Đúng rồi, em. Ai cũng trải qua đoạn đường đó! Em cố gắng lên nhé!Hoài Cổ đã viết:Dạ, chắc chắn là vậy chị ạ, nếu không niệm Phật em sẽ không vượt qua được.Vô_Niệm đã viết: Ráng lên em. Niệm Phật giúp em nhiều lắm![]()
Em vẫn nghĩ em có thể lầm đường nhưng đức Phật sẽ dẫn em đi đúng hướng
Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Được cảm ơn bởi: Hoài Cổ
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Hi.c, nghề với nghiệp nhiều khi làm mình căng thẳng lắm! Lắm lúc chị cũng bị thế, sức ép thật là mệt mõi! Nhưng vì chị niệm Phật nên khi căng quá chị niệm nên giờ đở hơn xưa. Dù sao đi nữa đàn ông các em đở hơn phụ nữ tụi chị; điển hình người bạn gái của em đã gặp chướng duyên hôm quy y là thế đó em hịc! Những ngày như vậy honey của chị cẩn thận ko dám chọc chị giậntuankietxm đã viết:Hình như em thuộc rồi thì phải để em tự gõ xem thử: Án a na lệ tì xá đề ,bệ ra bạt xà ra đà rị,bàn đà bàn đà nễ bạc xà ra bàn ni phấn,hổ hồng đô lô ung phấn ta bà ha.Vô_Niệm đã viết:Tốt quá, em! Nếu em thuộc dc là tuyệt vời!tuankietxm đã viết:Em cảm ứng nhất câu trong kinh A di Đà mỗi lần đọc câu này là em nỗi da gà. " Tùng thị Tây Thương quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực lạc. Kỳ độ hữu Phật hiệu A di đà, kim hiện tại thuyết pháp". Hình như có lẻ em thuộc kinh này rồi chị à nhưng em ko tự tin đọc ko nhìn vị sợ sai sót hoặc thiếu.
Em thuộc Tâm chú Lăng Nghiêm rồi phải ko??
Dạo này em tạo nghiệp quá chị ơi...tụi học sinh nó ko nghe lời em,lười làm bài em đã...ra tay...đánh tụi nó,em đã làm mình hung dữ lên rất nhiều...nhiều lúc tức giận quá...quên mất niệm phật...nhiều lúc em đánh mà tâm em niệm phật...huhu...giờ em đã hiểu câu...ba mẹ hy sinh tạo nghiệp ác để nuôi con cái...


À, có 1 vị Sư đã thấy quyển kinh Dược Sư chị in ra ấn tống; vị ấy khen chị làm đẹp quá nên đã nhờ chị in kinh ấy cho chùa Thầy sử dụng


Được cảm ơn bởi: cocacola, tuankietxm
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh dạy về cách nhất tâm, tinh tấn và chuyển hóa vọng niệm
*******************************
Các bậc tổ sư thường dạy đồ chúng cách
tâm niệm để làm phương châm hành trì. Xin Sư ông cho chúng con một lời khuyên dưới hình thức một lời tâm niệm?
-----------------------------------
Người xưa thường nói: “Sanh tử sự đại” nhưng mình đã quen sống trong sanh tử, ai cũng vậy hết, nên không thấy quan trọng. Kỳ thật, lấy mắt đạo mà nhìn vào thì đó là việc lớn của mọi người, của chúng sanh. Đã lăn lóc mãi trong nhiều đời, hiện tại nếu không cố gắng thì những đời sau cũng vẫn lẩn quẩn trong vũng lầy sanh tử mà thôi.
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sinh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sanh tử luân hồi. Vì thế, gặp được rồi thì mình phải cố gắng để vững bền trong chánh pháp. Cho nên, Phật dạy tất cả đều phải tinh tấn, nhất tâm. Nhưng chúng ta lại có cái lỗi là luôn phóng dật, giãi đãi. Trong Luật, những khi có việc gì thì các vị Trưởng lão, các vị Đại đức đều khuyên nhắc: “Phải tinh tấn, chớ phóng dật”. Chỉ có hai điều đó thôi! Phóng dật ở thân khẩu thì dễ biết, còn ở tâm ý thì rất khó biết. Hễ duyên theo lục trần đều là phóng dật. Phóng dật thì trôi theo sanh tử. Tinh tấn thì đạt Niết-bàn. Người tu hành phải tinh tấn thì mọi khó khăn đều sẽ vượt qua, mọi công đức sẽ đạt được.
Trong một số bài giảng, Sư ông thi thoảng sử dụng từ “tu mót” để khích lệ tứ chúng tinh tấn tu tập. Xin Sư ông giải thích thêm ý nghĩa của tu mót là gì?
-----------------------------------
Các bậc tổ đức ngày xưa khi vào trong đạo liền tìm cách để được định và tuệ. Chúng ta trong thời mạt pháp, lăn lóc trong ồn náo, nhiều chuyện, nhiều việc, nhiều người nên tôi thường nhắc nhở sự tu hành của mình giống như là “tu mót”. Mót thời gian để tu, đừng bỏ qua. Gặp việc thì làm việc. Rảnh việc thì nhiếp tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Được một phút thì tốt một phút. Được một giờ thì tốt một giờ. Thế nên đừng bỏ qua việc tu mót.
Ví như những người ở quê ngày xưa đi mót lúa, tuy chỉ mót lúa nhưng vẫn đủ lúa gạo để ăn, vẫn nuôi thân, nuôi gia đình được. Mình đây cũng vậy, nếu cố gắng mót thì cũng được đầy đủ đạo pháp, nuôi lớn pháp thân, huệ mạng của chính mình. Nếu huynh đệ thực hành một thời gian rồi nghiệm lại sẽ thấy “tu mót” lại nhiều hơn thời khoá tu hành chính. Vì thế nếu bỏ qua tu mót thì bỏ phí rất nhiều thời gian.
Ai cũng có công việc hết, nhưng rồi cũng có xen kẽ, lúc tâm trí mình được rảnh rang thì gắng giữ ba điều: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Được vậy, phóng dật bớt dần lại, tương ưng với phần tinh tấn. Nếu trọn đời mình sống trong chánh pháp của đức Phật thì đường đạo mỗi ngày sẽ mỗi tăng tiến.
Sư ông vừa dạy niệm Tam bảo. Vậy trọng tâm của pháp niệm này là gì?
-----------------------------------
Ai nấy cần phải nhất tâm và chánh niệm. Chánh niệm đứng đầu là ba niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Đừng để nó rời. Niệm Phật thì niệm hồng danh, niệm tướng hảo, niệm công đức. Niệm Pháp thì phải thuộc kinh, vì nhớ đến kinh pháp tức là niệm Pháp. Niệm Tăng thì ở nơi đức Quán Thế Âm Bồ-tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát hay Phổ Hiền Bồ-tát, cho đến Di Lặc Bồ-tát, Địa Tạng Bồ-tát đều là Bồ-tát Tăng đáng để cho chúng ta nghĩ đến các ngài và công hạnh của các ngài. Nếu tâm mình thường nghĩ tưởng như vậy thì bớt phóng dật, tất được tinh tấn. Tinh tấn dần từ một ngày, hai ngày, ba ngày, cho đến nhiều tháng nhiều năm thì lần lần cội bồ-đề mà mình vun trồng sẽ càng thêm to lớn, vững mạnh.
Làm thế nào để vượt qua các vọng niệm?
-----------------------------------
Vọng tâm, vọng niệm dễ sanh. Những phiền não, nghiệp chướng cũng dễ phát khởi. Do vì cảnh duyên bên ngoài trợ giúp mấy thứ đó phát triển, tăng trưởng. Mình ở trong thời mạt pháp, lấy sức người để tu hành cũng giống như ở nơi giữa dòng sông, chẳng những là nước mà lại có sóng lớn nữa, luôn luôn lúc nào cũng có sóng hết. Trong đó phải bơi lội thì việc đó cần cố gắng lắm mới được. Có cố gắng mới thành công.
Do đó, cần lập nguyện. Chí nguyện lớn sẽ giúp mình thêm cố gắng và vững chãi hơn ở đường đạo. Chí nguyện phải thật vững để giúp cho nghị lực, vì có chí nguyện ắt có nghị lực. Như thế mới vững vàng được ở nơi những luồng sóng dập dồn, nếu sơ suất liền bị chìm. Nói tiếng chìm, huynh đệ cần phải suy nghĩ cho kỹ.
Ở cõi ngũ trược này, phát chí nguyện phải dũng mãnh, nghị lực phải dũng mãnh. Ở trong cái khó mà tu tập thì hạnh đức cao vời. Khó thì dễ hư nhưng thành tựu được thì công cao. Do đó, trong kinh Duy Ma Cật nói: “Bồ-tát ở nơi cõi đời này, có những công đức mà nơi cõi khác không có được” chính là ý này vậy.
Huynh đệ biết khó thì phải cố gắng. Lập chí lập nguyện cố gắng vượt lên. Luôn luôn kiểm soát tâm ý của mình lẫn cả về hành động và lời nói. Kiểm soát nếu thấy không đúng thì sửa lại cho đúng. Ai cũng đều có lỗi, nhưng có lỗi mà biết sửa đổi thì thành tốt. Mong rằng chư huynh đệ đều nhất tâm, tinh tấn tu hành!
Khi tu sĩ chúng con làm Phật sự thì phải tiếp duyên. Vậy, tiếp duyên thế nào để Phật sự thành công mà không bị vướng dính duyên trần?
-----------------------------------
Sống trong cuộc đời, muốn được thong thả, rảnh rang thì đừng dính đến quyền lợi. Làm việc hễ thuận duyên thì làm, không thuận thì phải khéo léo nhẫn chịu để vượt qua. Không phải hàng xuất gia không bị dính mắc vào quyền lợi. Huống nữa, chính quyền lợi đó sẽ đem đến những tai hoạ cho thân mình. Mấy huynh đệ tuổi còn trẻ, đường còn dài, phải lưu ý lắm mới được.
Người đời có sự nghiệp của người đời. Người xuất gia có sự nghiệp của người xuất gia. Chỉ là lớn hay nhỏ thôi. Tuy vậy, mình nhớ tạo sự nghiệp phải được như con nhện, đừng như con tằm nhả tơ rồi phải chết trong kén của nó. Tôi chỉ luôn luôn mong cầu công đức. Tôi khuyên các huynh đệ không mong cầu những cái lợi như người đời thường nghĩ. Cái lợi của người tu chính là thiện căn công đức, đâu phải là tiền bạc, vật chất. Mấy huynh đệ phải nhớ mình ở chỗ nào, nơi nào cũng phải gây tạo thiện căn công đức, đừng chạy theo những vật chất bên ngoài.
Tôi luôn làm theo khẩu hiệu ngầm của riêng mình. Những việc đúng pháp, về mặt tinh thần hoặc vật chất thì “không cầu cũng không từ”. Nghĩa là không tìm cầu cũng không từ chối. Đây là khẩu hiệu để tôi lập thân. Chẳng hạn, nếu có duyên cất chùa, mà cái duyên đó nó tự đến, nhận thấy đáng thì không từ chối. Cho đến tứ sự cúng dường cũng vậy, những vật gì không dùng nhưng cũng không từ chối. Mình không sử dụng thì chuyển đến người khác, cho đại chúng dùng.
