Tượng hào vs tượng quẻ
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem quẻ: Lục nhâm, Thái ất, Lục hào, Mai hoa... Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức Dịch lý.
Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
Đây là chuyên mục dành cho việc xem quẻ: Lục nhâm, Thái ất, Lục hào, Mai hoa... Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức Dịch lý.
Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
1 KHẢM VI THỦY
KHẢM VI THỦY
BÁT THUẦN KHẢM
Khảm Tự Quái
坎 序 卦
Vật bất khả dĩ chung Quá.
陷 必 有 所 麗
Cố thụ chi dĩ Khảm.
故 受 之 以 離
Khảm giả hãm dã.
離 者 麗 也
Khảm Tự Quái
Sự đời tiến mãi được sao,
Cho nên quẻ Khảm đón, rào, vây, ngăn.
Khảm là gặp bước gian truân...
Khảm là hãm, là mắc kẹt y như quẻ: một Hào Dương kẹt giữa hai Hào Âm. Vì thế Khảm cũng có nghĩa là nguy hiểm. Khảm là nước. Nước giữa giòng thời trong y như một Hào Dương tinh toàn, thanh khiết ở giữa hai hào Âm hai bên.
Khảm là do Hào giữa của Kiền mà thành. Như vậy Khảm là tinh hoa của Trời = Thần = Đạo tâm. Còn Ly là tinh hoa của Đất = Tâm = Hồn = Nhân tâm.
Con người sinh ra, ai cũng có tinh hoa của Trời tàng ẩn trong xác thân, y như một Hào Dương quẻ Khảm kẹt giữa hai hào Âm. Dầu sao Khảm, Ly cũng là trọng tâm của Trời Đất, cũng như Thần và Hồn là trọng tâm của vũ trụ.
I. Thoán.
Thoán Từ.
習 坎 . 有 孚 . 維 心 亨 . 行 有 尚 .
Tập Khảm. Hữu phu. Duy tâm hanh. Hành hữu thượng.
Dịch.
Hiểm nguy, sau, trước, chập chùng,
Nếu ta thành khẩn, mới mong thoát nàn,
Chân thành, nên thoát nguy nan.
Việc làm như vậy, biết làm sao khen?
Thoán Truyện.
彖 曰 : 習 坎 . 重 險 也 . 水 流 而 不 盈 . 行 險 而 不 失 其 信 . 維 心 亨 . 乃 以 剛 中 也 . 行 有 尚 . 往 有 功 也 . 天 險 不 可 升 也 . 地 險 山 川 丘 陵 也 . 王 公 設 險 以 守 其 國 . 坎 之 時 用 大 矣 哉 .
Thoán viết.
Tập Khảm. Trùng hiểm dã. Thủy lưu nhi bất doanh. Hành hiểm nhi bất thất kỳ tín. Duy tâm hanh. Nãi dĩ cương trung dã. Hành hữu thượng. Vãng hữu công dã. Thiên hiểm bất khả thăng dã. Địa hiểm sơn xuyên khưu lăng dã. Vương công thiết hiểm dĩ thủ kỳ quốc. Hiểm chi thời dụng đại hĩ tai.
Dịch.
Thoán rằng: Nguy hiểm trập trùng ,
Nước vì trôi chảy, nên không tràn đầy.
Trong nguy, lòng vẫn thẳng ngay,
Thẳng ngay, may sẽ có ngày thoát nguy.
Gắng công, đáng được nể vì,
Gắng công, rồi sẽ thoát kỳ vận đen.
Trời cao, hiểm trở, khó lên,
Đất kia hiểm trở, sơn xuyên trập trùng.
Vương công dụng hiểm, bố phòng,
Giữ gìn bờ cõi, núi sông an bình.
Biết dùng hiểm, cũng lợi hanh,
Công trình dụng hiểm, âu đành lớn lao.
Trong Thoán quẻ Khảm, Thánh nhân dạy:
1) - Phương pháp xử trí khi lâm hiểm.
2) - Phương pháp lợi dụng sự hiểm trở.
1) Phương pháp xử trí khi lâm hiểm:
Ở đời, hiểm nguy ai cũng thường gặp, nhưng khi gặp nguy hiểm phải xử trí ra sao? Thưa: ta phải thành khẩn, phải bình tĩnh. Gặp nguy mà giữ được lòng thanh thản, không rối rít, sẽ thoát hiểm. Vì thế Thoán nói: Dẫu gặp nguy hiểm trập trùng (Tập hiểm), mà thành khẩn (Hữu phu), mà tâm hồn thanh thản (Duy tâm hanh), thì hành động sẽ có kết quả
(Hành hữu thượng). Như nước chẩy, sẽ thoát qua mọi ngóc ngách, con người mà thành khẩn sẽ thoát qua mọi gian nguy (Thủy lưu nhi bất doanh. Hành hiểm nhi bất thất kỳ tín). Khi gặp hiểm nguy, hãy giữ cho lòng thanh thản, sắt son. (Duy tâm hanh. Nãi dĩ cương trung dã.) Thế tức là:
Sơn hà gặp buổi lao lung,
Càng cao tiết ngọc, càng bừng vẻ son.
Đã sắt son, đã thành khẩn, thì hiểm nguy gì mà không vượt (Hành hữu thượng. Vãng hữu công dã).
2) Phương pháp dụng hiểm để bảo vệ mình, bảo vệ quốc gia.
* Nơi cá nhân: Trung tín chính là giáp trụ, lễ nghĩa chính là can qua, để bảo vệ nhân cách con người.
* Trong xã hội: Chính, Hình, Uy, Thưởng là
những hiểm trở để bảo vệ xã hội.
* Trong Quốc gia: (trong nước) thì lũy cao, hào sâu, núi cao, sông rộng, chính là những hiểm trở để bảo toàn bờ cõi, bảo vệ thành trì. Nhìn vào bản đồ Trung Quốc, ta thấy giới hạn của 3 nước được định bằng những hiểm trở thiên nhiên.
- Nước Ngụy ở phía Bắc, được giới hạn bằng dẫy núi Tần Lĩnh, và sông Dương, sông Hoài.
- Nước Ngô ở phía Đông Nam, giới hạn cũng bằng sông Dương, sông Hoài, ngăn Ngô và Ngụy. Và dẫy núi phía Tây ngăn Ngô và Thục.
- Nước Thục ở phía Tây đã có tiếng là hiểm trở, trập trùng.
- Các Kinh đô xưa, như Kiểu Kinh, Hàm Dương, Lạc Dương cũng thường ở vào những chổ nhiều sông, lắm núi để làm thế ỷ dốc, bên ngoài muốn tiến đánh rất là khó khăn.
DÙNG HIỂM CÓ 2 CÁCH:
1) Lợi dụng mọi hiểm trở thiên nhiên, để bảo vệ mình (Hiểm chi dụng).
2) Lúc gặp ngoại xâm, lại phải tạo thêm hiểm trở (Hiểm chi thời).
Nước nào càng lắm hiểm trở thiên nhiên, càng ít bị ngoại xâm. Nước nào có nhiều đường lối xâm nhập, càng dễ bị chinh phục, (đó là Hiểm chi dụng).
Chiêm Thành xưa đã triệt để xử dụng Đèo Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cả để bảo vệ đất nước.
Cho nên Dịch mới nói: Hiểm chi thời dụng đại hĩ tai. Biết dùng hiểm trở, lại biết khi nào phải dùng hiểm trở, để bảo vệ cho dân, cho nước, thì cao siêu biết chừng nào.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 : 水 洊 至 . 習 坎 . 君 子 以 常 德 行 . 習 教 事 .
Tượng viết:
Thủy tấn chí. Tập Khảm. Quân tử dĩ thường đức hạnh. Tập giáo sự.
Dịch.
Tượng rằng: Nước chẩy liên hồi,
Đợt này, đợt khác, chẳng ngơi, chẳng ngừng.
Nên người quân tử soi gương,
Đường nhân, nẻo đức, thời thường chẳng sai.
Dạy người liên tục, không ngơi.
Thường xuyên nhắc nhở, chẳng rời phép khuôn.
Dòng nước chẩy liên tục, cho ta một bài học khác. Nước chẩy không ngừng, vì thế soi mòn được núi non, soi mòn được vàng đá. Vậy nếu con người cũng cố gắng học hỏi, tu thân, tiến đức, dạy dỗ người không ngừng, thì con đường tiến hóa làm gì có hạn định. Thế tức là: Nước chẩy lâu, đá cũng phải mòn, hay Có công mài sắt, có ngày nên kim.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
Sáu Hào toàn bàn về cách xử hiểm.
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 習 坎 . 入 于 坎 窟 . 凶 .
象 曰 . 習 坎 入 坎 . 失 道 凶 也 .
Sơ Lục. Tập Khảm. Nhập vu Khảm lãm. Hung.
Tượng viết:
Tập Khảm. Nhập Khảm. Thất đạo hung dã.
Dịch. Sơ Lục:
Ỷ mình quen với gian nguy,
Sa hầm, sụp hố, hèn gì chẳng hung.
Tượng rằng:
Ưa nguy, thời sẽ gặp nguy,
Không theo chính đạo, hèn gì chẳng hung.
Hào Sơ dạy không nên đùa rỡn với hiểm nguy. Nếu mình cứ xông liều vào nguy hiểm (Tập Khảm), ắt sẽ sa vào những hiểm nạn ghê gớm (Nhập vu khảm hạm). Như vậy là dở hết sức (Hung). Thế tức là: Chơi dao có ngày đứt tay.
Tiểu Tượng bình thêm: đùa rỡn với hiểm nguy là đi sai đường lối của Trời Đất, vì vậy nên hung (Thất đạo hung dã).
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 坎 有 險 . 求 小 得 .
象 曰 . 求 小 得 . 未 出 中 也 .
Cửu nhị. Khảm hữu hiểm. Cầu tiểu đắc.
Tượng viết:
Cầu tiểu đắc. Vị xuất trung dã.
Dịch.
Anh hùng gặp bước gian nan,
Dần dà, từ tốn, tính toan, gỡ lần.
Tượng rằng:
Tính toan nho nhỏ được rồi,
Giữa cơn hoạn nạn, đừng đòi hỏi hơn.
Hào hai Cương mà lại đắc trung, tức người quân tử biết xử hiểm, biết bảo vệ được mình. Khi gặp gian nguy, đừng vội liều lĩnh để thoát hiểm. Trong giữa cơn biến, mà thâu nhập được thắng lợi, dù nhỏ cũng đã quí, đừng nên quá nóng, quá hấp tấp, quá tham lam. Cũng như nước suối vừa tuôn, tuy còn ít oi, nhưng rồi ra sẽ lan tràn khắp nơi.
3. Hào Lục tam.
六 三 . 來 之 坎 坎 . 險 且 枕 . 入 于 坎 窟 . 勿 用 .
象 曰 . 來 之 坎 坎 . 終 無 功 也 .
Lục tam. Lai chi Khảm Khảm. Hiểm thả chẩm. Nhập vu Khảm lạm. Vật dụng.
Tượng viết:
Lai chi Khảm Khảm. Chung vô công dã.
Dịch.
Tiểu nhân mà gặp gian nan,
Tiến lui cũng dở, ở càng nguy tai,
Nguy nan chồng chất bên ngoài,
Dẫu rằng vùng vẫy, cũng hoài công toi.
Tượng rằng: Lên xuống, đều nguy,
Cố công, rút cuộc ích gì cho cam.
Khi gặp gian nguy trập trùng, tiến lên cũng nguy, lui bước cũng nguy, thời đừng nên rối rít, đừng nên vọng động, kẻo sẽ nguy khốn thêm.
4. Hào Lục tứ.
六 四 . 樽 酒 簋 貳 . 用 缶 . 納 約 自 牖 . 終 無 咎 .
象 曰 . 樽 酒 簋 貳 . 剛 柔 際 也 .
Lục tứ. Tôn tửu quĩ nhị dụng phẫu. Nạp ước tự dũ. Chung vô cữu.
Tượng viết:
Tôn tửu quĩ nhị. Cương nhu tế dã.
Dịch.
Lòng thành, chén rượu, giỏ cơm.
Đồ sành lại lấy mà đơm, mà mời.
Chuyền qua lỗ cửa dâng người,
Chân thành, đạm bạc, ai cười, ai chê.
Tượng rằng: Chén rượu, giỏ cơm,
Cứng mềm, trên dưới, đôi đường giúp nhau.
Đại khái, Hào này nói: lúc hoạn nạn, lúc nguy nan, vua tôi giao tiếp nhau, nên tỉnh giảm lễ nghi hình thức bên ngoài, nên lấy lòng thành khẩn, chân thực, đối đãi với nhau. Lúc hiểm nàn, thời tặng nhau một bầu rượu, vài giỏ cơm, dùng bát đĩa sành, lại đưa qua cửa sổ, cũng vẫn được, miễn là thành khẩn cùng nhau.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 : 坎 不 盈 . 只既 平 . 無 咎 .
象 曰 : 坎 不 盈 . 中 未 大 也 .
Cửu ngũ. Khảm bất doanh. Kỳ ký bình. Vô cữu.
Tượng viết:
Khảm bất doanh. Trung vị đại dã.
Dịch.
Công trình trị hiểm còn vơi,
Nhưng mà hiểm sắp thoát rồi, lỗi chi?
Tượng rằng: Trị hiểm chưa xong,
Là vì tài đức chưa trung, chưa tuyền.
Tuy chưa thoát hiểm, nhưng tình thế đã bớt căng thẳng, y như sông Hoàng Hà, ở Long Môn thì nước còn chảy ào ào, nhưng đến bến Mạnh Tân, thì nước đã phẳng lặng hơn, thuyền bè đã có thể qua lại được.
Hào Năm, sở dĩ chưa thoát hiểm, là vì tuy đương sự có tài đức, có ngôi tôn, nhưng vì thiếu hiền thần phụ lực, phò nguy (Hào nhị cũng là Dương nên không ứng). Chưa thoát được hiểm, nghĩa là vẫn còn có khuyết điểm, hoặc về chính sách, hoặc về nhân sự, hoặc chưa gặp cơ hội (Khảm bất doanh. Trung vị đại dã).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 : 係 用 徽 . 置 于 叢 棘 . 三 歲 不 得 . 凶
象 曰 : 上 六 失 道 . 凶 三 歲 也 .
Thượng Lục. Hệ dụng huy mặc. Trí vu tùng cức. Tam tuế bất đắc. Hung.
Tượng viết:
Thượng Lục thất đạo. Hung tam tuế dã.
Dịch.
Đã thừng, đã chão trói trăng,
Trói rồi, còn đặt giữa vùng góc gai.
Hung mà đến thế, thời thôi.
Ba năm hồ dễ có mòi thoát nguy.
Tượng rằng: Thượng Lục lầm đường,
Không theo chính đạo, tai ương bấy chầy.
Ba năm âu cũng đáng đời . . .
Hào 6. Gặp hiểm nguy cùng cực, mà không biết khéo xử, không biết hối quá lỗi lầm, thì làm sao thoát hung họa. Lưới tội khiên lúc ấy như thừng, như chão, trăng trói mình, như gai góc vương mắc mình, nếu không biết tìm đường rũ bỏ, thì làm sao mà chẳng gặp họa hung.
ÁP DỤNG QUẺ KHẢM VÀO THỜI ĐẠI
Quẻ Khảm trước hết có nghĩa là Nước, thứ đến Khảm có nghĩa là nguy hiểm.
1. Khảm có nghĩa là Nước. Dịch dạy ta tiến đức tu thân, bắt chước nước soi mòn vàng đá, và không bao giờ ngưng nghỉ.
2. Khảm có nghĩa là Nguy hiểm. Nói đến nguy hiểm, Dịch dạy ta phải biết dùng mọi nguy hiểm của cuộc đời để bảo vệ mình, bảo vệ Quốc Gia.
Khi có chiến tranh, người ta đào đường, đắp ụ, tiêu thổ kháng chiến, đó là gây khó khăn cho bên địch. Ta thấy trong chiến tranh Trung Nhật, thì chính phủ Tưởng Giới Thạch đã bỏ Nam Kinh, Bắc Kinh, là những nơi gần biển dễ chiếm, mà rút về Trùng Khánh (Vân Nam), là nơi khó khăn, hiểm trở hơn. Còn khi Quốc Cộng Trung Hoa giao chiến, thì Mao Trạch Đông đã chọn vùng Thiểm Tây hiểm trở ở phía Bắc, để làm Thủ Đô.
Ta cũng thấy, trước kia Liên Sô đã biết dùng thời tiết băng giá để chống với đại quân của Napoléon, và Hitler, và đã toàn thắng.
Ở Việt Nam, thời Đệ Nhị Cộng Hòa, chỉ cách Saigon vài chục cây số, tại Củ Chi, Việt Cộng đã đào nhiều đường hầm, nằm ngay dưới các cơ sở Quân đội Cộng hòa và Mỹ. Tuy biết là có, nhưng Việt Nam và Mỹ, không làm sao mà tìm ra cách phá được. Vì thế Việt Cộng gọi Củ Chi là Tường Đồng, Vách Sắt. Mới hay, cái nhìn của người xưa thật là sâu sắc. Người xưa còn dạy ta: Khi gặp nguy cơ, phải bình tĩnh giải quyết thời sẽ thoát hiểm.
Những bài học thực tế trên, có giá trị muôn đời, và bao giờ đem áp dụng cũng thấy hợp thời, hợp thế.
KHẢM VI THỦY
BÁT THUẦN KHẢM
Khảm Tự Quái
坎 序 卦
Vật bất khả dĩ chung Quá.
陷 必 有 所 麗
Cố thụ chi dĩ Khảm.
故 受 之 以 離
Khảm giả hãm dã.
離 者 麗 也
Khảm Tự Quái
Sự đời tiến mãi được sao,
Cho nên quẻ Khảm đón, rào, vây, ngăn.
Khảm là gặp bước gian truân...
Khảm là hãm, là mắc kẹt y như quẻ: một Hào Dương kẹt giữa hai Hào Âm. Vì thế Khảm cũng có nghĩa là nguy hiểm. Khảm là nước. Nước giữa giòng thời trong y như một Hào Dương tinh toàn, thanh khiết ở giữa hai hào Âm hai bên.
Khảm là do Hào giữa của Kiền mà thành. Như vậy Khảm là tinh hoa của Trời = Thần = Đạo tâm. Còn Ly là tinh hoa của Đất = Tâm = Hồn = Nhân tâm.
Con người sinh ra, ai cũng có tinh hoa của Trời tàng ẩn trong xác thân, y như một Hào Dương quẻ Khảm kẹt giữa hai hào Âm. Dầu sao Khảm, Ly cũng là trọng tâm của Trời Đất, cũng như Thần và Hồn là trọng tâm của vũ trụ.
I. Thoán.
Thoán Từ.
習 坎 . 有 孚 . 維 心 亨 . 行 有 尚 .
Tập Khảm. Hữu phu. Duy tâm hanh. Hành hữu thượng.
Dịch.
Hiểm nguy, sau, trước, chập chùng,
Nếu ta thành khẩn, mới mong thoát nàn,
Chân thành, nên thoát nguy nan.
Việc làm như vậy, biết làm sao khen?
Thoán Truyện.
彖 曰 : 習 坎 . 重 險 也 . 水 流 而 不 盈 . 行 險 而 不 失 其 信 . 維 心 亨 . 乃 以 剛 中 也 . 行 有 尚 . 往 有 功 也 . 天 險 不 可 升 也 . 地 險 山 川 丘 陵 也 . 王 公 設 險 以 守 其 國 . 坎 之 時 用 大 矣 哉 .
Thoán viết.
Tập Khảm. Trùng hiểm dã. Thủy lưu nhi bất doanh. Hành hiểm nhi bất thất kỳ tín. Duy tâm hanh. Nãi dĩ cương trung dã. Hành hữu thượng. Vãng hữu công dã. Thiên hiểm bất khả thăng dã. Địa hiểm sơn xuyên khưu lăng dã. Vương công thiết hiểm dĩ thủ kỳ quốc. Hiểm chi thời dụng đại hĩ tai.
Dịch.
Thoán rằng: Nguy hiểm trập trùng ,
Nước vì trôi chảy, nên không tràn đầy.
Trong nguy, lòng vẫn thẳng ngay,
Thẳng ngay, may sẽ có ngày thoát nguy.
Gắng công, đáng được nể vì,
Gắng công, rồi sẽ thoát kỳ vận đen.
Trời cao, hiểm trở, khó lên,
Đất kia hiểm trở, sơn xuyên trập trùng.
Vương công dụng hiểm, bố phòng,
Giữ gìn bờ cõi, núi sông an bình.
Biết dùng hiểm, cũng lợi hanh,
Công trình dụng hiểm, âu đành lớn lao.
Trong Thoán quẻ Khảm, Thánh nhân dạy:
1) - Phương pháp xử trí khi lâm hiểm.
2) - Phương pháp lợi dụng sự hiểm trở.
1) Phương pháp xử trí khi lâm hiểm:
Ở đời, hiểm nguy ai cũng thường gặp, nhưng khi gặp nguy hiểm phải xử trí ra sao? Thưa: ta phải thành khẩn, phải bình tĩnh. Gặp nguy mà giữ được lòng thanh thản, không rối rít, sẽ thoát hiểm. Vì thế Thoán nói: Dẫu gặp nguy hiểm trập trùng (Tập hiểm), mà thành khẩn (Hữu phu), mà tâm hồn thanh thản (Duy tâm hanh), thì hành động sẽ có kết quả
(Hành hữu thượng). Như nước chẩy, sẽ thoát qua mọi ngóc ngách, con người mà thành khẩn sẽ thoát qua mọi gian nguy (Thủy lưu nhi bất doanh. Hành hiểm nhi bất thất kỳ tín). Khi gặp hiểm nguy, hãy giữ cho lòng thanh thản, sắt son. (Duy tâm hanh. Nãi dĩ cương trung dã.) Thế tức là:
Sơn hà gặp buổi lao lung,
Càng cao tiết ngọc, càng bừng vẻ son.
Đã sắt son, đã thành khẩn, thì hiểm nguy gì mà không vượt (Hành hữu thượng. Vãng hữu công dã).
2) Phương pháp dụng hiểm để bảo vệ mình, bảo vệ quốc gia.
* Nơi cá nhân: Trung tín chính là giáp trụ, lễ nghĩa chính là can qua, để bảo vệ nhân cách con người.
* Trong xã hội: Chính, Hình, Uy, Thưởng là
những hiểm trở để bảo vệ xã hội.
* Trong Quốc gia: (trong nước) thì lũy cao, hào sâu, núi cao, sông rộng, chính là những hiểm trở để bảo toàn bờ cõi, bảo vệ thành trì. Nhìn vào bản đồ Trung Quốc, ta thấy giới hạn của 3 nước được định bằng những hiểm trở thiên nhiên.
- Nước Ngụy ở phía Bắc, được giới hạn bằng dẫy núi Tần Lĩnh, và sông Dương, sông Hoài.
- Nước Ngô ở phía Đông Nam, giới hạn cũng bằng sông Dương, sông Hoài, ngăn Ngô và Ngụy. Và dẫy núi phía Tây ngăn Ngô và Thục.
- Nước Thục ở phía Tây đã có tiếng là hiểm trở, trập trùng.
- Các Kinh đô xưa, như Kiểu Kinh, Hàm Dương, Lạc Dương cũng thường ở vào những chổ nhiều sông, lắm núi để làm thế ỷ dốc, bên ngoài muốn tiến đánh rất là khó khăn.
DÙNG HIỂM CÓ 2 CÁCH:
1) Lợi dụng mọi hiểm trở thiên nhiên, để bảo vệ mình (Hiểm chi dụng).
2) Lúc gặp ngoại xâm, lại phải tạo thêm hiểm trở (Hiểm chi thời).
Nước nào càng lắm hiểm trở thiên nhiên, càng ít bị ngoại xâm. Nước nào có nhiều đường lối xâm nhập, càng dễ bị chinh phục, (đó là Hiểm chi dụng).
Chiêm Thành xưa đã triệt để xử dụng Đèo Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cả để bảo vệ đất nước.
Cho nên Dịch mới nói: Hiểm chi thời dụng đại hĩ tai. Biết dùng hiểm trở, lại biết khi nào phải dùng hiểm trở, để bảo vệ cho dân, cho nước, thì cao siêu biết chừng nào.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 : 水 洊 至 . 習 坎 . 君 子 以 常 德 行 . 習 教 事 .
Tượng viết:
Thủy tấn chí. Tập Khảm. Quân tử dĩ thường đức hạnh. Tập giáo sự.
Dịch.
Tượng rằng: Nước chẩy liên hồi,
Đợt này, đợt khác, chẳng ngơi, chẳng ngừng.
Nên người quân tử soi gương,
Đường nhân, nẻo đức, thời thường chẳng sai.
Dạy người liên tục, không ngơi.
Thường xuyên nhắc nhở, chẳng rời phép khuôn.
Dòng nước chẩy liên tục, cho ta một bài học khác. Nước chẩy không ngừng, vì thế soi mòn được núi non, soi mòn được vàng đá. Vậy nếu con người cũng cố gắng học hỏi, tu thân, tiến đức, dạy dỗ người không ngừng, thì con đường tiến hóa làm gì có hạn định. Thế tức là: Nước chẩy lâu, đá cũng phải mòn, hay Có công mài sắt, có ngày nên kim.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
Sáu Hào toàn bàn về cách xử hiểm.
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 習 坎 . 入 于 坎 窟 . 凶 .
象 曰 . 習 坎 入 坎 . 失 道 凶 也 .
Sơ Lục. Tập Khảm. Nhập vu Khảm lãm. Hung.
Tượng viết:
Tập Khảm. Nhập Khảm. Thất đạo hung dã.
Dịch. Sơ Lục:
Ỷ mình quen với gian nguy,
Sa hầm, sụp hố, hèn gì chẳng hung.
Tượng rằng:
Ưa nguy, thời sẽ gặp nguy,
Không theo chính đạo, hèn gì chẳng hung.
Hào Sơ dạy không nên đùa rỡn với hiểm nguy. Nếu mình cứ xông liều vào nguy hiểm (Tập Khảm), ắt sẽ sa vào những hiểm nạn ghê gớm (Nhập vu khảm hạm). Như vậy là dở hết sức (Hung). Thế tức là: Chơi dao có ngày đứt tay.
Tiểu Tượng bình thêm: đùa rỡn với hiểm nguy là đi sai đường lối của Trời Đất, vì vậy nên hung (Thất đạo hung dã).
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 坎 有 險 . 求 小 得 .
象 曰 . 求 小 得 . 未 出 中 也 .
Cửu nhị. Khảm hữu hiểm. Cầu tiểu đắc.
Tượng viết:
Cầu tiểu đắc. Vị xuất trung dã.
Dịch.
Anh hùng gặp bước gian nan,
Dần dà, từ tốn, tính toan, gỡ lần.
Tượng rằng:
Tính toan nho nhỏ được rồi,
Giữa cơn hoạn nạn, đừng đòi hỏi hơn.
Hào hai Cương mà lại đắc trung, tức người quân tử biết xử hiểm, biết bảo vệ được mình. Khi gặp gian nguy, đừng vội liều lĩnh để thoát hiểm. Trong giữa cơn biến, mà thâu nhập được thắng lợi, dù nhỏ cũng đã quí, đừng nên quá nóng, quá hấp tấp, quá tham lam. Cũng như nước suối vừa tuôn, tuy còn ít oi, nhưng rồi ra sẽ lan tràn khắp nơi.
3. Hào Lục tam.
六 三 . 來 之 坎 坎 . 險 且 枕 . 入 于 坎 窟 . 勿 用 .
象 曰 . 來 之 坎 坎 . 終 無 功 也 .
Lục tam. Lai chi Khảm Khảm. Hiểm thả chẩm. Nhập vu Khảm lạm. Vật dụng.
Tượng viết:
Lai chi Khảm Khảm. Chung vô công dã.
Dịch.
Tiểu nhân mà gặp gian nan,
Tiến lui cũng dở, ở càng nguy tai,
Nguy nan chồng chất bên ngoài,
Dẫu rằng vùng vẫy, cũng hoài công toi.
Tượng rằng: Lên xuống, đều nguy,
Cố công, rút cuộc ích gì cho cam.
Khi gặp gian nguy trập trùng, tiến lên cũng nguy, lui bước cũng nguy, thời đừng nên rối rít, đừng nên vọng động, kẻo sẽ nguy khốn thêm.
4. Hào Lục tứ.
六 四 . 樽 酒 簋 貳 . 用 缶 . 納 約 自 牖 . 終 無 咎 .
象 曰 . 樽 酒 簋 貳 . 剛 柔 際 也 .
Lục tứ. Tôn tửu quĩ nhị dụng phẫu. Nạp ước tự dũ. Chung vô cữu.
Tượng viết:
Tôn tửu quĩ nhị. Cương nhu tế dã.
Dịch.
