì nó hoạt động trong sự “vô ngã”. Khi nó vượt cao lên trên, nó đạt trạng thái siêu thức hay đại định (Supraconscience, Samadhi).
Khi chúng ta đạt trạng thái đại định, chúng ta trở nên siêu việt, thay vì đần độn. Tại sao chúng ta biết thế ? Chúng ta có thể căn cứ trên kết quả để trả lời. Khi con người ngủ say, y sang qua một bình diện thấp hơn tâm thức. Trong bình diện nầy, các cơ quan trong thân thể y vẫn hoạt động, y có thể cựa mình nhưng các hoạt động đều có tánh cách vô ngã. Y ở trong trạng thái vô thức, và khi y tỉnh thức, y giống như lúc chưa ngủ : sự hiểu biết của y trước cũng như sau, không thay đổi, không gia tăng một tí nào. Y không nhận một ít ánh sáng nào thêm. Trạng thái Samadhi thì khác : khi anh nhập vào, anh là một người thường, khi anh xuất ra, anh là một vị Thánh. Sự khác biệt là thế : ở trạng thái vô thức, con người lúc vào thế nào thì lúc ra cũng vậy. Về trạng thái đại định, lúc ra thì con người trở nên sáng suốt và trở thành một nhà tiên tri, một vị hiền triết; bản chất anh thay đổi hẳn, đời sống anh biến chuyển hoàn toàn.
Đó là một vài ý niệm về trạng thái Samadhi. Trạng thái đó hữu dụng như thế nào ? Nó hữu dụng như sau. Phạm vi của lý trí nghĩa là của tâm thức rất hẹp hòi. Lý trí của ta bị nhốt trong một cái vòng nhỏ nó cố vượt qua nhưng không bao giờ được. Nhưng chính ở ngoài vòng đó, nhơn loại mới không bao giờ được những điều cao quí nhứt. Tất cả những vấn đề về linh hồn bất tử, về Thượng Đế, về Đại Trí điều khiển Vũ Trụ, tất cả những vấn đề nầy đều vượt khỏi phạm vi lý trí. Lý trí không giải quyết chúng nó được mà chỉ nói : “Tôi không biết gì cả, tôi không nói có mà cũng chẳng nói không”. Nhưng các vấn đề nầy cực kỳ quan trọng, nếu ta không trả lời được một cách hợp lý, đời sống không còn lý do tồn tại. Tất cả lý thuyết về đạo đức, tất cả quan niệm về phong hóa, tất cả những gì cao quí nhất trong bản chất con người, tất cả những điều đó đều được căn cứ trên những câu phúc đáp đến từ bên kia vòng lý trí. Nếu đời sống chỉ là một trò chơi ngắn ngủi, nếu Vũ trụ chỉ là một tổ hợp ngẫu nhiên các nguyên tử, tại sao ta phải hành thiện đối với mọi người ? Tại sao ta phải từ bi, công bằng và bác ái ? Tại sao không nắm mọi cơ hội để mưu lợi cho ta ? Nếu hy vọng ở một cõi cao đẹp là một danh từ rỗng không, tại sao tôi phải yêu thương em tôi thay vì cắt cổ nó ? Nếu không có gì ở cõi bên kia, nếu không có sự tự do, nếu chỉ có những định luật khắc khe và khô chết thì tôi phải tìm hạnh phúc cho tôi ngay ở thế gian nầy. Hiện nay, có người cho rằng đạo đức nên căn cứ trên những lý lẽ thực tế, duy ích. Nhưng ta thử xem nền tảng của đạo đức là gì. Phải chăng là tạo hạnh phúc cho một số đông người ? Nhưng tại sao thế ? Tại sao tôi không gây khổ cho họ nếu sự việc có lợi cho tôi ? Các nhà duy ích trả lời như thế nào ? Làm sao chúng ta biết được cái gì tốt cái gì xấu ? tôi khao khát hạnh phúc, tôi phải chạy theo nó và không cần biết gì cả. Tôi khao khát hạnh phúc, tôi phải chạy theo nó và không cần biết gì cả, tôi có nhiều dục vọng, tôi phải thỏa mãn chúng nó, tại sao ông lại than phiền ?