Nếu làm việc gì, dù có cái lợi lớn trước mắt nhưng khi làm có cái hại xen vô trong hiện tại hoặc tương lai thì quyết không làm, không tham dự. Ví dụ như danh vị, tiền bạc, lời khen tặng … Nếu được lợi thì phải xem có cái hại hay không. Nếu có thì phải tránh xa. Thấy hại mà vẫn chạy vô thì bị nghiệp dẫn.
Tôi thấy việc tu hành đã trải qua mấy mươi năm, nhờ ứng dụng những điều trên mà không bị tổn thất, chịu cái hại lớn, mà lại thấy việc nhẹ nhàng, thảnh thơi. Tôi đã nói tận đáy lòng. Mấy huynh đệ thấy đúng lý thì nên bắt chước làm theo, để sự tu hành không bị vướng kẹt, thiện căn công đức luôn được tăng trưởng. Đó là điều tôi muốn ở tất cả mấy huynh đệ.
Xin Sư ông cho chúng con một lời khuyên để chúng con áp dụng tu hành!
-----------------------------------
Ngày tháng trôi qua mau lắm, một năm không mấy chốc mà đã hết rồi. Già, bệnh, chết mãi đeo theo người, không chừa ai hết. Mong các huynh đệ ai nấy đối với pháp của Phật, không biết nhiều thì cũng biết ít, noi theo chỗ hiểu biết của mình mà tinh tấn tu hành, luôn luôn nghĩ đến vô thường, sanh tử. Thân này tuy không bền lâu, mình phải cố gắng nương theo thân người này để tu hành, vượt qua biển sanh tử, lên đến bờ giải thoát. Nếu chưa được vậy thì cũng làm nhân duyên thù thắng cho những đời sau, đạo tâm kiên cố, căn lành tăng trưởng.
Thời gian qua thật mau, đừng để luống uổng, phải thường nghĩ vô thường. Nhớ lại thuở trước, chỗ mình đang ngồi, đang quỳ ở đây là nơi mấy em cháu (bây giờ cũng sáu, bảy mươi tuổi rồi) đứng hái trái sim, thì mấy huynh đệ biết nó thuộc rừng rú. Rồi mình khai hoang, cất chùa. Thấm thoát cây gỗ của chùa cũng mục. Từ đó, biết rằng thời gian trôi mau lắm, năm sáu chục năm thoáng chốc đã qua. Vì vậy, nên nhớ lời Phật dạy, phải luôn nghĩ đến vô thường. Thân này còn đây, ngày mai không bảo đảm.
Pháp của Phật rõ ràng, chỉ ở nơi mình có chịu làm hay không chịu làm đó thôi. Nên gắng tinh tấn giữ đạo tu hành. Cầu mong mấy huynh đệ căn lành mỗi ngày thêm lớn, công đức mỗi ngày tăng trưởng.
Chúng con thành kính tri ân Sư ông đã khai tâm mở trí chúng con. Chúng con xin y giáo phụng hành.
(theo daophatngaynay.com)
*******************************
Các bậc tổ sư thường dạy đồ chúng cách
tâm niệm để làm phương châm hành trì. Xin Sư ông cho chúng con một lời khuyên dưới hình thức một lời tâm niệm?
-----------------------------------
Người xưa thường nói: “Sanh tử sự đại” nhưng mình đã quen sống trong sanh tử, ai cũng vậy hết, nên không thấy quan trọng. Kỳ thật, lấy mắt đạo mà nhìn vào thì đó là việc lớn của mọi người, của chúng sanh. Đã lăn lóc mãi trong nhiều đời, hiện tại nếu không cố gắng thì những đời sau cũng vẫn lẩn quẩn trong vũng lầy sanh tử mà thôi.
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sinh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sanh tử luân hồi. Vì thế, gặp được rồi thì mình phải cố gắng để vững bền trong chánh pháp. Cho nên, Phật dạy tất cả đều phải tinh tấn, nhất tâm. Nhưng chúng ta lại có cái lỗi là luôn phóng dật, giãi đãi. Trong Luật, những khi có việc gì thì các vị Trưởng lão, các vị Đại đức đều khuyên nhắc: “Phải tinh tấn, chớ phóng dật”. Chỉ có hai điều đó thôi! Phóng dật ở thân khẩu thì dễ biết, còn ở tâm ý thì rất khó biết. Hễ duyên theo lục trần đều là phóng dật. Phóng dật thì trôi theo sanh tử. Tinh tấn thì đạt Niết-bàn. Người tu hành phải tinh tấn thì mọi khó khăn đều sẽ vượt qua, mọi công đức sẽ đạt được.
Trong một số bài giảng, Sư ông thi thoảng sử dụng từ “tu mót” để khích lệ tứ chúng tinh tấn tu tập. Xin Sư ông giải thích thêm ý nghĩa của tu mót là gì?
-----------------------------------
Các bậc tổ đức ngày xưa khi vào trong đạo liền tìm cách để được định và tuệ. Chúng ta trong thời mạt pháp, lăn lóc trong ồn náo, nhiều chuyện, nhiều việc, nhiều người nên tôi thường nhắc nhở sự tu hành của mình giống như là “tu mót”. Mót thời gian để tu, đừng bỏ qua. Gặp việc thì làm việc. Rảnh việc thì nhiếp tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Được một phút thì tốt một phút. Được một giờ thì tốt một giờ. Thế nên đừng bỏ qua việc tu mót.
Ví như những người ở quê ngày xưa đi mót lúa, tuy chỉ mót lúa nhưng vẫn đủ lúa gạo để ăn, vẫn nuôi thân, nuôi gia đình được. Mình đây cũng vậy, nếu cố gắng mót thì cũng được đầy đủ đạo pháp, nuôi lớn pháp thân, huệ mạng của chính mình. Nếu huynh đệ thực hành một thời gian rồi nghiệm lại sẽ thấy “tu mót” lại nhiều hơn thời khoá tu hành chính. Vì thế nếu bỏ qua tu mót thì bỏ phí rất nhiều thời gian.
Ai cũng có công việc hết, nhưng rồi cũng có xen kẽ, lúc tâm trí mình được rảnh rang thì gắng giữ ba điều: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Được vậy, phóng dật bớt dần lại, tương ưng với phần tinh tấn. Nếu trọn đời mình sống trong chánh pháp của đức Phật thì đường đạo mỗi ngày sẽ mỗi tăng tiến.
Sư ông vừa dạy niệm Tam bảo. Vậy trọng tâm của pháp niệm này là gì?
-----------------------------------
Ai nấy cần phải nhất tâm và chánh niệm. Chánh niệm đứng đầu là ba niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Đừng để nó rời. Niệm Phật thì niệm hồng danh, niệm tướng hảo, niệm công đức. Niệm Pháp thì phải thuộc kinh, vì nhớ đến kinh pháp tức là niệm Pháp. Niệm Tăng thì ở nơi đức Quán Thế Âm Bồ-tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát hay Phổ Hiền Bồ-tát, cho đến Di Lặc Bồ-tát, Địa Tạng Bồ-tát đều là Bồ-tát Tăng đáng để cho chúng ta nghĩ đến các ngài và công hạnh của các ngài. Nếu tâm mình thường nghĩ tưởng như vậy thì bớt phóng dật, tất được tinh tấn. Tinh tấn dần từ một ngày, hai ngày, ba ngày, cho đến nhiều tháng nhiều năm thì lần lần cội bồ-đề mà mình vun trồng sẽ càng thêm to lớn, vững mạnh.
Làm thế nào để vượt qua các vọng niệm?
-----------------------------------
Vọng tâm, vọng niệm dễ sanh. Những phiền não, nghiệp chướng cũng dễ phát khởi. Do vì cảnh duyên bên ngoài trợ giúp mấy thứ đó phát triển, tăng trưởng. Mình ở trong thời mạt pháp, lấy sức người để tu hành cũng giống như ở nơi giữa dòng sông, chẳng những là nước mà lại có sóng lớn nữa, luôn luôn lúc nào cũng có sóng hết. Trong đó phải bơi lội thì việc đó cần cố gắng lắm mới được. Có cố gắng mới thành công.
Do đó, cần lập nguyện. Chí nguyện lớn sẽ giúp mình thêm cố gắng và vững chãi hơn ở đường đạo. Chí nguyện phải thật vững để giúp cho nghị lực, vì có chí nguyện ắt có nghị lực. Như thế mới vững vàng được ở nơi những luồng sóng dập dồn, nếu sơ suất liền bị chìm. Nói tiếng chìm, huynh đệ cần phải suy nghĩ cho kỹ.
Ở cõi ngũ trược này, phát chí nguyện phải dũng mãnh, nghị lực phải dũng mãnh. Ở trong cái khó mà tu tập thì hạnh đức cao vời. Khó thì dễ hư nhưng thành tựu được thì công cao. Do đó, trong kinh Duy Ma Cật nói: “Bồ-tát ở nơi cõi đời này, có những công đức mà nơi cõi khác không có được” chính là ý này vậy.
Huynh đệ biết khó thì phải cố gắng. Lập chí lập nguyện cố gắng vượt lên. Luôn luôn kiểm soát tâm ý của mình lẫn cả về hành động và lời nói. Kiểm soát nếu thấy không đúng thì sửa lại cho đúng. Ai cũng đều có lỗi, nhưng có lỗi mà biết sửa đổi thì thành tốt. Mong rằng chư huynh đệ đều nhất tâm, tinh tấn tu hành!
Khi tu sĩ chúng con làm Phật sự thì phải tiếp duyên. Vậy, tiếp duyên thế nào để Phật sự thành công mà không bị vướng dính duyên trần?
-----------------------------------
Sống trong cuộc đời, muốn được thong thả, rảnh rang thì đừng dính đến quyền lợi. Làm việc hễ thuận duyên thì làm, không thuận thì phải khéo léo nhẫn chịu để vượt qua. Không phải hàng xuất gia không bị dính mắc vào quyền lợi. Huống nữa, chính quyền lợi đó sẽ đem đến những tai hoạ cho thân mình. Mấy huynh đệ tuổi còn trẻ, đường còn dài, phải lưu ý lắm mới được.
Người đời có sự nghiệp của người đời. Người xuất gia có sự nghiệp của người xuất gia. Chỉ là lớn hay nhỏ thôi. Tuy vậy, mình nhớ tạo sự nghiệp phải được như con nhện, đừng như con tằm nhả tơ rồi phải chết trong kén của nó. Tôi chỉ luôn luôn mong cầu công đức. Tôi khuyên các huynh đệ không mong cầu những cái lợi như người đời thường nghĩ. Cái lợi của người tu chính là thiện căn công đức, đâu phải là tiền bạc, vật chất. Mấy huynh đệ phải nhớ mình ở chỗ nào, nơi nào cũng phải gây tạo thiện căn công đức, đừng chạy theo những vật chất bên ngoài.
Tôi luôn làm theo khẩu hiệu ngầm của riêng mình. Những việc đúng pháp, về mặt tinh thần hoặc vật chất thì “không cầu cũng không từ”. Nghĩa là không tìm cầu cũng không từ chối. Đây là khẩu hiệu để tôi lập thân. Chẳng hạn, nếu có duyên cất chùa, mà cái duyên đó nó tự đến, nhận thấy đáng thì không từ chối. Cho đến tứ sự cúng dường cũng vậy, những vật gì không dùng nhưng cũng không từ chối. Mình không sử dụng thì chuyển đến người khác, cho đại chúng dùng.
