1. Về âm phần, em có thể xem trong sách của Thái Thứ Lang - Tử Vi Đẩu Số Tân Biên, có phần luận cung phúc đức - âm phần. Tuy nhiên khó kiểm chứng, và thực tế cũng không chính xác lắm. Tham khảo cho vui.ThamLangV đã viết: 13:57, 12/03/18 Cảm ơn anh Đan Trì
Cho em được hỏi thêm nữa là, một số người nói rằng qua lá số tử vi ta biết âm phần tổ tiên, nếu phát hiện ra vấn đề thì tìm cách xử lý thì sẽ đc cải số. Rồi nếu bản mệnh có Cô Quả thì có tiền duyên nên làm lễ hoá giải...
Em rất băn khoăn những vấn đề này, mong được anh chia sẻ thêm ạ.
Riêng anh thì có quan điểm: nhìn trên tử vi thấy tốt, mà nhìn ngoài đời cũng thế đất tương ứng, thì mình mới hưởng được những cái tốt đẹp của mộ phần đó.
2. Về cô quả, chẳng liên quan tiền duyên. Tiền duyên là các ông thầy vẽ ra để kiếm tiền thiên hạ. Duyên đâu mà lắm thế.
Sinh năm Hợi Tý Sửu an Cô Thần ở Dần, Quả Tú ở Tuất.
Sinh năm Dần Mão Thìn an Cô ở Tỵ, Quả ở Sửu.
Sinh năm Tỵ Ngọ Mùi an Cô ở Thân, Quả ở Thìn.
Sinh năm Thân Dậu Tuất an Cô ở Hợi, Quả ở Mùi.
Lý ngũ hành phương.
Xét Tỵ Ngọ Mùi. 3 cung Tỵ Ngọ Mùi của phương Nam có liên hệ phương vị với 7 cung liên tiếp nhau là Dậu (tam hợp Tỵ), Tuất, Hợi, Tý, Sửu, Dần, Mão.
Nhưng riêng 2 cung Thân và Thìn thì hoàn toàn không có liên hệ phương vị với Tỵ Ngọ Mùi. Đó là chưa kể Thân Thìn lại ở thế tam hợp – tức là cùng phe với Tý, mà Tý là phương vị trung ương của hành thủy, xung khắc với Hỏa+Thổ. Bởi vậy, đối với người sinh phương Nam (Tỵ, Ngọ, Mùi) thì 2 cung Thân và Thìn là 2 chốn xa lạ; vào đấy như kẻ lạc loài, không người thân thích.
Thân là cung đầu tiên của 1 phương (Tây), Thìn là cung cuối cùng của 1 phương khác (Đông). “Đầu tiên” ứng với dương, “cuối cùng” ứng với âm.
Đàn ông thuộc dương, đàn bà thuộc âm. Đàn ông không họ hàng thân thích ta gọi là người cô độc. Đàn bà ngày xưa theo chồng, nếu lâm vào cảnh xa lạ, không thân thích thì là quả phụ.
Thêm chữ Thần và Tú đều có nghĩa là sao -> Cô Thần, Quả Tú.
Cô Quả chỉ có thể ở trong 3 thế tiền, hậu, xung mà không bao giờ ở trong thế chính của vòng Thái Tuế; -> cô quả làm giảm xác suất thành công của tam hợp mà nó chiếm đóng.
“Thành công” hiểu theo lẽ thường. Nên người thường mệnh gặp Cô Quả có thể là bất hạnh, nhưng bậc chân tu thì cô quả lại có thể chính là đạo hạnh.
Đào Hồng Hỉ Đức Cô Quả Sát Không
VDTT (Đằng Sơn)
Yếu tố nhân duyên trong tử vi
Nhóm chính của vòng Thái Tuế là thế ưu việt có xác suất thành công tương đối cao, nhóm xung kém hơn nên thành hay bại lệ thuộc vào lực của Thiên Mã.
Nhưng cuộc đời này không chỉ có chuyện cạnh tranh dành thắng, mà còn có chuyện người kết hợp hoặc phân ly; tức là yếu tố nhân duyên.
Nhân duyên tốt thì nhờ gặp người mà đời sống thuận lợi, nhân duyên xấu thì chẳng gặp người hoặc vì gặp người mà xảy ra ngang trái.
