toitaolao đã viết: 09:55, 11/08/23
Cám ơn bạn đã tham gia bàn luận.
Sau khi đọc bài viết của bạn có nhiều vấn đề khiến cho mình phải suy ngẫm và tìm hiểu, có lẽ ngay lúc này chưa thể trả lời được, hi vọng sau này có thể giải đáp.
Từ thông tin của bạn đưa ra, mình trích xuất có 4 vấn đề:
1.
Góc chiếu xung đối (180 độ, cách 6) từ 2 cung có ngũ hành xung khắc, mang tính thách thức, trực diện, cực đoan và chiếm đoạt nên đối với cung VCD, lý thuyết mượn chính tinh cung đối an ảo vào bản cung không phải không có lý, điều này cũng là 1 phần của tứ yếu-thập dụ-bát pháp. tuy nhiên phải nhớ đó chỉ là an ảo mà thôi, thực chất chỉ là ánh sáng, không phải bản tinh nên sức mạnh của nó không phải là 100%, và mức ảnh hưởng của nó lên cung đối phụ thuộc vào tính miếu hãm của chúng và chính tinh tam hợp, giáp cung của cung VCD
Về chỗ này, xét về logic thì mình đồng ý, hàng mượn thì vẫn là hàng mượn không thể nào có sức ảnh hưởng 100% được. Giống như mặt trăng hứng ánh sáng từ mặt trời mà chiếu rọi ban đêm, nhưng ánh sáng không thể nào bằng với mặt trời toả ra được.
Tuy nhiên vấn đề sức ảnh hưởng phụ thuộc vào tính miếu hãm thì cần phải bàn lại. Bởi vì các sách đều nói rằng Miếu Vượng Bình Nhàn Hãm chỉ cung độ thích hợp nhất đối với tinh đẩu, có thể phát huy được tính tốt xấu của nó hay không, chứ không hoàn toàn liên quan đến độ sáng của tinh đẩu.
2. Về vấn đề Tuần Triệt - Đây là một vấn đề hóc búa mà mình chưa thể giải đáp được, thế nhưng việc một số phái Tử Vi Trung Châu bỏ qua Tuần Triệt để luận đoán là có thật, và Tam Hợp Phái Vương Đình Chi là một trong số đó. Trong các bài luận mệnh của ông, dù có hay không có Tuần Triệt ở đối cung, vẫn Mượn Sao An Cung như thường.
3.
Về phần Thái Âm, Thái Dương: vốn dĩ 2 sao này không phải là mặt trăng và mặt trời, nên những kiểu suy diễn hình tượng theo mặt trăng và mặt trời đều là suy diễn thái quá. Tử-phủ là diễn hoá của dịch theo bát quái. Tử - Phủ là bản nguyên sơ khai của ngũ hành cục số, chính là 2 nghi dương-âm sơ khởi, xuất tại dần nhập tại thân, biến đổi diễn hoá thành các trạng thái khác nhau trên con đường vận hành: Tử Vi thành Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ khúc, Thiên Đồng, Liêm trinh. Thiên phủ thành Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát và Phá Quân. Các sao trong nhánh Tử vi hay Thiên phủ chẳng qua cũng chính là một trạng thái khác của Tử vi hay thiên phủ mà thôi hoàn toàn không phải mặt trời hay mặt trăng nào cả.
Triết học a đông nói chung "trọng thăng kỵ giáng": Nên Âm Dương tại sửu mùi thì Dương mạnh tại sửu và Âm mạnh tại mùi vì tại sửu Thái dương đang trong con đường chuyển từ hãm sang vượng, tại mùi thì nó ngược lại. Tương tự với Thái âm tại mùi và sửu.
Điều này khá mới mẻ với mình, không biết bạn có thể chia sẻ từ đâu bạn có thông tin này được không?
Bạn là người rất có căn cơ, qua cách viết là thấy bạn sẽ còn phát triển xa hơn nhiều ở bộ môn này. Bài viết này của tôi tuy chỉ vỏn vẹn mấy trăm chữ nhưng nó bao gồm kiến thức phức hợp từ nhiều bộ môn nền tảng của tử vi như dịch lý, học thuyết ngũ hành, thập bát phi tinh, quả lão tinh tông, chiêm tinh vệ đà, kiến thức về thiên văn học và cả triết học đông phương. Bạn tham khảo câu trả lời phía dưới.
1. Tử vi, ngoại trừ thái tuế chính là sao mộc, còn lại đều là phi tinh. Phi tinh thì vốn dĩ không có định nghĩa về độ sáng mà chỉ có thích hợp hay không. Tuy nhiên ở trên tôi đã nói "Tử vi đẩu số" bản chất của nó là một bộ môn thiên văn ảo, cốt lõi nhât vẫn là phải xem các sao là các tinh tú, dù chỉ là tinh tú ảo. Trong tất cả các môn xem sao dù là đông phương hay tây phương vị trí thich hợp cho một sao luôn luôn phải là vị trí mà nó toả sáng. Sao tỏ là điềm lành, sao mờ là điềm hung. Tử vi lấy 5 cấp độ Miếu-Vượng-Bình-Nhàn-Hãm chỉ đơn giản để mô tả độ sáng của 1 sao ở các cung vị có độ thích hợp khác nhau.
2. Vấn đề tuần-triệt mình không nghĩ một vài bình luận có thể giải quyết được, nên tốt nhất chúng ta không nên bàn tơi trong nội dung này. Tử vi có rất nhiều chi phái, việc 1 chi phái không dùng tuần triệt thậm chí không quan tâm đến Miếu - Hãm, không có nghĩa là các yếu tố đấy không có giá trị, chẳng qua vì họ không xậy được phương pháp luận dựa trên các yếu tố đó cho phù hợp với mảng lý luận cốt lõi trong đường lôi của chi phái họ nên bỏ ra.
3. Về phần Thái âm - Thái dương: Như nãy tôi đã nói Tử Vi có thái tuế là thực tinh sao Mộc. ngoài ra thì 12 cung của thiên bàn tử vi cũng là hoàn toàn có thực trên bầu trời. Vị trí của mặt trời và mặt trăng thực có thể xác định được trên 12 cung đó nếu bạn hiểu một chút về thiên văn trung quốc, và vị trí đó không bao giờ trùng với Thái âm - Thái dương của Tử Vi. Tuy vậy hình dung nó thành Nhật Nguyệt trong một phạm vi nào đó vẫn chấp nhật được vì Nhật Nguyệt chẳng qua cũng chỉ là đại diện hữu hình của tính âm dương dịch số, nhưng suy diễn quá xa kiểu như mệnh thái âm, sinh ban ngày hay ban đêm, trăng thượng huyền hay hạ huyền... đều trở thành thái quá.
- Phần còn lại là nguyên lý lập thành của tử vi, khi đã có căn cơ về dịch lý, bạn tìm hiểu về các phiên bản tiền thân của tử vi như thập bát phi tinh và tiền thân của nó là thất chinh tứ dư, xa hơn nữa là chiêm tinh vệ đà. Nếu bạn hiểu nguyên nhân của các cách an sao trong đó bạn sẽ hiểu những điều tôi nói. Ngoài Tử - Phủ ra các sao an theo vòng khác bản chât cũng đều là sự biến hoá theo nguyên dịch của 1 sao mà ra. Vòng Thái Tuế là 12 trạng thái của Thái Tuế, vòng lộc tồn, vòng trường sinh ...