Nếu làm việc gì, dù có cái lợi lớn trước mắt nhưng khi làm có cái hại xen vô trong hiện tại hoặc tương lai thì quyết không làm, không tham dự. Ví dụ như danh vị, tiền bạc, lời khen tặng … Nếu được lợi thì phải xem có cái hại hay không. Nếu có thì phải tránh xa. Thấy hại mà vẫn chạy vô thì bị nghiệp dẫn.
Tôi thấy việc tu hành đã trải qua mấy mươi năm, nhờ ứng dụng những điều trên mà không bị tổn thất, chịu cái hại lớn, mà lại thấy việc nhẹ nhàng, thảnh thơi. Tôi đã nói tận đáy lòng. Mấy huynh đệ thấy đúng lý thì nên bắt chước làm theo, để sự tu hành không bị vướng kẹt, thiện căn công đức luôn được tăng trưởng. Đó là điều tôi muốn ở tất cả mấy huynh đệ.
Xin Sư ông cho chúng con một lời khuyên để chúng con áp dụng tu hành!
-----------------------------------
Ngày tháng trôi qua mau lắm, một năm không mấy chốc mà đã hết rồi. Già, bệnh, chết mãi đeo theo người, không chừa ai hết. Mong các huynh đệ ai nấy đối với pháp của Phật, không biết nhiều thì cũng biết ít, noi theo chỗ hiểu biết của mình mà tinh tấn tu hành, luôn luôn nghĩ đến vô thường, sanh tử. Thân này tuy không bền lâu, mình phải cố gắng nương theo thân người này để tu hành, vượt qua biển sanh tử, lên đến bờ giải thoát. Nếu chưa được vậy thì cũng làm nhân duyên thù thắng cho những đời sau, đạo tâm kiên cố, căn lành tăng trưởng.
Thời gian qua thật mau, đừng để luống uổng, phải thường nghĩ vô thường. Nhớ lại thuở trước, chỗ mình đang ngồi, đang quỳ ở đây là nơi mấy em cháu (bây giờ cũng sáu, bảy mươi tuổi rồi) đứng hái trái sim, thì mấy huynh đệ biết nó thuộc rừng rú. Rồi mình khai hoang, cất chùa. Thấm thoát cây gỗ của chùa cũng mục. Từ đó, biết rằng thời gian trôi mau lắm, năm sáu chục năm thoáng chốc đã qua. Vì vậy, nên nhớ lời Phật dạy, phải luôn nghĩ đến vô thường. Thân này còn đây, ngày mai không bảo đảm.
Pháp của Phật rõ ràng, chỉ ở nơi mình có chịu làm hay không chịu làm đó thôi. Nên gắng tinh tấn giữ đạo tu hành. Cầu mong mấy huynh đệ căn lành mỗi ngày thêm lớn, công đức mỗi ngày tăng trưởng.
Chúng con thành kính tri ân Sư ông đã khai tâm mở trí chúng con. Chúng con xin y giáo phụng hành.
(theo daophatngaynay.com)
Được cảm ơn bởi: cocacola
- tuankietxm
- Nhị đẳng
- Bài viết: 463
- Tham gia: 18:55, 03/07/11
- Đến từ: HCM
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Thần Chú Lăng Nghiêm vi diệu không thể nghĩ bàn
*******************************
Do đó lúc trì niệm đoạn Chú này, tất cả yêu ma quỷ quái đều phải tránh xa, không chỉ tránh xa mà còn trốn đến tận những nơi không còn ai biết. Nên theo Phật giáo, nếu như thế gian này có một ai đó có thể trì tụng chú Lăng Nghiêm, thì những yêu ma không đều không dám công khai xuất hiện ra nữa. Nếu như ngay đến một người trì tụng cũng không có, không còn ai thuộc Chú Lăng Nghiêm nữa, lúc này thì bọn yêu ma sẽ xuất hiện. Bọn chúng làm đủ chuyện xấu xa gian trá trên đời, người bình thường sẽ không phát hiện ra chúng là ai. Hiện tại, do vì còn có người biết trì niệm Chú Lăng Nghiêm, nên yêu ma không dám ngang nhiên xuất hiện ở trên đời. Nói rõ ra, Chú Lăng Nghiêm là Thần chú vô cùng mầu nhiệm. Nên nói, huyền diệu thâm sau khó lường thay! Chú Lăng Nghiêm vô cùng vi diệu, biến hóa không thể nghĩ bàn, khó mà suy đoán được. “Kim Cang mật ngữ bản tánh lai”, Kim Cang mật ngữ nà
y (Chú Lăng Nghiêm) là bí mật trong bí mật, là Thần chú được thần Kim Cang hộ trì. Bản tánh lai, Thần chú này được xuất sanh ra từ trong Phật tánh của mỗi người. “Lăng Nghiêm chú lý hữu linh diệu”, Chú Lăng Nghiêm này còn gọi là Linh Văn (bản văn có sự linh ứng), bởi Lăng Nghiêm rất linh nghiệm, oai lực rất lớn, cho nên nói “Lăng Nghiêm chú lý hữu linh diệu”.
“Ngũ nhãn lục thông đạo phàm khai”: Quí vị nếu thường trì tụng Chú Lăng Nghiêm, chuyên tâm nhất ý, lòng không tán loạn, thì quí vị sẽ đạt được Ngũ nhãn lục thông, có thể đạt được cảnh giới không thể nghĩ bàn, biến hóa khôn lường, không phải điều mà kẻ phàm phu tục tử có thể biết được. Vì vậy, tôi mong mọi người đều có thể tụng trì, học thuộc Chú Lăng Nghiêm. Thường thì các học giả đều cho rằng Chú Lăng Nghiêm là giả, không phải do Phật nói ra, thế thì còn có gì đáng khảo chứng, có gì đáng ghi chép. Đây là do họ sợ “Kinh Lăng Nghiêm”, không có cách ứng phó với nghĩa lý Kinh Lăng Nghiêm. Điều họ sợ nhất trong Kinh Lăng Nghiêm là “Tứ chủng thanh tịnh minh hối” (Bốn điều giáo huấn thanh tịnh). Bốn điều giáo huấn này là kính chiếu yêu, khiến cho tất cả yêu ma đều hiện ra nguyên hình. Lại còn “Năm mươi loại Ấm ma”, soi thấu tận xương tủy của bọn thiên ma ngoại đạo, nhận rõ mặt mũi yêu ma của chúng. Quí vị người nào có thể trì tụng, học thuộc Chú Lăng Nghiêm, mới thật sự là đệ tử của Phật.
(HT. Tuyên Hóa khai thị)
Nhờ đoạn khai thị này mà em đă trì chú đó chị.
*******************************
Do đó lúc trì niệm đoạn Chú này, tất cả yêu ma quỷ quái đều phải tránh xa, không chỉ tránh xa mà còn trốn đến tận những nơi không còn ai biết. Nên theo Phật giáo, nếu như thế gian này có một ai đó có thể trì tụng chú Lăng Nghiêm, thì những yêu ma không đều không dám công khai xuất hiện ra nữa. Nếu như ngay đến một người trì tụng cũng không có, không còn ai thuộc Chú Lăng Nghiêm nữa, lúc này thì bọn yêu ma sẽ xuất hiện. Bọn chúng làm đủ chuyện xấu xa gian trá trên đời, người bình thường sẽ không phát hiện ra chúng là ai. Hiện tại, do vì còn có người biết trì niệm Chú Lăng Nghiêm, nên yêu ma không dám ngang nhiên xuất hiện ở trên đời. Nói rõ ra, Chú Lăng Nghiêm là Thần chú vô cùng mầu nhiệm. Nên nói, huyền diệu thâm sau khó lường thay! Chú Lăng Nghiêm vô cùng vi diệu, biến hóa không thể nghĩ bàn, khó mà suy đoán được. “Kim Cang mật ngữ bản tánh lai”, Kim Cang mật ngữ nà
y (Chú Lăng Nghiêm) là bí mật trong bí mật, là Thần chú được thần Kim Cang hộ trì. Bản tánh lai, Thần chú này được xuất sanh ra từ trong Phật tánh của mỗi người. “Lăng Nghiêm chú lý hữu linh diệu”, Chú Lăng Nghiêm này còn gọi là Linh Văn (bản văn có sự linh ứng), bởi Lăng Nghiêm rất linh nghiệm, oai lực rất lớn, cho nên nói “Lăng Nghiêm chú lý hữu linh diệu”.
“Ngũ nhãn lục thông đạo phàm khai”: Quí vị nếu thường trì tụng Chú Lăng Nghiêm, chuyên tâm nhất ý, lòng không tán loạn, thì quí vị sẽ đạt được Ngũ nhãn lục thông, có thể đạt được cảnh giới không thể nghĩ bàn, biến hóa khôn lường, không phải điều mà kẻ phàm phu tục tử có thể biết được. Vì vậy, tôi mong mọi người đều có thể tụng trì, học thuộc Chú Lăng Nghiêm. Thường thì các học giả đều cho rằng Chú Lăng Nghiêm là giả, không phải do Phật nói ra, thế thì còn có gì đáng khảo chứng, có gì đáng ghi chép. Đây là do họ sợ “Kinh Lăng Nghiêm”, không có cách ứng phó với nghĩa lý Kinh Lăng Nghiêm. Điều họ sợ nhất trong Kinh Lăng Nghiêm là “Tứ chủng thanh tịnh minh hối” (Bốn điều giáo huấn thanh tịnh). Bốn điều giáo huấn này là kính chiếu yêu, khiến cho tất cả yêu ma đều hiện ra nguyên hình. Lại còn “Năm mươi loại Ấm ma”, soi thấu tận xương tủy của bọn thiên ma ngoại đạo, nhận rõ mặt mũi yêu ma của chúng. Quí vị người nào có thể trì tụng, học thuộc Chú Lăng Nghiêm, mới thật sự là đệ tử của Phật.
(HT. Tuyên Hóa khai thị)
Nhờ đoạn khai thị này mà em đă trì chú đó chị.
Được cảm ơn bởi: cocacola, Vô_Niệm
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Ngài HT Tuyên Hóa là 1 bậc cao tăng của thời đại hiện tại!tuankietxm đã viết:Thần Chú Lăng Nghiêm vi diệu không thể nghĩ bàn
*******************************
Do đó lúc trì niệm đoạn Chú này, tất cả yêu ma quỷ quái đều phải tránh xa, không chỉ tránh xa mà còn trốn đến tận những nơi không còn ai biết. Nên theo Phật giáo, nếu như thế gian này có một ai đó có thể trì tụng chú Lăng Nghiêm, thì những yêu ma không đều không dám công khai xuất hiện ra nữa. Nếu như ngay đến một người trì tụng cũng không có, không còn ai thuộc Chú Lăng Nghiêm nữa, lúc này thì bọn yêu ma sẽ xuất hiện. Bọn chúng làm đủ chuyện xấu xa gian trá trên đời, người bình thường sẽ không phát hiện ra chúng là ai. Hiện tại, do vì còn có người biết trì niệm Chú Lăng Nghiêm, nên yêu ma không dám ngang nhiên xuất hiện ở trên đời. Nói rõ ra, Chú Lăng Nghiêm là Thần chú vô cùng mầu nhiệm. Nên nói, huyền diệu thâm sau khó lường thay! Chú Lăng Nghiêm vô cùng vi diệu, biến hóa không thể nghĩ bàn, khó mà suy đoán được. “Kim Cang mật ngữ bản tánh lai”, Kim Cang mật ngữ nà
y (Chú Lăng Nghiêm) là bí mật trong bí mật, là Thần chú được thần Kim Cang hộ trì. Bản tánh lai, Thần chú này được xuất sanh ra từ trong Phật tánh của mỗi người. “Lăng Nghiêm chú lý hữu linh diệu”, Chú Lăng Nghiêm này còn gọi là Linh Văn (bản văn có sự linh ứng), bởi Lăng Nghiêm rất linh nghiệm, oai lực rất lớn, cho nên nói “Lăng Nghiêm chú lý hữu linh diệu”.