Như vậy các chơn lý về đời sống con người, về đạo đức, về linh hồn, về Thượng Đế, về thiện cảm, về tình thương, về đức vị tha, các chơn lý ấy phát xuất từ đâu ? Nhất là đức vị tha. Đạo đức học, hành động và tư tưởng của nhơn loại đều căn cứ trên đức vị tha. Quan niệm về đời sống con người có thể gồm trong một chữ : vị tha. Nhưng tại sao ta phải vị tha ? Tôi phải tìm ở đâu sự cần thiết, động lực và can đảm để trở nên vị tha ? Ông nói ông là người duy lý hay duy ích nhưng nếu ông không trả lời rõ câu nầy, tôi sẽ nói quan niệm của ông không vững. Ông phải chỉ rõ tại sao tôi không nên ích kỷ ? Khuyên một người đừng ích kỷ thật là thi vị nhưng thi vị không phải là lý lẽ. Ông hãy chỉ cho tôi lý lẽ nầy. Tại sao tôi phải vị tha, tại sao tôi phải có lòng tốt ? Ông nói : bà nầy, ông kia bảo thế nhưng đối với tôi, câu trả lời nầy không có giá trị. Nếu nguồn lợi của tôi là thu thập rất nhiều hạnh phúc thì tôi phải ích kỷ. Vậy tôi vị tha để làm gì ? Nhà duy ích không sao trả lời được. Câu trả lời là thế giới của chúng ta chỉ là giọt nước trong biển cả vô biên, một mắc của sợi dây xích vô tận. Vậy các bậc chơn tu tìm ở đâu cái ý niệm về hạnh vị tha để giáo hóa nhơn loại : chúng ta biết ý niệm nầy không phải tự nhiên vì cầm thú sống với bản năng mà không biết vị tha là gì. Lý trí cũng không giải thích gì được. Thế thì ý niệm vị tha từ đâu đến ?
Học qua lịch sử, chúng ta nhận thấy các bậc chưởng giáo của thế giới đều có một điểm chung : tất cả đều nói nhận các chơn lý ấy từ cõi trên, tuy phần đông không biết đích xác nhận từ nơi nào. Ví dụ, một vị quả quyết rằng một Thiên thần có cánh bay từ trên cao đến nói : “Hỡi tu sĩ, hãy nghe sứ điệp !”. Người khác nói đã thấy một vị Đại thánh sáng rỡ hiện ra. Một người khác nữa cho biết một đêm nằm mộng thấy ông bà về tiết lộ điều nầy, lẽ nọ. Và các vị ấy chỉ biết có bấy nhiêu thôi. Các lời nầy có một điểm chung : các đấng chơn tu ấy nói nhận trực tiếp các điều đó từ cõi trên chớ không phải bởi quan năng suy luận của mình. Khoa Du Già xác nhận lời nói của họ là đúng, nghĩa là các điều đó đến từ cõi bên kia lý trí. Sự thật các điều đó đến từ nội tâm họ.
Các nhà Du Già dạy rằng tâm con người có thể vượt lên trạng thái siêu thức, ngoài tầm lý trí, và từ đây, chuyển cho nó sự hiểu biết cao quí nói trên. Đôi khi, một người không luyện tập Du Già nhưng ngẫu nhiên vượt qua được phạm vi lý trí để tiến đến một tâm trạng cao hơn bản thể hằng thường của con người. Khi việc nầy xảy ra, ông nói có một sự can thiệp từ bên ngoài. Vì thế, cũng thời một linh cảm hay một ý kiến siêu việt mà tùy người, nó dường như đến do một vị thần, vị thánh hay do Thượng Đế. Việc nầy có ý nghĩa gì ? Nó chỉ rằng chính tâm ta phát sanh ý kiến đó và sự phát sanh nầy được giải thích theo lòng tin tưởng và sự giáo hóa của mỗi người. Sự thật thì các người đó ngẫu nhiên được đưa sang trạng thái siêu thức.