Lòng thành, chén rượu, giỏ cơm.
Đồ sành lại lấy mà đơm, mà mời.
Chuyền qua lỗ cửa dâng người,
Chân thành, đạm bạc, ai cười, ai chê.
Tượng rằng: Chén rượu, giỏ cơm,
Cứng mềm, trên dưới, đôi đường giúp nhau.
Đại khái, Hào này nói: lúc hoạn nạn, lúc nguy nan, vua tôi giao tiếp nhau, nên tỉnh giảm lễ nghi hình thức bên ngoài, nên lấy lòng thành khẩn, chân thực, đối đãi với nhau. Lúc hiểm nàn, thời tặng nhau một bầu rượu, vài giỏ cơm, dùng bát đĩa sành, lại đưa qua cửa sổ, cũng vẫn được, miễn là thành khẩn cùng nhau.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 : 坎 不 盈 . 只既 平 . 無 咎 .
象 曰 : 坎 不 盈 . 中 未 大 也 .
Cửu ngũ. Khảm bất doanh. Kỳ ký bình. Vô cữu.
Tượng viết:
Khảm bất doanh. Trung vị đại dã.
Dịch.
Công trình trị hiểm còn vơi,
Nhưng mà hiểm sắp thoát rồi, lỗi chi?
Tượng rằng: Trị hiểm chưa xong,
Là vì tài đức chưa trung, chưa tuyền.
Tuy chưa thoát hiểm, nhưng tình thế đã bớt căng thẳng, y như sông Hoàng Hà, ở Long Môn thì nước còn chảy ào ào, nhưng đến bến Mạnh Tân, thì nước đã phẳng lặng hơn, thuyền bè đã có thể qua lại được.
Hào Năm, sở dĩ chưa thoát hiểm, là vì tuy đương sự có tài đức, có ngôi tôn, nhưng vì thiếu hiền thần phụ lực, phò nguy (Hào nhị cũng là Dương nên không ứng). Chưa thoát được hiểm, nghĩa là vẫn còn có khuyết điểm, hoặc về chính sách, hoặc về nhân sự, hoặc chưa gặp cơ hội (Khảm bất doanh. Trung vị đại dã).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 : 係 用 徽 . 置 于 叢 棘 . 三 歲 不 得 . 凶
象 曰 : 上 六 失 道 . 凶 三 歲 也 .
Thượng Lục. Hệ dụng huy mặc. Trí vu tùng cức. Tam tuế bất đắc. Hung.
Tượng viết:
Thượng Lục thất đạo. Hung tam tuế dã.
Dịch.
Đã thừng, đã chão trói trăng,
Trói rồi, còn đặt giữa vùng góc gai.
Hung mà đến thế, thời thôi.
Ba năm hồ dễ có mòi thoát nguy.
Tượng rằng: Thượng Lục lầm đường,
Không theo chính đạo, tai ương bấy chầy.
Ba năm âu cũng đáng đời . . .
Hào 6. Gặp hiểm nguy cùng cực, mà không biết khéo xử, không biết hối quá lỗi lầm, thì làm sao thoát hung họa. Lưới tội khiên lúc ấy như thừng, như chão, trăng trói mình, như gai góc vương mắc mình, nếu không biết tìm đường rũ bỏ, thì làm sao mà chẳng gặp họa hung.
ÁP DỤNG QUẺ KHẢM VÀO THỜI ĐẠI
Quẻ Khảm trước hết có nghĩa là Nước, thứ đến Khảm có nghĩa là nguy hiểm.
1. Khảm có nghĩa là Nước. Dịch dạy ta tiến đức tu thân, bắt chước nước soi mòn vàng đá, và không bao giờ ngưng nghỉ.
2. Khảm có nghĩa là Nguy hiểm. Nói đến nguy hiểm, Dịch dạy ta phải biết dùng mọi nguy hiểm của cuộc đời để bảo vệ mình, bảo vệ Quốc Gia.
Khi có chiến tranh, người ta đào đường, đắp ụ, tiêu thổ kháng chiến, đó là gây khó khăn cho bên địch. Ta thấy trong chiến tranh Trung Nhật, thì chính phủ Tưởng Giới Thạch đã bỏ Nam Kinh, Bắc Kinh, là những nơi gần biển dễ chiếm, mà rút về Trùng Khánh (Vân Nam), là nơi khó khăn, hiểm trở hơn. Còn khi Quốc Cộng Trung Hoa giao chiến, thì Mao Trạch Đông đã chọn vùng Thiểm Tây hiểm trở ở phía Bắc, để làm Thủ Đô.
Ta cũng thấy, trước kia Liên Sô đã biết dùng thời tiết băng giá để chống với đại quân của Napoléon, và Hitler, và đã toàn thắng.
Ở Việt Nam, thời Đệ Nhị Cộng Hòa, chỉ cách Saigon vài chục cây số, tại Củ Chi, Việt Cộng đã đào nhiều đường hầm, nằm ngay dưới các cơ sở Quân đội Cộng hòa và Mỹ. Tuy biết là có, nhưng Việt Nam và Mỹ, không làm sao mà tìm ra cách phá được. Vì thế Việt Cộng gọi Củ Chi là Tường Đồng, Vách Sắt. Mới hay, cái nhìn của người xưa thật là sâu sắc. Người xưa còn dạy ta: Khi gặp nguy cơ, phải bình tĩnh giải quyết thời sẽ thoát hiểm.
Những bài học thực tế trên, có giá trị muôn đời, và bao giờ đem áp dụng cũng thấy hợp thời, hợp thế.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
2. THỦY TRẠCH TIẾT
THỦY TRẠCH TIẾT
Tiết Tự Quái
節 序 卦
Hoán giả ly dã.
渙 者 離 也
Vật bất khả dĩ chung ly.
物 不 可 以 終 離
Cố thụ chi dĩ Tiết.
故 受 之 以 節
Tiết Tự Quái
Hoán là xẻ nghé, tan đàn, phôi pha.
Chia ly, ly mãi ru mà.
Cho nên đến Tiết, Tiết là chừng thôi.
Hoán là ly tán. Sự đời không thể ly tán mãi, cần phải được tiết chế. Vì thế sau quẻ Hoán là quẻ Tiết. Tiết là điều hòa, là tiết chế. Điều hòa để con người chúng ta hòa điệu cùng hoàn cảnh xã hội, nhân quần và vũ trụ. Tiết chế để cuộc đời chúng ta sống trong kỷ luật, mực thước hợp với lẽ thiên nhiên. Riêng đối với con người, muốn có một đời sống hợp tình, hợp lý, hợp cảnh, hợp thời, một đời sống thảnh thơi, hạnh phúc, cần phải hiểu rõ quẻ Tiết.
I. Thoán.
Thoán từ.
節 . 亨 . 苦 節 不 可 貞 .
Tiết. Hanh. Khổ tiết bất khả trinh.
Dịch.
Tiết là có độ, có chừng,
Có chừng, có mực hanh thông êm dầm.
Tiết mà cay đắng cho thân,
Thì đâu phải chuyện thế nhân thường lề.
Tiết tức là biết tiết chế, biết điều khiển, chỉ huy cuộc đời mình. Như vậy, cuộc đời mình sẽ được xong xả (Tiết hanh). Còn như không hiểu chữ Tiết cho phải, lại tưởng Tiết là chịu khổ, chịu cực (Khổ Tiết), rồi cứ thế gò bó mình vào những khuôn khổ chật hẹp, những kỷ luật khắt khe, như thế làm sao mà chịu cho lâu được (Bất khả trinh).
Nói đến hai chữ Khổ Tiết, làm ta liên tưởng đến những người vì muốn tu trì, mà đã đi vào con đường khổ hạnh; nhin đói, nhịn khát, chịu nóng, chịu lạnh, thức đêm, thức hôm, gia dĩ còn đánh đập thân xác, coi thân xác như là thù địch. Những sự vi phạm định luật của Trời đất ấy đã làm cho nhiều người trở thành những tội nhân, những tù nhân, sống một cuộc đời khổ sai chung thân, mua chuốc bệnh hoạn cho thể chất, điên loạn cho tâm trí. Chính vì vậy, Dịch chê Khổ tiết. Bất khả trinh.
Thoán Truyện. Thoán viết.
彖 曰 . 節 亨 . 剛 柔 分 . 而 剛 得 中 . 苦 節 不 可 貞 . 其 道 窮 也 . 說 以 行 險 . 當 位 以 節 . 中 正 以 通 . 天 地 節 而 四 時 成 . 節 以 制 度 . 不 傷 財 . 不 害 民 .
Tiết hanh. Cương nhu phân. Nhi cương đắc trung. Khổ Tiết bất khả trinh. Kỳ đạo cùng dã. Duyệt dĩ hành hiểm. Đáng vị dĩ tiết. Trung chính dĩ thông. Thiên địa tiết nhi tứ thời thành. Tiết dĩ chế độ. Bất thương tài. Bất hại dân.
Dịch.
Thoán rằng: Tiết độ hanh thông,
Cứng mềm, đều đặn, cương trung thêm phần.
Tiết mà cay đắng cho thân,
Thời đâu phải chuyện thế nhân thường lề.
Tiết mà cay đắng, ê chề,
Rồi ra bế tắc, khó bề tới lui.
Trong nguy, lòng vẫn sướng vui,
Ở ăn chừng mực, vị ngôi đàng hoàng.
Chính trung, vẹn nhẽ cương thường,
Tiền trình rộng mở, lối đường hanh thông.
Đất trời có tiết, có chừng,
Bốn mùa mới được nên công thành toàn.
Cầm cân, nẩy mực dân gian,
Biết đường tiết chế, sửa sang mới hào.
Của dân sẽ bớt phí hao.
Đời dân sẽ bớt hư hao, điêu tàn.
Thoán Truyện. Mực thước, tiết độ, sống theo định luật của trời đất, sẽ tạo cho mình một đời sống thung dung, thanh thản, xong xả, thông suốt (Tiết hanh). Tiết tức là biết biện phân rành rẽ các nấc thang giá trị tinh thần, vật chất (Cương nhu phân), lòng sắt son, nhưng vẫn hòa nhịp được với những định luật tự nhiên (Nhi cương đắc trung). Nói là Cương nhu phân, vì quẻ Tiết, trên là Khảm là quẻ Dương cương, dưới là Đoài là quẻ Âm nhu. Nói là Cương đắc trung vì hai Hào Cửu nhị và Cửu ngũ đều là Cương đắc trung.
Không phóng dật, biết tự kiềm chế mình, tự điều khiển mình là một chuyện, nhưng hành hạ, dằn vặt, làm khổ mình lại là chuyện khác. Đi vào đường Khổ Tiết, Khổ ải ấy thì làm sao mà hay được. Thế là đi vào con đường tắc nghẽn vậy (Khổ Tiết bất khả trinh. Kỳ đạo cùng dã).
Còn như biết sống một cuộc đời có mực thước, tiết độ, thời lúc nào cũng được ung dung, thư thái. Gặp gian nguy, cũng vẫn vui (Duyệt dĩ hành hiểm). Đoài là duyệt, Khảm là hiểm. Sống tiết chế, tức là biết sống hòa hợp với mọi địa vị, mọi hoàn cảnh (Dáng vị dĩ tiết), là đi theo đường nghĩa lý, đường trung chính, để tạo cho mình một cuộc đời thông suốt thong thả (Trung chính dĩ thông).
Trời đất vì có mực thước, tiết độ, định luật hẳn hoi, cho nên mới tạo được bốn mùa đẹp đẽ (Thiên địa tiết như tứ thời thành). Cùng một lẽ, nếu ta cai trị dân, mà có tổ chức, có chế độ, có định tắc, thì sẽ chẳng làm hao hụt của dân, làm thiệt hại cho dân (Tiết dĩ chế độ. Bất thương tài. Bất hại dân). Bài học trên của Thoán đã quá rõ rệt vậy.
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết:
象 曰 . 澤 上 有 水 . 節 . 君 子 以 制 數 度 . 議 德 行 .
Trạch thượng hữu thủy. Tiết. Quân tử dĩ chế số độ. Nghị đức hạnh.
Dịch. Tượng rằng:
Tiết là có nước trên hồ,
Cho nên quân tử phải cho rạch ròi.
Lập ra số độ hẳn hoi,
Biện phân đức hạnh, cơ ngơi tỏ tường.
Trong trời đất, mọi sự đã được tổ chức, có độ, có số, có lượng hẳn hoi. Sách Minh Triết viết: Nhưng Chúa đã tổ chức mọi sự bằng độ, bằng số và bằng trọng lượng. (Livre de la Sagesse 11, 20). Người quân tử bắt chước Trời, bắt chước thiên nhiên, cũng chế ra số độ để cân nhắc, đoán định về vạn vật; và cũng nghị luận xem thế nào là đức hạnh thật.
Thế nào là một người đức hạnh? Đó là một người có:
-Tâm thần sáng suốt, thông minh, thanh thản.
-Tâm hồn cao đẹp, ưa chuộng những điều cao quí.
-Phẩm hạnh cao khiết.
-Là một người thành khẩn, hòa nhã với mọi người.
1. Xác chất có ăn uống mới sống, tinh thần cũng vậy có ăn uống mới sống. Lương thực của tinh thần, chính là những tư tưởng cao đẹp của Thánh hiền, mọi nơi, mọi đời. Vậy ta nên đọc sách Thánh hiền.
2. Ngọc ngà có chau chuốt mới trở nên đẹp đẽ được. Tâm hồn có tu luyện mới trở nên cao quí. Tu luyện tâm thần là dùng thời gian, hoàn cảnh, để phát triển hết tiềm năng, tiềm lực mình, để tiến tới tinh hoa cao đại, thực hiện lý tưởng hoàn thiện đã tiềm ẩn sẵn trong lòng mình, làm phóng phát, triển dương Đạo Thể đã có sẵn trong lòng mình. Phật giáo gọi là Phật tính, hay Pháp thân. Lão giáo gọi đó là Thánh thai. Thánh Justin xưa gọi đó là Logos spermatikos (Apologia 11, 13). Vậy ta cố thực hiện cái Đạo tâm, Đạo thể đó.
3. Ánh sáng cũng như Sức lực, nếu tản mạn thì yếu, nếu tập trung lại được thì mạnh. Tinh thần ta cũng theo một định luật đó. Tất cả những phương pháp tham thiền, nhập định xưa nay, là cốt tập trung tinh thần mà thôi.
4. Nhịn ăn, nhịn tình, hành hạ xác thân, thực ra cũng có thể kích thích trí não như những loại ma túy, nhưng cũng có thể làm con người trở nên điên loạn như ma túy.
Dùng những phương pháp nhân tạo ấy để đi vội vào đời sống tinh thần, đạo đức, làm cho Tinh thần, Thần Linh sớm xuất hiện, thường không mang lại kết quả mong muốn, mà lại gây ra cho con người những thác loạn tâm thần chẳng hay.
Tinh thần...Thần linh...phải có thời gian mới xuất hiện được. Cũng như hoa trái phải có thời gian mới xuất sinh. Nơi con người, phải tới một lứa tuổi nào, đời sống đạo hạnh mới trở nên tự nhiên được. Hiểu như vậy, mới đỡ thân làm tội đời.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 不 出 戶 庭 . 無 咎 .
象 曰 . 不 出 戶 庭 . 知 通 塞 也 .
Sơ Cửu.
Bất xuất hộ đình. Vô cữu.
Tượng viết:
Bất xuất hộ đình. Tri thông tắc dã.
Dịch.
Chẳng ra khỏi cửa, khỏi nhà,
Thế mà chẳng lỗi, thế mà vẫn hay.
Tượng rằng:
Chẳng ra khỏi cửa, khỏi nhà,
Biết chiều thông tắc, biết đà tiến lui.
Sơ Cửu. Sinh ra đời, phải biết thủ thân, tự trọng. Khi thấy thời cơ không thuận tiện, thời chẳng xuất đầu lộ diện mà chi. (Hộ là cửa nhà, Đình là sân). Thế là biết nhẽ cùng thông vậy (Bất xuất hộ đình. Tri thông tắc dã).
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 不 出 門 庭 . 凶 .
象 曰 . 不 出 門 庭 凶 . 失 時 極 也 .
Cửu nhị.
Bất xuất môn đình. Hung.
Tượng viết:
Bất xuất môn đình hung. Thất thời cực dã.
Dịch.
Chẳng ra khỏi cổng, khỏi nhà,
Ẩn khi phải hiện, thế là chẳng hay.
Tượng rằng:
Chẳng ra khỏi cổng, chẳng hay,
Lỗi thời quá mức, thế này còn chi.
Cửu nhị. Những khi đáng giúp nước, giúp đời mà mình lại ẩn cư, thời lại là xấu. Nhan Hồi không gặp thời, mà ẩn cư, thời đã đành. Chứ như Đại Võ, hay Ích Tắc, đương được vua Thuấn giao cho trọng trách mà đòi rút lui, thì đâu có phải. Mới hay quân tử phải Tri thời, thức biến để hành xử cho phải.
Tượng cho rằng: Sự qui ẩn ở đây, sở dĩ dở là vì trái thời tiết (Bất xuất môn đình hung. Thất thời cực dã).
Ta có thể dùng sự tích Bá Lý Hề và Kiển Thúc để minh giải cả hai Hào Sơ Cửu và Cửu nhị trên. Tần Mục Công biết tài Bá Lý Hề rồi, bèn muốn phong làm thượng khanh. Bá Lý Hề từ chối mà rằng: Tài tôi chẳng bằng bạn hữu của tôi, người ấy tên là Kiển Thúc, lấn hơn tôi thập bội. Nếu Chúa công muốn cho nước nhà thịnh trị, thì xin dùng Kiển Thúc, còn tôi thì để phụ theo, như vậy thì nghiệp bá mới nên. Mục Công hỏi lý do, Bá Lý Hề đáp: Kiển Thúc là người hiền... Lúc trước tôi trôi nổi qua Tề, ý muốn ra phò Công Tôn Vô Tri, Kiển Thúc cản tôi rằng chẳng nên. Tôi nghe lời, nên mới khỏi hoạ với Vô Tri. Kế tôi sang qua Châu, cũng muốn ra phò Vương Tử Thoát, Kiển Thúc cũng cản tôi rằng không nên, tôi cũng nghe theo lời, nên mới khỏi cái hoạ với Tử Thoát. Sau tôi trở về nước Ngu, muốn ra phò Ngu Công, Kiển Thúc cũng cản tôi rằng chẳng nên. Lúc ấy, tôi bị cùng khốn quá đỗi, nên vì tham tước lộc mà cãi lời người, ở lại phò đỡ Ngu Công, nên sau bị nước Tấn bắt. Đã hai phen, tôi nghe theo lời người, đều được khỏi hoạ; mới cãi có một phen, mà thân bị hại. Vậy thì người ấy có trí hơn tôi xa lắm, nay về ẩn nơi làng Minh Lộc bên nước Tống. Chúa Công hãy mời về cho sớm mà dùng.
Tần Mục Công liền cho người đi mời Kiển Thúc về, đều phong cho Kiển Thúc và Bá Lý Hề làm Thừa tướng.
Quả nhiên, Kiển Thúc và Bá Lý Hề giúp Tần Mục Công lập nên nghiêp bá (Võ Minh Trí dịch, Đông Châu Liệt quốc, trang 342- 352). Ta thấy Bá Lý Hề, lúc không nên xuất chính, mà xuất chính, nên bị tai hoạ. Còn Kiển Thúc, lúc không nên xuất chính thì qui ẩn, lúc nên xuất chính thì ra làm Thừa tướng, giúp Tần Mục Công lập được nghiệp bá. Như vậy, chẳng là Tri thời thức biến hay sao? Nếu khi Tần Mục Công mời, mà Kiển Thúc cứ khăng khăng đòi ẩn cư, thì thất thời biết là bao.
3. Hào Lục tam.
六 三 . 不 節 若 . 則 嗟 若 . 無 咎 .
象 曰 . 不 節 之 嗟 . 又 誰 咎 也 .
Lục tam.
Bất Tiết nhược. Tắc ta nhược. Vô cữu.
Tượng viết:
Bất Tiết chi ta. Hựu thùy cữu dã.
Dịch.
Sống không có mực, có chừng,
Rồi ra than thở, hỏi rằng lỗi ai.
Tượng rằng:
Buông tung, đến phải thở than,
Mình làm, mình chịu phàn nàn làm chi.
Lục tam Âm nhu bất trung, bất chính, cưỡi lên trên hai Hào Dương, sắp lâm vào Khảm hiểm, mà lại không biết tiết chế, điều khiển mình (Bất Tiết nhược), thì tránh sao mà khỏi phàn nàn (Tắc ta nhược). Suy rộng ra, nếu con người sống buông tung, bỏ vãi, phóng túng dục tình, rồi ra rước lấy bệnh tật, hoạ tai, thì làm sao tránh khỏi phàn nàn được. Mình làm mình chịu, hỏi còn trách ai (Vô Cữu).
Không tiết chế, điều khiển được mình, để rồi phải phàn nàn, thời còn đổ lỗi cho ai? (Bất Tiết chi ta. Hựu thùy cữu dã).
4. Hào Lục tứ.
六 四 . 安 節 . 亨 .
象 曰 . 安 節 之 亨 . 承 上 道 也 .
Lục tứ.
An Tiết. Hanh.
Tượng viết:
An Tiết chi hanh Thừa thượng đạo dã.
Dịch.
Ung dung, chừng mực, thời hay,
Tượng rằng:
Ung dung, chừng mực thời hay,
Với trên theo được đường ngay, nẻo lành.
Lục tứ. Tiết chế được mình một cách tự nhiên, như vậy mới thung dung, xong xả. Theo được định luật thiên nhiên một cách an nhiên, tự tại, thời tốt đẹp biết mấy mươi. Cái hay của Lục tứ ở đây, chính là theo được con đường trung chính mà Cửu ngũ đã vạch ra (Thừa thượng đạo dã).
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 甘 節 . 吉 . 往 有 尚 .
象 曰 . 甘 節 之 吉 . 居 位 中 也 .
Cửu ngũ.
Cam Tiết. Cát. Vãng hữu thượng.
Tượng viết:
Cam Tiết chi cát. Cư vị trung dã.
Dịch.
Tiết mà thanh thản, mới hay
Làm gì cũng được mắn may, an lành.
Tượng rằng:
Tiết mà thanh thản mới hay,
Vị ngôi xứng đáng, xứng tày ấm êm.
Ở ngôi Cửu ngũ, mà tạo cho mình được một đời sống hạnh phúc, khuôn theo những định luật đất trời, thì hay biết bao nhiêu (Cam Tiết. Cát). Nếu đem thực thi, áp dụng cho người nữa, thì thực đáng khen (Vãng hữu thượng dã).
Sống hay, sống giỏi, sống thuận theo những điều kiện thiên nhiên, lý tưởng nhất, cho nên tốt lành (Cam Tiết chi cát. Cư vị trung dã).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 苦 節 . 貞 凶 . 悔 亡 .
象 曰 . 苦 節 貞 凶 . 其 道 窮 也 .
Thượng Lục.
Khổ Tiết. Trinh hung. Hối vong.
Tượng viết:
Khổ Tiết trinh hung. Kỳ đạo cùng dã.
Dịch.
Tiết mà Khổ Tiết ê chề,
Khư khư Khổ Tiết, nhiều bề hung tai.
Biết điều hối lỗi, sửa sai.
Rồi ra may mắn, thoát bài họa hung.
Tượng rằng: Tiết mà khổ sở, ê chề
Khư khư Khổ Tiết, nhiều bề họa hung.
Thế là gặp bước đường cùng.
Thượng Lục. Đi vào con đường khổ hạnh, gò bó mình vào trong những khuôn khổ chật hẹp, kỷ luật khắt khe, lại còn kéo dài đời sống mình trong tình trạng ấy, thì thật là xấu (Khổ Tiết. Trinh hung). Tại sao mình lại tự đầy đoạ mình như vậy, trong khi cánh hoa còn biết đón hơi sương, con chim còn biết hót, biết ca, còn biết tung bay thoải mái (Hối vong).
Làm khổ mình, mà tưởng làm theo ý Trời, tưởng thoát tục, thành Tiên, thì thực đã đi vào con đường cùng vậy. (Khổ Tiết trinh hung. Kỳ đạo cùng dã).
ÁP DỤNG QUẺ TIẾT VÀO THỜI ĐẠI
Như Dịch kinh đã dạy ta: Hồ dù to mấy cũng chỉ chứa được một số nước nhất định. Nhiều quá sẽ tràn ra bên ngoài. Con người chúng ta cũng vậy. Con người sinh ra đời, phải sống theo nghĩa lý, sống theo định luật trời đất, không được làm gì thái quá, như vậy mới được sung sướng.
Xưa Đức Phật mới đi tu, cũng không biết phải tiết độ ra sao, nên đã đi vào con đường Khổ Tiết, nhịn đói, nhịn khát, ngày ăn vài hột cơm, nên đã suy nhược gần chết. May mà Ngài được thôn nữ dâng cho bình sữa. Ngài uống vào mới dần dần tỉnh lại. Ngài suy ra con đường khổ tiết là con đường cực đoan, không phải là Trung đạo, nên lập tức thay đổi cách sống, không theo con đường này nữa.
Nhiều dòng tu Công Giáo xưa, cũng chỉ lo ăn chay, đền tội, coi xác thân như là kẻ thù địch, nên đã đánh tội bằng cách đánh mình mỗi tuần 40, 50 roi đòn, lại mặc áo nhặm, hãm mình, ăn chay, nằm lạnh. Kết quả, là nhiều người đã bị lao, bị bệnh. Như vậy, có hay đâu.
Đạo Lão, trái lại dạy phải Tính Mệnh Song Tu, nghĩa là phải có một tâm hồn (Tính), và một xác thân khang kiện (Mệnh). Như vậy, mới là đúng cách tu luyện.
Người đời trái lại, nhiều khi rượu chè bí tỉ, hút sách, điếm đàng, chơi bời trác táng. Thật đáng thương thay!
Nhưng hễ ta làm gì quá trớn, thì Trời sẽ cảnh cáo ta ngay: như khi quá chén, thì Trời cho nôn mửa, nhức đầu. Nếu ta nghe theo mà hồi đầu, thì sẽ không sao. Còn cứ bất chấp, thói nào, tật nấy, thì sẽ cho bệnh hoạn. Như rượu chè quá độ thì sẽ cho bị cứng gan, sơ gan. Hút thuốc quá nhiều, sẽ cho bị ung thư phổi vv... Tức là, nếu không sớm rút lui, sẽ cho bị nhiều bệnh bất trị.
Quẻ Tiết dạy ta tiết độ, nhưng không dạy ta Khổ Tiết, mà chỉ dạy ta An Tiết, Cam Tiết, nghĩa là phải sống cho vui, cho đẹp. Thật là hết sức đẹp đẽ. Nếu ta biết áp dụng cho đúng quẻ Tiết vào cuộc đời ta, thì ta sẽ được an vui, thoải mái, và sẽ thấy thật sự Tu là cõi phúc.
Thật ra, chúng ta là những cân Tiểu Ly, hết sức bén nhậy, dùng để cân lường những gì đẹp đẽ, những gì vi tế của Trời Đất. Dùng sai, dùng bậy, là lỗi tại ta, không còn trách cứ ai được.
THỦY TRẠCH TIẾT
Tiết Tự Quái
節 序 卦
Hoán giả ly dã.
渙 者 離 也
Vật bất khả dĩ chung ly.
物 不 可 以 終 離
Cố thụ chi dĩ Tiết.
故 受 之 以 節
Tiết Tự Quái
Hoán là xẻ nghé, tan đàn, phôi pha.
Chia ly, ly mãi ru mà.
Cho nên đến Tiết, Tiết là chừng thôi.
Hoán là ly tán. Sự đời không thể ly tán mãi, cần phải được tiết chế. Vì thế sau quẻ Hoán là quẻ Tiết. Tiết là điều hòa, là tiết chế. Điều hòa để con người chúng ta hòa điệu cùng hoàn cảnh xã hội, nhân quần và vũ trụ. Tiết chế để cuộc đời chúng ta sống trong kỷ luật, mực thước hợp với lẽ thiên nhiên. Riêng đối với con người, muốn có một đời sống hợp tình, hợp lý, hợp cảnh, hợp thời, một đời sống thảnh thơi, hạnh phúc, cần phải hiểu rõ quẻ Tiết.
I. Thoán.
Thoán từ.
節 . 亨 . 苦 節 不 可 貞 .
Tiết. Hanh. Khổ tiết bất khả trinh.
Dịch.
Tiết là có độ, có chừng,
Có chừng, có mực hanh thông êm dầm.
Tiết mà cay đắng cho thân,
Thì đâu phải chuyện thế nhân thường lề.