“Ngũ nhãn lục thông đạo phàm khai”: Quí vị nếu thường trì tụng Chú Lăng Nghiêm, chuyên tâm nhất ý, lòng không tán loạn, thì quí vị sẽ đạt được Ngũ nhãn lục thông, có thể đạt được cảnh giới không thể nghĩ bàn, biến hóa khôn lường, không phải điều mà kẻ phàm phu tục tử có thể biết được. Vì vậy, tôi mong mọi người đều có thể tụng trì, học thuộc Chú Lăng Nghiêm. Thường thì các học giả đều cho rằng Chú Lăng Nghiêm là giả, không phải do Phật nói ra, thế thì còn có gì đáng khảo chứng, có gì đáng ghi chép. Đây là do họ sợ “Kinh Lăng Nghiêm”, không có cách ứng phó với nghĩa lý Kinh Lăng Nghiêm. Điều họ sợ nhất trong Kinh Lăng Nghiêm là “Tứ chủng thanh tịnh minh hối” (Bốn điều giáo huấn thanh tịnh). Bốn điều giáo huấn này là kính chiếu yêu, khiến cho tất cả yêu ma đều hiện ra nguyên hình. Lại còn “Năm mươi loại Ấm ma”, soi thấu tận xương tủy của bọn thiên ma ngoại đạo, nhận rõ mặt mũi yêu ma của chúng. Quí vị người nào có thể trì tụng, học thuộc Chú Lăng Nghiêm, mới thật sự là đệ tử của Phật.
(HT. Tuyên Hóa khai thị)
Nhờ đoạn khai thị này mà em đă trì chú đó chị.
Vị Hòa Thượng thọ giới pháp cho chị cũng đã khuyên chị nên học thuộc lòng chú Lăng Nghiêm vì đó là căn duyên của chị! Hịc, Ngài vừa trông thấy chị thì đứng sửng, ngó ngó mà ko biết ngó gì và Ngài liền bảo, "Con có căn tu cao lắm, khi nhân duyên đến Thầy sẽ xuất gia cho con". Chị hỏi, "Sao Thầy biết con có căn tu cao?" Thầy đáp, "Do công phu Thầy biết, con ạ! Hiện giờ con về ráng học thuộc lòng chú Lăng Nghiêm và nhất tâm niệm Phật; khi nhân duyên đến thì con sẽ tự biết! Hiện giờ con còn nhân duyên phải trải qua! Con sẽ hoằng dương Chánh Pháp" Hịc, nghe Thầy nói thế chị tâm phục lắm do biết Thầy thực sự có công phu, do chị đã dc cho biết và luôn dc nhắc nhở khi chểnh mãng ko trì chú Lăng Nghiêm vì đây là căn duyên của chị! Và Thầy đã thấy những gì khi đối mặt cùng chị (và HT hôm ấy đã cho chị dc biết khi chỉ có 2 thầy trò, ko ai khác vãng lai nơi đó) mà chị đã dc cho biết trước nên mới biết Ngài HT thọ giới cho chị có công phu, chứ ko phải giởn chơi. Ở chùa hôm ấy ai cũng đã lấy làm ngạc nhiên vì Ngài HT chưa từng nói 1 cách xác quyết sẽ xuất gia cho ai bao giờ cả, mà với chị Ngài đã khẳng định nhiều lần là đó chính là căn cơ của chị (như là 1 sứ mệnh). Khi chị có việc đi qua ghé vào chùa của HT cách đây khoảng 2 tháng trước, khi gặp lần thứ 2 trong đời, vừa gặp mặt ở đầu ngỏ Ngài lại nhắc chị tinh tấn vì chị còn co' việc sẽ phải làm! Thật sự, chú Lăng Nghiêm rất tốt! Có 1 bà bác gần nhà chị đã thuyết phục và có lẽ cũng sẽ trì chú Lăng Nghiêm đó em

Nói chung, chú Lăng Nghiêm mỗi khi chị trì, chị biết có sự oai lực!
Được cảm ơn bởi: Hoài Cổ, cocacola, virgo_o0o, tuankietxm, Hoa Giọt Tuyết
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Chị Ơi! chuỗi hạt chị tặng bữa cũ nè ( cái avt)
. Cảm ơn chị nhé!

Được cảm ơn bởi: cocacola, Vô_Niệm
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Trong ảnh em nhìn giống trai Hàn Quốc quá hén!Phong Đạt đã viết:Chị Ơi! chuỗi hạt chị tặng bữa cũ nè ( cái avt). Cảm ơn chị nhé!


Cho em xem kinh chị in cho chùa nè





Được cảm ơn bởi: Hoài Cổ, cocacola
- tuankietxm
- Nhị đẳng
- Bài viết: 463
- Tham gia: 18:55, 03/07/11
- Đến từ: HCM
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Người Niệm Phật Phải Hội Đủ 3 Yếu Tố: Thiện Căn, Phước Đức, Nhân Duyên
Chúng ta niệm Phật là để vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Ta muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc nên ta niệm Phật. Người không muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc nên không muốn niệm Phật. Vì không niệm Phật nên họ không được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc!…
Người niệm Phật được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc là do Thiện-Căn Phước-Đức và Nhân-Duyên đã hội tụ đầy đủ. Người không được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc thì nhất định, nếu không thiếu thiện-căn thì cũng bị khiếm khuyết phước-đức. Nếu có thiện-căn có phước-đức thì cũng mất nhân-duyên.
Người trong đời này gặp được pháp môn “Niệm Phật” là có “Nhân-Duyên”. Có nhân-duyên mà không muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc thì nhất định một là họ thiếu phước-đức hai là họ thiếu thiện-căn. Hồi trưa mình có nói sơ qua vấn đề phước-đức. Muốn biết phước-đức thì coi cách hành trì của họ. Phước-đức chính là làm thiện làm lành.
Kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ đã xác định cái phước-đức của người vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc là:
– Thứ nhất là phước Nhân-Thiên: Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm không sát sanh, tu thập thiện nghiệp.
– Phước của Nhị-Thừa là: Thọ trì tam quy, cụ túc chúng giới, bất phạm uy nghi.
– Phước của Đại-Thừa là: Phát Bồ-Đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyến tấn hành giả.
Những người làm phước họ sẽ được phước. Người được phước vãng sanh tức là trước những giờ phút lâm chung, họ cười hè hè, bớt đau, bớt bệnh… Những người mà cười hè hè ra đi, ngồi xếp bàn ra đi… đúng là những người có phước. Còn chúng ta thì thiếu phước một chút cũng ráng cố gắng phóng sanh, cố gắng làm thiện, cố gắng buông xả… để bớt cái nghiệp xấu đi. Chúng ta cũng được cái phước để vãng sanh, cũng cười mà cười trong cơn đau một chút cũng được…
Còn Người thiếu thiện-căn là như thế nào?… Những Người mà trí huệ đã bắt đầu khai mở thì thuộc về người có thiện-căn. Khi mà trí huệ đã bắt đầu khai mở cũng dễ thấy lắm.
Thứ nhất là người ta tin vào pháp môn Niệm Phật. Điều đầu tiên là họ tin vào câu A-Di-Đà Phật, đó thuộc về thiện-căn. Người mà giảng giải kinh điển Phật đúng liễu nghĩa của Phật, đó là người có thiện-căn. Người giảng giải kinh Phật không đúng theo chơn nghĩa của Phật, nghĩa là nói lệch đi, giảng sai đi, tức là thiếu thiện-căn. Dựa vào đây mà truy nguyên thì mình có thể biết một người bị mất vãng sanh về Tây-Phương thuộc về phần nào…
Ví dụ như những người gặp được pháp môn Niệm Phật, gặp được câu A-Di-Đà Phật, gọi là họ có nhân-duyên, nhưng mà họ không tin, thì ta biết ngay rằng, “À! Người đó có nhân-duyên mà thiếu mất thiện-căn rồi”. Thiếu thiện-căn thì bắt buộc phải tu bồi thiện-căn. Tu bồi thiện-căn ở đâu?… Giới-Định-Huệ sẽ có thiện-căn.
Có những người nghe được câu A-Di-Đà Phật tức là có nhân-duyên. Tin vào câu A-Di-Đà Phật là có thiện-căn. Nhưng khi tu hành thì bị người này phá, người kia phá, người kia chống, người nọ chống, tạo mọi điều kiện để ngăn cản con đường tu hành của họ… thì ta biết người này có thiện-căn, có nhân-duyên, mà thiếu phước-đức. Tại sao thiếu phước-đức?… Trong đời trước, nhiều đời trước tu huệ thì nhiều mà tu phước thì ít. Vì tu phước ít cho nên thiếu phước. Thiếu phước cho nên bị cái vô-phước nó ngăn cản.
Hiểu được chỗ này rồi, mình mới thấy một người mất phần vãng sanh nguyên do nằm ở chỗ nào? Dễ dàng, rõ ràng vô cùng, không còn lơ mơ lờ mờ nữa. Chính vì vậy mà đừng bao giờ thấy một bà già hiền hậu chất phát ngày ngày cầm tập vé số đi bán ngoài đường mà ta cho họ là người thiếu thiện-căn. Không phải! Nếu mình đến hỏi: Bác có tin câu A-Di-Đà Phật không? Ồ! Bác tin sống tin chết!… Thì nhất định bà này có thiện-căn, vì “Tín năng trưởng dưỡng chư Thiện căn” mà.
Nghĩa là trong nhiều đời nhiều kiếp bà đã tu phước thiện, bà đã đọc kinh điển và thật ra cái tâm của người ta đã khai mở chút chút rồi, khai hơn những người không tin trong đó mà mình không hay. Tâm trí khai mở trong hoàn cảnh thiếu phước, nên dù có khai mà Bà vẫn phải cầm vé số đi bán! Bà cầm vé số đi bán, nhưng tối lại thì sẵn sàng đi hộ niệm cho người bệnh, nhất định bà ngồi từ đầu đêm cho đến cuối đêm niệm Phật. Vì thiếu phước-đức nhưng lòng tin của họ lại vững vàng, họ có thể niệm Phật trợ duyên cho người bệnh vãng sanh, niệm Phật từ đầu đêm đến cuối đêm không cần thay ca. Vô tình câu niệm Phật của họ sẽ tu bồi phước-đức cho họ.
– Tín năng trưởng dưỡng Thiện-Căn.
– Tín năng trưởng dưỡng Công-Đức.
– Tín năng trưởng dưỡng Phước-Thiện của họ.