Khoa Du Già dạy rằng hiện tượng ngẫu nhiên nầy rất tai hại. Trong nhiều trường hợp, người ta có thể bị loạn trí. Quí vị có thể để ý thấy rằng nhiều người, khi ngẫu nhiên chứng nghiệm được sự kiện nầy thì sau đó lầm lũi đi trong bóng tối và pha trộn kiến thức của họ với nhiều mê tín, dị đoan. Lắm khi họ bị ám ảnh.
Như vậy, mỗi khi một người ngẫu nhiên gặp được trạng thái siêu thức, ông sẽ truyền dạy nhiều chơn lý tốt đẹp nhưng đồng thời ông cũng gieo rắc sự mê tín rất tai hại cho đời. Muốn hiểu rõ đời sống của chúng ta, đành rằng ta phải vượt khỏi tầm lý trí, nhưng phải vượt một cách khoa học, chậm rãi bằng những công phu thích ứng. Chúng ta phải nghiên cứu trạng thái siêu thức như chúng ta nghiên cứu các sự kiện khoa học. Chúng ta phải suy luận hợp lẽ và cho đến lúc lý trí tỏ ra bất lực. Đến đây, lý trí dừng lại nhưng cũng còn vạch cho ta con đường tiến lên các cõi cao. Khi quí vị nghe một người nói nhận được linh cảm mà ăn nói quàng xiên thì quí vị đừng nghe. Tại sao ? Là vì linh cảm kiện toàn lý trí chớ không bao giờ trái nghịch. Ba tâm trạng : bản năng lý trí, thượng trí hay vô thức, hữu thức và siêu thức cùng thuộc một tâm hồn. Không thể có ba cái tâm trong một con người mà chính trạng thái nầy chuyển biến thành trạng thái sau : bản năng chuyển thành lý trí, lý trí chuyển thành thượng trí (hay siêu thức).
Mục đích của Du Già là đưa tâm sang trạng thái siêu thức một cách khoa học. Chúng ta cũng nên ghi nhớ rằng linh cảm có thể đến với chúng ta cũng như đến các bậc chân tu. Các vị nầy không phải một hạng người riêng biệt : họ cũng như quí vị và tôi, nhưng họ là các nhà du già siêu việt. Nếu các vị ấy đạt được siêu thức thì chúng ta cũng có thể đạt. Đúng ra không phải là có thể mà chắc chắn ai ai cũng đạt được và đó là tôn giáo.
Trạng thái siêu thức hay đại định là một trạng thái cao nhất của đời người. Nó đem lại cho con người sự an lạc thật sự.
Hạnh phúc của con thú là ăn uống, của con người là suy tư và của tiên thánh là đại định. Thế giới chỉ hiện ra trong tất cả sự huy hoàng của nó cho những ai thực hiện được sự đại định. Dưới mắt những ai đã diệt hẳn dục vọng, sự biến chuyển của vạn vật dưới thiên hình vạn trạng sẽ hiện ra trong một quang cảnh nguy nga kỳ diệu.
Ai ai cũng có thể tiến đến sự đại định. Khi ta tiến đến đó ta mới ý thức được thế nào là tôn giáo. Hiện nay, không khác kẻ vô thần, vì chúng ta chưa có một chứng nghiệm nào, Thiền sẽ đem lại cho chúng ta chứng nghiệm đó. Các giai đoạn mà chúng ta phải trải qua để tiến đến sự đại định, đã được qui định một cách khoa học và giúp ta thực hiện mục đích của ta. Chừng đó, các buồn bực, khổ đau sẽ tiêu tan, dây nhân quả sẽ chấm dứt và linh hồn sẽ hoàn toàn tự tại.
Samadhi
Vì chúng ta là người, các điều hiểu biết của chúng ta (mà chúng ta cho là hợp lý) đều đến với chúng ta do tâm thức (conscience). Vì tôi ý thức được cái bàn nầy và sự hiện diện của ông nên tôi mới biết được cái bàn và ông ở đó. Tuy nhiên, về một phần lớn ở đời sống tôi, tôi không ý thức gì cả; ví dụ, tôi đâu có biết chi về các cơ quan trong con người tôi hay các bộ phận của khối óc tôi.