Tiết tức là biết tiết chế, biết điều khiển, chỉ huy cuộc đời mình. Như vậy, cuộc đời mình sẽ được xong xả (Tiết hanh). Còn như không hiểu chữ Tiết cho phải, lại tưởng Tiết là chịu khổ, chịu cực (Khổ Tiết), rồi cứ thế gò bó mình vào những khuôn khổ chật hẹp, những kỷ luật khắt khe, như thế làm sao mà chịu cho lâu được (Bất khả trinh).
Nói đến hai chữ Khổ Tiết, làm ta liên tưởng đến những người vì muốn tu trì, mà đã đi vào con đường khổ hạnh; nhin đói, nhịn khát, chịu nóng, chịu lạnh, thức đêm, thức hôm, gia dĩ còn đánh đập thân xác, coi thân xác như là thù địch. Những sự vi phạm định luật của Trời đất ấy đã làm cho nhiều người trở thành những tội nhân, những tù nhân, sống một cuộc đời khổ sai chung thân, mua chuốc bệnh hoạn cho thể chất, điên loạn cho tâm trí. Chính vì vậy, Dịch chê Khổ tiết. Bất khả trinh.
Thoán Truyện. Thoán viết.
彖 曰 . 節 亨 . 剛 柔 分 . 而 剛 得 中 . 苦 節 不 可 貞 . 其 道 窮 也 . 說 以 行 險 . 當 位 以 節 . 中 正 以 通 . 天 地 節 而 四 時 成 . 節 以 制 度 . 不 傷 財 . 不 害 民 .
Tiết hanh. Cương nhu phân. Nhi cương đắc trung. Khổ Tiết bất khả trinh. Kỳ đạo cùng dã. Duyệt dĩ hành hiểm. Đáng vị dĩ tiết. Trung chính dĩ thông. Thiên địa tiết nhi tứ thời thành. Tiết dĩ chế độ. Bất thương tài. Bất hại dân.
Dịch.
Thoán rằng: Tiết độ hanh thông,
Cứng mềm, đều đặn, cương trung thêm phần.
Tiết mà cay đắng cho thân,
Thời đâu phải chuyện thế nhân thường lề.
Tiết mà cay đắng, ê chề,
Rồi ra bế tắc, khó bề tới lui.
Trong nguy, lòng vẫn sướng vui,
Ở ăn chừng mực, vị ngôi đàng hoàng.
Chính trung, vẹn nhẽ cương thường,
Tiền trình rộng mở, lối đường hanh thông.
Đất trời có tiết, có chừng,
Bốn mùa mới được nên công thành toàn.
Cầm cân, nẩy mực dân gian,
Biết đường tiết chế, sửa sang mới hào.
Của dân sẽ bớt phí hao.
Đời dân sẽ bớt hư hao, điêu tàn.
Thoán Truyện. Mực thước, tiết độ, sống theo định luật của trời đất, sẽ tạo cho mình một đời sống thung dung, thanh thản, xong xả, thông suốt (Tiết hanh). Tiết tức là biết biện phân rành rẽ các nấc thang giá trị tinh thần, vật chất (Cương nhu phân), lòng sắt son, nhưng vẫn hòa nhịp được với những định luật tự nhiên (Nhi cương đắc trung). Nói là Cương nhu phân, vì quẻ Tiết, trên là Khảm là quẻ Dương cương, dưới là Đoài là quẻ Âm nhu. Nói là Cương đắc trung vì hai Hào Cửu nhị và Cửu ngũ đều là Cương đắc trung.
Không phóng dật, biết tự kiềm chế mình, tự điều khiển mình là một chuyện, nhưng hành hạ, dằn vặt, làm khổ mình lại là chuyện khác. Đi vào đường Khổ Tiết, Khổ ải ấy thì làm sao mà hay được. Thế là đi vào con đường tắc nghẽn vậy (Khổ Tiết bất khả trinh. Kỳ đạo cùng dã).
Còn như biết sống một cuộc đời có mực thước, tiết độ, thời lúc nào cũng được ung dung, thư thái. Gặp gian nguy, cũng vẫn vui (Duyệt dĩ hành hiểm). Đoài là duyệt, Khảm là hiểm. Sống tiết chế, tức là biết sống hòa hợp với mọi địa vị, mọi hoàn cảnh (Dáng vị dĩ tiết), là đi theo đường nghĩa lý, đường trung chính, để tạo cho mình một cuộc đời thông suốt thong thả (Trung chính dĩ thông).
Trời đất vì có mực thước, tiết độ, định luật hẳn hoi, cho nên mới tạo được bốn mùa đẹp đẽ (Thiên địa tiết như tứ thời thành). Cùng một lẽ, nếu ta cai trị dân, mà có tổ chức, có chế độ, có định tắc, thì sẽ chẳng làm hao hụt của dân, làm thiệt hại cho dân (Tiết dĩ chế độ. Bất thương tài. Bất hại dân). Bài học trên của Thoán đã quá rõ rệt vậy.
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết:
象 曰 . 澤 上 有 水 . 節 . 君 子 以 制 數 度 . 議 德 行 .
Trạch thượng hữu thủy. Tiết. Quân tử dĩ chế số độ. Nghị đức hạnh.
Dịch. Tượng rằng:
Tiết là có nước trên hồ,
Cho nên quân tử phải cho rạch ròi.
Lập ra số độ hẳn hoi,
Biện phân đức hạnh, cơ ngơi tỏ tường.
Trong trời đất, mọi sự đã được tổ chức, có độ, có số, có lượng hẳn hoi. Sách Minh Triết viết: Nhưng Chúa đã tổ chức mọi sự bằng độ, bằng số và bằng trọng lượng. (Livre de la Sagesse 11, 20). Người quân tử bắt chước Trời, bắt chước thiên nhiên, cũng chế ra số độ để cân nhắc, đoán định về vạn vật; và cũng nghị luận xem thế nào là đức hạnh thật.
Thế nào là một người đức hạnh? Đó là một người có:
-Tâm thần sáng suốt, thông minh, thanh thản.
-Tâm hồn cao đẹp, ưa chuộng những điều cao quí.
-Phẩm hạnh cao khiết.
-Là một người thành khẩn, hòa nhã với mọi người.
1. Xác chất có ăn uống mới sống, tinh thần cũng vậy có ăn uống mới sống. Lương thực của tinh thần, chính là những tư tưởng cao đẹp của Thánh hiền, mọi nơi, mọi đời. Vậy ta nên đọc sách Thánh hiền.
2. Ngọc ngà có chau chuốt mới trở nên đẹp đẽ được. Tâm hồn có tu luyện mới trở nên cao quí. Tu luyện tâm thần là dùng thời gian, hoàn cảnh, để phát triển hết tiềm năng, tiềm lực mình, để tiến tới tinh hoa cao đại, thực hiện lý tưởng hoàn thiện đã tiềm ẩn sẵn trong lòng mình, làm phóng phát, triển dương Đạo Thể đã có sẵn trong lòng mình. Phật giáo gọi là Phật tính, hay Pháp thân. Lão giáo gọi đó là Thánh thai. Thánh Justin xưa gọi đó là Logos spermatikos (Apologia 11, 13). Vậy ta cố thực hiện cái Đạo tâm, Đạo thể đó.
3. Ánh sáng cũng như Sức lực, nếu tản mạn thì yếu, nếu tập trung lại được thì mạnh. Tinh thần ta cũng theo một định luật đó. Tất cả những phương pháp tham thiền, nhập định xưa nay, là cốt tập trung tinh thần mà thôi.
4. Nhịn ăn, nhịn tình, hành hạ xác thân, thực ra cũng có thể kích thích trí não như những loại ma túy, nhưng cũng có thể làm con người trở nên điên loạn như ma túy.
Dùng những phương pháp nhân tạo ấy để đi vội vào đời sống tinh thần, đạo đức, làm cho Tinh thần, Thần Linh sớm xuất hiện, thường không mang lại kết quả mong muốn, mà lại gây ra cho con người những thác loạn tâm thần chẳng hay.
Tinh thần...Thần linh...phải có thời gian mới xuất hiện được. Cũng như hoa trái phải có thời gian mới xuất sinh. Nơi con người, phải tới một lứa tuổi nào, đời sống đạo hạnh mới trở nên tự nhiên được. Hiểu như vậy, mới đỡ thân làm tội đời.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 不 出 戶 庭 . 無 咎 .
象 曰 . 不 出 戶 庭 . 知 通 塞 也 .
Sơ Cửu.
Bất xuất hộ đình. Vô cữu.
Tượng viết:
Bất xuất hộ đình. Tri thông tắc dã.
Dịch.
Chẳng ra khỏi cửa, khỏi nhà,
Thế mà chẳng lỗi, thế mà vẫn hay.
Tượng rằng:
Chẳng ra khỏi cửa, khỏi nhà,
Biết chiều thông tắc, biết đà tiến lui.
Sơ Cửu. Sinh ra đời, phải biết thủ thân, tự trọng. Khi thấy thời cơ không thuận tiện, thời chẳng xuất đầu lộ diện mà chi. (Hộ là cửa nhà, Đình là sân). Thế là biết nhẽ cùng thông vậy (Bất xuất hộ đình. Tri thông tắc dã).
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 不 出 門 庭 . 凶 .
象 曰 . 不 出 門 庭 凶 . 失 時 極 也 .
Cửu nhị.
Bất xuất môn đình. Hung.
Tượng viết:
Bất xuất môn đình hung. Thất thời cực dã.
Dịch.
Chẳng ra khỏi cổng, khỏi nhà,
Ẩn khi phải hiện, thế là chẳng hay.
Tượng rằng:
Chẳng ra khỏi cổng, chẳng hay,
Lỗi thời quá mức, thế này còn chi.
Cửu nhị. Những khi đáng giúp nước, giúp đời mà mình lại ẩn cư, thời lại là xấu. Nhan Hồi không gặp thời, mà ẩn cư, thời đã đành. Chứ như Đại Võ, hay Ích Tắc, đương được vua Thuấn giao cho trọng trách mà đòi rút lui, thì đâu có phải. Mới hay quân tử phải Tri thời, thức biến để hành xử cho phải.
Tượng cho rằng: Sự qui ẩn ở đây, sở dĩ dở là vì trái thời tiết (Bất xuất môn đình hung. Thất thời cực dã).
Ta có thể dùng sự tích Bá Lý Hề và Kiển Thúc để minh giải cả hai Hào Sơ Cửu và Cửu nhị trên. Tần Mục Công biết tài Bá Lý Hề rồi, bèn muốn phong làm thượng khanh. Bá Lý Hề từ chối mà rằng: Tài tôi chẳng bằng bạn hữu của tôi, người ấy tên là Kiển Thúc, lấn hơn tôi thập bội. Nếu Chúa công muốn cho nước nhà thịnh trị, thì xin dùng Kiển Thúc, còn tôi thì để phụ theo, như vậy thì nghiệp bá mới nên. Mục Công hỏi lý do, Bá Lý Hề đáp: Kiển Thúc là người hiền... Lúc trước tôi trôi nổi qua Tề, ý muốn ra phò Công Tôn Vô Tri, Kiển Thúc cản tôi rằng chẳng nên. Tôi nghe lời, nên mới khỏi hoạ với Vô Tri. Kế tôi sang qua Châu, cũng muốn ra phò Vương Tử Thoát, Kiển Thúc cũng cản tôi rằng không nên, tôi cũng nghe theo lời, nên mới khỏi cái hoạ với Tử Thoát. Sau tôi trở về nước Ngu, muốn ra phò Ngu Công, Kiển Thúc cũng cản tôi rằng chẳng nên. Lúc ấy, tôi bị cùng khốn quá đỗi, nên vì tham tước lộc mà cãi lời người, ở lại phò đỡ Ngu Công, nên sau bị nước Tấn bắt. Đã hai phen, tôi nghe theo lời người, đều được khỏi hoạ; mới cãi có một phen, mà thân bị hại. Vậy thì người ấy có trí hơn tôi xa lắm, nay về ẩn nơi làng Minh Lộc bên nước Tống. Chúa Công hãy mời về cho sớm mà dùng.
Tần Mục Công liền cho người đi mời Kiển Thúc về, đều phong cho Kiển Thúc và Bá Lý Hề làm Thừa tướng.
Quả nhiên, Kiển Thúc và Bá Lý Hề giúp Tần Mục Công lập nên nghiêp bá (Võ Minh Trí dịch, Đông Châu Liệt quốc, trang 342- 352). Ta thấy Bá Lý Hề, lúc không nên xuất chính, mà xuất chính, nên bị tai hoạ. Còn Kiển Thúc, lúc không nên xuất chính thì qui ẩn, lúc nên xuất chính thì ra làm Thừa tướng, giúp Tần Mục Công lập được nghiệp bá. Như vậy, chẳng là Tri thời thức biến hay sao? Nếu khi Tần Mục Công mời, mà Kiển Thúc cứ khăng khăng đòi ẩn cư, thì thất thời biết là bao.
3. Hào Lục tam.
六 三 . 不 節 若 . 則 嗟 若 . 無 咎 .
象 曰 . 不 節 之 嗟 . 又 誰 咎 也 .
Lục tam.
Bất Tiết nhược. Tắc ta nhược. Vô cữu.
Tượng viết:
Bất Tiết chi ta. Hựu thùy cữu dã.
Dịch.
Sống không có mực, có chừng,
Rồi ra than thở, hỏi rằng lỗi ai.
Tượng rằng:
Buông tung, đến phải thở than,
Mình làm, mình chịu phàn nàn làm chi.
Lục tam Âm nhu bất trung, bất chính, cưỡi lên trên hai Hào Dương, sắp lâm vào Khảm hiểm, mà lại không biết tiết chế, điều khiển mình (Bất Tiết nhược), thì tránh sao mà khỏi phàn nàn (Tắc ta nhược). Suy rộng ra, nếu con người sống buông tung, bỏ vãi, phóng túng dục tình, rồi ra rước lấy bệnh tật, hoạ tai, thì làm sao tránh khỏi phàn nàn được. Mình làm mình chịu, hỏi còn trách ai (Vô Cữu).
Không tiết chế, điều khiển được mình, để rồi phải phàn nàn, thời còn đổ lỗi cho ai? (Bất Tiết chi ta. Hựu thùy cữu dã).
4. Hào Lục tứ.
六 四 . 安 節 . 亨 .
象 曰 . 安 節 之 亨 . 承 上 道 也 .
Lục tứ.
An Tiết. Hanh.
Tượng viết:
An Tiết chi hanh Thừa thượng đạo dã.
Dịch.
Ung dung, chừng mực, thời hay,
Tượng rằng:
Ung dung, chừng mực thời hay,
Với trên theo được đường ngay, nẻo lành.
Lục tứ. Tiết chế được mình một cách tự nhiên, như vậy mới thung dung, xong xả. Theo được định luật thiên nhiên một cách an nhiên, tự tại, thời tốt đẹp biết mấy mươi. Cái hay của Lục tứ ở đây, chính là theo được con đường trung chính mà Cửu ngũ đã vạch ra (Thừa thượng đạo dã).
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 甘 節 . 吉 . 往 有 尚 .
象 曰 . 甘 節 之 吉 . 居 位 中 也 .
Cửu ngũ.
Cam Tiết. Cát. Vãng hữu thượng.
Tượng viết:
Cam Tiết chi cát. Cư vị trung dã.
Dịch.
Tiết mà thanh thản, mới hay
Làm gì cũng được mắn may, an lành.
Tượng rằng:
Tiết mà thanh thản mới hay,
Vị ngôi xứng đáng, xứng tày ấm êm.
Ở ngôi Cửu ngũ, mà tạo cho mình được một đời sống hạnh phúc, khuôn theo những định luật đất trời, thì hay biết bao nhiêu (Cam Tiết. Cát). Nếu đem thực thi, áp dụng cho người nữa, thì thực đáng khen (Vãng hữu thượng dã).
Sống hay, sống giỏi, sống thuận theo những điều kiện thiên nhiên, lý tưởng nhất, cho nên tốt lành (Cam Tiết chi cát. Cư vị trung dã).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 苦 節 . 貞 凶 . 悔 亡 .
象 曰 . 苦 節 貞 凶 . 其 道 窮 也 .
Thượng Lục.
Khổ Tiết. Trinh hung. Hối vong.
Tượng viết:
Khổ Tiết trinh hung. Kỳ đạo cùng dã.
Dịch.
Tiết mà Khổ Tiết ê chề,
Khư khư Khổ Tiết, nhiều bề hung tai.
Biết điều hối lỗi, sửa sai.
Rồi ra may mắn, thoát bài họa hung.
Tượng rằng: Tiết mà khổ sở, ê chề
Khư khư Khổ Tiết, nhiều bề họa hung.
Thế là gặp bước đường cùng.
Thượng Lục. Đi vào con đường khổ hạnh, gò bó mình vào trong những khuôn khổ chật hẹp, kỷ luật khắt khe, lại còn kéo dài đời sống mình trong tình trạng ấy, thì thật là xấu (Khổ Tiết. Trinh hung). Tại sao mình lại tự đầy đoạ mình như vậy, trong khi cánh hoa còn biết đón hơi sương, con chim còn biết hót, biết ca, còn biết tung bay thoải mái (Hối vong).
Làm khổ mình, mà tưởng làm theo ý Trời, tưởng thoát tục, thành Tiên, thì thực đã đi vào con đường cùng vậy. (Khổ Tiết trinh hung. Kỳ đạo cùng dã).
ÁP DỤNG QUẺ TIẾT VÀO THỜI ĐẠI
Như Dịch kinh đã dạy ta: Hồ dù to mấy cũng chỉ chứa được một số nước nhất định. Nhiều quá sẽ tràn ra bên ngoài. Con người chúng ta cũng vậy. Con người sinh ra đời, phải sống theo nghĩa lý, sống theo định luật trời đất, không được làm gì thái quá, như vậy mới được sung sướng.
Xưa Đức Phật mới đi tu, cũng không biết phải tiết độ ra sao, nên đã đi vào con đường Khổ Tiết, nhịn đói, nhịn khát, ngày ăn vài hột cơm, nên đã suy nhược gần chết. May mà Ngài được thôn nữ dâng cho bình sữa. Ngài uống vào mới dần dần tỉnh lại. Ngài suy ra con đường khổ tiết là con đường cực đoan, không phải là Trung đạo, nên lập tức thay đổi cách sống, không theo con đường này nữa.
Nhiều dòng tu Công Giáo xưa, cũng chỉ lo ăn chay, đền tội, coi xác thân như là kẻ thù địch, nên đã đánh tội bằng cách đánh mình mỗi tuần 40, 50 roi đòn, lại mặc áo nhặm, hãm mình, ăn chay, nằm lạnh. Kết quả, là nhiều người đã bị lao, bị bệnh. Như vậy, có hay đâu.
Đạo Lão, trái lại dạy phải Tính Mệnh Song Tu, nghĩa là phải có một tâm hồn (Tính), và một xác thân khang kiện (Mệnh). Như vậy, mới là đúng cách tu luyện.
Người đời trái lại, nhiều khi rượu chè bí tỉ, hút sách, điếm đàng, chơi bời trác táng. Thật đáng thương thay!
Nhưng hễ ta làm gì quá trớn, thì Trời sẽ cảnh cáo ta ngay: như khi quá chén, thì Trời cho nôn mửa, nhức đầu. Nếu ta nghe theo mà hồi đầu, thì sẽ không sao. Còn cứ bất chấp, thói nào, tật nấy, thì sẽ cho bệnh hoạn. Như rượu chè quá độ thì sẽ cho bị cứng gan, sơ gan. Hút thuốc quá nhiều, sẽ cho bị ung thư phổi vv... Tức là, nếu không sớm rút lui, sẽ cho bị nhiều bệnh bất trị.
Quẻ Tiết dạy ta tiết độ, nhưng không dạy ta Khổ Tiết, mà chỉ dạy ta An Tiết, Cam Tiết, nghĩa là phải sống cho vui, cho đẹp. Thật là hết sức đẹp đẽ. Nếu ta biết áp dụng cho đúng quẻ Tiết vào cuộc đời ta, thì ta sẽ được an vui, thoải mái, và sẽ thấy thật sự Tu là cõi phúc.
Thật ra, chúng ta là những cân Tiểu Ly, hết sức bén nhậy, dùng để cân lường những gì đẹp đẽ, những gì vi tế của Trời Đất. Dùng sai, dùng bậy, là lỗi tại ta, không còn trách cứ ai được.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
3. THỦY LÔI TRUÂN
THỦY LÔI TRUÂN
Truân Tự Quái
屯 序 卦
Hữu thiên địa.
有 天 地
Nhiên hậu vạn vật sinh yên.
然 後 萬 物 生 焉。
Doanh thiên địa chi
盈 天 地 之
Gian giả duy vạn vật.
間 者 唯 萬 物
Cố thụ chi dĩ Truân.
故 受 之 以 屯
Truân giả doanh dã.
屯 者 盈 也
Truân Tự Quái
Đất trời rồi mới quần sinh.
Quần sinh đầy dẫy, quán doanh đất trời.
Truân là sơ khởi pha phôi.
Truân là muôn vật sinh sôi tràn đầy.
Truân là vạn vật chào đời.
Truân có hai nghĩa: 1. Là đầy dẫy. 2. Truân chiên vất vả. Truân, nếu là thời kỳ đất trời vừa thoạt giao nhau, làm cho vạn vật nẩy sinh đầy dẫy khắp nơi, nhưng chính vì Âm Dương vừa thoạt giao nhau, nên sinh khí còn uất kết, chưa thông suốt.
Truân tượng trưng cho bước truân chiên (truân chuyên) thuở ban đầu, quẻ Truân là hoạt động trong nguy hiểm.
Truân đối với vũ trụ, là thời kỳ thiên địa sơ khai, vạn vật bắt đầu sinh. Truân đối với cá nhân, là lúc sơ sinh, ấu trĩ. Truân đối với quốc gia là thời kỳ khai quốc, sáng nghiệp . . .
Truân là thời kỳ gian nan, vất vả lúc ban đầu, khác với Kiển là gian nan lúc giữa cuộc, khác với Khốn là khốn khổ lúc chung cuộc, khác với Khảm là gian nan, hoạn nạn nói chung.
I. Thoán.
Thoán Từ:
屯:元,亨,利,貞,勿用,有 攸 往,利 建 侯。
Truân. Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Vật dụng hữu du vãng. Lợi kiến hầu
Dịch.
Truân chiên vất vả lúc ban đầu.
Nhưng sẽ hanh thông vận hội sau,
Phải biết bền gan đừng vọng động
Tìm người trợ giúp, ích bền lâu.
Tuy nhiên, dầu có gian nan, nhưng rồi ra các trở ngại sẽ như băng tan, tuyết tán, các rối ren sẽ được tháo gỡ, mọi chuyện éo le, trắc trở, nhờ tài kinh luân của con người biết tạo thời thế sẽ được giải quyết êm xuôi.
Thoán Truyện viết:
屯,剛 柔 始 交 而 難 生,動 乎 險 中,大 亨 貞。雷 雨 之 動 滿 盈,天 造 草 昧,宜 建 侯 而 不 寧。
Truân cương nhu thủy giao nhi nạn sinh. Động hồ hiểm chung. Đại hanh trinh. Lôi vũ chi động mãn doanh. Thiên tạo thảo muội. Nghi kiến hầu nhi bất ninh.
Dịch.
Thoán rằng:
Cương, nhu vừa mới giao nhau
Truân chuyên, trắc trở bắt đầu nẩy sinh.
Mưu đồ giữa buổi điêu linh,
Bền gan sẽ thấy tiền trình hanh thông.
Mưa rơi, sấm động trập trùng,
Muôn loài nhờ đó tưng bừng nẩy sinh.
Vận trời rối rắm, u minh,
Tìm người phụ bật, riêng mình chớ ngơi.
Cho nên, thấy khó khăn đừng vội thất vọng, mà phải biết một dạ sắt son, giữ cho tròn Đạo lý, phải lo tìm cách gỡ rối, lo tìm người đồng tâm, đồng chí chung sức tái tạo non sông. Phương châm hoạt động lúc này, là phải biết tìm ra nguyên nhân của rối ren, tao loạn, hoạch định những phương sách phò nguy, cứu khổ cho rõ ràng, tìm người phụ bật cho hay, lựa thời thế thuận tiện, mới ra tay lèo lái, chớ đừng nhắm mắt làm liều.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰: 云,雷,屯 . 君 子 以 經 綸。
Tượng viết:
Vân lôi. Truân. Quân tử dĩ kinh luân.
Dịch.
Tượng rằng: Mây, Sấm là Truân,
Hiền nhân phải biết kinh luân, mới tài.
Gặp buổi truân chiên, quân tử hãy ra tay gỡ rối, phải dùng hết trí lực, tài ba mà lo xoay chiều thế cuộc.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.
1. Hào Sơ Cửu.
初 九: 磐 桓 , 利 居 貞,利 建 侯。
象 曰: 雖 磐 桓,志 行 正 也。以 貴 下 賤,大 得 民 也。
Sơ Cửu. Bàn hoàn. Lợi cư trinh. Lợi kiến hầu.
Tượng viết:
Tuy bàn hoàn. Chí hành chính dã. Dĩ quí hạ tiện. Đại đắc dân dã.
Dịch.
Hào Sơ, dùng dắng, ngỡ ngàng,
Hay thay, chính Đạo tâm xoang chẳng rời,
Hay thay, phụ bật gặp người.
Tượng rằng:
Dùng dắng, ngỡ ngàng,
Nhưng mà chính Đạo quyết mang thi hành.
Phẩm cao mà lại hạ mình,
Quí người bề dưới, dân tình vui theo.
Gặp buổi truân chiên, nếu mình có chân tài, lại khôn ngoan, cương quyết, biết chiêu hiền đãi sĩ, biết hạ mình phục vụ dân, cố chinh phục lòng dân, thì sẽ có ngày lãnh đạo được dân.
2. Hào Lục nhị.
六 二: 屯 如 邅 如,乘 馬 班 如。匪 寇 婚 媾,
女 子 貞 不 字,十 年 乃 字。
象 曰: 六 二 之 難,乘 剛 也。 十 年 乃 字,反 常 也。
Lục nhị: Truân như chiên như. Thừa mã ban như.
Phỉ khấu hôn cấu. Nữ tử trinh bất tự. Thập niên nãi tự.
Tượng viết:
Lục nhị chi nạn. Thừa cương dã. Thập niên nãi tự. Phản thường dã.
Dịch.
Truân Lục nhị như quanh, như quẩn,
Ngựa cỡi rồi, dùng dắng chẳng đi,
Đó đành chẳng phải gian phi,
Cùng ta những muốn sính kỳ duyên may.
Nhưng trinh trắng, gái này đã quyết,
Quyết bền gan, tiết liệt chờ ai,
Mười năm ta vẫn chờ người.
Tượng rằng:
Hào nhị gặp gian nan,
Là vì lâm cảnh cưỡi Dương cương.
Mười năm nếu biết chờ phối ngẫu,
Rồi ra vận số sẽ như thường.
Nếu mình là người có tài đức, xứng đáng là bậc lương đống quốc gia sau này, hãy biết bền gan chờ minh chúa, chớ đừng nghe lời dụ dỗ, chào mời của những kẻ tá ơn.
3. Hào Lục tam.
六 三: 既 鹿 無 虞,惟 入 于 林 中,君 子 几 不 如 舍,往 吝。
象 曰: 既 鹿 無 虞,以 縱 禽 也。君 子 舍 之,往 吝 窮 也。
Lục tam: Tức lộc vô ngu. Duy nhập vu lâm trung.
Quân tử cơ. Bất như xả. Vãng lận.
Tượng viết:
Tức lộc vô ngu. Dĩ tùng cầm dã. Quân tử xả chi. Vãng lận cùng dã.
Dịch.
Săn hươu thiếu kẻ thuộc đường rừng,
Xông xáo rừng sâu lạc ở trong,
Quân tử thấy thời chưa thuận tiện,
Cho nên dùng dắng, chửa ra công.
Nếu đi liều lĩnh lung tung,
Làm sao tránh khỏi uổng công, nhọc lòng.
Tượng rằng:
Săn hươu thiếu kẻ thuộc đường rừng,
Cũng bởi ham mồi ruổi tứ tung,
Quân tử biết thời, không ruổi bắt,
Ruổi rong âu chỉ tổ hoài công.
Những người bất tài, lại không người phụ bật, mà lại tham danh, tham lợi, không biết gì thời thế mà đòi nhảy ra khua môi, múa mỏ, vỗ ngực vì nước, vì dân, phò nguy, cứu khổ, chắc là đi đến chỗ thất bại. . .
4. Hào Lục tứ.
六 四 : 乘 馬 班 如,求 婚 媾,無 不 利 。
象 曰: 求 而 往,明 也。
Lục tứ. Thừa mã ban như. Cầu hôn cấu. Vãng cát. Vô bất lợi.
Tượng viết:
Cầu nhi vãng. Minh dã.
Dịch.
Cưỡi ngựa dùng dằng, chưa muốn bước,
Cố tìm cho được hảo hôn nhân,
Tế Truân lý hiểm, xoay vận nước,
Rồi ra mọi sự sẽ êm dầm.