Cho nên sau cùng rồi người này nhờ được thiện-căn, nhờ được cơ duyên niệm câu A-Di-Đà Phật. Dù thiếu phước nhưng nhờ trong thời gian họ thành tâm tu hành, thành tâm niệm Phật, niệm trước người bệnh. Một câu A-Di-Đà Phật là vạn đức, vạn phước, nhờ thế mà sau cùng họ lại được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, nhiều khi được vãng sanh tự tại, không còn đau bệnh nữa. Không còn đau tức là có hưởng phước.
Chúng ta cứ lấy căn bản của lời Phật dạy ra để xác định rằng ta là hạng người bị thiếu thiện-căn? Ta là hạng người bị thiếu phước-đức? Ta là hạng người bị thiếu nhân-duyên hay là được đầy đủ?…
Còn về hình thức thì dù như thế nào đi nữa, chúng ta cũng chớ vội vã đánh giá sớm. Ví dụ như những người có phước, biết tu phước. Quá khứ có tu phước thì hiện đời đường tu của họ êm xuôi phẳng lặng, không ai ngăn cản. Người ta muốn lập một cái nơi ngon lành để tu hành là tự nhiên có khả năng lập liền. Ấy thế mà khi nghe đến câu A-Di-Đà Phật thì họ lặng lờ bỏ đi, họ không thèm nhìn tới. Mình biết ngay người này có phước nhưng mà thiện-căn của họ không có.
Cho nên quý vị đừng bao giờ sơ ý thấy một người tu hành có vẻ êm xuôi thì cho rằng, “À! người này thiện-căn lớn quá”. Không phải! Không phải! Không phải!… Thiện căn nó được thể hiện qua “Niềm Tin” vào câu Phật hiệu của người đó. Cho nên:
– Có nhiều người có phước-đức lại thiếu thiện-căn.
– Có người có thiện-căn nhưng lại thiếu phước-đức.
– Có nhiều người gặp nhân-duyên mà có thiện căn thì người ta tin.
– Có nhiều người có nhân-duyên gặp câu A-Di-Đà Phật mà không tin, chứng tỏ rằng trí huệ chưa chắc gì đã khai mở.
Có thiện-căn tức là có trí huệ, dù trí huệ ở một trình độ nào đó chưa biết?… Chính vì vậy, chúng ta cần nên xác định rõ rệt. Tại sao trong đời này ta là một phàm phu, danh phận thì không có, nhưng mà ta quyết lòng chết sống vì câu A-Di-Đà Phật, nhất định quyết một đời này vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc?… Xin thưa thật ra là:
– Nhiều đời nhiều kiếp chúng ta đã vun bồi phước-đức rồi,
– Nhiều đời nhiều kiếp chúng ta đã có tu Giới-Định-Huệ rồi.
– Nhiều đời nhiều kiếp chúng ta đã cúng dường hằng sa Thánh rồi.
Cho nên mới kết lại trong đời này ta được nhân-duyên gặp câu A-Di-Đà Phật và ta bám chắc, ta bám sát, ta bám vững để về Tây-Phương.
Xin thưa với chư vị, thế gian có câu: “Đắc thất nan truy họa phước”. Ta ngồi ở đây tu hành như vầy, ta cũng có bị thất…
– Ta thất là thất cái gì?… Thất Casino. Ta không có giờ đi Casino.
– Ta thất là thất cái gì?… Không có giờ đi coi xi-nê.
– Ta thất là thất cái gì?… Ta không có được tới chỗ nào đó ngắm cảnh xem hoa…
Ta bị thua người đời ở những chỗ đó.
Còn những người được những thứ đó, họ tưởng rằng họ được hưởng nhiều quá? Nhìn những người niệm Phật, họ than rằng: “Trời ơi!… Những người đó sao cứ chui vào trong cái nhà mà tụng niệm làm chi cho nhức đầu vậy?…” Người ta tưởng rằng người niệm Phật bị thua thiệt. Thật sự ra chúng ta chỉ thua họ những thứ hưởng thụ đó, nhưng mà ta được là được có Thiện-Căn, ta hơn họ là hơn cái Thiện-Căn này. Họ không tin câu A-Di-Đà Phật nhưng ta tin được vào câu A-Di-Đà Phật.
Một người bài bác câu A-Di-Đà Phật, họ nói, Trời ơi!… Người trí huệ thông minh như vậy tại sao lại niệm câu A-Di-Đà Phật?…
Như vậy họ thấy chúng mình bị mất! Mất chỗ nào? Mình mất ở chỗ không tu được những pháp cao quá! Không có nói năng được gì cho hay ho! Nhưng mà ta được chỗ nào?… Ta được câu A-Di-Đà Phật. Ta niệm câu A-Di-Đà Phật, chân thành thanh tịnh, để quyết lòng đi về Tây-Phương.
Còn họ mất cái gì? Họ mất câu A-Di-Đà Phật! Họ có thể được phước của thế gian, tức là được nhiều người ủng hộ, yểm trợ, sự nghiệp có thể đề huề, thịnh vượng.
Ta mất cái phước trước mắt này. Nhưng mà ta được cái gì?… Ta được là được đến lúc lâm chung ta hưởng cái phước đi về Tây-Phương. Còn họ không biết hưởng cái phước ở lúc lâm chung, nên họ không được đi về Tây-Phương đâu chư vị! Mà khi lâm chung họ hưởng cái cảnh… Tùng nghiệp thọ báo!…
Vì thế, Ngài Tịnh-Không dạy như thế này, “Ta tạo phước không được hưởng phước”. Đừng nên nghĩ làm phước thì phải cầu hưởng phước. Hưởng được phước hữu lậu thì sau cùng trụi lủi!… Bây giờ ta hãy cứ chịu thiệt thòi đi. Hòa Thượng Tịnh-Không nói, đời này càng chịu thiệt chừng nào ta càng được phước chừng đó. Có nghĩa là, ta chịu thiệt bây giờ, để cuối cùng khi nằm xuống ta đem tất cả cái phước đó hỗ trợ cho con đường vãng sanh của chúng ta. Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên hội tụ ngay thời điểm lâm chung để chúng ta an toàn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc…
Còn nếu chúng ta vội vã hưởng cái phước này thì lúc lâm chung chúng ta mất hết phước. Nghĩa là đau bệnh! Đau đến quằn quại! Đau quằn quại mà không có người hướng dẫn nữa, thì chúng ta muốn cất lên nửa câu A-Di-Đà Phật cũng cất không được!
Ta quyết định giữ lấy “Thiện-Căn”. Những lời nói nào sai kinh Phật nhất định đừng để nhập trong tâm. Nếu để nhập những lời nói sai kinh Phật trong tâm, thì ta thuộc vào hạng người không có thiện-căn!
Như vậy hôm nay chắc quý vị đã rõ thế nào gọi là Thiện-Căn? Thế nào gọi là Phước-Đức? Thế nào gọi là Nhân-Duyên rồi chứ?… Nhân-duyên là cơ hội ngồi tại đạo tràng này niệm Phật. Thiện-căn là lý giải kinh Phật phải đúng. Nhất định không được sơ ý một điều. Phật nói niệm Phật vãng sanh, thì ta quyết lòng tin niệm Phật vãng sanh. Dù một vạn người đem tất cả những lý lẽ gì để bài bác, ta tin vẫn cứ tin, thì thiện-căn chúng ta đã có đầy đủ.
Còn người nào nói: “Làm gì mà có chuyện hộ niệm vãng sanh?”. Người ta nói sai kinh Phật kệ họ. Nói sai kinh Phật thuộc về hạng người không có thiện-căn, dù hình thức tu hành có gì đi nữa, thì cũng là sai! Ly Kinh Nhất Tự Tức Đồng Ma Thuyết!…
Τrong kinh Phật thuyết A-Di-Đà, Phật dạy rằng: “Người nào niệm Phật thì lúc lâm chung A-Di-Đà Phật cùng chư Thánh Chúng hiện ra trước mặt người đó, tiếp dẫn người đó vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc”. Ta căn cứ vào đây mà niệm Phật đi về Tây-Phương. Ta quyết lòng cầu nguyện vãng sanh Tây-Phương. Trong kinh A-Di-Đà Phật dạy bốn lần, nhất định bốn lần chứ không phải là ba lần, phải cầu nguyện vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Phải nguyện vãng sanh về Tây-Phương thì tất cả những nguyện khác chúng ta cho nó là thứ yếu. Nghĩa là, có duyên thì ta làm, không có duyên thì ta không để trong tâm. Còn lời nguyện vãng sanh thì nhất định phải giữ trong tâm này, không bao giờ ly ra. Giả sử dù có một người nào đó cũng đem kinh Phật ra chứng minh rằng, “Cầu là vọng”, thì ta cũng phải giữ vững tâm ý:
– À!… Anh nói cầu là vọng! Còn tôi nói cầu vãng sanh không phải vọng, mà đây là Chánh-Cầu… Nhất định Phật không cho ta cầu cái gì khác, nhưng Phật lại dạy cầu vãng sanh Tịnh-Độ. Nhất định ta phải cầu vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc.
Tâm nguyện vãng sanh vững vàng như vậy, thì chứng tỏ thiện-căn chúng ta đã có.
Nếu một người nào đó phước-báu tràn trề mà họ không chịu niệm Phật, thì chứng tỏ rằng họ đã dùng phước-báu đó để cầu danh cầu lợi gì đó, chứ không phải sử dụng nó để khi xả bỏ báo thân này được hưởng cảnh đời đời cực lạc tại cõi Tây-Phương, thì phước-báu đó dù lớn cho mấy đi nữa cũng chẳng qua là đem tiền mà gói lấy cái quan tài đắc giá dưới nấm mồ mà thôi!…
Vậy thì những người nào tiền bạc nhiều quá hãy lo tu hành đi, đừng sơ ý coi chừng đến khi chết xuống vì vướng vào đống tiền đó mà bị đại họa! Quý vị có nghe Hòa Thượng Tịnh-Không kể chuyện ở bên Hồng-Kông có người tới khoe vàng với Ngài không? Vì chấp vào đó thì khi chết rồi dễ gì mà được siêu sanh! Dễ gì mà thoát ách nạn thành một con mọt chui vào đó mà giữ tiền! Có phước-báu tưởng là ngon, ai ngờ sau cùng thành đại họa!…
Cần phải hiểu rõ đạo lý này. Ta có thiện-căn nên mới tin câu A-Di-Đà Phật. Ta có phước-đức nên mới ngồi với nhau niệm Phật, và làm những việc thiện lành nhưng lặng lẽ không cần một người biết. Hãy âm thầm đem cái phước đó gởi về Tây-Phương. Gởi về Tây-Phương thì lúc lâm chung A-Di-Đà Phật sẽ đem cái phước đó xuống đón ta về Tây-Phương để hưởng. Cơ hội hôm nay chúng ta đã gặp câu A-Di-Đà Phật, thì Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên đúng như trong kinh A-Di-Đà, đức Thế-Tôn nói, người có đủ Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên sẽ được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.
Ta phải gom trọn tất cả Thiện-Căn, Phước-Đức và Nhân-Duyên này đưa vào lúc xả bỏ báo thân nhất định không trở lại trong cõi Ta-bà này nữa. Một đời này vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.