Khi tôi ăn, tôi ý thức được việc nầy, nhưng khi tôi đồng hóa nó, tôi làm một cách vô thức. Khi ăn, thức ăn biến thành máu, tôi cũng không hay biết gì. Khi máu huyết đem sinh lực cho toàn cơ thể tôi, đó cũng là một hiện tượng vô thức. Nhưng chính tôi làm các công việc đó, chứ không lẽ có đến hai chục người trong thân thể tôi.
Tại sao chính tôi làm các công việc nầy chớ không phải một kẻ nào khác ? Có người nói là tôi ăn, còn một kẻ khác biến chuyển các thức ăn nầy thành sinh lực. Điều nầy không thể có được là vì các sự việc vô thức nầy có thể đưa lên bình diện hữu thức. Ví dụ quả tim tôi, nó không tùy tôi chút nào, nó muốn đập, muốn ngưng lúc nào tùy nó. Nhưng với một ít công phu luyện tập, người ta có thể điều khiển nó được, bắt nó đập mau, đập chậm gì tùy ý. Điều nầy chỉ rằng sự điều hành các bộ phận của con người, tuy chúng ta không ý thức được, nhưng cũng do chúng ta làm một cách vô thức.
Thế là tâm chúng ta hoạt động trên hai bình diện : bình diện hữu thức trên đó mọi hoạt động đều ích kỷ và bình diện vô thức ở đây, tính cách ích kỷ nầy không còn. Ở loài cầm thú, hoạt động vô thức được gọi là bản năng, còn ở con người, hoạt động hữu thức chiếm được ưu thế.
Nhưng hai bình diện ấy không phải là tất cả. Tâm chúng ta có thể hoạt động ở một cõi cao hơn. Tâm có thể vượt ngoài tầm ý thức. Dưới tâm thức, có hoạt động vô thức. Trên tâm thức, còn có một thứ hoạt động khác và hoạt động nầy cũng không ích kỷ. Sự ích kỷ chỉ có ở bình diện giữa là bình diện hữu thức. Khi tâm vượt khỏi bình diện nầy dù trên cao hay dưới thấp thì nó hoạt động trong sự “vô ngã”. Khi nó vượt cao lên trên, nó đạt trạng thái siêu thức hay đại định (Supraconscience, Samadhi).
Khi chúng ta đạt trạng thái đại định, chúng ta trở nên siêu việt, thay vì đần độn. Tại sao chúng ta biết thế ? Chúng ta có thể căn cứ trên kết quả để trả lời. Khi con người ngủ say, y sang qua một bình diện thấp hơn tâm thức. Trong bình diện nầy, các cơ quan trong thân thể y vẫn hoạt động, y có thể cựa mình nhưng các hoạt động đều có tánh cách vô ngã. Y ở trong trạng thái vô thức, và khi y tỉnh thức, y giống như lúc chưa ngủ : sự hiểu biết của y trước cũng như sau, không thay đổi, không gia tăng một tí nào. Y không nhận một ít ánh sáng nào thêm. Trạng thái Samadhi thì khác : khi anh nhập vào, anh là một người thường, khi anh xuất ra, anh là một vị Thánh. Sự khác biệt là thế : ở trạng thái vô thức, con người lúc vào thế nào thì lúc ra cũng vậy. Về trạng thái đại định, lúc ra thì con người trở nên sáng suốt và trở thành một nhà tiên tri, một vị hiền triết; bản chất anh thay đổi hẳn, đời sống anh biến chuyển hoàn toàn.