Tượng rằng: Một dạ cầu hiền,
Rồi ra hóa giải truân chuyên cho đời.
Thế là sáng suốt mấy mươi.
Có những người giữ địa vị cao trong chính trường, nhưng bất tài. Nhưng nếu họ thực lòng vì dân, vì nước, biết hạ mình cầu hiền, cố tìm cho ra những người hay, người giỏi, để cùng mình cộng tác, như vậy cũng là một hành động khôn ngoan cho đất nước.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 : 屯 其 膏,小 貞 吉,大 貞 凶。
象 曰: 屯 其 膏,施 未 光 也。
Cửu ngũ. Truân kỳ cao. Tiểu trinh cát. Đại trinh hung.
Tượng viết:
Truân kỳ cao. Thi vị quang dã.
Dịch.
Truân muốn thi ân cũng khó lòng.
Từ từ chỉnh đốn, mới nên công,
Thế hiểm mà toan mưu đại sự.
Tránh sao cho khỏi những điều hung.
Tượng rằng: Thi ân mà cũng khó lòng,
Nghĩa là chưa được quảng thông xa gần.
Làm đầu một nước, nhiều khi cũng chẳng nắm trọn quyền, đôi khi cũng chẳng ảnh hưởng đến đời, đến dân được bao lăm. Đó là trường hợp na ná như vua Lê, chúa Trịnh nước ta: Vua ở ngôi, Chúa nắm quyền (Thiên hạ phân qui nhị chủ). Nhà vua có thể là người có tài đức, nhưng quần thần, thủ túc, không ai là kẻ có tài. Trong trường hợp này, nhà vua nên nhẫn nhục, làm những công việc nho nhỏ, mới có cơ bền vững. Còn muốn làm những chuyện to lớn sẽ chuốc lấy bại vong.
Gương lịch sử còn đó, Vua Lê Cảnh Hưng biết chịu đựng, có thể ngồi lặng ở ngôi 46 năm. Đó là Tiểu trinh cát. Vua Lê Chiêu Thống vì muốn thanh toán họ Trịnh và nhà Nguyễn Tây Sơn, nên đã mang hận táng thân nơi đất khách.. Đó là Đại trinh hung.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 : 乘 馬 班 如,泣 血 漣 如。象 曰:泣 血 漣 如,何 可 長 也
Thượng Lục. Thừa mã ban như. Khấp huyết liên như.
Tượng viết:
Khấp huyết liên như. Hà khả trường dã.
Dịch.
Cưỡi ngựa dùng dằng, khôn tiến bước,
Huyết lệ đôi dòng chẩy chẳng thôi
Tượng rằng: Huyết lệ tuôn rơi.
Làm sao có thể lâu dài mà mong.
Như gặp thời vận quá suy, mà mình lại tài hèn, sức bạc, làm sao cứu vãn được cơ trời. Thế là rỏ huyết lệ ngồi nhìn cảnh suy vong. Thơ rằng:
Muốn nói nhưng mà nói với ai?
Muốn làm, ai kẻ bạn đường đời!
Gia vong, quốc phá, niềm thương hận,
Huyết lệ đôi dòng gửi khúc nhôi !
ÁP DỤNG QUẺ TRUÂN VÀO THỜI ĐẠI
Quẻ Truân nói lên tình trạng Truân chuyên (khó khăn) lúc ban đầu của những người muốn lập sự nghiệp.
I. Những người muốn dùng Chính trị làm sự nghiệp.
Khi nếp sống ở nơi định cư đã được yên ổn, thì con người bắt đầu nghĩ đến xây dựng lại sự nghiệp đã mất.
Có người vì muốn bảo vệ cho đồng bào ruột thịt của mình được hữu hiệu, nên họ đã nghĩ cách chen chân vào chính quyền của dân bản xứ, họ đầu đơn ứng cử nghị viên, dân biểu vv... Họ thành công hay thất bại không quan trọng, nhưng quan trọng nhất là họ đã đi đúng đường, vì họ có mục tiêu rõ rệt là nếu thành công họ có thể bảo vệ đồng bào của họ một cách đường hoàng, hữu hiệu nơi xứ người.
Nhưng lại có 1 số người khác, không có chính kiến, hay lập trường gì rõ rệt, nhưng lại thích làm chính trị, thích a dua theo bè phái, họ theo mà không rõ theo cái gì?
Họ sống trong mộng ảo là có thể nhờ tụ họp bè nọ, phái kia, may ra có thể tiến hơn. Những người này là những người rất dễ bị bọn Hoạt đầu chính trị, tham tâm, mưu lợi, lợi dụng họ. Họ chỉ theo vì a dua, chứ không bao giờ chịu suy nghĩ rằng: những người muốn cầm đầu mình, lơi dụng mình đó, thực ra họ có tài năng, đức độ, kinh nghiệm không? và họ có chính kiến gì không? Nơi đây có môi trường gì để họ hoạt động? Nếu có, thì chính kiến của họ đúng hay sai? Nếu không có, thì hoạt động sẽ đi đến đâu?
Thực ra, trên đời này Làm chính trị đâu có dễ. Người có tâm huyết làm Cách Mạng như cụ Phan Bội Châu, được dân kính mến, cũng đành thúc thủ, huống chi những người không có chút tiếng tăm, hoặc tài năng gì. Hơn nữa ở nơi xứ người đâu có môi trường làm chính trị? Cho nên, nếu ta nhẹ dạ, nghe theo lời họ, thì không biết sẽ còn đi đến đâu, nếu ta theo họ mà làm điều gì quá đáng. Sự thật, cầm đầu một gia đình còn khó, huống hồ làm việc đại sự.
II. Những người gây dựng sự nghiệp bằng thương mại.
A. Người có tài thực sự, nhưng lại thiếu người cộng tác. Những người này phải đi tìm người cộng tác, phải chịu trả lương cao để kéo người giỏi về mình. Nhưng nếu họ kiêu ngạo, coi rẻ, bóc lột tài năng người cộng tác, thì cũng chẳng đi tới đâu. Sự nghiệp của họ nếu thành công đi chăng nữa, thì sự thành công đó cũng không vững bền.
B. Người không có tài, nhưng lại có chí muốn gây dựng sự nghiệp. Những người này sẽ thành công, nếu họ biết tìm người tài năng hơn họ, biết cư xử khéo để lấy lòng người. Những người này, họ biết mình kém tài, thua kém người mà họ mời về cộng tác, nên họ không hợm hĩnh, kiêu ngạo, nếu họ lại tỏ ra rộng rãi với người cộng tác với họ, thì chắc chắn họ sẽ thành công. Tóm lại, Sự thành công ở đời không phải do tại số, hay do may mắn, mà phải nói thành công ở đời, ít nhất cũng phải tài giỏi về một phương diện nào đó vậy.
III. Người gây dựng sự nghiệp bằng sự chuyên cần học hành, nghiên cứu của mình.
Những người này là những người có óc thực tế, Họ biết lợi dụng sự giúp đỡ của chính quyền nước bạn, của sự thông minh, của sự chuyên cần nơi chính bản thân họ, để đạt đến mục đích của họ. Họ đã rất vất vả lúc ban đầu (có khi kéo dài cả 10 năm), vừa đi làm, vừa đi học; và nay đã có nhiều người, đã chiếm được địa vị khả quan trong xã hội người bản xứ. Nhiều người, trong số những người này đang đi vào con đường phát minh, nghiên cứu, ngõ hầu có thể mang tài năng mình ra để phụng sự cho nhân loại, cho dân tộc. Họ là những người đáng cho ta kính trọng, và xứng đáng là người dẫn dắt cho con em chúng ta mai sau. Họ là người biết dùng thời gian, biết xử dụng tài năng, biết xây dựng sự nghiệp cho mình một cách đúng cách.
IV. Những người xây dựng bằng sự nghiệp văn chương.
Những người này như con tầm nhả tơ, mang hết óc chất của mình ra để tạo ra những áng thơ, văn hoặc những sưu tầm nghiên cứu của mình, lòng chỉ mong có thể mang lại lợi ích gì cho thế hệ mai sau, nhưng như 2 câu thơ sau:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như.
(Ba trăm năm sau còn ai khóc Tố Như (Nguyễn Du)
Nhưng, những áng thơ gợi hình, gợi cảnh của truyện Kiều, khó làm ta quên được. Vẫn biết Văn chương hạ giới rẻ như bèo, nhưng những người cầm bút chân chính, vẫn không sao bỏ nghề được. Phải chăng đó là cái Nghiệp?
Chúng ta, những người đã đi, đang đi, và sắp đi vào con đường xây dựng sự nghiệp ở trên, mong rằng hãy suy nghĩ kỹ càng, rồi mới hành sự, cũng chưa muộn vậy.
THỦY LÔI TRUÂN
Truân Tự Quái
屯 序 卦
Hữu thiên địa.
有 天 地
Nhiên hậu vạn vật sinh yên.
然 後 萬 物 生 焉。
Doanh thiên địa chi
盈 天 地 之
Gian giả duy vạn vật.
間 者 唯 萬 物
Cố thụ chi dĩ Truân.
故 受 之 以 屯
Truân giả doanh dã.
屯 者 盈 也
Truân Tự Quái
Đất trời rồi mới quần sinh.
Quần sinh đầy dẫy, quán doanh đất trời.
Truân là sơ khởi pha phôi.
Truân là muôn vật sinh sôi tràn đầy.
Truân là vạn vật chào đời.
Truân có hai nghĩa: 1. Là đầy dẫy. 2. Truân chiên vất vả. Truân, nếu là thời kỳ đất trời vừa thoạt giao nhau, làm cho vạn vật nẩy sinh đầy dẫy khắp nơi, nhưng chính vì Âm Dương vừa thoạt giao nhau, nên sinh khí còn uất kết, chưa thông suốt.
Truân tượng trưng cho bước truân chiên (truân chuyên) thuở ban đầu, quẻ Truân là hoạt động trong nguy hiểm.
Truân đối với vũ trụ, là thời kỳ thiên địa sơ khai, vạn vật bắt đầu sinh. Truân đối với cá nhân, là lúc sơ sinh, ấu trĩ. Truân đối với quốc gia là thời kỳ khai quốc, sáng nghiệp . . .
Truân là thời kỳ gian nan, vất vả lúc ban đầu, khác với Kiển là gian nan lúc giữa cuộc, khác với Khốn là khốn khổ lúc chung cuộc, khác với Khảm là gian nan, hoạn nạn nói chung.
I. Thoán.
Thoán Từ:
屯:元,亨,利,貞,勿用,有 攸 往,利 建 侯。
Truân. Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Vật dụng hữu du vãng. Lợi kiến hầu
Dịch.
Truân chiên vất vả lúc ban đầu.
Nhưng sẽ hanh thông vận hội sau,
Phải biết bền gan đừng vọng động
Tìm người trợ giúp, ích bền lâu.
Tuy nhiên, dầu có gian nan, nhưng rồi ra các trở ngại sẽ như băng tan, tuyết tán, các rối ren sẽ được tháo gỡ, mọi chuyện éo le, trắc trở, nhờ tài kinh luân của con người biết tạo thời thế sẽ được giải quyết êm xuôi.
Thoán Truyện viết:
屯,剛 柔 始 交 而 難 生,動 乎 險 中,大 亨 貞。雷 雨 之 動 滿 盈,天 造 草 昧,宜 建 侯 而 不 寧。
Truân cương nhu thủy giao nhi nạn sinh. Động hồ hiểm chung. Đại hanh trinh. Lôi vũ chi động mãn doanh. Thiên tạo thảo muội. Nghi kiến hầu nhi bất ninh.
Dịch.
Thoán rằng:
Cương, nhu vừa mới giao nhau
Truân chuyên, trắc trở bắt đầu nẩy sinh.
Mưu đồ giữa buổi điêu linh,
Bền gan sẽ thấy tiền trình hanh thông.
Mưa rơi, sấm động trập trùng,
Muôn loài nhờ đó tưng bừng nẩy sinh.
Vận trời rối rắm, u minh,
Tìm người phụ bật, riêng mình chớ ngơi.
Cho nên, thấy khó khăn đừng vội thất vọng, mà phải biết một dạ sắt son, giữ cho tròn Đạo lý, phải lo tìm cách gỡ rối, lo tìm người đồng tâm, đồng chí chung sức tái tạo non sông. Phương châm hoạt động lúc này, là phải biết tìm ra nguyên nhân của rối ren, tao loạn, hoạch định những phương sách phò nguy, cứu khổ cho rõ ràng, tìm người phụ bật cho hay, lựa thời thế thuận tiện, mới ra tay lèo lái, chớ đừng nhắm mắt làm liều.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰: 云,雷,屯 . 君 子 以 經 綸。
Tượng viết:
Vân lôi. Truân. Quân tử dĩ kinh luân.
Dịch.
Tượng rằng: Mây, Sấm là Truân,
Hiền nhân phải biết kinh luân, mới tài.
Gặp buổi truân chiên, quân tử hãy ra tay gỡ rối, phải dùng hết trí lực, tài ba mà lo xoay chiều thế cuộc.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.
1. Hào Sơ Cửu.
初 九: 磐 桓 , 利 居 貞,利 建 侯。
象 曰: 雖 磐 桓,志 行 正 也。以 貴 下 賤,大 得 民 也。
Sơ Cửu. Bàn hoàn. Lợi cư trinh. Lợi kiến hầu.
Tượng viết:
Tuy bàn hoàn. Chí hành chính dã. Dĩ quí hạ tiện. Đại đắc dân dã.
Dịch.
Hào Sơ, dùng dắng, ngỡ ngàng,
Hay thay, chính Đạo tâm xoang chẳng rời,
Hay thay, phụ bật gặp người.
Tượng rằng:
Dùng dắng, ngỡ ngàng,
Nhưng mà chính Đạo quyết mang thi hành.
Phẩm cao mà lại hạ mình,
Quí người bề dưới, dân tình vui theo.
Gặp buổi truân chiên, nếu mình có chân tài, lại khôn ngoan, cương quyết, biết chiêu hiền đãi sĩ, biết hạ mình phục vụ dân, cố chinh phục lòng dân, thì sẽ có ngày lãnh đạo được dân.
2. Hào Lục nhị.
六 二: 屯 如 邅 如,乘 馬 班 如。匪 寇 婚 媾,
女 子 貞 不 字,十 年 乃 字。
象 曰: 六 二 之 難,乘 剛 也。 十 年 乃 字,反 常 也。
Lục nhị: Truân như chiên như. Thừa mã ban như.
Phỉ khấu hôn cấu. Nữ tử trinh bất tự. Thập niên nãi tự.
Tượng viết:
Lục nhị chi nạn. Thừa cương dã. Thập niên nãi tự. Phản thường dã.
Dịch.
Truân Lục nhị như quanh, như quẩn,
Ngựa cỡi rồi, dùng dắng chẳng đi,
Đó đành chẳng phải gian phi,
Cùng ta những muốn sính kỳ duyên may.
Nhưng trinh trắng, gái này đã quyết,
Quyết bền gan, tiết liệt chờ ai,
Mười năm ta vẫn chờ người.
Tượng rằng:
Hào nhị gặp gian nan,
Là vì lâm cảnh cưỡi Dương cương.
Mười năm nếu biết chờ phối ngẫu,
Rồi ra vận số sẽ như thường.
Nếu mình là người có tài đức, xứng đáng là bậc lương đống quốc gia sau này, hãy biết bền gan chờ minh chúa, chớ đừng nghe lời dụ dỗ, chào mời của những kẻ tá ơn.
3. Hào Lục tam.
六 三: 既 鹿 無 虞,惟 入 于 林 中,君 子 几 不 如 舍,往 吝。
象 曰: 既 鹿 無 虞,以 縱 禽 也。君 子 舍 之,往 吝 窮 也。
Lục tam: Tức lộc vô ngu. Duy nhập vu lâm trung.
Quân tử cơ. Bất như xả. Vãng lận.
Tượng viết:
Tức lộc vô ngu. Dĩ tùng cầm dã. Quân tử xả chi. Vãng lận cùng dã.
Dịch.
Săn hươu thiếu kẻ thuộc đường rừng,
Xông xáo rừng sâu lạc ở trong,
Quân tử thấy thời chưa thuận tiện,
Cho nên dùng dắng, chửa ra công.
Nếu đi liều lĩnh lung tung,
Làm sao tránh khỏi uổng công, nhọc lòng.
Tượng rằng:
Săn hươu thiếu kẻ thuộc đường rừng,
Cũng bởi ham mồi ruổi tứ tung,
Quân tử biết thời, không ruổi bắt,
Ruổi rong âu chỉ tổ hoài công.
Những người bất tài, lại không người phụ bật, mà lại tham danh, tham lợi, không biết gì thời thế mà đòi nhảy ra khua môi, múa mỏ, vỗ ngực vì nước, vì dân, phò nguy, cứu khổ, chắc là đi đến chỗ thất bại. . .
4. Hào Lục tứ.
六 四 : 乘 馬 班 如,求 婚 媾,無 不 利 。
象 曰: 求 而 往,明 也。
Lục tứ. Thừa mã ban như. Cầu hôn cấu. Vãng cát. Vô bất lợi.
Tượng viết:
Cầu nhi vãng. Minh dã.
Dịch.
Cưỡi ngựa dùng dằng, chưa muốn bước,
Cố tìm cho được hảo hôn nhân,
Tế Truân lý hiểm, xoay vận nước,
Rồi ra mọi sự sẽ êm dầm.
Tượng rằng: Một dạ cầu hiền,
Rồi ra hóa giải truân chuyên cho đời.
Thế là sáng suốt mấy mươi.
Có những người giữ địa vị cao trong chính trường, nhưng bất tài. Nhưng nếu họ thực lòng vì dân, vì nước, biết hạ mình cầu hiền, cố tìm cho ra những người hay, người giỏi, để cùng mình cộng tác, như vậy cũng là một hành động khôn ngoan cho đất nước.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 : 屯 其 膏,小 貞 吉,大 貞 凶。
象 曰: 屯 其 膏,施 未 光 也。
Cửu ngũ. Truân kỳ cao. Tiểu trinh cát. Đại trinh hung.
Tượng viết:
Truân kỳ cao. Thi vị quang dã.
Dịch.
Truân muốn thi ân cũng khó lòng.
Từ từ chỉnh đốn, mới nên công,
Thế hiểm mà toan mưu đại sự.
Tránh sao cho khỏi những điều hung.
Tượng rằng: Thi ân mà cũng khó lòng,
Nghĩa là chưa được quảng thông xa gần.
Làm đầu một nước, nhiều khi cũng chẳng nắm trọn quyền, đôi khi cũng chẳng ảnh hưởng đến đời, đến dân được bao lăm. Đó là trường hợp na ná như vua Lê, chúa Trịnh nước ta: Vua ở ngôi, Chúa nắm quyền (Thiên hạ phân qui nhị chủ). Nhà vua có thể là người có tài đức, nhưng quần thần, thủ túc, không ai là kẻ có tài. Trong trường hợp này, nhà vua nên nhẫn nhục, làm những công việc nho nhỏ, mới có cơ bền vững. Còn muốn làm những chuyện to lớn sẽ chuốc lấy bại vong.
Gương lịch sử còn đó, Vua Lê Cảnh Hưng biết chịu đựng, có thể ngồi lặng ở ngôi 46 năm. Đó là Tiểu trinh cát. Vua Lê Chiêu Thống vì muốn thanh toán họ Trịnh và nhà Nguyễn Tây Sơn, nên đã mang hận táng thân nơi đất khách.. Đó là Đại trinh hung.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 : 乘 馬 班 如,泣 血 漣 如。象 曰:泣 血 漣 如,何 可 長 也
Thượng Lục. Thừa mã ban như. Khấp huyết liên như.
Tượng viết:
Khấp huyết liên như. Hà khả trường dã.
Dịch.
Cưỡi ngựa dùng dằng, khôn tiến bước,
Huyết lệ đôi dòng chẩy chẳng thôi
Tượng rằng: Huyết lệ tuôn rơi.
Làm sao có thể lâu dài mà mong.
Như gặp thời vận quá suy, mà mình lại tài hèn, sức bạc, làm sao cứu vãn được cơ trời. Thế là rỏ huyết lệ ngồi nhìn cảnh suy vong. Thơ rằng:
Muốn nói nhưng mà nói với ai?
Muốn làm, ai kẻ bạn đường đời!
Gia vong, quốc phá, niềm thương hận,
Huyết lệ đôi dòng gửi khúc nhôi !
ÁP DỤNG QUẺ TRUÂN VÀO THỜI ĐẠI
Quẻ Truân nói lên tình trạng Truân chuyên (khó khăn) lúc ban đầu của những người muốn lập sự nghiệp.
I. Những người muốn dùng Chính trị làm sự nghiệp.
Khi nếp sống ở nơi định cư đã được yên ổn, thì con người bắt đầu nghĩ đến xây dựng lại sự nghiệp đã mất.
Có người vì muốn bảo vệ cho đồng bào ruột thịt của mình được hữu hiệu, nên họ đã nghĩ cách chen chân vào chính quyền của dân bản xứ, họ đầu đơn ứng cử nghị viên, dân biểu vv... Họ thành công hay thất bại không quan trọng, nhưng quan trọng nhất là họ đã đi đúng đường, vì họ có mục tiêu rõ rệt là nếu thành công họ có thể bảo vệ đồng bào của họ một cách đường hoàng, hữu hiệu nơi xứ người.
Nhưng lại có 1 số người khác, không có chính kiến, hay lập trường gì rõ rệt, nhưng lại thích làm chính trị, thích a dua theo bè phái, họ theo mà không rõ theo cái gì?
Họ sống trong mộng ảo là có thể nhờ tụ họp bè nọ, phái kia, may ra có thể tiến hơn. Những người này là những người rất dễ bị bọn Hoạt đầu chính trị, tham tâm, mưu lợi, lợi dụng họ. Họ chỉ theo vì a dua, chứ không bao giờ chịu suy nghĩ rằng: những người muốn cầm đầu mình, lơi dụng mình đó, thực ra họ có tài năng, đức độ, kinh nghiệm không? và họ có chính kiến gì không? Nơi đây có môi trường gì để họ hoạt động? Nếu có, thì chính kiến của họ đúng hay sai? Nếu không có, thì hoạt động sẽ đi đến đâu?
Thực ra, trên đời này Làm chính trị đâu có dễ. Người có tâm huyết làm Cách Mạng như cụ Phan Bội Châu, được dân kính mến, cũng đành thúc thủ, huống chi những người không có chút tiếng tăm, hoặc tài năng gì. Hơn nữa ở nơi xứ người đâu có môi trường làm chính trị? Cho nên, nếu ta nhẹ dạ, nghe theo lời họ, thì không biết sẽ còn đi đến đâu, nếu ta theo họ mà làm điều gì quá đáng. Sự thật, cầm đầu một gia đình còn khó, huống hồ làm việc đại sự.
II. Những người gây dựng sự nghiệp bằng thương mại.
A. Người có tài thực sự, nhưng lại thiếu người cộng tác. Những người này phải đi tìm người cộng tác, phải chịu trả lương cao để kéo người giỏi về mình. Nhưng nếu họ kiêu ngạo, coi rẻ, bóc lột tài năng người cộng tác, thì cũng chẳng đi tới đâu. Sự nghiệp của họ nếu thành công đi chăng nữa, thì sự thành công đó cũng không vững bền.
B. Người không có tài, nhưng lại có chí muốn gây dựng sự nghiệp. Những người này sẽ thành công, nếu họ biết tìm người tài năng hơn họ, biết cư xử khéo để lấy lòng người. Những người này, họ biết mình kém tài, thua kém người mà họ mời về cộng tác, nên họ không hợm hĩnh, kiêu ngạo, nếu họ lại tỏ ra rộng rãi với người cộng tác với họ, thì chắc chắn họ sẽ thành công. Tóm lại, Sự thành công ở đời không phải do tại số, hay do may mắn, mà phải nói thành công ở đời, ít nhất cũng phải tài giỏi về một phương diện nào đó vậy.
III. Người gây dựng sự nghiệp bằng sự chuyên cần học hành, nghiên cứu của mình.
Những người này là những người có óc thực tế, Họ biết lợi dụng sự giúp đỡ của chính quyền nước bạn, của sự thông minh, của sự chuyên cần nơi chính bản thân họ, để đạt đến mục đích của họ. Họ đã rất vất vả lúc ban đầu (có khi kéo dài cả 10 năm), vừa đi làm, vừa đi học; và nay đã có nhiều người, đã chiếm được địa vị khả quan trong xã hội người bản xứ. Nhiều người, trong số những người này đang đi vào con đường phát minh, nghiên cứu, ngõ hầu có thể mang tài năng mình ra để phụng sự cho nhân loại, cho dân tộc. Họ là những người đáng cho ta kính trọng, và xứng đáng là người dẫn dắt cho con em chúng ta mai sau. Họ là người biết dùng thời gian, biết xử dụng tài năng, biết xây dựng sự nghiệp cho mình một cách đúng cách.
IV. Những người xây dựng bằng sự nghiệp văn chương.
Những người này như con tầm nhả tơ, mang hết óc chất của mình ra để tạo ra những áng thơ, văn hoặc những sưu tầm nghiên cứu của mình, lòng chỉ mong có thể mang lại lợi ích gì cho thế hệ mai sau, nhưng như 2 câu thơ sau:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như.
(Ba trăm năm sau còn ai khóc Tố Như (Nguyễn Du)
Nhưng, những áng thơ gợi hình, gợi cảnh của truyện Kiều, khó làm ta quên được. Vẫn biết Văn chương hạ giới rẻ như bèo, nhưng những người cầm bút chân chính, vẫn không sao bỏ nghề được. Phải chăng đó là cái Nghiệp?
Chúng ta, những người đã đi, đang đi, và sắp đi vào con đường xây dựng sự nghiệp ở trên, mong rằng hãy suy nghĩ kỹ càng, rồi mới hành sự, cũng chưa muộn vậy.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
4 THỦY HỎA KÝ TẾ
THỦY HỎA KÝ TẾ
Ký Tế Tự Quái
既 濟 序 卦
Hữu quá vật giả tất tế.
有 過 於 物 必 濟
Cố thụ chi dĩ Ký Tế.
故 受 之 以 既 濟
Ký Tế Tự Quái
Nếu như xuất chúng, hoàn thành có phen.
Cho nên Ký Tế tương liên.
Sau quẻ Tiểu Quá là quẻ Ký Tế, vì hễ mình có cái gì hơn người, rồi ra sẽ giúp được người, sẽ làm nên chuyện.
- Ký Tế có nghĩa là Công việc đã hoàn thành,là Tình hình đã ổn định. Y thức như đã vượt qua được con sông lớn.
-Ký Tế là Thủy Hỏa giao nhau, giúp nhau để làm nên công trình: nước ở trên, lửa ở dưới, thời lửa sẽ đun sôi được nước.
-Hơn nữa, Ký Tế là quẻ duy nhất trong 64 quẻ Dịch, có các Hào Âm, Dương tương ứng với nhau, và đúng vị trí của nó.
-Ký Tế còn là quẻ 63 gợi lên ý nghĩa rằng, vũ trụ biến thiên, thế giới biến thiên, vạn hữu biến thiên. Cuối cùng phải đi tới một chung cuộc tốt đẹp.
Muốn giải quẻ Ký Tế, ta chỉ cần hiểu Ký Tế là khi tình thế đã ổn định, như vậy sẽ biết được tình hình, thời cuộc, và cách xử sự của mỗi một hạng người trong quẻ này.
I. Thoán.
Thoán từ.
既 濟 . 亨 . 小利 貞 . 初 吉 終 亂 .
Ký Tế. Hanh tiểu. Lợi trinh. Sơ cát chung loạn.
Dịch.
Ký Tế là lúc đại thành,
Bây giờ đại sự đã hanh thông rồi.
Lo tròn những việc nhỏ nhoi,
Bền lòng, giữ vững cơ ngơi mới tình,
Mới đầu, mọi sự tốt lành,
Sau cùng, có thể điêu linh ly loàn.
Ký Tế là thời kỳ ổn định, đại cuộc đã thành toàn, nhưng những tiểu sự, tiểu tiết thì còn vô số để làm, vì thế nói: Ký Tế. Hanh tiểu. Thời buổi này cũng vẫn còn phải theo con đường minh chính, cũng vẫn phải bền gan trì thủ, mới hay, mới lợi (Lợi trinh). Vả lại, buổi đầu hiện nay thì dĩ nhiên là hay (Sơ cát), nhưng biết đâu cuối cùng lại chẳng loạn ly, lại chẳng nhiễu nhương rối rắm (Chung loạn).
Thoán Truyện. Thoán viết.
彖 曰 . 既 濟 . 亨 . 小 者 亨 也 . 利 貞 . 剛 柔 正 而 位 當 也 . 初 吉 . 柔 得 中 也 . 終 止 則 亂 . 其 道 窮 也 .