Nếu những lời này làm cho chư vị vững tin, thì xin chúc mừng cho chư vị. Nhất định chư vị được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Cư Sĩ Diệu Âm (Minh Trị)
Nguồn http://www.duongvecoitinh.com/index.php ... han-duyen/" target="_blank
Chúng ta niệm Phật là để vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Ta muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc nên ta niệm Phật. Người không muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc nên không muốn niệm Phật. Vì không niệm Phật nên họ không được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc!…
Người niệm Phật được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc là do Thiện-Căn Phước-Đức và Nhân-Duyên đã hội tụ đầy đủ. Người không được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc thì nhất định, nếu không thiếu thiện-căn thì cũng bị khiếm khuyết phước-đức. Nếu có thiện-căn có phước-đức thì cũng mất nhân-duyên.
Người trong đời này gặp được pháp môn “Niệm Phật” là có “Nhân-Duyên”. Có nhân-duyên mà không muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc thì nhất định một là họ thiếu phước-đức hai là họ thiếu thiện-căn. Hồi trưa mình có nói sơ qua vấn đề phước-đức. Muốn biết phước-đức thì coi cách hành trì của họ. Phước-đức chính là làm thiện làm lành.
Kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ đã xác định cái phước-đức của người vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc là:
– Thứ nhất là phước Nhân-Thiên: Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm không sát sanh, tu thập thiện nghiệp.
– Phước của Nhị-Thừa là: Thọ trì tam quy, cụ túc chúng giới, bất phạm uy nghi.
– Phước của Đại-Thừa là: Phát Bồ-Đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyến tấn hành giả.
Những người làm phước họ sẽ được phước. Người được phước vãng sanh tức là trước những giờ phút lâm chung, họ cười hè hè, bớt đau, bớt bệnh… Những người mà cười hè hè ra đi, ngồi xếp bàn ra đi… đúng là những người có phước. Còn chúng ta thì thiếu phước một chút cũng ráng cố gắng phóng sanh, cố gắng làm thiện, cố gắng buông xả… để bớt cái nghiệp xấu đi. Chúng ta cũng được cái phước để vãng sanh, cũng cười mà cười trong cơn đau một chút cũng được…
Còn Người thiếu thiện-căn là như thế nào?… Những Người mà trí huệ đã bắt đầu khai mở thì thuộc về người có thiện-căn. Khi mà trí huệ đã bắt đầu khai mở cũng dễ thấy lắm.
Thứ nhất là người ta tin vào pháp môn Niệm Phật. Điều đầu tiên là họ tin vào câu A-Di-Đà Phật, đó thuộc về thiện-căn. Người mà giảng giải kinh điển Phật đúng liễu nghĩa của Phật, đó là người có thiện-căn. Người giảng giải kinh Phật không đúng theo chơn nghĩa của Phật, nghĩa là nói lệch đi, giảng sai đi, tức là thiếu thiện-căn. Dựa vào đây mà truy nguyên thì mình có thể biết một người bị mất vãng sanh về Tây-Phương thuộc về phần nào…
Ví dụ như những người gặp được pháp môn Niệm Phật, gặp được câu A-Di-Đà Phật, gọi là họ có nhân-duyên, nhưng mà họ không tin, thì ta biết ngay rằng, “À! Người đó có nhân-duyên mà thiếu mất thiện-căn rồi”. Thiếu thiện-căn thì bắt buộc phải tu bồi thiện-căn. Tu bồi thiện-căn ở đâu?… Giới-Định-Huệ sẽ có thiện-căn.
Có những người nghe được câu A-Di-Đà Phật tức là có nhân-duyên. Tin vào câu A-Di-Đà Phật là có thiện-căn. Nhưng khi tu hành thì bị người này phá, người kia phá, người kia chống, người nọ chống, tạo mọi điều kiện để ngăn cản con đường tu hành của họ… thì ta biết người này có thiện-căn, có nhân-duyên, mà thiếu phước-đức. Tại sao thiếu phước-đức?… Trong đời trước, nhiều đời trước tu huệ thì nhiều mà tu phước thì ít. Vì tu phước ít cho nên thiếu phước. Thiếu phước cho nên bị cái vô-phước nó ngăn cản.
Hiểu được chỗ này rồi, mình mới thấy một người mất phần vãng sanh nguyên do nằm ở chỗ nào? Dễ dàng, rõ ràng vô cùng, không còn lơ mơ lờ mờ nữa. Chính vì vậy mà đừng bao giờ thấy một bà già hiền hậu chất phát ngày ngày cầm tập vé số đi bán ngoài đường mà ta cho họ là người thiếu thiện-căn. Không phải! Nếu mình đến hỏi: Bác có tin câu A-Di-Đà Phật không? Ồ! Bác tin sống tin chết!… Thì nhất định bà này có thiện-căn, vì “Tín năng trưởng dưỡng chư Thiện căn” mà.
Nghĩa là trong nhiều đời nhiều kiếp bà đã tu phước thiện, bà đã đọc kinh điển và thật ra cái tâm của người ta đã khai mở chút chút rồi, khai hơn những người không tin trong đó mà mình không hay. Tâm trí khai mở trong hoàn cảnh thiếu phước, nên dù có khai mà Bà vẫn phải cầm vé số đi bán! Bà cầm vé số đi bán, nhưng tối lại thì sẵn sàng đi hộ niệm cho người bệnh, nhất định bà ngồi từ đầu đêm cho đến cuối đêm niệm Phật. Vì thiếu phước-đức nhưng lòng tin của họ lại vững vàng, họ có thể niệm Phật trợ duyên cho người bệnh vãng sanh, niệm Phật từ đầu đêm đến cuối đêm không cần thay ca. Vô tình câu niệm Phật của họ sẽ tu bồi phước-đức cho họ.
– Tín năng trưởng dưỡng Thiện-Căn.
– Tín năng trưởng dưỡng Công-Đức.
– Tín năng trưởng dưỡng Phước-Thiện của họ.
Cho nên sau cùng rồi người này nhờ được thiện-căn, nhờ được cơ duyên niệm câu A-Di-Đà Phật. Dù thiếu phước nhưng nhờ trong thời gian họ thành tâm tu hành, thành tâm niệm Phật, niệm trước người bệnh. Một câu A-Di-Đà Phật là vạn đức, vạn phước, nhờ thế mà sau cùng họ lại được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, nhiều khi được vãng sanh tự tại, không còn đau bệnh nữa. Không còn đau tức là có hưởng phước.
Chúng ta cứ lấy căn bản của lời Phật dạy ra để xác định rằng ta là hạng người bị thiếu thiện-căn? Ta là hạng người bị thiếu phước-đức? Ta là hạng người bị thiếu nhân-duyên hay là được đầy đủ?…
Còn về hình thức thì dù như thế nào đi nữa, chúng ta cũng chớ vội vã đánh giá sớm. Ví dụ như những người có phước, biết tu phước. Quá khứ có tu phước thì hiện đời đường tu của họ êm xuôi phẳng lặng, không ai ngăn cản. Người ta muốn lập một cái nơi ngon lành để tu hành là tự nhiên có khả năng lập liền. Ấy thế mà khi nghe đến câu A-Di-Đà Phật thì họ lặng lờ bỏ đi, họ không thèm nhìn tới. Mình biết ngay người này có phước nhưng mà thiện-căn của họ không có.
Cho nên quý vị đừng bao giờ sơ ý thấy một người tu hành có vẻ êm xuôi thì cho rằng, “À! người này thiện-căn lớn quá”. Không phải! Không phải! Không phải!… Thiện căn nó được thể hiện qua “Niềm Tin” vào câu Phật hiệu của người đó. Cho nên:
– Có nhiều người có phước-đức lại thiếu thiện-căn.
– Có người có thiện-căn nhưng lại thiếu phước-đức.
– Có nhiều người gặp nhân-duyên mà có thiện căn thì người ta tin.
– Có nhiều người có nhân-duyên gặp câu A-Di-Đà Phật mà không tin, chứng tỏ rằng trí huệ chưa chắc gì đã khai mở.
Có thiện-căn tức là có trí huệ, dù trí huệ ở một trình độ nào đó chưa biết?… Chính vì vậy, chúng ta cần nên xác định rõ rệt. Tại sao trong đời này ta là một phàm phu, danh phận thì không có, nhưng mà ta quyết lòng chết sống vì câu A-Di-Đà Phật, nhất định quyết một đời này vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc?… Xin thưa thật ra là:
– Nhiều đời nhiều kiếp chúng ta đã vun bồi phước-đức rồi,
– Nhiều đời nhiều kiếp chúng ta đã có tu Giới-Định-Huệ rồi.
– Nhiều đời nhiều kiếp chúng ta đã cúng dường hằng sa Thánh rồi.
Cho nên mới kết lại trong đời này ta được nhân-duyên gặp câu A-Di-Đà Phật và ta bám chắc, ta bám sát, ta bám vững để về Tây-Phương.
Xin thưa với chư vị, thế gian có câu: “Đắc thất nan truy họa phước”. Ta ngồi ở đây tu hành như vầy, ta cũng có bị thất…
– Ta thất là thất cái gì?… Thất Casino. Ta không có giờ đi Casino.
– Ta thất là thất cái gì?… Không có giờ đi coi xi-nê.
– Ta thất là thất cái gì?… Ta không có được tới chỗ nào đó ngắm cảnh xem hoa…
Ta bị thua người đời ở những chỗ đó.
Còn những người được những thứ đó, họ tưởng rằng họ được hưởng nhiều quá? Nhìn những người niệm Phật, họ than rằng: “Trời ơi!… Những người đó sao cứ chui vào trong cái nhà mà tụng niệm làm chi cho nhức đầu vậy?…” Người ta tưởng rằng người niệm Phật bị thua thiệt. Thật sự ra chúng ta chỉ thua họ những thứ hưởng thụ đó, nhưng mà ta được là được có Thiện-Căn, ta hơn họ là hơn cái Thiện-Căn này. Họ không tin câu A-Di-Đà Phật nhưng ta tin được vào câu A-Di-Đà Phật.
Một người bài bác câu A-Di-Đà Phật, họ nói, Trời ơi!… Người trí huệ thông minh như vậy tại sao lại niệm câu A-Di-Đà Phật?…
Như vậy họ thấy chúng mình bị mất! Mất chỗ nào? Mình mất ở chỗ không tu được những pháp cao quá! Không có nói năng được gì cho hay ho! Nhưng mà ta được chỗ nào?… Ta được câu A-Di-Đà Phật. Ta niệm câu A-Di-Đà Phật, chân thành thanh tịnh, để quyết lòng đi về Tây-Phương.
Còn họ mất cái gì? Họ mất câu A-Di-Đà Phật! Họ có thể được phước của thế gian, tức là được nhiều người ủng hộ, yểm trợ, sự nghiệp có thể đề huề, thịnh vượng.
Ta mất cái phước trước mắt này. Nhưng mà ta được cái gì?… Ta được là được đến lúc lâm chung ta hưởng cái phước đi về Tây-Phương. Còn họ không biết hưởng cái phước ở lúc lâm chung, nên họ không được đi về Tây-Phương đâu chư vị! Mà khi lâm chung họ hưởng cái cảnh… Tùng nghiệp thọ báo!…
Vì thế, Ngài Tịnh-Không dạy như thế này, “Ta tạo phước không được hưởng phước”. Đừng nên nghĩ làm phước thì phải cầu hưởng phước. Hưởng được phước hữu lậu thì sau cùng trụi lủi!… Bây giờ ta hãy cứ chịu thiệt thòi đi. Hòa Thượng Tịnh-Không nói, đời này càng chịu thiệt chừng nào ta càng được phước chừng đó. Có nghĩa là, ta chịu thiệt bây giờ, để cuối cùng khi nằm xuống ta đem tất cả cái phước đó hỗ trợ cho con đường vãng sanh của chúng ta. Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên hội tụ ngay thời điểm lâm chung để chúng ta an toàn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc…
Còn nếu chúng ta vội vã hưởng cái phước này thì lúc lâm chung chúng ta mất hết phước. Nghĩa là đau bệnh! Đau đến quằn quại! Đau quằn quại mà không có người hướng dẫn nữa, thì chúng ta muốn cất lên nửa câu A-Di-Đà Phật cũng cất không được!