Đó là một vài ý niệm về trạng thái Samadhi. Trạng thái đó hữu dụng như thế nào ? Nó hữu dụng như sau. Phạm vi của lý trí nghĩa là của tâm thức rất hẹp hòi. Lý trí của ta bị nhốt trong một cái vòng nhỏ nó cố vượt qua nhưng không bao giờ được. Nhưng chính ở ngoài vòng đó, nhơn loại mới không bao giờ được những điều cao quí nhứt. Tất cả những vấn đề về linh hồn bất tử, về Thượng Đế, về Đại Trí điều khiển Vũ Trụ, tất cả những vấn đề nầy đều vượt khỏi phạm vi lý trí. Lý trí không giải quyết chúng nó được mà chỉ nói : “Tôi không biết gì cả, tôi không nói có mà cũng chẳng nói không”. Nhưng các vấn đề nầy cực kỳ quan trọng, nếu ta không trả lời được một cách hợp lý, đời sống không còn lý do tồn tại. Tất cả lý thuyết về đạo đức, tất cả quan niệm về phong hóa, tất cả những gì cao quí nhất trong bản chất con người, tất cả những điều đó đều được căn cứ trên những câu phúc đáp đến từ bên kia vòng lý trí. Nếu đời sống chỉ là một trò chơi ngắn ngủi, nếu Vũ trụ chỉ là một tổ hợp ngẫu nhiên các nguyên tử, tại sao ta phải hành thiện đối với mọi người ? Tại sao ta phải từ bi, công bằng và bác ái ? Tại sao không nắm mọi cơ hội để mưu lợi cho ta ? Nếu hy vọng ở một cõi cao đẹp là một danh từ rỗng không, tại sao tôi phải yêu thương em tôi thay vì cắt cổ nó ? Nếu không có gì ở cõi bên kia, nếu không có sự tự do, nếu chỉ có những định luật khắc khe và khô chết thì tôi phải tìm hạnh phúc cho tôi ngay ở thế gian nầy. Hiện nay, có người cho rằng đạo đức nên căn cứ trên những lý lẽ thực tế, duy ích. Nhưng ta thử xem nền tảng của đạo đức là gì. Phải chăng là tạo hạnh phúc cho một số đông người ? Nhưng tại sao thế ? Tại sao tôi không gây khổ cho họ nếu sự việc có lợi cho tôi ? Các nhà duy ích trả lời như thế nào ? Làm sao chúng ta biết được cái gì tốt cái gì xấu ? tôi khao khát hạnh phúc, tôi phải chạy theo nó và không cần biết gì cả. Tôi khao khát hạnh phúc, tôi phải chạy theo nó và không cần biết gì cả, tôi có nhiều dục vọng, tôi phải thỏa mãn chúng nó, tại sao ông lại than phiền ?
Như vậy các chơn lý về đời sống con người, về đạo đức, về linh hồn, về Thượng Đế, về thiện cảm, về tình thương, về đức vị tha, các chơn lý ấy phát xuất từ đâu ? Nhất là đức vị tha. Đạo đức học, hành động và tư tưởng của nhơn loại đều căn cứ trên đức vị tha. Quan niệm về đời sống con người có thể gồm trong một chữ : vị tha. Nhưng tại sao ta phải vị tha ? Tôi phải tìm ở đâu sự cần thiết, động lực và can đảm để trở nên vị tha ? Ông nói ông là người duy lý hay duy ích nhưng nếu ông không trả lời rõ câu nầy, tôi sẽ nói quan niệm của ông không vững. Ông phải chỉ rõ tại sao tôi không nên ích kỷ ? Khuyên một người đừng ích kỷ thật là thi vị nhưng thi vị không phải là lý lẽ. Ông hãy chỉ cho tôi lý lẽ nầy. Tại sao tôi phải vị tha, tại sao tôi phải có lòng tốt ? Ông nói : bà nầy, ông kia bảo thế nhưng đối với tôi, câu trả lời nầy không có giá trị. Nếu nguồn lợi của tôi là thu thập rất nhiều hạnh phúc thì tôi phải ích kỷ. Vậy tôi vị tha để làm gì ? Nhà duy ích không sao trả lời được. Câu trả lời là thế giới của chúng ta chỉ là giọt nước trong biển cả vô biên, một mắc của sợi dây xích vô tận. Vậy các bậc chơn tu tìm ở đâu cái ý niệm về hạnh vị tha để giáo hóa nhơn loại : chúng ta biết ý niệm nầy không phải tự nhiên vì cầm thú sống với bản năng mà không biết vị tha là gì. Lý trí cũng không giải thích gì được. Thế thì ý niệm vị tha từ đâu đến ?