Ký Tế. Hanh. Tiểu giả hanh dã. Lợi trinh. Cương nhu chính nhi vị đáng dã. Sơ cát. Nhu đắc trung dã. Chung chỉ tắc loạn. Kỳ đạo cùng dã.
Dịch. Thoán rằng:
Ký Tế là lúc đại thành,
Bây giờ, đại sự đã hanh thông rồi.
Lo tròn những việc nhỏ nhoi.
Rồi ra sẽ được vẹn mười hanh thông.
Bền gan, minh chính một lòng,
Rồi ra công việc mới mong lợi nhiều.
Cương nhu, hợp chỗ, hợp chiều,
Vị ngôi đâu đấy, đủ điều hẳn hoi.
Mới đầu, mọi việc êm xuôi,
Là vì nhu được chính ngôi chững chàng.
Sau rồi, thôi chuyện lo toan,
Vì ngừng gắng gỏi, ly loàn lại sinh.
Thoán Truyện chỉ hoàn toàn giải thích Thoán Từ:
1. Thế nào là Hanh tiểu? Hanh tiểu là còn những việc nhỏ phải thực hiện sao cho thông suốt hẳn hoi. Đại cuộc tuy xong, nhưng tiểu tiết còn nhiều điều chếch mác, phải sửa sang lại cho toàn vẹn.
Các nhà Cách Mạng đều chủ trương như vậy. Sau khi cướp được chính quyền, Staline chủ trương đại khái rằng:
-Cướp chính quyền, mới là bước đầu.
-Giai cấp tư sản tuy bị lật đổ, nhưng vẫn còn mạnh hơn giai cấp vô sản, cho nên cần phải:
-Giữ được chính quyền.
-Củng cố chính quyền.
-Làm cho chính quyền trở nên hùng mạnh, vô địch.
Muốn đạt được mục phiêu ấy, Vô sản còn 3 việc phải làm là:
1. Bẻ gẫy sự chống đối của giai cấp Tư sản, Phú nông, đồng thời dẹp tan mọi âm mưu của Tư sản, để cướp lại chính quyền.
2. Tổ chức binh bị, sắm sanh khí giới, để chống ngoại xâm, và đấu tranh với Đế quốc chủ nghĩa.
Ngoài ra, còn phải giáo dục lại quần chúng, nông dân, địa chủ, công chức, trí thức v . v . . .
Ngự Án thì cho rằng: Sau khi tình hình đã ổn định, còn có 2 việc phải làm.
1. Chế trị : Tổ chức công cuộc cai trị.
2. Bảo bang: Bảo vệ đất nước.
2. Tại sao lại Lợi trinh? Lợi trinh, vì mọi người đều xứng ngôi, xứng vị (Cương nhu chính nhi vị đáng dã). Xử dụng cho hay, cho phải, vài ba chục người là chuyện dễ, nhưng xử dụng cho hay, cho phải, trăm, ngàn, triệu người trong một nước, không phải là chuyện chơi. Cho nên Ký Tế đòi hỏi một nghệ thuật cao, một công phu dầy vậy.
3. Tại sao Sơ Cát? Bắt đầu thì tốt, vì lúc bấy giờ mọi người còn đang hăng hái, nhu thuận, văn minh (vì quẻ dưới là Ly), và lại đắc trung (Sơ cát . Nhu đắc trung dã)
4. Tại sao Chung loạn? Chung loạn vì lòng người đã trở nên ù lì, thích hưởng thụ, an nhàn hơn là cố gắng lao tác (Chung chỉ tắc loạn). Mà đã không cố gắng, đã để cho tình hình trở nên rối rắm, thì làm gì còn được an bình, ổn định và Ký Tế nữa (Kỳ đạo cùng dã).
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết.
象 曰 . 水 在 火 上 . 既 濟 . 君 子 以 思 患 而 預 防 之 .
Thủy Hỏa tại thượng. Ký Tế. Quân tử dĩ tư hoạn nhi dự phòng chi.
Dịch. Tượng rằng:
Lửa dưới, nước trên,
Ấy là Ký Tế, là nên việc rồi,
Người hiền thấy vậy, lo đời,
Đề phòng hoạ hoạn, tương lai mới là ...
Ký Tế là lúc Thủy Hỏa tương tế, nhân tình tương hòa, tương thân, tương trợ. Nhưng chính lúc ấy, Thánh nhân lại dạy quân tử phải lo đề phòng họa hoạn. Chủ trương Cư an, tư nguy, luôn được Dịch kinh và Nho Giáo đề cao.
Có thể nói được Dịch Kinh đề cao chủ trương: Sinh ư ưu hoạn. Tử ư an lạc. Biết lo lắng, biết chịu thương, chịu khó mới sống. Nhơn nhơn du hý, hưởng lạc, cầu an sẽ chết. Đọc quẻ Ký Tế, càng thấy hiện rõ ràng tư tưởng ấy.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 曳 其 輪 . 濡 其 尾 . 無 咎 .
象 曰 . 曳 其 輪 . 義 無 咎 也 .
Sơ Cửu.
Duệ kỳ luân. Nhu kỳ vĩ. Vô cữu.
Tượng viết.
Duệ kỳ luân. Nghĩa vô cữu dã.
Dịch.
E dè thắng bớt bánh xe,
Hồ kia đuôi ướt, ngại bề lội sông.
Thế thời mới khỏi lỗi lầm.
Tượng rằng:
Thắng bớt bánh xe,
Vì không nóng nẩy, hết bề lầm sai.
Sơ Cửu. Lúc này là lúc thời cơ mới thuận tiện, hoàn cảnh có mòi dễ dàng, nhưng người quân tử không phải vì thế mà bớt sự thận trọng thường lệ. Y thức như cái bánh xe, có khi phải bớt thắng lại; hay như con hồ hễ ướt đuôi, thời đâm ngại ngùng, không dám vội sang sông. Xe xuống giốc, mà không thắng, có khi tai nạn. Hồ qua sông, mà không e dè, có khi lâm nguy. Người hành động không phòng bị, có lúc mắc hoạ. (Duệ kỳ luân. Nhu kỳ vĩ. Vô cữu). Sơ hoạt động, nhưng không nên nóng, như người đi xe, có lúc phải thắng bớt xe lại, như vậy theo lẽ là phải, có gì đáng trách đâu (Duệ kỳ luân. Nghĩa vô cữu dã).
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 婦 喪 其 茀 . 勿 逐 . 七 日 得 .
象 曰 . 七 日 得 . 以 中 道 也 .
Lục nhị.
Phụ táng kỳ phất. Vật trục . Thất nhật đắc.
Tượng viết:
Thất nhật đắc. Dĩ trung đạo dã.
Dịch.
Phu nhân đánh mất rèm xe,
Khỏi tìm, bảy bữa của về lại tay.
Tượng rằng: Bảy bữa được rèm,
Là vì trung chính, giữ nguyên chẳng rời.
Lục nhị. Xưa, đàn bà đi xe phải có rèm che. Nay rèm mất, thể theo nghi lễ chẳng nên đi xe, mà cũng chẳng nên chạy đi tìm rèm, vì như vậy còn có thể thống gì. Rèm mất rồi ra lại tìm được. Hào này ám chỉ một công thần có đức, một lương tướng có tài, nhưng vì nay là lúc tình thế đã ổn định rồi, nên tài mình không có chỗ dụng, vua ở trên tỏ ra ơ hờ, không còn vồn vã, không còn cần dùng mình nữa.
Công thần, lương tướng gặp hoàn cảnh này, chớ nên tỏ ra cầu cạnh sự sủng ái của vua, vì như vậy vừa mất thể diện, vừa có thể nguy hiểm đến thân. Hãy đợi thời, có lúc vua lại cần mình, lại triệu vời mình. Người xưa có câu:
Điểu phi tận. Lương cung tàn.
Giảo thố tử. Tẩu cẩu phanh.
Dịch:
Chim bay mà chết, ná quăng.
Thỏ khôn mà chết, chó săn tàn đời.
Sau khi dẹp xong Hạng Võ, Hán Cao Tổ lập mưu bắt Sở vương Hàn Tín về giam lỏng ở Hàm Dương, lại truất xuống làm Hoài Âm Hầu. Một hôm Bái Công triệu Hàn Tín vào triều để hỏi về khả năng của các tướng tá, cốt là dò xem ý tứ Hàn Tín ra sao? Khi vui chuyện, Hàn Tín cho rằng Hán Cao Tổ có thể cầm được mười vạn quân, còn riêng ông càng nhiều quân ông càng dễ điều khiển. Có người cho rằng vì Hàn Tín khoe tài như thế, mà sau này Hàn Tín bị giết. Ít lâu sau, Lương Vương Bành Việt, cũng bị Bái Công bắt về phế xuống làm dân, đày đi Ba Thục.
Giữa đường Bành Việt gặp Lã Hậu. Ông năn nỉ Lã Hậu xin can thiệp giúp. Lã Hậu hứa giúp, và khiến Bành Việt theo trở về triều, Về tới triều, Lã Hậu nói với Hán Vương rằng: Tha Bành Việt là thả hổ về rừng, cần phải tìm cớ mà giết để trừ hậu hoạn. Thế là chẳng những Bành Việt bị chết chém, mà thi thể còn bị đem làm mắm, để gửi cho chư tướng. Tóm lại:
- Có rèm che, phụ nữ mới nên ra ngoài.
- Có sự tin cẩn của vua, lương tướng mới nên hoạt động.
Thất nhật đắc là tại sao? Tới thời cần đến lương tướng, nhà vua sẽ đổi giọng, đổi thái độ ngay. Tiết Nhân Quí đang bị giam nơi thiên lao. Khi cần người đi Chinh Tây, vua Thái Tông liền truyền thả Tiết Nhân Quí, rồi phong làm Đại nguyên súy như cũ.
Cho nên Tượng Truyện bàn thêm rằng: Mình gặp lúc thất sủng, cứ xử sự cho phải, rồi ra có ngày cờ lại đến tay. (Thất nhật đắc. Dĩ trung đạo dã).
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 高 宗 伐 鬼 方 . 三 年 克 之 . 小 人 勿 用 .
象 曰 . 三 年 克 之 . 憊 也
Cửu tam.
Cao Tông phạt Quỉ phương. Tam niên khắc chi. Tiểu nhân vật dụng.
Tượng viết:
Tam niên khắc chi. Bại dã.
Dịch.
Cao Tông, đánh xứ Quỉ Phương,
Ba năm chinh chiến, nhiễu nhương mới rồi.
Tiểu nhân nên gạt ra ngoài,
Viễn chinh, xin chớ dùng người tiểu nhân.
Tượng rằng:
Ba năm mới dẹp được xong,
Thật là mệt mỏi, nhọc lòng lắm thay.
Cao Tông phạt Quỉ phương là vua Vũ Đinh nhà Thương đi đánh Hung nô ở phía Bắc. Các vua, khi nội trị đã ổn định, thường tính ch uyện củng cố đất nước, ngăn chặn ngoại xâm, bằng cách đi chinh phục các nước lân bang. Công việc này không có dễ, vua Cao Tông phải mất ba năm mới chinh phục được Hung Nô (Cao Tông phạt Quỉ phương. Tam niên khắc chi).
Ngày nay, khi mà thế cuộc không cho phép ngoại xâm, thì các nhà lãnh đạo lo liên minh với các nước láng giềng. Dịch khuyên không nên dùng Tiểu nhân để chinh phục hay cai trị, vì tiểu nhân là mầm phiến loạn (Tiểu nhân vật dụng). Tam niên khắc chi bại dã, là nói ba năm mới thắng, ý nói phải vất vả nhiều mới thắng được.
4. 六 四 . 繻 有 衣 袽. 終 日 戒 .
象 曰. 終 日 戒 . 有 所 疑 也 .
Hào Lục tứ. Lục tứ.
Nhu hữu y như. Chung nhật giới.
Tượng viết: Chung nhật giới. Hữu sở nghi dã.
Dịch.
Sắm sanh những dẻ, cùng nùi,
Phòng khi thuyền thủng, thời bồi, thời tra.
Suốt ngày, phòng bị âu lo.
Tượng rằng:
Suốt ngày phòng bị âu lo,
Là vì trong dạ nghi ngờ chẳng yên.
Hào Lục tứ lại dạy phải quan phòng. Đi thuyền phải chuẩn bị nùi dẻ (Y như), để khi thuyền thủng (Nhu), có mà chét. Thế là suốt ngày phải lo lắng đề phòng (Chung nhật giới. Hữu sở nghi dã).
5. Hào Cửu ngũ.
九 五. 東 鄰 殺 牛 . 不 如 西 鄰 之 祭 . 實 受 其 福 .
象 曰 . 東 鄰 殺 牛 . 不 如 西 鄰 之 時 也 . 實 受 其 福 . 吉 大 來 也 .
Cửu ngũ.
Đông lân sát ngưu. Bất như Tây lân chi thược tế. Thật thụ kỳ phúc.
Tượng viết:
Đông lân sát ngưu. Bất như Tây lân chi thời dã.
Thực thụ kỳ phúc. Cát đại lai dã.
Dịch.
Xóm Đông, trâu giết linh đình,
Xóm Tây, lễ bạc lòng thành lại hơn.
Lòng thành hưởng phúc trời ban.
Tượng rằng:
Xóm Đông trâu giết linh đình,
Xóm Tây, thời thế tốt lành vẫn hơn.
Lòng thành, hưởng phúc trời ban,
Phúc lành lai láng, tràn lan mới là.
Cửu ngũ. Xóm Đông giết trâu, cúng tế linh đình, mà lại không bằng xóm Tây cúng tế sơ sài đạm bạc. Đó vì thần linh chứng lòng, chứ không chứng lễ vật (Đông lân sát ngưu. Bất như Tây lân chi thược tế. Thực thụ kỳ phúc). Sa hoa phung phí, không bằng thành khẩn thức thời. Tương lai đẹp đẽ, không thuộc về những kẻ ưa hào phóng sa hoa, mà chính thuộc về những người biết sống, biết xử dụng tiền tài, vật dụng (Đông lân sát ngưu. Bất như Tây lân chi thời dã. Thật thụ kỳ phúc. Cát đại lai dã).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 濡 其 首 . 厲 .
象 曰 . 濡 其 首 厲 . 何 可 久 也 .
Thượng Lục.
Nhu kỳ thủ. Lệ
Tượng viết:
Nhu kỳ thủ lệ. Hà khả cữu dã.
Dịch.
Đầu mà chìm nghỉm thời nguy.
Tượng rằng:
Đầu mà chìm nghỉm, thời nguy.
Đầu chìm, thời chẳng cách chi vững bền.
Cực thịnh sẽ suy. Đó là lẽ Trời. Công đồng Latran (1512- 1517), vừa quả quyết rằng: Từ nay không còn ai phàn nàn, không còn ai chống đối giáo hội, thì mấy tháng sau, ngày 31-10-1517, Luther dán bích chương đả kích giáo hội, và lập nên giáo phái Tin Lành.
Con hồ băng sang sông, mà chìm nghỉm cả đầu, ắt sẽ nguy. Khi gặp thời thế thuận tiện, may mắn, mà con người sống phóng túng, thì ắt cũng sẽ nguy (Nhu kỳ thủ. Lệ). Gặp thời thuận tiện mà nhắm mắt làm liều, lao đầu làm bậy, thì làm sao bền vững được (Nhu kỳ thủ. Lệ. Hà khả cữu dã).
ÁP DỤNG QUẺ KÝ TẾ VÀO THỜI ĐẠI
Ký Tế là khi công chuyện ta định làm, nay đã làm rồi, nhưng còn những điều tiểu tiết trong đó mà ta cần phải chú ý, nếu không công việc của ta sẽ dễ dàng đi đến bế tắc, nguy ngập. Ví dụ: Nay ta muốn mở 1 tiệm ăn nhỏ, ta đã lo liệu đủ, và đã sang được 1 cửa hàng, với đầy đủ đồ vật cần thiết rồi, ta đã có người bếp mà ta cho rằng đủ tài, đủ kinh nghiệm và ta tin tưởng ta sẽ thành công, như thế rất là nguy hiểm. Vì một cơ sở, muốn đi tới thành công không phải dễ dàng như vậy.
I. Về phần người chủ
Muốn thành công, người chủ tối thiểu phải biết quản trị tốt, giao thiệp rộng, phải cởi mở với nhân viên, để họ hết lòng với mình, thì dù có phải làm việc vất vả họ cũng không nề hà, oán trách, phàn nàn. Điều quan trọng hơn cả, là người chủ phải là người siêng năng, nấu ăn giỏi, có nhiều sáng kiến độc đáo của riêng mình, phải có óc cầu tiến, học hỏi, không được quá chủ quan, biết nghe lời phê bình của người khác. Và phải niềm nở với khách hàng.
- Siêng năng, nấu ăn giỏi, là để khỏi bị cảnh lúng túng khi người bếp đau ốm, hay muốn làm reo với chủ.
- Có sáng kiến độc đáo, là để cho tiệm mình luôn có món ăn độc đáo hơn tiệm khác.
- Cầu tiến, là để tiệm của mình luôn trang trí hợp thời, sạch sẽ, hấp dẫn khách hàng.
- Học hỏi, là để mình thu lượm những kinh nghiệm của người khác về làm của mình.
- Không được chủ quan và chịu nghe lời phê bình của người khác, vì nó là yếu tố đưa ta đến thành công.
II. Về phần người làm công, như bồi bàn, thư ký thu tiền, ăn nói phải lịch sự, đừng bao giờ dùng tiếng Anh, Chị mà gọi người ta, nhất là khi người ấy cao niên hơn mình.
Theo đúng, chắc chắn bạn sẽ thành công.
THỦY HỎA KÝ TẾ
Ký Tế Tự Quái
既 濟 序 卦
Hữu quá vật giả tất tế.
有 過 於 物 必 濟
Cố thụ chi dĩ Ký Tế.
故 受 之 以 既 濟
Ký Tế Tự Quái
Nếu như xuất chúng, hoàn thành có phen.
Cho nên Ký Tế tương liên.
Sau quẻ Tiểu Quá là quẻ Ký Tế, vì hễ mình có cái gì hơn người, rồi ra sẽ giúp được người, sẽ làm nên chuyện.
- Ký Tế có nghĩa là Công việc đã hoàn thành,là Tình hình đã ổn định. Y thức như đã vượt qua được con sông lớn.
-Ký Tế là Thủy Hỏa giao nhau, giúp nhau để làm nên công trình: nước ở trên, lửa ở dưới, thời lửa sẽ đun sôi được nước.
-Hơn nữa, Ký Tế là quẻ duy nhất trong 64 quẻ Dịch, có các Hào Âm, Dương tương ứng với nhau, và đúng vị trí của nó.
-Ký Tế còn là quẻ 63 gợi lên ý nghĩa rằng, vũ trụ biến thiên, thế giới biến thiên, vạn hữu biến thiên. Cuối cùng phải đi tới một chung cuộc tốt đẹp.
Muốn giải quẻ Ký Tế, ta chỉ cần hiểu Ký Tế là khi tình thế đã ổn định, như vậy sẽ biết được tình hình, thời cuộc, và cách xử sự của mỗi một hạng người trong quẻ này.
I. Thoán.
Thoán từ.
既 濟 . 亨 . 小利 貞 . 初 吉 終 亂 .
Ký Tế. Hanh tiểu. Lợi trinh. Sơ cát chung loạn.
Dịch.
Ký Tế là lúc đại thành,
Bây giờ đại sự đã hanh thông rồi.
Lo tròn những việc nhỏ nhoi,
Bền lòng, giữ vững cơ ngơi mới tình,
Mới đầu, mọi sự tốt lành,
Sau cùng, có thể điêu linh ly loàn.
Ký Tế là thời kỳ ổn định, đại cuộc đã thành toàn, nhưng những tiểu sự, tiểu tiết thì còn vô số để làm, vì thế nói: Ký Tế. Hanh tiểu. Thời buổi này cũng vẫn còn phải theo con đường minh chính, cũng vẫn phải bền gan trì thủ, mới hay, mới lợi (Lợi trinh). Vả lại, buổi đầu hiện nay thì dĩ nhiên là hay (Sơ cát), nhưng biết đâu cuối cùng lại chẳng loạn ly, lại chẳng nhiễu nhương rối rắm (Chung loạn).
Thoán Truyện. Thoán viết.
彖 曰 . 既 濟 . 亨 . 小 者 亨 也 . 利 貞 . 剛 柔 正 而 位 當 也 . 初 吉 . 柔 得 中 也 . 終 止 則 亂 . 其 道 窮 也 .
Ký Tế. Hanh. Tiểu giả hanh dã. Lợi trinh. Cương nhu chính nhi vị đáng dã. Sơ cát. Nhu đắc trung dã. Chung chỉ tắc loạn. Kỳ đạo cùng dã.
Dịch. Thoán rằng:
Ký Tế là lúc đại thành,
Bây giờ, đại sự đã hanh thông rồi.
Lo tròn những việc nhỏ nhoi.
Rồi ra sẽ được vẹn mười hanh thông.
Bền gan, minh chính một lòng,
Rồi ra công việc mới mong lợi nhiều.
Cương nhu, hợp chỗ, hợp chiều,
Vị ngôi đâu đấy, đủ điều hẳn hoi.
Mới đầu, mọi việc êm xuôi,
Là vì nhu được chính ngôi chững chàng.
Sau rồi, thôi chuyện lo toan,
Vì ngừng gắng gỏi, ly loàn lại sinh.
Thoán Truyện chỉ hoàn toàn giải thích Thoán Từ:
1. Thế nào là Hanh tiểu? Hanh tiểu là còn những việc nhỏ phải thực hiện sao cho thông suốt hẳn hoi. Đại cuộc tuy xong, nhưng tiểu tiết còn nhiều điều chếch mác, phải sửa sang lại cho toàn vẹn.
Các nhà Cách Mạng đều chủ trương như vậy. Sau khi cướp được chính quyền, Staline chủ trương đại khái rằng:
-Cướp chính quyền, mới là bước đầu.
-Giai cấp tư sản tuy bị lật đổ, nhưng vẫn còn mạnh hơn giai cấp vô sản, cho nên cần phải:
-Giữ được chính quyền.
-Củng cố chính quyền.
-Làm cho chính quyền trở nên hùng mạnh, vô địch.
Muốn đạt được mục phiêu ấy, Vô sản còn 3 việc phải làm là:
1. Bẻ gẫy sự chống đối của giai cấp Tư sản, Phú nông, đồng thời dẹp tan mọi âm mưu của Tư sản, để cướp lại chính quyền.
2. Tổ chức binh bị, sắm sanh khí giới, để chống ngoại xâm, và đấu tranh với Đế quốc chủ nghĩa.
Ngoài ra, còn phải giáo dục lại quần chúng, nông dân, địa chủ, công chức, trí thức v . v . . .
Ngự Án thì cho rằng: Sau khi tình hình đã ổn định, còn có 2 việc phải làm.
1. Chế trị : Tổ chức công cuộc cai trị.
2. Bảo bang: Bảo vệ đất nước.
2. Tại sao lại Lợi trinh? Lợi trinh, vì mọi người đều xứng ngôi, xứng vị (Cương nhu chính nhi vị đáng dã). Xử dụng cho hay, cho phải, vài ba chục người là chuyện dễ, nhưng xử dụng cho hay, cho phải, trăm, ngàn, triệu người trong một nước, không phải là chuyện chơi. Cho nên Ký Tế đòi hỏi một nghệ thuật cao, một công phu dầy vậy.
3. Tại sao Sơ Cát? Bắt đầu thì tốt, vì lúc bấy giờ mọi người còn đang hăng hái, nhu thuận, văn minh (vì quẻ dưới là Ly), và lại đắc trung (Sơ cát . Nhu đắc trung dã)
4. Tại sao Chung loạn? Chung loạn vì lòng người đã trở nên ù lì, thích hưởng thụ, an nhàn hơn là cố gắng lao tác (Chung chỉ tắc loạn). Mà đã không cố gắng, đã để cho tình hình trở nên rối rắm, thì làm gì còn được an bình, ổn định và Ký Tế nữa (Kỳ đạo cùng dã).
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết.
象 曰 . 水 在 火 上 . 既 濟 . 君 子 以 思 患 而 預 防 之 .
Thủy Hỏa tại thượng. Ký Tế. Quân tử dĩ tư hoạn nhi dự phòng chi.
Dịch. Tượng rằng:
Lửa dưới, nước trên,
Ấy là Ký Tế, là nên việc rồi,
Người hiền thấy vậy, lo đời,
Đề phòng hoạ hoạn, tương lai mới là ...
Ký Tế là lúc Thủy Hỏa tương tế, nhân tình tương hòa, tương thân, tương trợ. Nhưng chính lúc ấy, Thánh nhân lại dạy quân tử phải lo đề phòng họa hoạn. Chủ trương Cư an, tư nguy, luôn được Dịch kinh và Nho Giáo đề cao.
Có thể nói được Dịch Kinh đề cao chủ trương: Sinh ư ưu hoạn. Tử ư an lạc. Biết lo lắng, biết chịu thương, chịu khó mới sống. Nhơn nhơn du hý, hưởng lạc, cầu an sẽ chết. Đọc quẻ Ký Tế, càng thấy hiện rõ ràng tư tưởng ấy.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 曳 其 輪 . 濡 其 尾 . 無 咎 .
象 曰 . 曳 其 輪 . 義 無 咎 也 .
Sơ Cửu.
Duệ kỳ luân. Nhu kỳ vĩ. Vô cữu.
Tượng viết.
Duệ kỳ luân. Nghĩa vô cữu dã.
Dịch.
E dè thắng bớt bánh xe,
Hồ kia đuôi ướt, ngại bề lội sông.
Thế thời mới khỏi lỗi lầm.
Tượng rằng:
Thắng bớt bánh xe,
Vì không nóng nẩy, hết bề lầm sai.
Sơ Cửu. Lúc này là lúc thời cơ mới thuận tiện, hoàn cảnh có mòi dễ dàng, nhưng người quân tử không phải vì thế mà bớt sự thận trọng thường lệ. Y thức như cái bánh xe, có khi phải bớt thắng lại; hay như con hồ hễ ướt đuôi, thời đâm ngại ngùng, không dám vội sang sông. Xe xuống giốc, mà không thắng, có khi tai nạn. Hồ qua sông, mà không e dè, có khi lâm nguy. Người hành động không phòng bị, có lúc mắc hoạ. (Duệ kỳ luân. Nhu kỳ vĩ. Vô cữu). Sơ hoạt động, nhưng không nên nóng, như người đi xe, có lúc phải thắng bớt xe lại, như vậy theo lẽ là phải, có gì đáng trách đâu (Duệ kỳ luân. Nghĩa vô cữu dã).
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 婦 喪 其 茀 . 勿 逐 . 七 日 得 .
象 曰 . 七 日 得 . 以 中 道 也 .
Lục nhị.
Phụ táng kỳ phất. Vật trục . Thất nhật đắc.
Tượng viết:
Thất nhật đắc. Dĩ trung đạo dã.
Dịch.
Phu nhân đánh mất rèm xe,
Khỏi tìm, bảy bữa của về lại tay.
Tượng rằng: Bảy bữa được rèm,
Là vì trung chính, giữ nguyên chẳng rời.
Lục nhị. Xưa, đàn bà đi xe phải có rèm che. Nay rèm mất, thể theo nghi lễ chẳng nên đi xe, mà cũng chẳng nên chạy đi tìm rèm, vì như vậy còn có thể thống gì. Rèm mất rồi ra lại tìm được. Hào này ám chỉ một công thần có đức, một lương tướng có tài, nhưng vì nay là lúc tình thế đã ổn định rồi, nên tài mình không có chỗ dụng, vua ở trên tỏ ra ơ hờ, không còn vồn vã, không còn cần dùng mình nữa.
Công thần, lương tướng gặp hoàn cảnh này, chớ nên tỏ ra cầu cạnh sự sủng ái của vua, vì như vậy vừa mất thể diện, vừa có thể nguy hiểm đến thân. Hãy đợi thời, có lúc vua lại cần mình, lại triệu vời mình. Người xưa có câu:
Điểu phi tận. Lương cung tàn.
Giảo thố tử. Tẩu cẩu phanh.
Dịch:
Chim bay mà chết, ná quăng.
Thỏ khôn mà chết, chó săn tàn đời.
Sau khi dẹp xong Hạng Võ, Hán Cao Tổ lập mưu bắt Sở vương Hàn Tín về giam lỏng ở Hàm Dương, lại truất xuống làm Hoài Âm Hầu. Một hôm Bái Công triệu Hàn Tín vào triều để hỏi về khả năng của các tướng tá, cốt là dò xem ý tứ Hàn Tín ra sao? Khi vui chuyện, Hàn Tín cho rằng Hán Cao Tổ có thể cầm được mười vạn quân, còn riêng ông càng nhiều quân ông càng dễ điều khiển. Có người cho rằng vì Hàn Tín khoe tài như thế, mà sau này Hàn Tín bị giết. Ít lâu sau, Lương Vương Bành Việt, cũng bị Bái Công bắt về phế xuống làm dân, đày đi Ba Thục.
