virgo_o0o đã viết:..chị ơi....em bị mắc chứng đang đọc chúđạibi gùi ngủ khò lun....nên đâm ra chưa kịp hồj hướg công đức gì hết...

...em tính hồi hướng trước xong gùi mớj đọc chú sau dc hôk chị...?.....ت

ت
Đó là do nghiệp lực của chúng ta. Chúng ta từ vô thỉ đến nay bị nhiều nghiệp lực lắm nên nghiệp sẽ tạo ra chưỚng duyên cho chúng ta khi chúng ta tu tập! Nếu do vì em đợi đến tối khuya trưỚc giờ ngủ mới ngồi trì Chú Đại Bi thì em thử trì Chú Đại Bi sớm hơn xem sao? Nếu sau khi em đổi giờ vẫn bị ngủ gục hoặc em ko thể đổi giờ khác do lịch trình của em ko cho phép thì trưỚc khi em trì Chú Đại Bi, em nên lạy Phật sám hối nghiệp chưỚng để 3 nghiệp dc thanh tịnh rồi em hẳn ngồi trì! Đúng ra, trưỚc khi em trì chú hoặc vào thời khóa niệm Phật hoặc trưỚc khi tụng kinh, em nên làm lễ sám hối để 3 nghiệp dc thanh tịnh rồi em mới vào công phu! Việc sám hối giúp em giải trừ dc nghiệp lực nên thân tâm của em sẽ dc thanh tịnh hơn khi vào công phu. Chị sẽ dán công thức sám hối trưỚc khi công phu để chia sẻ cho em phía dưỚi của hồi âm này nhé!
Ngoài việc em sám hối nghiệp chưỚng như chị đã đề nghị phia trên, để khắc phục chứng ngủ gục, em nên đọc Chú lớn tiếng lên, miệng đọc tai nghe, đọc từng chữ từng chữ để nhiếp tâm vào câu thần chú ấy! Nếu đọc lớn và quỳ lạy cùng thay đổi giờ giấc trì sớm hơn và lạy Phật sám hối vẫn ko khắc phục dc chứng ngủ gục của em thì em nên đứng trưỚc bàn thờ trì Chú thay vì quỳ!
Chị có đọc trong kinh LưƠng Hoàng Sám, Ngài Thích Trí Quang có viết về phần hồi hưỚng công đức như sau; em đọc để tham khảo và để trả lời câu hỏi của em, với kiến thức của quý Sư nhé:
"Có một chi tiết cần lưu y, là trong sự trì tụng bái sám cho ngưỜi, dẫu để cầu an hay cầu siêu, đều phải tác bạch cho rõ ràng về tên của mình, cầu cho người tên gì và cầu việc gì . Phải tác bạch như vậy trước bài kệ khai kinh trong phần Khai Kinh và trước ba tự qui-y trong phần Hồi Hướng ."
Nghi-Thức Sám Hối Trước Khi Tụng Kinh
(Dùng ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh mà tụng kinh, thời phước đức vô lượng, nên trước khi tụng kinh cần phải sám-hối, sám-hối tức là làm cho 3 nghiệp thanh tịnh)
Nam-mô thập-phương tận hư-không giới nhứt thiết Chư Phật. (1 lạy)
Nam-mô thập-phương tận hư-không giới nhứt thiết Tôn Pháp. (1 lạy)
Nam-mô thập-phương tận hư-không giới nhứt-thiết Hiền Thánh Tăng (1 lạy)
(Quì, tay cầm hương cúng-dường phát nguyện)
Nguyện mây hương mầu này
Khắp cùng mười phương cõi
Cúng-dường tất cả Phật.
Tôn Pháp, các Bồ-Tát,
Vô biên chúng Thanh-văn
Và cả thảy Thánh-hiền
Duyên khởi đài sáng chói
Trùm đến vô biên cõi,
Khắp xông các chúng-sanh
Ðều phát lòng Bồ-đề,
Xa lìa những nghiệp vọng
Trọn nên đạo vô-thượng.
(cầm hương lạy 1 lạy)
(Ðứng chắp tay xướng)
Sắc thân Như-Lai đẹp
Trong đời không ai bằng
Không sánh, chẳng nghĩ bàn
Nên nay con đảnh lễ
Sắc thân Phật vô-tận
Trí-tuệ Phật cũng thế,
Tất cả Pháp thường-trụ
Cho nên con về nương,
Sức trí lớn nguyện lớn
Khắp độ chúng quần-sanh,
Khiến bỏ thân nóng khổ
Sanh kia nước mát vui.
Con nay sạch ba nghiệp
Qui-y và lễ tán
Nguyện cùng các chúng-sanh
Ðồng sanh nước An-Lạc.