Học qua lịch sử, chúng ta nhận thấy các bậc chưởng giáo của thế giới đều có một điểm chung : tất cả đều nói nhận các chơn lý ấy từ cõi trên, tuy phần đông không biết đích xác nhận từ nơi nào. Ví dụ, một vị quả quyết rằng một Thiên thần có cánh bay từ trên cao đến nói : “Hỡi tu sĩ, hãy nghe sứ điệp !”. Người khác nói đã thấy một vị Đại thánh sáng rỡ hiện ra. Một người khác nữa cho biết một đêm nằm mộng thấy ông bà về tiết lộ điều nầy, lẽ nọ. Và các vị ấy chỉ biết có bấy nhiêu thôi. Các lời nầy có một điểm chung : các đấng chơn tu ấy nói nhận trực tiếp các điều đó từ cõi trên chớ không phải bởi quan năng suy luận của mình. Khoa Du Già xác nhận lời nói của họ là đúng, nghĩa là các điều đó đến từ cõi bên kia lý trí. Sự thật các điều đó đến từ nội tâm họ.
Các nhà Du Già dạy rằng tâm con người có thể vượt lên trạng thái siêu thức, ngoài tầm lý trí, và từ đây, chuyển cho nó sự hiểu biết cao quí nói trên. Đôi khi, một người không luyện tập Du Già nhưng ngẫu nhiên vượt qua được phạm vi lý trí để tiến đến một tâm trạng cao hơn bản thể hằng thường của con người. Khi việc nầy xảy ra, ông nói có một sự can thiệp từ bên ngoài. Vì thế, cũng thời một linh cảm hay một ý kiến siêu việt mà tùy người, nó dường như đến do một vị thần, vị thánh hay do Thượng Đế. Việc nầy có ý nghĩa gì ? Nó chỉ rằng chính tâm ta phát sanh ý kiến đó và sự phát sanh nầy được giải thích theo lòng tin tưởng và sự giáo hóa của mỗi người. Sự thật thì các người đó ngẫu nhiên được đưa sang trạng thái siêu thức.
Khoa Du Già dạy rằng hiện tượng ngẫu nhiên nầy rất tai hại. Trong nhiều trường hợp, người ta có thể bị loạn trí. Quí vị có thể để ý thấy rằng nhiều người, khi ngẫu nhiên chứng nghiệm được sự kiện nầy thì sau đó lầm lũi đi trong bóng tối và pha trộn kiến thức của họ với nhiều mê tín, dị đoan. Lắm khi họ bị ám ảnh.
Như vậy, mỗi khi một người ngẫu nhiên gặp được trạng thái siêu thức, ông sẽ truyền dạy nhiều chơn lý tốt đẹp nhưng đồng thời ông cũng gieo rắc sự mê tín rất tai hại cho đời. Muốn hiểu rõ đời sống của chúng ta, đành rằng ta phải vượt khỏi tầm lý trí, nhưng phải vượt một cách khoa học, chậm rãi bằng những công phu thích ứng. Chúng ta phải nghiên cứu trạng thái siêu thức như chúng ta nghiên cứu các sự kiện khoa học. Chúng ta phải suy luận hợp lẽ và cho đến lúc lý trí tỏ ra bất lực. Đến đây, lý trí dừng lại nhưng cũng còn vạch cho ta con đường tiến lên các cõi cao. Khi quí vị nghe một người nói nhận được linh cảm mà ăn nói quàng xiên thì quí vị đừng nghe. Tại sao ? Là vì linh cảm kiện toàn lý trí chớ không bao giờ trái nghịch. Ba tâm trạng : bản năng lý trí, thượng trí hay vô thức, hữu thức và siêu thức cùng thuộc một tâm hồn. Không thể có ba cái tâm trong một con người mà chính trạng thái nầy chuyển biến thành trạng thái sau : bản năng chuyển thành lý trí, lý trí chuyển thành thượng trí (hay siêu thức).
Mục đích của Du Già là đưa tâm sang trạng thái siêu thức một cách khoa học. Chúng ta cũng nên ghi nhớ rằng linh cảm có thể đến với chúng ta cũng như đến các bậc chân tu. Các vị nầy không phải một hạng người riêng biệt : họ cũng như quí vị và tôi, nhưng họ là các nhà du già siêu việt. Nếu các vị ấy đạt được siêu thức thì chúng ta cũng có thể đạt. Đúng ra không phải là có thể mà chắc chắn ai ai cũng đạt được và đó là tôn giáo.