Giữa đường Bành Việt gặp Lã Hậu. Ông năn nỉ Lã Hậu xin can thiệp giúp. Lã Hậu hứa giúp, và khiến Bành Việt theo trở về triều, Về tới triều, Lã Hậu nói với Hán Vương rằng: Tha Bành Việt là thả hổ về rừng, cần phải tìm cớ mà giết để trừ hậu hoạn. Thế là chẳng những Bành Việt bị chết chém, mà thi thể còn bị đem làm mắm, để gửi cho chư tướng. Tóm lại:
- Có rèm che, phụ nữ mới nên ra ngoài.
- Có sự tin cẩn của vua, lương tướng mới nên hoạt động.
Thất nhật đắc là tại sao? Tới thời cần đến lương tướng, nhà vua sẽ đổi giọng, đổi thái độ ngay. Tiết Nhân Quí đang bị giam nơi thiên lao. Khi cần người đi Chinh Tây, vua Thái Tông liền truyền thả Tiết Nhân Quí, rồi phong làm Đại nguyên súy như cũ.
Cho nên Tượng Truyện bàn thêm rằng: Mình gặp lúc thất sủng, cứ xử sự cho phải, rồi ra có ngày cờ lại đến tay. (Thất nhật đắc. Dĩ trung đạo dã).
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 高 宗 伐 鬼 方 . 三 年 克 之 . 小 人 勿 用 .
象 曰 . 三 年 克 之 . 憊 也
Cửu tam.
Cao Tông phạt Quỉ phương. Tam niên khắc chi. Tiểu nhân vật dụng.
Tượng viết:
Tam niên khắc chi. Bại dã.
Dịch.
Cao Tông, đánh xứ Quỉ Phương,
Ba năm chinh chiến, nhiễu nhương mới rồi.
Tiểu nhân nên gạt ra ngoài,
Viễn chinh, xin chớ dùng người tiểu nhân.
Tượng rằng:
Ba năm mới dẹp được xong,
Thật là mệt mỏi, nhọc lòng lắm thay.
Cao Tông phạt Quỉ phương là vua Vũ Đinh nhà Thương đi đánh Hung nô ở phía Bắc. Các vua, khi nội trị đã ổn định, thường tính ch uyện củng cố đất nước, ngăn chặn ngoại xâm, bằng cách đi chinh phục các nước lân bang. Công việc này không có dễ, vua Cao Tông phải mất ba năm mới chinh phục được Hung Nô (Cao Tông phạt Quỉ phương. Tam niên khắc chi).
Ngày nay, khi mà thế cuộc không cho phép ngoại xâm, thì các nhà lãnh đạo lo liên minh với các nước láng giềng. Dịch khuyên không nên dùng Tiểu nhân để chinh phục hay cai trị, vì tiểu nhân là mầm phiến loạn (Tiểu nhân vật dụng). Tam niên khắc chi bại dã, là nói ba năm mới thắng, ý nói phải vất vả nhiều mới thắng được.
4. 六 四 . 繻 有 衣 袽. 終 日 戒 .
象 曰. 終 日 戒 . 有 所 疑 也 .
Hào Lục tứ. Lục tứ.
Nhu hữu y như. Chung nhật giới.
Tượng viết: Chung nhật giới. Hữu sở nghi dã.
Dịch.
Sắm sanh những dẻ, cùng nùi,
Phòng khi thuyền thủng, thời bồi, thời tra.
Suốt ngày, phòng bị âu lo.
Tượng rằng:
Suốt ngày phòng bị âu lo,
Là vì trong dạ nghi ngờ chẳng yên.
Hào Lục tứ lại dạy phải quan phòng. Đi thuyền phải chuẩn bị nùi dẻ (Y như), để khi thuyền thủng (Nhu), có mà chét. Thế là suốt ngày phải lo lắng đề phòng (Chung nhật giới. Hữu sở nghi dã).
5. Hào Cửu ngũ.
九 五. 東 鄰 殺 牛 . 不 如 西 鄰 之 祭 . 實 受 其 福 .
象 曰 . 東 鄰 殺 牛 . 不 如 西 鄰 之 時 也 . 實 受 其 福 . 吉 大 來 也 .
Cửu ngũ.
Đông lân sát ngưu. Bất như Tây lân chi thược tế. Thật thụ kỳ phúc.
Tượng viết:
Đông lân sát ngưu. Bất như Tây lân chi thời dã.
Thực thụ kỳ phúc. Cát đại lai dã.
Dịch.
Xóm Đông, trâu giết linh đình,
Xóm Tây, lễ bạc lòng thành lại hơn.
Lòng thành hưởng phúc trời ban.
Tượng rằng:
Xóm Đông trâu giết linh đình,
Xóm Tây, thời thế tốt lành vẫn hơn.
Lòng thành, hưởng phúc trời ban,
Phúc lành lai láng, tràn lan mới là.
Cửu ngũ. Xóm Đông giết trâu, cúng tế linh đình, mà lại không bằng xóm Tây cúng tế sơ sài đạm bạc. Đó vì thần linh chứng lòng, chứ không chứng lễ vật (Đông lân sát ngưu. Bất như Tây lân chi thược tế. Thực thụ kỳ phúc). Sa hoa phung phí, không bằng thành khẩn thức thời. Tương lai đẹp đẽ, không thuộc về những kẻ ưa hào phóng sa hoa, mà chính thuộc về những người biết sống, biết xử dụng tiền tài, vật dụng (Đông lân sát ngưu. Bất như Tây lân chi thời dã. Thật thụ kỳ phúc. Cát đại lai dã).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 濡 其 首 . 厲 .
象 曰 . 濡 其 首 厲 . 何 可 久 也 .
Thượng Lục.
Nhu kỳ thủ. Lệ
Tượng viết:
Nhu kỳ thủ lệ. Hà khả cữu dã.
Dịch.
Đầu mà chìm nghỉm thời nguy.
Tượng rằng:
Đầu mà chìm nghỉm, thời nguy.
Đầu chìm, thời chẳng cách chi vững bền.
Cực thịnh sẽ suy. Đó là lẽ Trời. Công đồng Latran (1512- 1517), vừa quả quyết rằng: Từ nay không còn ai phàn nàn, không còn ai chống đối giáo hội, thì mấy tháng sau, ngày 31-10-1517, Luther dán bích chương đả kích giáo hội, và lập nên giáo phái Tin Lành.
Con hồ băng sang sông, mà chìm nghỉm cả đầu, ắt sẽ nguy. Khi gặp thời thế thuận tiện, may mắn, mà con người sống phóng túng, thì ắt cũng sẽ nguy (Nhu kỳ thủ. Lệ). Gặp thời thuận tiện mà nhắm mắt làm liều, lao đầu làm bậy, thì làm sao bền vững được (Nhu kỳ thủ. Lệ. Hà khả cữu dã).
ÁP DỤNG QUẺ KÝ TẾ VÀO THỜI ĐẠI
Ký Tế là khi công chuyện ta định làm, nay đã làm rồi, nhưng còn những điều tiểu tiết trong đó mà ta cần phải chú ý, nếu không công việc của ta sẽ dễ dàng đi đến bế tắc, nguy ngập. Ví dụ: Nay ta muốn mở 1 tiệm ăn nhỏ, ta đã lo liệu đủ, và đã sang được 1 cửa hàng, với đầy đủ đồ vật cần thiết rồi, ta đã có người bếp mà ta cho rằng đủ tài, đủ kinh nghiệm và ta tin tưởng ta sẽ thành công, như thế rất là nguy hiểm. Vì một cơ sở, muốn đi tới thành công không phải dễ dàng như vậy.
I. Về phần người chủ
Muốn thành công, người chủ tối thiểu phải biết quản trị tốt, giao thiệp rộng, phải cởi mở với nhân viên, để họ hết lòng với mình, thì dù có phải làm việc vất vả họ cũng không nề hà, oán trách, phàn nàn. Điều quan trọng hơn cả, là người chủ phải là người siêng năng, nấu ăn giỏi, có nhiều sáng kiến độc đáo của riêng mình, phải có óc cầu tiến, học hỏi, không được quá chủ quan, biết nghe lời phê bình của người khác. Và phải niềm nở với khách hàng.
- Siêng năng, nấu ăn giỏi, là để khỏi bị cảnh lúng túng khi người bếp đau ốm, hay muốn làm reo với chủ.
- Có sáng kiến độc đáo, là để cho tiệm mình luôn có món ăn độc đáo hơn tiệm khác.
- Cầu tiến, là để tiệm của mình luôn trang trí hợp thời, sạch sẽ, hấp dẫn khách hàng.
- Học hỏi, là để mình thu lượm những kinh nghiệm của người khác về làm của mình.
- Không được chủ quan và chịu nghe lời phê bình của người khác, vì nó là yếu tố đưa ta đến thành công.
II. Về phần người làm công, như bồi bàn, thư ký thu tiền, ăn nói phải lịch sự, đừng bao giờ dùng tiếng Anh, Chị mà gọi người ta, nhất là khi người ấy cao niên hơn mình.
Theo đúng, chắc chắn bạn sẽ thành công.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
5 TRẠCH HỎA CÁCH
TRẠCH HỎA CÁCH
Cách Tự Quái
革 序 卦
Tỉnh đạo bất khả bất cách
井 道 不 可 不 革
Cố thụ chi dĩ Cách.
故 受 之 以 革
Cách Tự Quái
Giếng thời chẳng thể gót đầu chẳng thay.
Cho nên Cách tiếp theo ngay.
Giếng đã để lâu ngày, bùn đất sẽ ứ đọng, nên cần phải vét, phải khơi cho sạch. Chính quyền lâu ngày cũng có lắm điều hủ hoại, cần đổi thay. Vì thế sau quẻ Tỉnh là quẻ Cách.
Cách là cách mạng, là đổi thay những gì cũ kỹ, hủ bại. Chữ Cách theo nguyên nghĩa là da, là thay da, lột xác. Loài vật còn có lúc thay da, lột xác, thì chính quyền, thì xã hội loài người cũng có lúc phải thay da, lột xác, phải đổi mới hoàn toàn. Đổi mới để cho hết ù lì, để trở nên sống động, đổi mới để tiến tới một đời sống hoàn hảo hơn.
Quẻ Cách, trên là Đoài, là hồ, là nước; dưới là Ly là lửa. Nước đổ xuống, lửa bốc lên, thời sự xung đột, khủng hoảng đã đến tột độ, thế là đôi bên đã ở vào thế một mất, một còn. Đã khủng hoảng tột độ, ắt phải có sự đổi thay.
Quẻ Cách, trên là Đoài, là thiếu nữ, dưới là Ly là trung nữ. Hai chị em gái ở chung nhau một nhà, đã lắm chuyện xích mích rồi, nay em nhỏ chơi chèo lấn át chị, thời làm sao tránh khỏi sự xung đột. Vì thế nên sẽ có cuộc cách mạng.
I. Thoán.
Thoán từ.
革 . 己 日 乃 孚 . 元 亨 利 貞 . 悔 亡 .
Cách. Dĩ nhật nãi phu. Nguyên hanh lợi trinh. Hối vong.
Dịch.
Cách là đổi lốt, đổi đời,
Đổi thay xong xả, rồi đời mới tin.
Đổi thay tốt đẹp mới nên,
Hợp thời, hợp lý, chu tuyền hanh thông.
Hợp tình, hợp lý nên công,
Mới không hối hận, mới không phàn nàn.
Thoán từ: Cách là đả phá những gì lạc hậu, lỗi thời, hủ hoá, để thay đổi những gì thích hợp hơn, hữu ích hơn. Tuy nhiên, làm cách mạng bất kỳ ở trong lãnh vực nào, cũng không được dân tin ngay, vì con người thường ù lì, không muốn thay đổi lề lối sống đã quen, lại không muốn phiêu lưu. Cho nên, cuộc cách mạng nào cũng đòi hỏi một thời gian, mới được dân chúng tin (Cách dĩ nhật nãi phu). Dĩ nhật là trải nhiều ngày; nãi phu là mới được tin cậy. Cuộc Cách mạng nào cũng đưa đến binh cách, đến đổ máu không ít, thì nhiều. Lịch sử đã chứng minh điều đó. Ví dụ: Cuộc Cách mạng Pháp năm 1879 lật đổ chế độ quân chủ, thiết lập chế độ dân chủ. Cuộc Cách mạng Nga năm 1917, lật đổ Nga Hoàng, thiết lập chế độ Cộng sản. Ở nước ta, thì những cuộc Cách mạng 1945 (Việt Minh cướp chính quyền), 1955 Ngô Đình Diệm lật đổ Bảo Đại, 1963 Dương Văn Minh lật đổ Ngô Đình Diệm.v.v... Cho nên làm cách mạng, muốn cho khỏi hối hận, phàn nàn về sau, thời phải thực hiện được những tôn chỉ sau:
Cách mạng phải đưa đến một chế độ đẹp đẽ hơn (Nguyên). Cách mạng phải làm cho đời sống dân chúng sung sướng hơn (Hanh). Cách mạng phải mang lại lợi ích thực sự (Lợi). Cách mạng phải có chính nghĩa (Trinh).
Vì thế Thoán từ nói: Nguyên hanh lợi trinh. Hối vong.
Thoán Truyện.
Thoán viết:
彖 曰 . 革 . 水 火 相 息 . 二 女 同 居 . 其 志 不 相 得 . 曰 革 . 己 日 乃 孚 . 革 而 信 之 . 文 明 以 說 . 大 亨 以 正 . 革 而 當 . 其 悔 乃 亡 . 天 地 革 而 四 時 成 . 湯 武 革 命 . 順 乎 天 而 應 乎 人 . 革 之 時 大 矣 哉 .
Cách. Thủy hoả tương tức. Nhị nữ đồng cư. Kỳ chí bất tương đắc. Viết cách. Dĩ nhật nãi phu. Cách nhi tín chi. Văn minh dĩ duyệt. Đại hanh dĩ chính. Cách nhi đáng. Kỳ hối nãi vong. Thiên địa cách nhi tứ thời thành. Thang Võ cách mạng. Thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân. Cách chi thời đại hỹ tai.
Dịch.
Cách là nước lửa đương đầu,
Là hai cô gái chung nhau một nhà.
Đôi bên chí hướng khác xa,
Nên là chống đối, nên là đổi thay.
Đổi thay ròng rã nhiều ngày,
Rồi ra mới được đó đây tin lòng.
Trong thời sáng láng, tinh thông,
Ngoài thời vui vẻ, bao dong mọi người.
Y theo trung chính, đạo trời,
Thế nên mọi sự xong xuôi thành toàn,
Cách mà chính đáng, mới ngoan,
Cách mà chính đáng, phàn nàn nỗi chi.
Đất trời thay đổi suy di,
Bốn mùa nhờ thế đúng kỳ luân lưu.
Vua Thang, vua Vũ thay triều,
Thuận trời, vả cũng ứng theo lòng người,
Đổi thay, mà lại hợp thời,
Thật là vĩ đạị, trên đời chi hơn.
Thoán Truyện: Cách sở dĩ sinh ra là vì có một sự xung khắc, mâu thuẫn, một cuộc khủng hoảng giữa hai phe đối lập, mâu thuẫn nhau như nước với lửa, như hai chị em gái ở chung một nhà, và bất đồng chí hướng với nhau (Cách. Thủy hỏa tương tức. Nhị nữ đồng cư. Kỳ chí bất tương đắc).
Tiếp theo Thoán Truyện giải những câu của Thoán từ. Thoán từ nói: Dĩ nhật nãi phu, nghĩa là làm sao? Thưa đó là làm cách mạng, rồi sẽ được người ta tin theo.
Dĩ nhật nãi phu. Cách nhi tín chi. Tại làm sao làm cách mạng mà không phải phàn nàn? Thưa vì người làm cách mạng, có một khối óc sáng suốt, nhìn xa, trông rộng, thấu hiểu được sự thể, quán triệt được tình hình, khéo lấy lòng người, lại hoạch định được một chương trình có thể khai thông được mọi bế tắc, hứa hẹn một ngày mai tươi sáng. Tóm lại, làm cách mạng một cách xứng đáng, sẽ không phải phàn nàn hối hận về sau (Văn minh dĩ duyệt. Đại hạnh dĩ chính. Cách nhi đáng. Kỳ hối nãi vong).
Vả lại sự canh cải trong trời đất, cũng như cuộc cách mạng trong lịch sử không thể không có. Trời đất nhờ canh cải, nên có bốn mùa. Vua Thành Thang, vua Vũ đã làm được những cuộc cách mạng, trên thuận lẽ trời, dưới hợp ý dân. Canh cải mà hợp thời, cách mạng mà đúng lúc, thực là cao cả vậy (Thiên địa cách nhi tứ thời thành. Thang Vũ cách mạng. Thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân. Cách chi thời đại hỹ tai).
Ta có thể trích một đoạn trong sách Mạnh Tử, mà giải Thoán từ, Thoán Truyện quẻ Cách như sau: Trong Kinh Thư có chép rằng: Vua Thành Thang (chết năm 1753 trước Dương Lịch), khi khởi cuộc chinh phục, trước hết đánh lấy nước Cát. Thiên hạ đều tin tưởng ngài. Ngài đương chinh phục miền Đông, thì những đoàn rợ Di miền Tây phiền trách, tới chừng ngài chinh phục miền Nam, thì những đoàn rợ Địch miền Bắc phiền trách. Họ trách rằng: Sao ngài chẳng sớm đến nước ta? Dân chúng khắp thiên hạ mong chờ ngài đến, như lúc trời hạn hán, người ta trông thấy mây và mống trời. Đến chừng ngài kéo binh vào xứ họ, họ vẫn tự nhiên chẳng sợ sệt gì cả. Người đi chợ vẫn đi, người đương cầy vẫn cầy. Ngài giết những vì vua hung bạo mà giải cứu cho nhân dân. Bá tánh đều mừng rỡ, dường như được mưa tuôn phải lúc. Kinh Thư chép: Chúng ta trông vua, ngài đến, chúng ta như sống lại. (Kinh Thư, Trọng Hủy chi cáo, tiết 6).
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 澤 中 有 火 . 革 . 君 子 以 治 歷 明 時 .
Tượng viết:
Trạch trung hữu hỏa. Cách. Quân tử dĩ trị lịch minh thời.
Dịch. Tượng rằng:
Cách là lửa ở trong hồ,
Hiền nhân làm lịch để cho biết thời.
Trong hồ có lửa là Cách, quân tử nhân đó làm lịch để biết rõ thời tiết. Lửa ở dưới, hồ ở trên, kình địch lẫn nhau, nên sinh biến hóa. Trong một năm, khí Âm, khí Dương kình địch lẫn nhau, nên sinh biến hóa. Con người có thể hiểu được sự biến hóa của trời đất ấy, vì thấy nó có tiết tấu, thứ tự, nên đã làm ra được lịch. Làm được lịch, tức là trông rõ được sự biến hoá của trời đất, tiên đoán được nó, để chuẩn bị trước được, mà sống theo đúng nhu cầu của mỗi thời tiết.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 鞏 用 黃 牛 之 革 .
象 曰 . 鞏 用 黃 牛 . 不 可 以 有 為 也 .
Sơ Cửu.
Củng dụng hoàng ngưu chi cách.
Tượng viết:
Củng dụng hoàng ngưu. Bất khả dĩ hữu vi dã.
Dịch.
Bò vàng mà lột lấy da,
Mà thắt, mà bó chắc là mấy mươi.
Tượng rằng:
Bò vàng da lấy thắt bao,
Nghĩa là đừng vội tầm phào ra tay.
Hào Sơ Cửu: Muốn làm cách mạng, không phải ai cũng làm được. Phải có tài, có vị, có thời, có thế, mới làm cách mạng được. Sơ Cửu đây tuy là người có tài, nhưng chưa có địa vị, lại ở buổi sơ khai của thời Cách, nên thời cơ chưa được thuận tiện, trên lại không có người giúp đỡ, như vậy dĩ nhiên Sơ không nên vọng động. Lúc ấy chỉ nên kiềm chế mình bằng đường lối trung thuận. Trung thuận tức là cư xử cho hợp lý, cho mềm dẻo.
Củng là ràng buộc. Hoàng là vàng, là Trung; Ngưu là trâu là Thuận. Tượng Truyện bình rằng: Lúc này là lúc chưa nên hành động, dở dói gì hết (Củng dụng hoàng ngưu. Bất khả dĩ hữu vi dã).
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 己 日 乃 革 之 . 征 吉 . 無 咎 .
象 曰 . 己 日 革 之 . 行 有 嘉 也 .
Lục nhị.
Dĩ nhật nãi cách chi. Chinh cát. Vô cữu.
Tượng viết:
Dĩ nhật cách chi. Hành hữu gia dã.
Dịch.
Sửa sang, chuẩn bị nhiều ngày,
Bây giờ là lúc ra tay đổi đời.
Tiến hành sẽ tốt, sẽ xuôi,
Hết còn lo chuyện đơn sai, lỗi lầm.
Tượng rằng:
Sửa sang, chuẩn bị nhiều ngày,
Rồi ra mới dám ra tay đổi đời.
Tiến hành chuyện sẽ êm xuôi,
Thế thời là tốt, thế thời đáng khen.
Hào Lục nhị ám chỉ một người hội đủ điều kiện để làm cách mạng.
1. Có địa vị (Lục nhị là Hào của đại thần).
2. Nhu thuận, trung chính (Hào Lục nhị).
3. Sáng suốt, thông minh (Hào giữa quẻ Ly).
4. Trên có minh quân ủng hộ (Hào Cửu ngũ).
Tuy nhiên, muốn làm cách mạng, phải sửa soạn nhiều tháng, nhiều ngày, rồi mới có thể ra tay hành động (Dĩ nhật nãi cách chi).
Khi đã hội đủ các điều kiện rồi, mà hành động, thời chắc chắn kết quả sẽ đẹp đẽ, tốt lành. (Chinh cát. Vô cữu).
Tượng Truyện bình rằng: Chuẩn bị chày tháng, chày ngày, đợi đúng thời cơ mới ra tay cách mạng, thì chắc sẽ được như nguyện, chắc là đáng được khen lao vậy (Dĩ nhật cách chi. Hành hữu gia dã).
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 征 凶 . 貞 厲 . 革 言 三 就 . 有 孚 .
象 曰 . 革 言 三 就 . 又 何 之 矣 .
Cửu tam.
Chinh hung. Trinh lệ. Cách ngôn tam tựu. Hữu phu.
Tượng viết:
Cách ngôn tam tựu. Hựu hà chi hỹ.
Dịch.
Tiến lên sẽ chẳng có hay,
Phải theo chính đạo, phải dày đắn đo.
Bao nhiêu kế hoạch, mưu cơ,
Phải cân, phải nhắc, ít là ba phen.
Mưu cơ, kế hoạch chu tuyền,
Thế thời chắc chắn sẽ nên công trình.
Tượng rằng:
Ba phen kế hoạch đắn đo,
Thời thôi thêm thắt vòng vo làm gì ?
Hào Cửu tam là một người cương trực, nên muốn tiến hành gấp công chuyện cách mạng. Tuy nhiên Dịch cho rằng: Làm gấp, làm vội, sẽ gặp tai ương (Cửu tam. Chinh hung). Muốn làm cách mạng, phải luôn theo chính nghĩa, phải biết lo lắng đề phòng.(Trinh lệ). Phàm là cơ mưu của mình, cũng như dư luận quần chúng, cần được duyệt, được khảo cho tường tận, kỹ càng (Cách ngôn tam tựu). Tức là phải duyệt xét ba lần. Có cẩn trọng như vậy, mới chắc chắn nên công (Hữu phu). Nhưng cẩn trọng, không phải là do dự. Một khi kế hoạch đã được thảo luận kỹ càng rồi, phải được đem ra thi hành, chứ đừng nên do dự, tìm đường lối khác mà chi. Vì thế Tượng Truyện mới nói: Cách ngôn tam tựu. Hựu hà chi hỹ. Hựu hà chi hỹ là: còn đi đâu nữa, còn thêm gì nữa.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 悔 亡 . 有 孚 . 改 命 . 吉 .
象 曰 . 改 命 之 吉 . 信 志 也 .
Cửu tứ.
Hối vong. Hữu phu. Cải mệnh. Cát.
Tượng viết:
Cải mệnh chi cát. Tín chí dã.
Dịch.
Hết điều hối hận, phàn nàn,
Mọi người tin tưởng hoàn toàn từ nay.
Cho nên cứ việc đổi thay,
Công trình Cách mệnh hẳn hay, hẳn lành.
Tượng rằng: Cách mệnh là hay,
Là vì trên dưới, đó đây tin lòng.
Hào Cửu tứ ám chỉ một người:
1. Có tài làm cách mạng (Hào Dương).
2. Gặp thời cơ thuận tiện (vượt Hạ quái, lên Thượng quái)
3. Có thế (Ở giữa Thủy và Hỏa, Đoài và Ly).
4. Được tín nhiệm (Kề Hào Cửu ngũ là Quân vương).
5. Có chí lớn, không bị ràng buộc (Hào Cửu tứ không ứng với Sơ).
6. Mình lại thành khẩn, được mọi người tin cậy. (Hữu phu). Như vậy mà ra tay làm cách mạng, chắc là được mọi sự may mắn, tốt lành (Cải mệnh. Cát).
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 大 人 虎 變 . 未 占 有 孚 .
象 曰 . 大 人 虎 變 . 其 文 炳 也 .
Cửu ngũ.
Đại nhân hổ biến. Vị chiếm hữu phu.
Tượng viết:
Đại nhân hổ biến. Kỳ văn bính dã.
Dịch.
Đại nhân như hổ thay lông,
Không cần bói toán, muôn lòng đều tin.
Tượng rằng:
Đại nhân như hổ thay lông,
Là vì sự nghiệp thành công rỡ ràng.
Hào Cừu ngũ: Đại nhân như hổ thay lông, thực thi được những công trình cải cách vĩ đại nhãn tiền (Đại nhân hổ biến). Vì thế, ảnh hưởng của vị quân vương, sau khi đã hoàn thành được công cuộc cách mạng, thật là lớn lao.
Để bình giải Hào này, Nho gia thường trích dẫn lời sách của Mạnh Tử: Người quân tử đi đến đâu, thì ở đó được cải hoá. Người ở đâu, thì ảnh hưởng như thần. Ảnh hưởng người phổ cập khắp nơi, từ trên chí dưới, lưu thông dung hiệp với trời đất... Như vậy sao có thể nói được rằng: Người chỉ làm lợi ích nhỏ cho xã hội? (Mạnh Tử, Tận Tâm thượng tiết 13). Đại nhân mà cách mạng bản thân thiệt tình, mà gây được một ảnh hưởng mạnh mẽ đối với dân, thì chẳng cần bói toán, cũng biết rằng người ta vẫn tin mình (Vị chiếm hữu phu). Tượng Truyện cho rằng: Công trình và ảnh hưởng của bậc quân vương như hổ thay lông, rỡ ràng, hiển hiện.(Đại nhân hổ biến. Kỳ văn bính dã).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 君 子 豹 變 . 小 人 革 面 . 征 凶 . 居 貞 吉 .
象 曰 . 君 子 豹 變 . 其 文 蔚 也 . 小 人 革 面 . 順 以 從 君 也 .
Thượng Lục.
Quân tử báo biến. Tiểu nhân cách diện. Chinh hung. Cư chinh cát.
Tượng viết:
Quân tử báo biến. Kỳ văn úy dã. Tiểu nhân cách diện.
Thuận dĩ tòng quân dã.
Dịch.
Quân tử như báo thay da,
Tiểu nhân sắc diện, nay đà khác xưa.
Đừng nên dở dói quá đa,
Miễn sao minh chính, thế là đã hay.
Tượng rằng:
Quân tử như báo thay da,
Phong quang văn vẻ, mặn mà dễ ưa.
Tiểu nhân sắc diện khác xưa,
Thuận tình vâng lệnh nhà vua từ rầy.