Bốn sao Hồng Hỉ Thiên Nguyệt Đức luôn cùng lý âm dương với 3 sao Thiên Không, Đào Hoa, và Kiếp Sát; nên phối hợp 7 sao này cho ta những cộng hưởng khác nhau của thế tiền và hậu Thái Tuế.
Lý tính mâu thuẫn của Thiên Không và Thiếu Dương
Tín hiệu thiên văn: “ước mơ, hi vọng. Đối kháng, xui xẻo. Khả năng truyền thông, khuynh hướng tâm linh.”
Đặc tính: Ứng vị trí 1 trong bài toán thiên văn, với những tín hiệu hoàn toàn mâu thuẫn nhau; nên lý thiên văn cho ta biết đây là vị trí của mâu thuẫn nội tâm. Về lý phương vị, vì ở ngay cạnh và phía trước Thái Tuế, ví như kẻ nẵm vững dữ liệu. Nắm vững dữ liệu, nội tâm lại mâu thuẫn nên dẫn đến 2 cảnh cực đoan trái ngược:
Một là sử dụng cái biết của mình để mưu đồ danh lợi.
Hai là nhờ hiểu biết mà ngộ ra rằng mọi sự danh lợi đều chỉ là giả dối.
Tên gọi Thiếu Dương chỉ phản ánh tính “ngộ”, ta thêm 1 sao nữa để kí hiệu tính chất “mưu đồ danh lợi”. Thiên Không.
Vì chứa 2 khuynh hướng mâu thuẫn ở cùng 1 chỗ, Thiên Không/Thiếu Dương là vị trí thành bại thất thường, dễ xảy ra cảnh lên voi xuống chó.
Long đức là sao dung hợp mâu thuẫn, phải có lượng bao dung, 1 đức tính thường phải tu tâm dưỡng tính mới đạt được.
Lý tính các sao “nhân duyên”
Thiên Không = Bản năng (dương, tượng trai tứ chiếng)
Đào hoa = Dục vọng tầm thường (âm, tượng gái giang hồ)
Thiếu dương = thánh tính (dương, tượng nhà tu hoặc đạo sĩ)
Kiếp Sát = Băng Tâm sát (âm, ứng sự tàn nhẫn, vô tình, khắc bạc, phản bội)
Thiên Hỉ = tình cảm dương (dương, tượng chú rể)
Hồng Loan = tình cảm âm (âm, tượng cô dâu)
Thiên Đức = Đức tính của phái nam (dương, ứng nghĩa chồng)
Nguyệt Đức = Đức tính của phái nữ (âm, ứng nghĩa vợ)
Long Đức = đức bao dung (dương, ứng sự tu tâm dưỡng tính)
Phúc Đức = Đức ban phát (âm, ứng hậu duệ, con cái, thành tựu )
Cô Thần = Sự cô độc của phái nam (dương)
Quả Tú = Sự cô độc của phái nữ (âm)
Thiên Không/ Thiếu dương và Tứ Đức:
Cung có tứ đức hội họp là cung chứa Thiên Không.
1. Nếu Thiên Không và đồng đảng lấn thắng: ứng với nhân duyên nghiệp chướng.
2. Nếu Thiếu Dương và tứ đức lấn thắng: Ứng với sự tỉnh ngộ, tu hành.
Tam Minh và tam đức:
Có thể thấy 2 bộ tam minh và tam đức phối hợp lại thành hình ảnh 1 cặp trai gái yêu nhau rồi kết duyên thành nghĩa vợ chồng, được trời cho con cái đẹp đẽ; tức là nhân duyên mỹ mãn vậy.
Năm Dương: Hỉ vốn xung chiếu Hồng, lại hợp với tam đức và đào hoa; thành thử vị trí Thiên Hỉ có đủ tam minh và tam đức. Hồng loan thì lạc lõng, chỉ hợp với long đức. Như vậy năm dương tính dương được hưởng nhân duyên, tính âm chịu phần thua thiệt. Năm dương lợi cho nam hơn là cho nữ.