Ta quyết định giữ lấy “Thiện-Căn”. Những lời nói nào sai kinh Phật nhất định đừng để nhập trong tâm. Nếu để nhập những lời nói sai kinh Phật trong tâm, thì ta thuộc vào hạng người không có thiện-căn!
Như vậy hôm nay chắc quý vị đã rõ thế nào gọi là Thiện-Căn? Thế nào gọi là Phước-Đức? Thế nào gọi là Nhân-Duyên rồi chứ?… Nhân-duyên là cơ hội ngồi tại đạo tràng này niệm Phật. Thiện-căn là lý giải kinh Phật phải đúng. Nhất định không được sơ ý một điều. Phật nói niệm Phật vãng sanh, thì ta quyết lòng tin niệm Phật vãng sanh. Dù một vạn người đem tất cả những lý lẽ gì để bài bác, ta tin vẫn cứ tin, thì thiện-căn chúng ta đã có đầy đủ.
Còn người nào nói: “Làm gì mà có chuyện hộ niệm vãng sanh?”. Người ta nói sai kinh Phật kệ họ. Nói sai kinh Phật thuộc về hạng người không có thiện-căn, dù hình thức tu hành có gì đi nữa, thì cũng là sai! Ly Kinh Nhất Tự Tức Đồng Ma Thuyết!…
Τrong kinh Phật thuyết A-Di-Đà, Phật dạy rằng: “Người nào niệm Phật thì lúc lâm chung A-Di-Đà Phật cùng chư Thánh Chúng hiện ra trước mặt người đó, tiếp dẫn người đó vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc”. Ta căn cứ vào đây mà niệm Phật đi về Tây-Phương. Ta quyết lòng cầu nguyện vãng sanh Tây-Phương. Trong kinh A-Di-Đà Phật dạy bốn lần, nhất định bốn lần chứ không phải là ba lần, phải cầu nguyện vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Phải nguyện vãng sanh về Tây-Phương thì tất cả những nguyện khác chúng ta cho nó là thứ yếu. Nghĩa là, có duyên thì ta làm, không có duyên thì ta không để trong tâm. Còn lời nguyện vãng sanh thì nhất định phải giữ trong tâm này, không bao giờ ly ra. Giả sử dù có một người nào đó cũng đem kinh Phật ra chứng minh rằng, “Cầu là vọng”, thì ta cũng phải giữ vững tâm ý:
– À!… Anh nói cầu là vọng! Còn tôi nói cầu vãng sanh không phải vọng, mà đây là Chánh-Cầu… Nhất định Phật không cho ta cầu cái gì khác, nhưng Phật lại dạy cầu vãng sanh Tịnh-Độ. Nhất định ta phải cầu vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc.
Tâm nguyện vãng sanh vững vàng như vậy, thì chứng tỏ thiện-căn chúng ta đã có.
Nếu một người nào đó phước-báu tràn trề mà họ không chịu niệm Phật, thì chứng tỏ rằng họ đã dùng phước-báu đó để cầu danh cầu lợi gì đó, chứ không phải sử dụng nó để khi xả bỏ báo thân này được hưởng cảnh đời đời cực lạc tại cõi Tây-Phương, thì phước-báu đó dù lớn cho mấy đi nữa cũng chẳng qua là đem tiền mà gói lấy cái quan tài đắc giá dưới nấm mồ mà thôi!…
Vậy thì những người nào tiền bạc nhiều quá hãy lo tu hành đi, đừng sơ ý coi chừng đến khi chết xuống vì vướng vào đống tiền đó mà bị đại họa! Quý vị có nghe Hòa Thượng Tịnh-Không kể chuyện ở bên Hồng-Kông có người tới khoe vàng với Ngài không? Vì chấp vào đó thì khi chết rồi dễ gì mà được siêu sanh! Dễ gì mà thoát ách nạn thành một con mọt chui vào đó mà giữ tiền! Có phước-báu tưởng là ngon, ai ngờ sau cùng thành đại họa!…
Cần phải hiểu rõ đạo lý này. Ta có thiện-căn nên mới tin câu A-Di-Đà Phật. Ta có phước-đức nên mới ngồi với nhau niệm Phật, và làm những việc thiện lành nhưng lặng lẽ không cần một người biết. Hãy âm thầm đem cái phước đó gởi về Tây-Phương. Gởi về Tây-Phương thì lúc lâm chung A-Di-Đà Phật sẽ đem cái phước đó xuống đón ta về Tây-Phương để hưởng. Cơ hội hôm nay chúng ta đã gặp câu A-Di-Đà Phật, thì Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên đúng như trong kinh A-Di-Đà, đức Thế-Tôn nói, người có đủ Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên sẽ được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.
Ta phải gom trọn tất cả Thiện-Căn, Phước-Đức và Nhân-Duyên này đưa vào lúc xả bỏ báo thân nhất định không trở lại trong cõi Ta-bà này nữa. Một đời này vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.
Nếu những lời này làm cho chư vị vững tin, thì xin chúc mừng cho chư vị. Nhất định chư vị được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Cư Sĩ Diệu Âm (Minh Trị)
Nguồn http://www.duongvecoitinh.com/index.php ... han-duyen/" target="_blank
Được cảm ơn bởi: cocacola, virgo_o0o, Hoa Giọt Tuyết, Vô_Niệm
- tuankietxm
- Nhị đẳng
- Bài viết: 463
- Tham gia: 18:55, 03/07/11
- Đến từ: HCM
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Mười Lý Do Nên Tu Pháp Môn Tịnh Độ Để Vãng Sanh về Tây Phương Cực Lạc
1. Trong các bộ kinh mà Phật Thích Ca tuyên thuyết trong suốt 49 năm, mỗi bộ kinh ngài chỉ giảng qua một lần mà thôi. Riêng Kinh Vô Lượng Thọ (bộ kinh chính của hành giả tu Tịnh Độ) ngài giảng đến 5 lần vì khi kết tập kinh điển các vị tổ sư thấy có 5 quyển Kinh Vô Lượng Thọ với nội dung tuy giống nhau nhưng bố cục lại hoàn toàn khác nhau. (Sau này lão cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập tất cả 5 cuốn kinh ấy lại làm thành 1 cuốn hoàn chỉnh như chúng ta có ngày nay. Đây là cuốn Kinh Vô Lượng Thọ hoàn chỉnh nhất vì nó bổ sung cho nhau những khiếm khuyết cũng như ưu điểm của riêng từng cuốn.) Yếu chỉ của Kinh Vô Lượng Thọ là khuyên bảo chúng sinh nên cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc. Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của việc sanh về Tây Phương Cực Lạc to lớn đến dường nào nên đức Thích Ca Mâu Ni Phật mới giảng đi giảng lại nhiều lần như thế, không như những cuốn kinh khác ngài chỉ nói qua một lần rồi thôi.
2. Trong thế giới Hoa Tạng các bậc đại thượng thủ bồ tát như Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền đều là Đẳng Giác Bồ Tát sắp thành Phật. Thế mà cả 2 vị đều nguyện sanh về Tây Phương để sớm viên thành Phật quả. Trong kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện, Đức Phổ Hiền phát kệ thệ nguyện rằng: “Nguyện cho tôi khi sắp lâm chung, trừ sạch hết thảy bao chướng ngại; tận mắt thấy Phật A Di Đà, tức được vãng sinh nước Cực Lạc.” Thiết nghĩ chúng ta chỉ là phàm phu không thể nào sánh bằng 2 vị ấy thì không thể không nguyện sanh về Tây Phương Cực Lạc sao đặng?
3. Ở các thế giới Tịnh độ khác, mỗi thế giới chỉ có một vị bồ tát Nhất Sanh Bổ Xứ (tức hậu bổ Phật hay còn gọi là vị Phật tương lai sẽ thay thế vị Phật hiện tại.) Tại thế giới Ta Bà của chúng ta đang ở hiện có 1 vị hậu bổ Phật, đó là ngài Di Lặc bồ tát. Bồ tát Di Lặc hiện đang ở tại cung trời Đâu Xuất, ngài đã được Phật Thích Ca thọ ký sau này sẽ trở xuống cõi trần và trở thành vị Phật tương lai. Riêng tại Tây Phương Cực Lạc số lượng bồ tát Nhất Sanh Bổ Xứ như bồ tát Di Lặc nhiều không thể đếm xuể (theo Kinh A Di Đà). Người vãng sanh về nơi ấy ngày đêm thường được kề cận các vị đại bồ tát này để học hỏi nên đường đạo tiến rất nhanh, sớm tiến đến quả vị Phật.
4. Tu theo pháp môn Tịnh Độ rất dễ tu chỉ cần Tin sâu vào pháp môn mình tu, Nguyện thiết tha được sanh về Tây Phương Cực Lạc, và chăm chỉ Hành trì niệm Phật là được. Người tu Tịnh Độ không cần phải đoạn hết nghiệp của mình (tham, sân, si) mà có thể vượt khỏi luân hồi, siêu thoát 3 cõi (Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới) để về cõi Tịnh của Phật A Di Đà là Tây Phương Cực Lạc. Tu theo các pháp môn khác người tu bắt buộc phải diệt trừ tận gốc tất cả nghiệp chướng của mình mới có thể thoát khỏi luân hồi sinh tử.
5. Tất cả các thế giới của các chư Phật, chỉ riêng có Phật A Di Đà đến tiếp dẫn người lúc lâm chung về cõi Tịnh Độ của mình. Ngoài ra không có 1 vị Phật nào khác làm điều này.
6. Thế giới Tây Phương Cực Lạc thành tựu do nguyện lực của đức Phật A Di Đà gom hết tất cả các ưu điểm trong 210 ức cõi Phật khác lại mà thành. Thế cho nên cõi nước của A Di Đà Phật ưu việt hơn tất cả các thế giới của các chư Phật khác. Nơi ấy chỉ có toàn những điều vui mà không bao giờ nghe đến điềm khổ nên được gọi là Thế Giới Cực Lạc.
7. Nếu ở tại thế giới Ta Bà của chúng ta hiện tại để tu thì phải mất đến 3 đại A Tăng Kỳ (vô lượng kiếp) mới thành Phật. Vì kiếp người ở thế gian chỉ vỏn vẹn vài chục năm hay cao lắm là 100 năm. Khi chết đi đầu thai làm kiếp khác lại quên mất việc tu hành của mình đời trước nên đường tu có khi tiến lúc lùi trong vô số kiếp. Nếu được sanh về Tây Phương Cực Lạc, tuổi thọ của con người nơi ấy dài vô lượng nên chỉ trong 1 đời có thể tu chứng thành Phật quả.