Hào Thượng Lục: Khi cuộc Cách mạng đã thành rồi, thì người quân tử cũng thành khẩn mà thay đổi lề lối sống, như báo thay lông. Còn tiểu nhân thì chỉ thay đổi phía bên ngoài (Quân tử báo biến. Tiểu nhân cách diện). Lúc ấy làm gì thêm nữa cũng chẳng hay, cứ giữ được đường lối cách mạng đã hoạch định là tốt (Chinh hung. Cư trinh cát). Tào Tham được cử làm Thừa tướng thay Tiêu Hà, thời cứ tuân theo pháp độ của Tiêu Hà mà trị, không nhiều chuyện bày vẽ thêm. Vua Huệ Đế hỏi: Khanh làm thừa tướng, là chỗ đại nhiệm trong thiên hạ, sao cả ngày ngồi không, lẳng lặng chẳng thấy trị việc chi hết vậy? Tào Tham tâu rằng: Bệ hạ xét mình thánh minh thần võ, sánh với Cao Đế ai hơn? Vua nói: Trẫm đâu dám sánh với tiên đế. Tào Tham lại hỏi: Bệ hạ xem tài năng tôi và Tiêu Hà ai hơn? Vua nói: Tài khanh có khi chẳng bằng Tiêu Hà. Tào Tham nói: Bệ hạ thánh minh đã chẳng bằng Cao đế, còn tôi cũng chẳng bằng Tiêu Hà. Cao Đế đã định pháp, thì Bệ hạ phải tuân giữ, còn Tiêu Hà đã lập thiện chánh, thì tôi phải vâng theo mà làm. Chúa tôi đồng lòng noi theo mà trị, thì bốn biển thanh bình, muôn dân an nghiệp, thiên hạ thái bình, có phải là bệ hạ đặng ngồi an, chẳng tốt hơn sao, lựa phải canh cải cho sanh ra nhiều việc làm chi ! Vua khen phải (Tây Hán diễn nghĩa, 615). Thế đúng là Chinh hung. Cư trinh cát vậy.
Tượng viết: Quân tử báo biến. Kỳ văn úy dã. Tiểu nhân cách diện. Thuận dĩ tòng quân dã. Người quân tử, lúc này đã biến đổi lề lối cũ, sống theo đường lối mới như báo thay da, chững chàng rực rỡ (Quân tử báo biến. Kỳ văn uý dã). Còn tiểu nhân thì mới có sự thay đổi ngoài mặt, để thuận theo nhà vua. Như vậy cũng không nên đòi hỏi hơn nữa (Tiểu nhân cách diện. Thuận dĩ tòng quân dã).
ÁP DỤNG QUẺ CÁCH VÀO THỜI ĐẠI
Ngày nay, thế giới đã Cách mạng hoá, nên đã thay đổi tất cả, từ quốc gia, xã hội, văn hóa, gia đình v.v.. Sự thay đổi, dĩ nhiên là mang lại sự tốt đẹp hơn, nhưng đôi lúc đã đi quá trớn, nên đã mang lại nhiều lỗi lầm tai hại. Ví dụ: Cách mạng đã mang lại chế độ Cộng Sản, tuy đã lật đổ được nền quân chủ độc tài, phong kiến, nhưng vì những người cầm đầu đã đi quá trớn, nên khiến cho dân chúng lầm than, kinh tế kiệt quệ.v.v.
*Ngoài xã hội, người phụ nữ được bình đẳng, bình quyền, nên từ công sở đến học đường, người phụ nữ cũng tham gia đông đảo. Trong gia đình, người vợ có nghề hoặc có công ăn việc làm, thì người chồng cũng bớt được gánh nặng, và đời sống gia đình sẽ thoải mái, vững vàng hơn. Nhưng cũng có những trường hợp, vì có nghề và có thể tự túc được, nhiều khi còn có tài năng, hoặc làm ra nhiều tiền hơn chồng, mà người vợ đâm ra tự kiêu, coi thường chồng, hoặc không còn chịu nhịn nhục như xưa, nên gia đình trở thành địa ngục, rồi mạnh ai nấy tìm người thích hợp với mình hơn, và dễ dàng chia tay nhau, mặc dù lũ con còn nhỏ dại.
Tóm lại, ta thấy Cách mạng chưa hẳn là hay hoàn toàn, mà là phải tùy ta có biết xử dụng nó hay không? Muốn được như ý, ta phải có một nền giáo dục, một nền đạo đức vững chắc làm căn bản. Những người cầm đầu nước phải biết thương dân, lo lợi ích trường cửu cho dân. Trong gia đình, vợ chồng phải biết lo lắng, cộng tác với nhau, phải có trách nhiệm bảo vệ gia đình, và giáo dục con cái. Vả tự ngàn xưa, ai cũng biết: Gia đình có vững, thì dân mới giầu. Dân có giầu, thì nước mới mạnh vậy.
______________________________________________________________________________
6 LÔI HỎA PHONG
Phong Tự Quái
豐 序 卦
Đắc kỳ sở qui giả tất đại.
得 其 所 歸 者 必 大
Cố thụ chi dĩ Phong.
故 受 之 以 豐 .
Phong giả đại dã.
豐 者 大 也 .
Phong Tự Quái
Có nơi qui đáo, ắt thời lớn lao,
Cho nên, Phong mới tiếp vào,
Phong là phong đại, nhẽ nào chẳng to?
Có nơi qui tụ, sẽ đi đến chỗ thịnh đạt, phong doanh, nên sau quẻ Qui Muội là quẻ Phong.
I. Thoán.
Thoán từ.
豐 . 亨 . 王 假 之 . 勿 憂 . 宜 日 中 .
Phong. Hanh. Vương cách chi. Vật ưu. Nghi nhật trung.
Dịch.
Phong là phong thịnh, hanh thông,
Phong doanh, phi đấng cửu trùng, nào ai?
Đừng buồn, đừng sợ chuyện đời.
Hãy như mặt nhật, sáng soi giữa trời.
Khi đã đạt tới phong thịnh, mọi sự sẽ trở nên trôi chẩy (Phong hanh). Chỉ có các bậc vua chúa, mới đi đến chỗ phong đại được, vì chỉ có vua chúa, mới hội đủ điều kiện tinh thần, vật chất, nhân sự, để đi đến chỗ phong doanh, thái thịnh (Vương cách chi). Khi các bậc vương giả, đã đạt được tới giai đoạn thịnh đại, thì đừng có lo âu vì viễn ảnh suy vong trong tương lai, mà hãy nên như mặt trời giữa khung trời thẳm, chiếu soi cho thiên hạ
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰 . 豐 . 大 也 . 明 以 動 . 故 豐 . 王 假 之 . 尚 大 也 . 勿 憂 宜 日 中 . 宜 照 天 下 也 . 日 中 則 昃 . 月 盈 則 食 . 天 地 盈 虛 . 與 時 消 息 . 而 況 人 於 人 乎 ? 況 於 鬼 神 乎 ?
Phong. Đại dã. Minh dĩ động. Cố phong. Vương cách chi. Thượng đại dã. Vật ưu nghi nhật trung. Nghi chiếu thiên hạ dã. Nhật trung tắc trắc. Nguyệt doanh tắc thực. Thiên địa doanh hư. Dữ thời tiêu tức. Nhi huống ư nhân hồ? Huống ư quỉ thần hồ?
Dịch. Thoán rằng:
Phong là phong đại, lớn lao,
Thông minh, hoạt động lẽ nào chẳng phong.
Phong doanh, chỉ đấng cửu trùng,
Cửu trùng mới thích vẫy vùng, bao la.
Chuyện đời, đừng sợ đừng lo,
Hãy như mặt nhật, nhởn nhơ giữa trời.
Chiếu soi khắp chốn, khắp nơi,
Khắp cùng thiên hạ,chiếu soi rỡ ràng.
Vừng dương cao sẽ xế ngang,
Trăg tròn, rồi sẽ chuyển sang vơi, gầy.
Đất trời, lúc rỗng, lúc đầy,
Thăng trầm, tăng giảm, đổi thay theo thời.
Đất trời còn thế, nữa người.
Quỉ thần âu cũng một bài thịnh suy.
Thoán Truyện định nghĩa Phong là lớn lao.
Muốn đạt tới Phong đại phải:
1-Thông minh sáng suốt. 2- Có nghị lực để thực hiện các chương trình, ý định của mình. 3-Là bậc Vương giả, mới có mộng lớn lao, những đồ án vĩ đại, mới có những điều kiện tinh thần, vật chất, nhân sự, để thực hiện ý muốn của mình (Minh dĩ động. Cố phong. Vương cách chi. Thượng đại dã). Khi đạt tới mức phong doanh cao đại, bậc vương giả hãy cứ an tâm làm ơn ích, treo gương sáng cho đời, như mặt trời trên khung trời thẳm, tỏa quang huy cùng khắp chốn nơi. (Vật ưu nghi nhật trung. Nghi chiếu thiên hạ dã).
Tiếp theo, Thoán Truyện bàn về việc doanh hư của trời đất, và cho đó là một định luật phổ quát.
- Mặt trời lên đến tột đỉnh, rồi sẽ xế tà dần.
-Mặt trăng tròn rồi lại khuyết.
Trời đất theo đà thời gian, đầy rồi lại vơi, tăng rồi lại giảm, thì sự đời làm sao mà cứ thịnh mãi, mà chẳng có suy (Nhật trung tắc trắc. Nguyệt doanh tắc thực. Thiên địa doanh hư. Dữ thời tiêu tức. Nhi huống ư nhân hồ. Huống ư quỷ thần hồ.)
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết:
象 曰 . 雷 電 皆 至 . 豐 . 君 子 以 折 獄 致 刑 .
Lôi điện giai chí. Phong. Quân tử dĩ triết ngục trí hình.
Dịch. Tượng rằng:
Phong là sấm chớp song sinh,
Hiền nhân triết ngục, trí hình hẳn hoi.
Tội tình, xét xử cho đời,
Ngục hình áp dụng rạch ròi, phân minh.
Chớp tượng trưng cho sự sáng láng. Sấm tượng trưng cho sự uy nghi, mạnh mẽ. Cho nên, người quân tử nhân đó cũng phải dùng hết trí thông minh của mình, mà phán đoán các vụ hình án, dùng hết oai lực của mình, mà áp dụng các hình phạt. Trái lại Đại Tượng quẻ Phệ hạp, dạy người quân tử phải dùng trí thông minh của mình mà lập ra các luật pháp và các hình phạt.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 遇 其 配 主 . 雖 旬 無 咎 . 往 有 尚 .
象 曰 . 雖 旬 無 咎 . 過 旬 災 也 .
Sơ Cửu.
Ngộ kỳ phối chủ. Tuy tuần vô cữu. Vãng hữu thượng.
Tượng viết:
Tuy tuần vô cữu. Quá tuần tai dã.
Dịch.
Gặp người đồng đức kết đôi,
Ta, người cân xứng, vậy thời lỗi chi.
Tiến lên, sẽ được thỏa thuê.
Tượng rằng: Cân xứng lỗi chi,
Còn như chênh lệch, sẽ bề tai hung.
Quẻ Phong gồm có Chấn là động, mà quẻ Ly là lửa.
Ý nói muốn làm nên phong đại, cần phải phối hiệp sự quang minh với nghị lực để hành động.
Hào Sơ đây ứng với Hào tứ, chẳng khác nào gập người cộng sự đồng cân, đồng lạng. Được vậy, chẳng những không có gì đáng trách (Ngộ kỳ phối chủ. Tuy tuần vô cữu), mà lại giúp mình lập được công nghiệp đáng khen (Vãng hữu thượng).
Tượng Truyện cho rằng, hai người cộng sự với nhau, mà không có óc tranh hơn, tranh thắng, mới hay, còn như nếu có óc tranh dành hơn thiệt, thì âu sẽ bị tai hoạ. (Tuần là cân xứng với nhau. Quá tuần là chênh lệch không cân xứng) (Tuy tuần vô cữu. Quá tuần tai dã).
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 豐 其 蔀 . 日 中 見 斗 . 往 得 疑 疾 . 有 孚 發 若 . 吉 .
象 曰 . 有 孚 發 若 . 信 以 發 志 也 .
Lục nhị.
Phong kỳ bộ. Nhật trung kiến đẩu. Vãng đắc nghi tật.
Hữu phu phát nhược. Cát.
Tượng viết:
Hữu phu phát nhược. Tín dĩ phát chí dã.
Dịch.
Dày mà dày bức màn che,
Trưa nhìn sao nhỏ lập lòe thinh không.
Tiến lên sẽ bị nghi lòng,
Chí thành tự thủ, mới mong cảm người.
Tượng rằng:
Chí thành tự thủ cảm người,
Tín thành là cách để khơi tâm tình.
Lục nhị cư trung, đắc chính, tượng trưng cho một hiền thần, lại ở giữa quẻ Ly, nên rất sáng suốt.
Nhưng Lục ngũ thì lại Âm nhu bất chính, hôn ám, nghe lời sàm tấu, không tin dùng Lục nhị, tình trạng này chẳng khác nào khi trời có Nhật thực, giữa ban ngày thấy chòm sao Bắc đẩu hiện ra trên trời (Phong kỳ bộ. Nhật trung kiến đẩu). (Bộ đây là dày đặc, đến nỗi làm mất hết ánh sáng mặt trời). Gặp trường hợp này, mà nếu Lục nhị cứ tiến lên, cứ muốn dở dói, hoạt động thì sẽ chuốc lấy sự nghi kỵ (Vãng đắc nghi tật). Hay nhất là dùng lòng chí thành của mình, mà cảmhóa, mà mở mang tâm trí quân vương. (Hữu phu phát nhược. Cát).
Tượng Truyện giải rằng: Dùng lòng chí thành của mình, cốt là để mở mang tâm tình, ý chí của vua vậy (Hữu phu phát nhược. Tín dĩ phát chí dã).
Hào này làm ta liên tưởng đến Chu Công. Khi Võ Vương mất (1114 trước Công Nguyên), con nối ngôi là Thành Vương còn nhỏ, mới 13 tuổi, Chu Công phải chấp chính. Bọn Quản Thúc, Thái Thúc và Hoắc Thúc, đều là anh em ruột của Chu Công, phao tiếng đồn là Chu Công muốn tranh ngôi vua Thành Vương, và bọn ấy còn mưu tính tiếp tay cho Vũ Oanh (con Trụ Vương) phản loạn. Chu Công phải bỏ triều chính một thời gian ngắn, rồi về phía Đông ở, để dẹp yên lòng nghi kỵ trong gia đình và dị nghị của thiên hạ. Đến khi biết lòng của chú, Thành Vương thân chinh đi đón Chu Công về (1112), và giao phó cho việc dẹp loạn Vũ Oanh. Chu Công bình định phản loạn, tổ chức trị yên bốn bể làm cho Trung Quốc trở nên phú cường, thái thịnh.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 豐 其 沛 . 日 中 見 昧 . 折 其 右 肱 . 無 咎 .
象 曰 . 豐 其 沛 . 不 可 大 事 也 . 折 其 右 肱 . 終 不 可 用 也 .
Cửu tam.
Phong kỳ bái. Nhật trung kiến muội. Triết kỳ hữu quăng. Vô cữu.
Tượng viết :
Phong kỳ bái. Bất khả đại sự dã. Triết kỳ hữu quăng.
Chung bất khả dụng dã.
Dịch.
Phong mà cờ xí dày che,
Trưa nhìn sao nhỏ lập loè thinh không.
Như què tay mặt hết dùng,
Sự đời đến thế, còn hòng trách ai.
Tượng rằng:
Dày mà cờ xí dày che,
Phàm làm đại sự, khó bề nên công.
Đã què tay mặt, hết dùng,
Còn dùng chi nữa, mà mong mai này.
Tới Hào Cửu tam, thì sự khuất lấp của nhà vua lại còn tệ hại hơn nữa, chẳng khác nào mặt trời bị nhật thực hoàn toàn, đến nỗi giữa ban ngày thấy rõ cả những ngôi sao nhỏ. (Phong kỳ bái. Nhật trung kiến muội). (Bái là cái màn kín mít. Muội là sao nhỏ). Gặp trường hợp này, Cửu tam dẫu có tài, có đức mấy cũng như gẫy hẳn tay mặt, khó bề xoay trở (Triết kỳ hữu quăng). Nhưng như thế, đâu phải do lỗi của Cửu tam (Vô cữu).
Khi đã gặp trường hợp tiểu nhân bưng bít nhà vua như vậy, thì mình làm sao làm công chuyện lớn được (Phong kỳ bái. Bất khả đại sự dã). Chẳng khác nào tay phải đã bị gẫy, làm sao mà còn dùng được (Triết kỳ hữu quăng. Chung bất khả dụng dã).
4. Hào Cửu Tứ.
九 四 . 豐 其 蔀 . 日 中 見 斗 . 遇 其 夷 主 .吉 .
象 曰 . 豐 其 蔀 . 位 不 當 也 . 日 中 見 斗 . 幽 不 明 也 .
遇 其 夷 主 . 吉 . 行 也 .
Cửu tứ.
Phong kỳ bộ. Nhật trung kiến đẩu. Ngộ kỳ di chủ. Cát.
Tượng viết:
Phong kỳ bộ. Vị bất đáng dã. Nhật trung kiến đẩu.
U bất minh dã. Ngộ kỳ di chủ. Cát hành dã.
Dịch.
Dày mà dày bức màn che,
Trưa nhìn sao đẩu lập lòe thinh không.
Dưới mình, nếu có bạn lòng,
Gặp người đồng đức, mới mong tốt lành.
Tượng rằng: Dày bức màn che,
Vị ngôi còn có lắm bề dở dang.
Trưa nhìn sao đẩu rõ ràng,
Tối tăm mù mịt, sang làm sao đây?
Gặp người đồng đức, mới hay,
Đi tìm gặp gỡ, mới may mới lành.
Khi nhà vua bị tiểu nhân bưng bít, như mặt trời bị khuất lấp, bị nhật thực, ban ngày trông rõ cả sao Bắc Đẩu, thì bậc Đại thần chỉ có cách kết liên với những người đông tâm, đồng đức, như vậy mới là hay.
Tượng Truyện giải thích thêm rằng: Cửu tứ vì ở vào địa vị không được hẳn hoi, nhưng chẳng khác nào như bị bưng bít (Phong kỳ bộ. Vị bất đáng dã). Đàng khác, thì nhà vua hôn ám, chẳng khác nào mặt trời bị nhật thực, đến nỗi ban ngày cũng thấy sao Bắc Đẩu (Nhật trung kiến đẩu. U bất minh dã). Trong trường hợp ấy, mà gặp được người đồng tâm, đồng đức, cộng tác với mình. Thì mọi sự mới là hay (Ngộ kỳ di chủ. Cát hành dã). Di chủ là người cộng tác với mình.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 來 章 . 有 慶 譽 . 吉 .
象 曰 . 六 五 之 吉 . 有 慶 也 .
Lục ngũ.
Lai chương. Hữu khánh dự . Cát.
Tượng viết:
Lục ngũ chi cát. Hữu khánh dã.
Dịch.
Nếu mà chiêu mộ hiền tài,
Thế thời phúc khánh, thế thời vẻ vang.
Tượng rằng: Lục ngũ mà hay,
Thế thời phúc khánh, đó đây đã đành.
Lục ngũ là một bậc quân vương không lấy gì làm xuất sắc, cho nên cần phải biết hạ mình mà cầu người hiền, chiêu mộ những bậc hiền tài (Lai chương). Như vậy mới được phúc khánh (Hữu khánh). Dùng được hiền tài, thời phong doanh, thái thịnh mới có cơ thực hiện, và như vậy mới được vẻ vang, danh giá, còn gì tốt lành hơn nữa (Dự cát).
Cái hay của Lục ngũ chính là được phúc khánh vậy (Lục ngũ chi cát. Hữu khánh dã).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 豐 其 屋 . 蔀 其 家 . 窺 其 戶 .闃 其 無 人 . 三 歲 不 見 . 凶 .
象 曰 . 豐 其 屋 . 天 際 翔 也 . 窺 其 戶 . 闃 其 無 人 . 自 藏 也 .
Thượng Lục.
Phong kỳ ốc. Bộ kỳ gia. Khuy kỳ bộ. Huých kỳ vô nhân.
Tam tuế bất địch. Hung.
Tượng viết:
Phong kỳ ốc. Thiên tế tường dã. Khuy kỳ bộ.
Huých kỳ vô nhân. Tự tàng dã.
Dịch.
Tuy là gia thế phong doanh,
Màn che, trướng rủ bao quanh lấp nhà.
Từ trong cánh cửa nhìn ra,
Tứ bề quạnh quẽ, hỏi là còn ai ?
Ba năm chẳng thấy bóng người,
Sự tình đến thế, thế thời chẳng hay.
Tượng rằng: Gia thế phong doanh,
Một mình tung cánh tầng xanh, liệng vòng.
Từ trong khe cửa vời trông,
Mòn con mắt ngó, tuyệt không bóng người.
Mình che, mình dấu, mình vùi,
Mình xa chẳng phải tự người muốn xa.
Một kẻ chỉ mong vinh thân, phì gia, kiêu căng vô lối, sẽ mất nhân tâm, và sẽ sống một cuộc đời cô độc. Có khác nào một người bưng bít nhà mình, (Phong kỳ ốc. Bộ kỳ gia), rồi nhìn qua khe cửa, chung quanh chẳng thấy một ai (Khuy kỳ bộ. Huých kỳ vô nhân). Tứ bề quạnh quẽ, mấy năm trời cũng chẳng thấy ai lai vãng, thế là xấu, chẳng có ra gì (Tam tuế bất địch. Hung).
Một người cao ngạo, sống cô độc, bưng bít, xa cách mọi người như vậy, chẳng khác nào như bay bổng lên trời, (Phong kỳ ốc. Thiên tế tường dã). Không thấy ai chung quanh mình, chính là vì mình đã có thái độ xa cách đối với mọi người vậy (Huých kỳ vô nhân. Tự tàng dã).
Tự tàng là tự mình che bít mình.
ÁP DỤNG QUẺ PHONG VÀO THỜI ĐẠI
Phong là giàu có, thái thịnh. Quẻ Phong trên là Lôi (Sấm), dưới là Ly (lửa, sáng). Ý nói muốn trở nên giàu có, con người cần phải cố gắng, nỗ lực (Lôi), phải thông minh, sáng suốt(Ly). Khi mình đã cố gắng, đã hết sức suy tư, thì dẫu sự đời có thăng trầm, biến hóa, ta cũng đừng có ngại.
Ở đời, chúng ta thấy nguyên kiếm được miếng cơm, manh áo, nhiều khi cũng rất là khó khăn. Ta có những câu như Hai sương, một nắng, nghĩa là làm việc từ tờ mờ sáng, lúc còn sương mù, cho đến đêm khi bắt đầu có sương. Ngay xứ Mỹ này, còn biết bao người chẳng những đi làm toàn thời gian, mà còn làm thêm nhiều giờ phụ trội để kiếm ăn nữa .
Nhưng bao giờ cũng như bao giờ, chúng ta vẫn cần những người lãnh đạo cho hay, cho giỏi, sống gần dân, chứ không bị bao che, bưng bít, sống không biết dân là gì
Ngày nay, tuy rằng Khoa học đã tiến bộ, nhưng Đạo đức lại thụt lùi, nên tệ đoan của xã hội không giảm được bao nhiêu, mà ở các nước nghèo, chậm tiến, lại càng tệ hơn nữa.
Vậy bổn phận làm người dân của nước nào chăng nữa (dù chính thức hay bán chính thức), nếu chúng ta muốn quốc gia, mà ta đang hiện cư ngụ, được phong thịnh, ta cũng phải có bổn phận cộng tác với chính quyền, giúp đỡ chính quyền trong mọi vấn đề, dù nhẹ nhàng hay nan giải, nếu một khi chính quyền cần đến sự cộng tác của ta.
Ta đừng nên đòi hỏi sự hoàn hảo, hoàn toàn nơi chính quyền, vì quyết nghị của một đạo luật nào, thì cũng là ý kiến của một số người mà thôi, mà đã là người thì không thể không có sai lầm, nên thấy điều gì sai lầm, ta phải mạnh dạn đứng lên vạch rõ sự sai lầm đó, và thành khẩn đưa ra những ý kiến xây dựng của mình, yêu cầu họ cứu xét lại.
Ta phải cộng tác với chính quyền trong việc bài trừ tham nhũng, lưu manh, du đãng, buôn xì ke, ma túy vv... để lành mạnhhóa xã hội.
Tóm lại, đừng bưng bít những gì xấu xa, tệ hại. Phải can đảm đứng lên cộng tác với chính quyền, dù kẻ xấu đó là nhân viên cao cấp của chính quyền cũng đừng sợ hãi. Luôn luôn, phải nhớ rằng, sự thái thịnh của quốc gia, là sự thái thịnh của mình vậy. Nếu quốc gia mà nghèo nàn, công nợ, thì con dân trong nước làm sao được chính phủ lo lắng, hoặc chăm sóc chu toàn cho mình được. Hãy làm tròn bổn phận một người công dân có trách nhiệm với nước của mình, hay với nước mình đang cư ngụ. Như vậy mới xứng đáng là người quân tử, giúp đời, giúp nước.
TRẠCH HỎA CÁCH
Cách Tự Quái
革 序 卦
Tỉnh đạo bất khả bất cách
井 道 不 可 不 革
Cố thụ chi dĩ Cách.
故 受 之 以 革
Cách Tự Quái
Giếng thời chẳng thể gót đầu chẳng thay.
Cho nên Cách tiếp theo ngay.
Giếng đã để lâu ngày, bùn đất sẽ ứ đọng, nên cần phải vét, phải khơi cho sạch. Chính quyền lâu ngày cũng có lắm điều hủ hoại, cần đổi thay. Vì thế sau quẻ Tỉnh là quẻ Cách.
Cách là cách mạng, là đổi thay những gì cũ kỹ, hủ bại. Chữ Cách theo nguyên nghĩa là da, là thay da, lột xác. Loài vật còn có lúc thay da, lột xác, thì chính quyền, thì xã hội loài người cũng có lúc phải thay da, lột xác, phải đổi mới hoàn toàn. Đổi mới để cho hết ù lì, để trở nên sống động, đổi mới để tiến tới một đời sống hoàn hảo hơn.
Quẻ Cách, trên là Đoài, là hồ, là nước; dưới là Ly là lửa. Nước đổ xuống, lửa bốc lên, thời sự xung đột, khủng hoảng đã đến tột độ, thế là đôi bên đã ở vào thế một mất, một còn. Đã khủng hoảng tột độ, ắt phải có sự đổi thay.
Quẻ Cách, trên là Đoài, là thiếu nữ, dưới là Ly là trung nữ. Hai chị em gái ở chung nhau một nhà, đã lắm chuyện xích mích rồi, nay em nhỏ chơi chèo lấn át chị, thời làm sao tránh khỏi sự xung đột. Vì thế nên sẽ có cuộc cách mạng.
I. Thoán.
Thoán từ.
革 . 己 日 乃 孚 . 元 亨 利 貞 . 悔 亡 .
Cách. Dĩ nhật nãi phu. Nguyên hanh lợi trinh. Hối vong.
Dịch.
Cách là đổi lốt, đổi đời,
Đổi thay xong xả, rồi đời mới tin.
Đổi thay tốt đẹp mới nên,
Hợp thời, hợp lý, chu tuyền hanh thông.
Hợp tình, hợp lý nên công,
Mới không hối hận, mới không phàn nàn.
Thoán từ: Cách là đả phá những gì lạc hậu, lỗi thời, hủ hoá, để thay đổi những gì thích hợp hơn, hữu ích hơn. Tuy nhiên, làm cách mạng bất kỳ ở trong lãnh vực nào, cũng không được dân tin ngay, vì con người thường ù lì, không muốn thay đổi lề lối sống đã quen, lại không muốn phiêu lưu. Cho nên, cuộc cách mạng nào cũng đòi hỏi một thời gian, mới được dân chúng tin (Cách dĩ nhật nãi phu). Dĩ nhật là trải nhiều ngày; nãi phu là mới được tin cậy. Cuộc Cách mạng nào cũng đưa đến binh cách, đến đổ máu không ít, thì nhiều. Lịch sử đã chứng minh điều đó. Ví dụ: Cuộc Cách mạng Pháp năm 1879 lật đổ chế độ quân chủ, thiết lập chế độ dân chủ. Cuộc Cách mạng Nga năm 1917, lật đổ Nga Hoàng, thiết lập chế độ Cộng sản. Ở nước ta, thì những cuộc Cách mạng 1945 (Việt Minh cướp chính quyền), 1955 Ngô Đình Diệm lật đổ Bảo Đại, 1963 Dương Văn Minh lật đổ Ngô Đình Diệm.v.v... Cho nên làm cách mạng, muốn cho khỏi hối hận, phàn nàn về sau, thời phải thực hiện được những tôn chỉ sau:
Cách mạng phải đưa đến một chế độ đẹp đẽ hơn (Nguyên). Cách mạng phải làm cho đời sống dân chúng sung sướng hơn (Hanh). Cách mạng phải mang lại lợi ích thực sự (Lợi). Cách mạng phải có chính nghĩa (Trinh).
Vì thế Thoán từ nói: Nguyên hanh lợi trinh. Hối vong.
Thoán Truyện.
Thoán viết:
彖 曰 . 革 . 水 火 相 息 . 二 女 同 居 . 其 志 不 相 得 . 曰 革 . 己 日 乃 孚 . 革 而 信 之 . 文 明 以 說 . 大 亨 以 正 . 革 而 當 . 其 悔 乃 亡 . 天 地 革 而 四 時 成 . 湯 武 革 命 . 順 乎 天 而 應 乎 人 . 革 之 時 大 矣 哉 .