Trạng thái siêu thức hay đại định là một trạng thái cao nhất của đời người. Nó đem lại cho con người sự an lạc thật sự.
Hạnh phúc của con thú là ăn uống, của con người là suy tư và của tiên thánh là đại định. Thế giới chỉ hiện ra trong tất cả sự huy hoàng của nó cho những ai thực hiện được sự đại định. Dưới mắt những ai đã diệt hẳn dục vọng, sự biến chuyển của vạn vật dưới thiên hình vạn trạng sẽ hiện ra trong một quang cảnh nguy nga kỳ diệu.
Ai ai cũng có thể tiến đến sự đại định. Khi ta tiến đến đó ta mới ý thức được thế nào là tôn giáo. Hiện nay, không khác kẻ vô thần, vì chúng ta chưa có một chứng nghiệm nào, Thiền sẽ đem lại cho chúng ta chứng nghiệm đó. Các giai đoạn mà chúng ta phải trải qua để tiến đến sự đại định, đã được qui định một cách khoa học và giúp ta thực hiện mục đích của ta. Chừng đó, các buồn bực, khổ đau sẽ tiêu tan, dây nhân quả sẽ chấm dứt và linh hồn sẽ hoàn toàn tự tại.
Được cảm ơn bởi: thuquanvn
-
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 1578
- Tham gia: 10:51, 10/05/10
TL: TỔNG HỢP KIẾN THỨC TRÍ TUỆ THIỀN !
- Đồng ý với tigerstock68 , vì vấn đề này đã kiểm nghiệm , với một số người . Bản thân mình đứng ngoài và thấy rất nhiều người tự nhiên vui , tự nhiên buồn , và tự nhiên khóc , còn bản thân mình chẳng có được cái cảm xúc đó . Mình Nhìn đời rất lạc quan , tất cả đều bình thường , có diễn giải cũng vậy , vì nói cũng có ít người hiểu được .
- Muốn hiểu được Quả Vị Giải Thoát thì : Chẳng khó , Chẳng dễ
- Muốn hiểu được Quả Vị Giải Thoát thì : Chẳng khó , Chẳng dễ
-
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 1578
- Tham gia: 10:51, 10/05/10
TL: TỔNG HỢP KIẾN THỨC TRÍ TUỆ THIỀN !
- Nó Đóthu lan đã viết:cho em hỏi " vọng" là gì hả @mys.... chúng sanh cũng vì chữ này mà khổ sở ...nên em hỏi @mys để rành rõ tường tận hơn....

- tigerstock68
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2135
- Tham gia: 14:12, 29/03/11
TL: TỔNG HỢP KIẾN THỨC TRÍ TUỆ THIỀN !
Năm nguyên tố và ba tính chất của vũ trụmysterious đã viết:- Nó Đóthu lan đã viết:cho em hỏi " vọng" là gì hả @mys.... chúng sanh cũng vì chữ này mà khổ sở ...nên em hỏi @mys để rành rõ tường tận hơn....
Triết lý Phật giáo nhìn nhận, vũ trụ được tạo thành bởi 4 nguyên tố lớn (tứ đại) là Đất, Nước, Lửa và Khí; nhưng đó là loại vật chất cô đặc của không gian 3 chiều. Mở rộng hơn về vũ trụ, các nhà hiền triết yoga Ấn Độ có nhắc đến một loại chất khác, Dĩ Thái (Ether/Aether) [3], loại vật chất thanh nhẹ thuộc chiều không gian thứ 4 trở đi và được Hội Thông Thiên Học chuẩn hóa như nguyên tố thứ 5 của vũ trụ.
Thuật ngữ “Aether” đã được Plato sử dụng lần đầu tiên trong tác phẩm “Timaeus” khi nói về chất tinh hoa thứ 5, loại vật chất được Thượng Đế sử dụng để tạo tác vũ trụ, được Robert Fludd cho là là tinh vi hơn ánh sáng [4] và chiếm tỉ lệ nhiều nhất trong vũ trụ.