[/color]
Án phạ nhựt ra vật. (7 lần)
Chí Tâm Ðảnh Lễ
(Câu này thông cả 9 câu dưới, đều xướng ở đầu câu)
Thường-tịch-quang tịnh độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Pháp-thân mầu thanh-tịnh
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Thật báo trang nghiêm độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân tướng hải vi-trần
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Phương-tiện thánh cư độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân trang-nghiêm giải-thoát
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương Tây
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân căn giới đại-thừa
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương Tây
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân hóa đến mười phương
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương tây
Giáo hạnh lý ba kinh
Tột nói bày y chánh
Khắp pháp-giới Tôn Pháp (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương tây
Quán-thế-Âm Bồ-tát
Thân tử-kim muôn ức
Khắp pháp-giới Bồ-tát (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương tây
Ðại Thế-Chí Bồ-tát
Thân trí sáng vô-biên
Khắp pháp-giới Bồ-tát (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương tây
Thanh-tịnh đại-hải-chúng
Thân hai nghiêm: Phước, trí
Khắp pháp-giới Thánh-chúng (1 lạy)
( Ðứng chắp tay nguyện: )
' Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi cùng chúng sanh ' Trong pháp-giới, đều nguyện
dứt trừ ba chướng(1)' nên qui mạng (2) sám-hối(3)'
(1 lạy quỳ chắp tay sám hối)
[/color]
Chí Tâm Sám Hối:
Ðệ tử... và chúng sanh trong pháp giới, từ đời vô thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô minh che đậy nên điên đảo mê-lầm, lại do sáu căn ba nghiệp (4) quen theo pháp chẳng lành, rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô-gián (5) và tất cả các tội khác, nhiều vô-lượng vô-biên nói không kể hết. Mười phương các đức Phật thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong chiếu soi tất cả Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư-không.
Con từ vô-thỉ đến nay, sáu căn che mù, ba nghiệp tối tăm, chẳng thấy, chằng nghe, chẳng hay chẳng biết, vì nhân duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ (6) trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. - Kinh rằng: 'Ðức Tỳ-Lô-Giá-Na thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường-Tịch-Quang, cho nên phải biết cả thảy các pháp đều là Phật-pháp, mà con không rõ lại theo giòng vô-minh, vì thế trong trí Bồ-đề mà thấy không thanh-tịnh, trong cảnh giải thoát mà sanh ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ, nay mới chừa bỏ ăn năn, phụng đối trước các đức Phật và A-Di-Ðà Thế-Tôn mà pháp lồ (7) sám hối làm cho đệ tử và pháp-giới chúng-sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô thỉ, hoặc hiện tại cùng vị-lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt ráo thanh tịnh.
Ðệ-tử sám-hối rồi, sáu căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu tập cũng trọn thanh-tịnh, thảy đều hồi hướng dùng trang-nghiêm Tịnh-Ðộ khắp với chúng-sinh, đồng sanh về nước An-Dưỡng.
Nguyện đức A-Di-Ðà Phật thường đến hộ trì, làm cho căn-lành của đệ tử hiện-tiền tăng-tấn, chẳng mất nhân duyên Tịnh-độ, đến giờ lâm chung, thân an niệm chánh, xem nghe đều rõ ràng, tận mặt thấy đức A-Di-Ðà cùng các Thánh-chúng, tay cầm đài hoa tiếp dẫn đệ tử, trong khoảng sát-na sanh ra trước Phật, đủ đạo-hạnh Bồ-tát, rộng độ khắp chúng-sanh đồng thành Phật-đạo.
Ðệ-tử sám-hối phát nguyện rồi qui mạng đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Ðà Như-Lai, biến pháp-giới Tam-Bảo (1 lạy)
( lạy xong tiếp Nghi Thức tụng kinh )
[/color]
Thích Nghĩa Sám Pháp
(1) Phiền não, nghiệp nhân, quả báo ba món đều hay làm chướng ngại đường giải thoát nên gọi: 'Ba món
chướng.'
(2) Ðem thân mạng về nương, giao phó cho Phật, Pháp, Tăng chính là nghĩa của hai chữ 'Nam-mô'.
(3) Nói đủ là Sám-ma hối quá. 'Sám ma' là tiếng Phạm, nghĩa là 'hối quá', tức là ăn năn tội trước, ngừa giữ lỗi sau.
(4) Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý: sáu căn, và ba nghiệp: thân, khẩu, ý.
(5) Giết cha, giết mẹ, giết thánh nhơn, ác tâm làm thân Phật ra máu, phá hòa hiệp Tăng, gọi là năm tội
Nghịch, nếu phạm sẽ bị đọa vào ngục Vô-gián nên gọi là tội Vô-gián - Ngục Vô-gián là chỗ thọ khổ không có lúc nào ngừng ngớt.
(6) A-tu-la, Súc-sanh, Ngạ quỉ, Ðịa ngục, các đường đó vui ít khổ nhiều, do nghiệp dữ cảm ra.
(7) Bày lộ tội lỗi ra trước Chúng-Nhơn không chút giấu che thời gọi là phát lồ, trái với phú tàng (che giấu). Có phát lồ thời tội mới tiêu, như bịnh cảm mà đặng phát hạn (ra mồ hôi).
[/color][/color]