Năm Âm: Ngược lại. Vị trí Hồng Loan hội đủ tam Minh, tam dức. Thiên Hỉ thì lạc lõng, chỉ hợp Long Đức. Như vậy năm âm tính âm dược hưởng nhân duyên, tính dương chịu phân thua thiệt.
Tuổi Tứ đào hoa: Tý Ngọ Mão Dậu:
Thiên Không độc thủ Thìn Tuất Sửu Mùi. Tuổi Dương Đào Hỉ đồng cung, đắc tam minh tam đức; tuổi âm hợp đào hồng cùng cung, đắc tam minh tam đức.
Diễn giải: Bản năng (thiên không đào hồng hỉ sát) lấn át thánh tính (thiếu dương tứ đức) nên vị trí này của Thiên Không/Thiếu Dương thường ứng với sự không chân thật. Nhẹ thì thiếu chủ trương; nặng thì thủ đoạn, đạo đức giả. Đào hoa ở vị trí đắc tam Minh, tam Đức nên uy lực rất mạnh. Cả 2 vị trí Hồng và Hỉ đều hội tam minh, tức là có ý nghĩa nhân duyên (hoặc nghiệp chướng)
Kết quả: Trung bình thì tuổi tứ đào hoa lắm duyên và lắm nợ hơn các tuổi khác.
Tuổi Tứ Mộ: Thìn Tuất Sửu Mùi
Thiên Không/Thiếu Dương ở Dần Thân Tỵ Hợi, cùng cung Kiếp Sát Cô Thần; tuổi dương thêm Hỉ chính cung Hồng chiếu; tuổi Âm ngược lại. Đặc biệt Thiên Không/Thiếu Dương cũng chính là vị trí hội họp đủ tam Minh, tam Đức; Đào Hoa (tam hợp Thiên Không) thì cùng cung với Nguyệt Đức, ứng với dục vọng đã được hóa giải. Sao lạc lõng (hồng năm dương, hỉ năm âm) thì cùng cung với Long Đức, nên việc tu tâm dưỡng tính dễ thành.
Diễn giải: Đây là hoàn cảnh duy nhất mà các sao dính líu đến duyên nghiệp (Đào Hồng Hỷ Sát) chế hóa lẫn nhau; tạo cơ hội cho Tứ Đức tiếp tay với Thiếu Dương, lấn át Thiên Không. Nhờ vậy vị trí Thiên Không (lẽ ra trong trường hợp này phải gọi là Thiếu Dương) ứng với sự bao dung, hòa nhã. Đây ví như khung cảnh 1 nhà chùa, rất thích hợp cho sự tu tâm dưỡng tĩnh. Còn người tu có thành tựu hay không thì còn lệ thuộc nhiều yếu tố khác.
Kết quả: Tính trung bình thì tuổi tứ mộ dễ có cơ hội tu tâm dưỡng tính hơn các tuổi khác.
Tuổi tứ mã: Tức sinh các năm Dần Thân Tỵ Hợi.
Thiên Không cùng cung với Đào Hoa ở Tý Ngọ Mão Dậu. Sức mạnh của Đào Hoa phụ vào với Thiên Không, khiến Thiếu Dương chìm mất hút. Thiên Không – Đào Hoa thành lực áp đảo. Thiên Không ví như trai tứ chiếng, Đào Hoa ví như gái giang hồ; ở cùng 1 chỗ dễ có chuyện mèo mả gà đồng hơn là nhân duyên tốt đẹp. Năm Dương (dần thân) thì Hồng Loan gặp cô quả là bất hạnh, năm âm sự bất hạnh ấy về tay Thiên Hỉ.
Diễn giải: Sức mạnh của dục vọng (Đào Hoa) khiến bản năng (Thiên Không) thắng thánh tính (thiếu dương, tứ đức). Cung có thiên không hết sức xung động, xấu nhiều tốt hiếm. Vị trí thua thiệt (Hồng năm dương, Hỉ năm âm) gặp Cô Quả càng thua thiệt hơn nữa.
Kết quả: Hoặc ham hố đam mê quá độ (Đào Không) hoặc tịch mịch cô đơn (Hồng hoặc Hỉ gặp Cô Quả) đều là những cảnh cực đoan. Nên tính trung bình thì tuổi tứ mã dễ gặp nhiều xung động hơn các tuổi khác.