[img]http://dobatnhi.files.wordpress.com/201 ... %20initial;[/img]
Sự kết hợp của Năm-nguyên-tố và Ba-tính-chất
Người Hindu còn quan niệm, các loại vật chất của vũ trụ ở mỗi chiều không gian khác nhau có nhiều tầng mức rung động khác nhau; nhưng về cơ bản có 3 loại rung động chính: đó là Tính trung (Sattva) [5], Tính động (Raja) [6] và Tính tịnh (Tama) [7].
Sattva là trạng thái rung động của tâm, đó chính là tình thương, lòng từ bi, sự an tĩnh… Các thực phẩm tinh khiết có lợi ích cho việc nuôi dưỡng tin thần, tu tập thiền định là loại chứa nhiều tính chất Sattva. Nó phải là loại thực phẩm không gây kích thích thần kinh, chất say, động vật qua giết mổ hoặc bị đau đớn trước khi chết, thực phẩm cũ có mùi [8]. Trái cây, rau, đậu, khoai… là loại có chưa nhiều rung động của Sattva nhất.
Raja là trạng thái rung động của tâm, nó bao gồm các hành động mang tích chất hứng khởi, thay đổi đột ngột, đam mê, sáng tạo, kích dục…[9]. Các loại thực phẩm có chứa nhiều tính chất Raja là thịt cá chết, cá khô, thịt thối, ớt, hành, tỏi…
Tama là trạng thái rung động của tâm, nó thuộc về sự lười biếng, vô cảm, thất vọng, buồn rầu, bị mê hoặc… đây là loại rung động vật chất thấp và nghiệp quả nặng nề nhất trong 3 loại rung động. Trường phái triết học Samkhya xem Tama là rào cản lớn của hành giả yoga trên con đường chuyển hóa năng lượng lên đến Sattva hoặc Sattva [10].
[img]http://dobatnhi.files.wordpress.com/201 ... %20initial;[/img]
Như vậy, năm nguyên tố Đất, Nước, Lửa, Khí và Dĩ Thái khi hợp lại sẽ thành ba-tính-chất cơ bản của vũ trụ là Sattva, Raja và Tama.
Vật chất của vũ trụ đã tiến hóa như thế nào
Triết học Ấn Độ xem linh hồn là một loại vật chất, nó cũng được hợp thành bởi năm-nguyên-tố và ba-tính-chất của vũ trụ. Linh hồn tiến hóa cao sẽ chứa nhiều rung động thuộc về Sattva và còn rất ít rung động thuộc về Tama, ngược lại linh hồn còn chịu nhiều Nghiệp Quả lại có rất ít rung động Sattva.
Theo Quỹ nghiên cứu siêu hình (Spiritual Research Foundation), tầng nấc sự tiến hóa của vật chất bao gồm cấu tạo của ba-tính-chất như sau: [11]
- Linh hồn của Thánh sư (Saint) có khoảng 50% rung động Sattva, 30% rung động Raja và 20% rung động Tama;
- Linh hồn tiến hóa trung bình có khoảng 20% rung động Sattva, 30% rung động Raja và 50% rung động Tama;
- Linh hồn bình thường có khoảng 10% rung động Sattva, 50% rung động Raja và 40% rung động Tama;
Tùy theo định mức cấu tạo và rung động của ba-tính-chất, vũ trụ lại được phân chia ra 7 thế giới, tức không gian 7 chiều, và sắp xếp chúng theo từng mức độ tiến hóa khác nhau gồm: [12]
- Dục giới:
+ Cõi trần: không gian 3 chiều.
+ Cõi trung giới: không gian 4 chiều.
- Sắc giới:
+ Cõi thượng giới: không gian 5 chiều.
- Vô sắc giới:
+ Cõi bồ đề: Không gian 6 chiều.
+ Cõi niết bàn: Không gian 7 chiều.
Sự sắp xếp này bao gồm cả hai ý nghĩa, đáp ứng rung động thanh nhẹ và sự phân lớp của không gian. Do chịu sức hút của Trái đất, từ chiều không gian thứ 4 trở đi, các loại vật chất có chứa nhiều rung động Tama sẽ ở gần mặt đất hơn và những linh hồn kém tiến hóa sẽ di chuyển nặng nề và không thể bay cao lên được.
Được cảm ơn bởi: cloudstrife