8. Trong Tịnh Độ tông chỉ có vỏn vẹn 13 vị tổ. Nhưng trong đó có đến 2 vị là hóa thân của Phật (Thiện Đạo đại sư và Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư đều là hóa thân của Phật A Di Đà) và 1 vị là hoá thân của đại bồ tát (Ấn Quang đại sư là hóa thân của Đại Thế Chí bồ tát).
9. Các vị bồ tát, các thánh hiền trong kinh luận đều hết sức tán dương, khen ngợi, cũng như khuyến khích tu pháp môn Tịnh Độ. Ngài Thiện Đạo Hoà Thượng nói rằng: “Tu pháp môn Niệm Phật ngàn người tu không sót một.” Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ thiền sư – một vị cao tăng đích truyền về tông Pháp Nhãn – dạy rằng: “Tu Tịnh Độ muôn người tu muôn người về.” Văn Thù Sư Lợi bồ tát dạy: “Trong các pháp môn của đức Phật không môn nào qua môn Niệm Phật. Niệm Phật là vua trong các pháp môn.” Quan Thế Âm bồ tát cũng dạy rằng: “Niệm Phật hơn các hạnh khác.” Mã Minh đại sĩ – tổ thứ 12 của Thiền tông Ấn Độ – trong Đại Thừa Khởi Tín Luận có ghi rằng: “Chuyên tâm niệm Phật là phương tiện tối thắng của đức Như Lai.” Long Thọ bồ tát – tổ thứ 14 của Thiền tông Ấn Độ – cho rằng: “Niệm Phật Tam Muội có đầy đủ trí tuệ, có vô lượng phước đức, đoạn trừ tất cả phiền não, độ tất cả các chúng sanh, và sanh ra vô lượng Tam Muội khác cho đến Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội.”
10. Điều kiện để một chúng sinh sanh về các thế giới Tịnh độ khác như cõi Tịnh Độ của Bồ tát Di Lặc và Tịnh độ của Phật A Súc là rất cao, và chỉ trông cậy vào sức tu của chính mình hay tự lực. Trong khi điều kiện vãng sinh về cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà đơn giản chỉ cần nhất tâm niệm Phật với đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh, đặc biệt là được nương nhờ tha lực của Phật A Di Đà tiếp dẫn theo như lời nguyện thứ 18 của ngài trước khi thành Phật:
“Khi ta thành Phật, nếu chúng sinh mười phương muốn sinh về nước ta, xưng danh hiệu ta, nhẫn đến tối thiểu là mười niệm*, nương vào nguyện lực của ta, nếu như không được vãng sinh, ta thề không giữ ngôi Chánh Giác.”
* Ghi chú: 10 niệm tức là 10 hơi niệm danh hiệu của ngài: A Di Đà Phật.
Cư sĩ Hữu Minh
Nguồn
http://www.duongvecoitinh.com/index.php ... mment-3392" target="_blank
1. Trong các bộ kinh mà Phật Thích Ca tuyên thuyết trong suốt 49 năm, mỗi bộ kinh ngài chỉ giảng qua một lần mà thôi. Riêng Kinh Vô Lượng Thọ (bộ kinh chính của hành giả tu Tịnh Độ) ngài giảng đến 5 lần vì khi kết tập kinh điển các vị tổ sư thấy có 5 quyển Kinh Vô Lượng Thọ với nội dung tuy giống nhau nhưng bố cục lại hoàn toàn khác nhau. (Sau này lão cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập tất cả 5 cuốn kinh ấy lại làm thành 1 cuốn hoàn chỉnh như chúng ta có ngày nay. Đây là cuốn Kinh Vô Lượng Thọ hoàn chỉnh nhất vì nó bổ sung cho nhau những khiếm khuyết cũng như ưu điểm của riêng từng cuốn.) Yếu chỉ của Kinh Vô Lượng Thọ là khuyên bảo chúng sinh nên cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc. Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của việc sanh về Tây Phương Cực Lạc to lớn đến dường nào nên đức Thích Ca Mâu Ni Phật mới giảng đi giảng lại nhiều lần như thế, không như những cuốn kinh khác ngài chỉ nói qua một lần rồi thôi.
2. Trong thế giới Hoa Tạng các bậc đại thượng thủ bồ tát như Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền đều là Đẳng Giác Bồ Tát sắp thành Phật. Thế mà cả 2 vị đều nguyện sanh về Tây Phương để sớm viên thành Phật quả. Trong kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện, Đức Phổ Hiền phát kệ thệ nguyện rằng: “Nguyện cho tôi khi sắp lâm chung, trừ sạch hết thảy bao chướng ngại; tận mắt thấy Phật A Di Đà, tức được vãng sinh nước Cực Lạc.” Thiết nghĩ chúng ta chỉ là phàm phu không thể nào sánh bằng 2 vị ấy thì không thể không nguyện sanh về Tây Phương Cực Lạc sao đặng?
3. Ở các thế giới Tịnh độ khác, mỗi thế giới chỉ có một vị bồ tát Nhất Sanh Bổ Xứ (tức hậu bổ Phật hay còn gọi là vị Phật tương lai sẽ thay thế vị Phật hiện tại.) Tại thế giới Ta Bà của chúng ta đang ở hiện có 1 vị hậu bổ Phật, đó là ngài Di Lặc bồ tát. Bồ tát Di Lặc hiện đang ở tại cung trời Đâu Xuất, ngài đã được Phật Thích Ca thọ ký sau này sẽ trở xuống cõi trần và trở thành vị Phật tương lai. Riêng tại Tây Phương Cực Lạc số lượng bồ tát Nhất Sanh Bổ Xứ như bồ tát Di Lặc nhiều không thể đếm xuể (theo Kinh A Di Đà). Người vãng sanh về nơi ấy ngày đêm thường được kề cận các vị đại bồ tát này để học hỏi nên đường đạo tiến rất nhanh, sớm tiến đến quả vị Phật.
4. Tu theo pháp môn Tịnh Độ rất dễ tu chỉ cần Tin sâu vào pháp môn mình tu, Nguyện thiết tha được sanh về Tây Phương Cực Lạc, và chăm chỉ Hành trì niệm Phật là được. Người tu Tịnh Độ không cần phải đoạn hết nghiệp của mình (tham, sân, si) mà có thể vượt khỏi luân hồi, siêu thoát 3 cõi (Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới) để về cõi Tịnh của Phật A Di Đà là Tây Phương Cực Lạc. Tu theo các pháp môn khác người tu bắt buộc phải diệt trừ tận gốc tất cả nghiệp chướng của mình mới có thể thoát khỏi luân hồi sinh tử.
5. Tất cả các thế giới của các chư Phật, chỉ riêng có Phật A Di Đà đến tiếp dẫn người lúc lâm chung về cõi Tịnh Độ của mình. Ngoài ra không có 1 vị Phật nào khác làm điều này.
6. Thế giới Tây Phương Cực Lạc thành tựu do nguyện lực của đức Phật A Di Đà gom hết tất cả các ưu điểm trong 210 ức cõi Phật khác lại mà thành. Thế cho nên cõi nước của A Di Đà Phật ưu việt hơn tất cả các thế giới của các chư Phật khác. Nơi ấy chỉ có toàn những điều vui mà không bao giờ nghe đến điềm khổ nên được gọi là Thế Giới Cực Lạc.
7. Nếu ở tại thế giới Ta Bà của chúng ta hiện tại để tu thì phải mất đến 3 đại A Tăng Kỳ (vô lượng kiếp) mới thành Phật. Vì kiếp người ở thế gian chỉ vỏn vẹn vài chục năm hay cao lắm là 100 năm. Khi chết đi đầu thai làm kiếp khác lại quên mất việc tu hành của mình đời trước nên đường tu có khi tiến lúc lùi trong vô số kiếp. Nếu được sanh về Tây Phương Cực Lạc, tuổi thọ của con người nơi ấy dài vô lượng nên chỉ trong 1 đời có thể tu chứng thành Phật quả.
8. Trong Tịnh Độ tông chỉ có vỏn vẹn 13 vị tổ. Nhưng trong đó có đến 2 vị là hóa thân của Phật (Thiện Đạo đại sư và Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư đều là hóa thân của Phật A Di Đà) và 1 vị là hoá thân của đại bồ tát (Ấn Quang đại sư là hóa thân của Đại Thế Chí bồ tát).
9. Các vị bồ tát, các thánh hiền trong kinh luận đều hết sức tán dương, khen ngợi, cũng như khuyến khích tu pháp môn Tịnh Độ. Ngài Thiện Đạo Hoà Thượng nói rằng: “Tu pháp môn Niệm Phật ngàn người tu không sót một.” Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ thiền sư – một vị cao tăng đích truyền về tông Pháp Nhãn – dạy rằng: “Tu Tịnh Độ muôn người tu muôn người về.” Văn Thù Sư Lợi bồ tát dạy: “Trong các pháp môn của đức Phật không môn nào qua môn Niệm Phật. Niệm Phật là vua trong các pháp môn.” Quan Thế Âm bồ tát cũng dạy rằng: “Niệm Phật hơn các hạnh khác.” Mã Minh đại sĩ – tổ thứ 12 của Thiền tông Ấn Độ – trong Đại Thừa Khởi Tín Luận có ghi rằng: “Chuyên tâm niệm Phật là phương tiện tối thắng của đức Như Lai.” Long Thọ bồ tát – tổ thứ 14 của Thiền tông Ấn Độ – cho rằng: “Niệm Phật Tam Muội có đầy đủ trí tuệ, có vô lượng phước đức, đoạn trừ tất cả phiền não, độ tất cả các chúng sanh, và sanh ra vô lượng Tam Muội khác cho đến Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội.”
10. Điều kiện để một chúng sinh sanh về các thế giới Tịnh độ khác như cõi Tịnh Độ của Bồ tát Di Lặc và Tịnh độ của Phật A Súc là rất cao, và chỉ trông cậy vào sức tu của chính mình hay tự lực. Trong khi điều kiện vãng sinh về cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà đơn giản chỉ cần nhất tâm niệm Phật với đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh, đặc biệt là được nương nhờ tha lực của Phật A Di Đà tiếp dẫn theo như lời nguyện thứ 18 của ngài trước khi thành Phật:
“Khi ta thành Phật, nếu chúng sinh mười phương muốn sinh về nước ta, xưng danh hiệu ta, nhẫn đến tối thiểu là mười niệm*, nương vào nguyện lực của ta, nếu như không được vãng sinh, ta thề không giữ ngôi Chánh Giác.”
* Ghi chú: 10 niệm tức là 10 hơi niệm danh hiệu của ngài: A Di Đà Phật.
Cư sĩ Hữu Minh
Nguồn
http://www.duongvecoitinh.com/index.php ... mment-3392" target="_blank
Được cảm ơn bởi: Hoa Giọt Tuyết, Vô_Niệm
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Chị có nhầm không đấy. Trai việt đẹp hơn trai hàn mà 
Cái vòng chị tặng em vẫn đeo thường xuyên mà, có lẽ ảnh không rõ nên thấy thế, nó mầu ngả sang vàng sậm rồi chị ơi, chắc do nhiễm mồ hôi

Cái vòng chị tặng em vẫn đeo thường xuyên mà, có lẽ ảnh không rõ nên thấy thế, nó mầu ngả sang vàng sậm rồi chị ơi, chắc do nhiễm mồ hôi

Được cảm ơn bởi: cocacola, Vô_Niệm