Cách. Thủy hoả tương tức. Nhị nữ đồng cư. Kỳ chí bất tương đắc. Viết cách. Dĩ nhật nãi phu. Cách nhi tín chi. Văn minh dĩ duyệt. Đại hanh dĩ chính. Cách nhi đáng. Kỳ hối nãi vong. Thiên địa cách nhi tứ thời thành. Thang Võ cách mạng. Thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân. Cách chi thời đại hỹ tai.
Dịch.
Cách là nước lửa đương đầu,
Là hai cô gái chung nhau một nhà.
Đôi bên chí hướng khác xa,
Nên là chống đối, nên là đổi thay.
Đổi thay ròng rã nhiều ngày,
Rồi ra mới được đó đây tin lòng.
Trong thời sáng láng, tinh thông,
Ngoài thời vui vẻ, bao dong mọi người.
Y theo trung chính, đạo trời,
Thế nên mọi sự xong xuôi thành toàn,
Cách mà chính đáng, mới ngoan,
Cách mà chính đáng, phàn nàn nỗi chi.
Đất trời thay đổi suy di,
Bốn mùa nhờ thế đúng kỳ luân lưu.
Vua Thang, vua Vũ thay triều,
Thuận trời, vả cũng ứng theo lòng người,
Đổi thay, mà lại hợp thời,
Thật là vĩ đạị, trên đời chi hơn.
Thoán Truyện: Cách sở dĩ sinh ra là vì có một sự xung khắc, mâu thuẫn, một cuộc khủng hoảng giữa hai phe đối lập, mâu thuẫn nhau như nước với lửa, như hai chị em gái ở chung một nhà, và bất đồng chí hướng với nhau (Cách. Thủy hỏa tương tức. Nhị nữ đồng cư. Kỳ chí bất tương đắc).
Tiếp theo Thoán Truyện giải những câu của Thoán từ. Thoán từ nói: Dĩ nhật nãi phu, nghĩa là làm sao? Thưa đó là làm cách mạng, rồi sẽ được người ta tin theo.
Dĩ nhật nãi phu. Cách nhi tín chi. Tại làm sao làm cách mạng mà không phải phàn nàn? Thưa vì người làm cách mạng, có một khối óc sáng suốt, nhìn xa, trông rộng, thấu hiểu được sự thể, quán triệt được tình hình, khéo lấy lòng người, lại hoạch định được một chương trình có thể khai thông được mọi bế tắc, hứa hẹn một ngày mai tươi sáng. Tóm lại, làm cách mạng một cách xứng đáng, sẽ không phải phàn nàn hối hận về sau (Văn minh dĩ duyệt. Đại hạnh dĩ chính. Cách nhi đáng. Kỳ hối nãi vong).
Vả lại sự canh cải trong trời đất, cũng như cuộc cách mạng trong lịch sử không thể không có. Trời đất nhờ canh cải, nên có bốn mùa. Vua Thành Thang, vua Vũ đã làm được những cuộc cách mạng, trên thuận lẽ trời, dưới hợp ý dân. Canh cải mà hợp thời, cách mạng mà đúng lúc, thực là cao cả vậy (Thiên địa cách nhi tứ thời thành. Thang Vũ cách mạng. Thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân. Cách chi thời đại hỹ tai).
Ta có thể trích một đoạn trong sách Mạnh Tử, mà giải Thoán từ, Thoán Truyện quẻ Cách như sau: Trong Kinh Thư có chép rằng: Vua Thành Thang (chết năm 1753 trước Dương Lịch), khi khởi cuộc chinh phục, trước hết đánh lấy nước Cát. Thiên hạ đều tin tưởng ngài. Ngài đương chinh phục miền Đông, thì những đoàn rợ Di miền Tây phiền trách, tới chừng ngài chinh phục miền Nam, thì những đoàn rợ Địch miền Bắc phiền trách. Họ trách rằng: Sao ngài chẳng sớm đến nước ta? Dân chúng khắp thiên hạ mong chờ ngài đến, như lúc trời hạn hán, người ta trông thấy mây và mống trời. Đến chừng ngài kéo binh vào xứ họ, họ vẫn tự nhiên chẳng sợ sệt gì cả. Người đi chợ vẫn đi, người đương cầy vẫn cầy. Ngài giết những vì vua hung bạo mà giải cứu cho nhân dân. Bá tánh đều mừng rỡ, dường như được mưa tuôn phải lúc. Kinh Thư chép: Chúng ta trông vua, ngài đến, chúng ta như sống lại. (Kinh Thư, Trọng Hủy chi cáo, tiết 6).
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 澤 中 有 火 . 革 . 君 子 以 治 歷 明 時 .
Tượng viết:
Trạch trung hữu hỏa. Cách. Quân tử dĩ trị lịch minh thời.
Dịch. Tượng rằng:
Cách là lửa ở trong hồ,
Hiền nhân làm lịch để cho biết thời.
Trong hồ có lửa là Cách, quân tử nhân đó làm lịch để biết rõ thời tiết. Lửa ở dưới, hồ ở trên, kình địch lẫn nhau, nên sinh biến hóa. Trong một năm, khí Âm, khí Dương kình địch lẫn nhau, nên sinh biến hóa. Con người có thể hiểu được sự biến hóa của trời đất ấy, vì thấy nó có tiết tấu, thứ tự, nên đã làm ra được lịch. Làm được lịch, tức là trông rõ được sự biến hoá của trời đất, tiên đoán được nó, để chuẩn bị trước được, mà sống theo đúng nhu cầu của mỗi thời tiết.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 鞏 用 黃 牛 之 革 .
象 曰 . 鞏 用 黃 牛 . 不 可 以 有 為 也 .
Sơ Cửu.
Củng dụng hoàng ngưu chi cách.
Tượng viết:
Củng dụng hoàng ngưu. Bất khả dĩ hữu vi dã.
Dịch.
Bò vàng mà lột lấy da,
Mà thắt, mà bó chắc là mấy mươi.
Tượng rằng:
Bò vàng da lấy thắt bao,
Nghĩa là đừng vội tầm phào ra tay.
Hào Sơ Cửu: Muốn làm cách mạng, không phải ai cũng làm được. Phải có tài, có vị, có thời, có thế, mới làm cách mạng được. Sơ Cửu đây tuy là người có tài, nhưng chưa có địa vị, lại ở buổi sơ khai của thời Cách, nên thời cơ chưa được thuận tiện, trên lại không có người giúp đỡ, như vậy dĩ nhiên Sơ không nên vọng động. Lúc ấy chỉ nên kiềm chế mình bằng đường lối trung thuận. Trung thuận tức là cư xử cho hợp lý, cho mềm dẻo.
Củng là ràng buộc. Hoàng là vàng, là Trung; Ngưu là trâu là Thuận. Tượng Truyện bình rằng: Lúc này là lúc chưa nên hành động, dở dói gì hết (Củng dụng hoàng ngưu. Bất khả dĩ hữu vi dã).
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 己 日 乃 革 之 . 征 吉 . 無 咎 .
象 曰 . 己 日 革 之 . 行 有 嘉 也 .
Lục nhị.
Dĩ nhật nãi cách chi. Chinh cát. Vô cữu.
Tượng viết:
Dĩ nhật cách chi. Hành hữu gia dã.
Dịch.
Sửa sang, chuẩn bị nhiều ngày,
Bây giờ là lúc ra tay đổi đời.
Tiến hành sẽ tốt, sẽ xuôi,
Hết còn lo chuyện đơn sai, lỗi lầm.
Tượng rằng:
Sửa sang, chuẩn bị nhiều ngày,
Rồi ra mới dám ra tay đổi đời.
Tiến hành chuyện sẽ êm xuôi,
Thế thời là tốt, thế thời đáng khen.
Hào Lục nhị ám chỉ một người hội đủ điều kiện để làm cách mạng.
1. Có địa vị (Lục nhị là Hào của đại thần).
2. Nhu thuận, trung chính (Hào Lục nhị).
3. Sáng suốt, thông minh (Hào giữa quẻ Ly).
4. Trên có minh quân ủng hộ (Hào Cửu ngũ).
Tuy nhiên, muốn làm cách mạng, phải sửa soạn nhiều tháng, nhiều ngày, rồi mới có thể ra tay hành động (Dĩ nhật nãi cách chi).
Khi đã hội đủ các điều kiện rồi, mà hành động, thời chắc chắn kết quả sẽ đẹp đẽ, tốt lành. (Chinh cát. Vô cữu).
Tượng Truyện bình rằng: Chuẩn bị chày tháng, chày ngày, đợi đúng thời cơ mới ra tay cách mạng, thì chắc sẽ được như nguyện, chắc là đáng được khen lao vậy (Dĩ nhật cách chi. Hành hữu gia dã).
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 征 凶 . 貞 厲 . 革 言 三 就 . 有 孚 .
象 曰 . 革 言 三 就 . 又 何 之 矣 .
Cửu tam.
Chinh hung. Trinh lệ. Cách ngôn tam tựu. Hữu phu.
Tượng viết:
Cách ngôn tam tựu. Hựu hà chi hỹ.
Dịch.
Tiến lên sẽ chẳng có hay,
Phải theo chính đạo, phải dày đắn đo.
Bao nhiêu kế hoạch, mưu cơ,
Phải cân, phải nhắc, ít là ba phen.
Mưu cơ, kế hoạch chu tuyền,
Thế thời chắc chắn sẽ nên công trình.
Tượng rằng:
Ba phen kế hoạch đắn đo,
Thời thôi thêm thắt vòng vo làm gì ?
Hào Cửu tam là một người cương trực, nên muốn tiến hành gấp công chuyện cách mạng. Tuy nhiên Dịch cho rằng: Làm gấp, làm vội, sẽ gặp tai ương (Cửu tam. Chinh hung). Muốn làm cách mạng, phải luôn theo chính nghĩa, phải biết lo lắng đề phòng.(Trinh lệ). Phàm là cơ mưu của mình, cũng như dư luận quần chúng, cần được duyệt, được khảo cho tường tận, kỹ càng (Cách ngôn tam tựu). Tức là phải duyệt xét ba lần. Có cẩn trọng như vậy, mới chắc chắn nên công (Hữu phu). Nhưng cẩn trọng, không phải là do dự. Một khi kế hoạch đã được thảo luận kỹ càng rồi, phải được đem ra thi hành, chứ đừng nên do dự, tìm đường lối khác mà chi. Vì thế Tượng Truyện mới nói: Cách ngôn tam tựu. Hựu hà chi hỹ. Hựu hà chi hỹ là: còn đi đâu nữa, còn thêm gì nữa.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 悔 亡 . 有 孚 . 改 命 . 吉 .
象 曰 . 改 命 之 吉 . 信 志 也 .
Cửu tứ.
Hối vong. Hữu phu. Cải mệnh. Cát.
Tượng viết:
Cải mệnh chi cát. Tín chí dã.
Dịch.
Hết điều hối hận, phàn nàn,
Mọi người tin tưởng hoàn toàn từ nay.
Cho nên cứ việc đổi thay,
Công trình Cách mệnh hẳn hay, hẳn lành.
Tượng rằng: Cách mệnh là hay,
Là vì trên dưới, đó đây tin lòng.
Hào Cửu tứ ám chỉ một người:
1. Có tài làm cách mạng (Hào Dương).
2. Gặp thời cơ thuận tiện (vượt Hạ quái, lên Thượng quái)
3. Có thế (Ở giữa Thủy và Hỏa, Đoài và Ly).
4. Được tín nhiệm (Kề Hào Cửu ngũ là Quân vương).
5. Có chí lớn, không bị ràng buộc (Hào Cửu tứ không ứng với Sơ).
6. Mình lại thành khẩn, được mọi người tin cậy. (Hữu phu). Như vậy mà ra tay làm cách mạng, chắc là được mọi sự may mắn, tốt lành (Cải mệnh. Cát).
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 大 人 虎 變 . 未 占 有 孚 .
象 曰 . 大 人 虎 變 . 其 文 炳 也 .
Cửu ngũ.
Đại nhân hổ biến. Vị chiếm hữu phu.
Tượng viết:
Đại nhân hổ biến. Kỳ văn bính dã.
Dịch.
Đại nhân như hổ thay lông,
Không cần bói toán, muôn lòng đều tin.
Tượng rằng:
Đại nhân như hổ thay lông,
Là vì sự nghiệp thành công rỡ ràng.
Hào Cừu ngũ: Đại nhân như hổ thay lông, thực thi được những công trình cải cách vĩ đại nhãn tiền (Đại nhân hổ biến). Vì thế, ảnh hưởng của vị quân vương, sau khi đã hoàn thành được công cuộc cách mạng, thật là lớn lao.
Để bình giải Hào này, Nho gia thường trích dẫn lời sách của Mạnh Tử: Người quân tử đi đến đâu, thì ở đó được cải hoá. Người ở đâu, thì ảnh hưởng như thần. Ảnh hưởng người phổ cập khắp nơi, từ trên chí dưới, lưu thông dung hiệp với trời đất... Như vậy sao có thể nói được rằng: Người chỉ làm lợi ích nhỏ cho xã hội? (Mạnh Tử, Tận Tâm thượng tiết 13). Đại nhân mà cách mạng bản thân thiệt tình, mà gây được một ảnh hưởng mạnh mẽ đối với dân, thì chẳng cần bói toán, cũng biết rằng người ta vẫn tin mình (Vị chiếm hữu phu). Tượng Truyện cho rằng: Công trình và ảnh hưởng của bậc quân vương như hổ thay lông, rỡ ràng, hiển hiện.(Đại nhân hổ biến. Kỳ văn bính dã).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 君 子 豹 變 . 小 人 革 面 . 征 凶 . 居 貞 吉 .
象 曰 . 君 子 豹 變 . 其 文 蔚 也 . 小 人 革 面 . 順 以 從 君 也 .
Thượng Lục.
Quân tử báo biến. Tiểu nhân cách diện. Chinh hung. Cư chinh cát.
Tượng viết:
Quân tử báo biến. Kỳ văn úy dã. Tiểu nhân cách diện.
Thuận dĩ tòng quân dã.
Dịch.
Quân tử như báo thay da,
Tiểu nhân sắc diện, nay đà khác xưa.
Đừng nên dở dói quá đa,
Miễn sao minh chính, thế là đã hay.
Tượng rằng:
Quân tử như báo thay da,
Phong quang văn vẻ, mặn mà dễ ưa.
Tiểu nhân sắc diện khác xưa,
Thuận tình vâng lệnh nhà vua từ rầy.
Hào Thượng Lục: Khi cuộc Cách mạng đã thành rồi, thì người quân tử cũng thành khẩn mà thay đổi lề lối sống, như báo thay lông. Còn tiểu nhân thì chỉ thay đổi phía bên ngoài (Quân tử báo biến. Tiểu nhân cách diện). Lúc ấy làm gì thêm nữa cũng chẳng hay, cứ giữ được đường lối cách mạng đã hoạch định là tốt (Chinh hung. Cư trinh cát). Tào Tham được cử làm Thừa tướng thay Tiêu Hà, thời cứ tuân theo pháp độ của Tiêu Hà mà trị, không nhiều chuyện bày vẽ thêm. Vua Huệ Đế hỏi: Khanh làm thừa tướng, là chỗ đại nhiệm trong thiên hạ, sao cả ngày ngồi không, lẳng lặng chẳng thấy trị việc chi hết vậy? Tào Tham tâu rằng: Bệ hạ xét mình thánh minh thần võ, sánh với Cao Đế ai hơn? Vua nói: Trẫm đâu dám sánh với tiên đế. Tào Tham lại hỏi: Bệ hạ xem tài năng tôi và Tiêu Hà ai hơn? Vua nói: Tài khanh có khi chẳng bằng Tiêu Hà. Tào Tham nói: Bệ hạ thánh minh đã chẳng bằng Cao đế, còn tôi cũng chẳng bằng Tiêu Hà. Cao Đế đã định pháp, thì Bệ hạ phải tuân giữ, còn Tiêu Hà đã lập thiện chánh, thì tôi phải vâng theo mà làm. Chúa tôi đồng lòng noi theo mà trị, thì bốn biển thanh bình, muôn dân an nghiệp, thiên hạ thái bình, có phải là bệ hạ đặng ngồi an, chẳng tốt hơn sao, lựa phải canh cải cho sanh ra nhiều việc làm chi ! Vua khen phải (Tây Hán diễn nghĩa, 615). Thế đúng là Chinh hung. Cư trinh cát vậy.
Tượng viết: Quân tử báo biến. Kỳ văn úy dã. Tiểu nhân cách diện. Thuận dĩ tòng quân dã. Người quân tử, lúc này đã biến đổi lề lối cũ, sống theo đường lối mới như báo thay da, chững chàng rực rỡ (Quân tử báo biến. Kỳ văn uý dã). Còn tiểu nhân thì mới có sự thay đổi ngoài mặt, để thuận theo nhà vua. Như vậy cũng không nên đòi hỏi hơn nữa (Tiểu nhân cách diện. Thuận dĩ tòng quân dã).
ÁP DỤNG QUẺ CÁCH VÀO THỜI ĐẠI
Ngày nay, thế giới đã Cách mạng hoá, nên đã thay đổi tất cả, từ quốc gia, xã hội, văn hóa, gia đình v.v.. Sự thay đổi, dĩ nhiên là mang lại sự tốt đẹp hơn, nhưng đôi lúc đã đi quá trớn, nên đã mang lại nhiều lỗi lầm tai hại. Ví dụ: Cách mạng đã mang lại chế độ Cộng Sản, tuy đã lật đổ được nền quân chủ độc tài, phong kiến, nhưng vì những người cầm đầu đã đi quá trớn, nên khiến cho dân chúng lầm than, kinh tế kiệt quệ.v.v.
*Ngoài xã hội, người phụ nữ được bình đẳng, bình quyền, nên từ công sở đến học đường, người phụ nữ cũng tham gia đông đảo. Trong gia đình, người vợ có nghề hoặc có công ăn việc làm, thì người chồng cũng bớt được gánh nặng, và đời sống gia đình sẽ thoải mái, vững vàng hơn. Nhưng cũng có những trường hợp, vì có nghề và có thể tự túc được, nhiều khi còn có tài năng, hoặc làm ra nhiều tiền hơn chồng, mà người vợ đâm ra tự kiêu, coi thường chồng, hoặc không còn chịu nhịn nhục như xưa, nên gia đình trở thành địa ngục, rồi mạnh ai nấy tìm người thích hợp với mình hơn, và dễ dàng chia tay nhau, mặc dù lũ con còn nhỏ dại.
Tóm lại, ta thấy Cách mạng chưa hẳn là hay hoàn toàn, mà là phải tùy ta có biết xử dụng nó hay không? Muốn được như ý, ta phải có một nền giáo dục, một nền đạo đức vững chắc làm căn bản. Những người cầm đầu nước phải biết thương dân, lo lợi ích trường cửu cho dân. Trong gia đình, vợ chồng phải biết lo lắng, cộng tác với nhau, phải có trách nhiệm bảo vệ gia đình, và giáo dục con cái. Vả tự ngàn xưa, ai cũng biết: Gia đình có vững, thì dân mới giầu. Dân có giầu, thì nước mới mạnh vậy.
______________________________________________________________________________
6 LÔI HỎA PHONG
Phong Tự Quái
豐 序 卦
Đắc kỳ sở qui giả tất đại.
得 其 所 歸 者 必 大
Cố thụ chi dĩ Phong.
故 受 之 以 豐 .
Phong giả đại dã.
豐 者 大 也 .
Phong Tự Quái
Có nơi qui đáo, ắt thời lớn lao,
Cho nên, Phong mới tiếp vào,
Phong là phong đại, nhẽ nào chẳng to?
Có nơi qui tụ, sẽ đi đến chỗ thịnh đạt, phong doanh, nên sau quẻ Qui Muội là quẻ Phong.
I. Thoán.
Thoán từ.
豐 . 亨 . 王 假 之 . 勿 憂 . 宜 日 中 .
Phong. Hanh. Vương cách chi. Vật ưu. Nghi nhật trung.
Dịch.
Phong là phong thịnh, hanh thông,
Phong doanh, phi đấng cửu trùng, nào ai?
Đừng buồn, đừng sợ chuyện đời.
Hãy như mặt nhật, sáng soi giữa trời.
Khi đã đạt tới phong thịnh, mọi sự sẽ trở nên trôi chẩy (Phong hanh). Chỉ có các bậc vua chúa, mới đi đến chỗ phong đại được, vì chỉ có vua chúa, mới hội đủ điều kiện tinh thần, vật chất, nhân sự, để đi đến chỗ phong doanh, thái thịnh (Vương cách chi). Khi các bậc vương giả, đã đạt được tới giai đoạn thịnh đại, thì đừng có lo âu vì viễn ảnh suy vong trong tương lai, mà hãy nên như mặt trời giữa khung trời thẳm, chiếu soi cho thiên hạ
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰 . 豐 . 大 也 . 明 以 動 . 故 豐 . 王 假 之 . 尚 大 也 . 勿 憂 宜 日 中 . 宜 照 天 下 也 . 日 中 則 昃 . 月 盈 則 食 . 天 地 盈 虛 . 與 時 消 息 . 而 況 人 於 人 乎 ? 況 於 鬼 神 乎 ?
Phong. Đại dã. Minh dĩ động. Cố phong. Vương cách chi. Thượng đại dã. Vật ưu nghi nhật trung. Nghi chiếu thiên hạ dã. Nhật trung tắc trắc. Nguyệt doanh tắc thực. Thiên địa doanh hư. Dữ thời tiêu tức. Nhi huống ư nhân hồ? Huống ư quỉ thần hồ?
Dịch. Thoán rằng:
Phong là phong đại, lớn lao,
Thông minh, hoạt động lẽ nào chẳng phong.
Phong doanh, chỉ đấng cửu trùng,
Cửu trùng mới thích vẫy vùng, bao la.
Chuyện đời, đừng sợ đừng lo,
Hãy như mặt nhật, nhởn nhơ giữa trời.
Chiếu soi khắp chốn, khắp nơi,
Khắp cùng thiên hạ,chiếu soi rỡ ràng.
Vừng dương cao sẽ xế ngang,
Trăg tròn, rồi sẽ chuyển sang vơi, gầy.
Đất trời, lúc rỗng, lúc đầy,
Thăng trầm, tăng giảm, đổi thay theo thời.
Đất trời còn thế, nữa người.
Quỉ thần âu cũng một bài thịnh suy.
Thoán Truyện định nghĩa Phong là lớn lao.
Muốn đạt tới Phong đại phải:
1-Thông minh sáng suốt. 2- Có nghị lực để thực hiện các chương trình, ý định của mình. 3-Là bậc Vương giả, mới có mộng lớn lao, những đồ án vĩ đại, mới có những điều kiện tinh thần, vật chất, nhân sự, để thực hiện ý muốn của mình (Minh dĩ động. Cố phong. Vương cách chi. Thượng đại dã). Khi đạt tới mức phong doanh cao đại, bậc vương giả hãy cứ an tâm làm ơn ích, treo gương sáng cho đời, như mặt trời trên khung trời thẳm, tỏa quang huy cùng khắp chốn nơi. (Vật ưu nghi nhật trung. Nghi chiếu thiên hạ dã).
Tiếp theo, Thoán Truyện bàn về việc doanh hư của trời đất, và cho đó là một định luật phổ quát.
- Mặt trời lên đến tột đỉnh, rồi sẽ xế tà dần.
-Mặt trăng tròn rồi lại khuyết.
Trời đất theo đà thời gian, đầy rồi lại vơi, tăng rồi lại giảm, thì sự đời làm sao mà cứ thịnh mãi, mà chẳng có suy (Nhật trung tắc trắc. Nguyệt doanh tắc thực. Thiên địa doanh hư. Dữ thời tiêu tức. Nhi huống ư nhân hồ. Huống ư quỷ thần hồ.)
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết:
象 曰 . 雷 電 皆 至 . 豐 . 君 子 以 折 獄 致 刑 .
Lôi điện giai chí. Phong. Quân tử dĩ triết ngục trí hình.
Dịch. Tượng rằng:
Phong là sấm chớp song sinh,
Hiền nhân triết ngục, trí hình hẳn hoi.
Tội tình, xét xử cho đời,
Ngục hình áp dụng rạch ròi, phân minh.
Chớp tượng trưng cho sự sáng láng. Sấm tượng trưng cho sự uy nghi, mạnh mẽ. Cho nên, người quân tử nhân đó cũng phải dùng hết trí thông minh của mình, mà phán đoán các vụ hình án, dùng hết oai lực của mình, mà áp dụng các hình phạt. Trái lại Đại Tượng quẻ Phệ hạp, dạy người quân tử phải dùng trí thông minh của mình mà lập ra các luật pháp và các hình phạt.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 遇 其 配 主 . 雖 旬 無 咎 . 往 有 尚 .
象 曰 . 雖 旬 無 咎 . 過 旬 災 也 .
Sơ Cửu.
Ngộ kỳ phối chủ. Tuy tuần vô cữu. Vãng hữu thượng.
Tượng viết:
Tuy tuần vô cữu. Quá tuần tai dã.
Dịch.
Gặp người đồng đức kết đôi,
Ta, người cân xứng, vậy thời lỗi chi.
Tiến lên, sẽ được thỏa thuê.
Tượng rằng: Cân xứng lỗi chi,
Còn như chênh lệch, sẽ bề tai hung.
Quẻ Phong gồm có Chấn là động, mà quẻ Ly là lửa.
Ý nói muốn làm nên phong đại, cần phải phối hiệp sự quang minh với nghị lực để hành động.
Hào Sơ đây ứng với Hào tứ, chẳng khác nào gập người cộng sự đồng cân, đồng lạng. Được vậy, chẳng những không có gì đáng trách (Ngộ kỳ phối chủ. Tuy tuần vô cữu), mà lại giúp mình lập được công nghiệp đáng khen (Vãng hữu thượng).
Tượng Truyện cho rằng, hai người cộng sự với nhau, mà không có óc tranh hơn, tranh thắng, mới hay, còn như nếu có óc tranh dành hơn thiệt, thì âu sẽ bị tai hoạ. (Tuần là cân xứng với nhau. Quá tuần là chênh lệch không cân xứng) (Tuy tuần vô cữu. Quá tuần tai dã).
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 豐 其 蔀 . 日 中 見 斗 . 往 得 疑 疾 . 有 孚 發 若 . 吉 .
象 曰 . 有 孚 發 若 . 信 以 發 志 也 .
Lục nhị.
Phong kỳ bộ. Nhật trung kiến đẩu. Vãng đắc nghi tật.
Hữu phu phát nhược. Cát.
Tượng viết:
Hữu phu phát nhược. Tín dĩ phát chí dã.
Dịch.
Dày mà dày bức màn che,
Trưa nhìn sao nhỏ lập lòe thinh không.
Tiến lên sẽ bị nghi lòng,
Chí thành tự thủ, mới mong cảm người.
Tượng rằng:
Chí thành tự thủ cảm người,
Tín thành là cách để khơi tâm tình.
Lục nhị cư trung, đắc chính, tượng trưng cho một hiền thần, lại ở giữa quẻ Ly, nên rất sáng suốt.
Nhưng Lục ngũ thì lại Âm nhu bất chính, hôn ám, nghe lời sàm tấu, không tin dùng Lục nhị, tình trạng này chẳng khác nào khi trời có Nhật thực, giữa ban ngày thấy chòm sao Bắc đẩu hiện ra trên trời (Phong kỳ bộ. Nhật trung kiến đẩu). (Bộ đây là dày đặc, đến nỗi làm mất hết ánh sáng mặt trời). Gặp trường hợp này, mà nếu Lục nhị cứ tiến lên, cứ muốn dở dói, hoạt động thì sẽ chuốc lấy sự nghi kỵ (Vãng đắc nghi tật). Hay nhất là dùng lòng chí thành của mình, mà cảmhóa, mà mở mang tâm trí quân vương. (Hữu phu phát nhược. Cát).
Tượng Truyện giải rằng: Dùng lòng chí thành của mình, cốt là để mở mang tâm tình, ý chí của vua vậy (Hữu phu phát nhược. Tín dĩ phát chí dã).
Hào này làm ta liên tưởng đến Chu Công. Khi Võ Vương mất (1114 trước Công Nguyên), con nối ngôi là Thành Vương còn nhỏ, mới 13 tuổi, Chu Công phải chấp chính. Bọn Quản Thúc, Thái Thúc và Hoắc Thúc, đều là anh em ruột của Chu Công, phao tiếng đồn là Chu Công muốn tranh ngôi vua Thành Vương, và bọn ấy còn mưu tính tiếp tay cho Vũ Oanh (con Trụ Vương) phản loạn. Chu Công phải bỏ triều chính một thời gian ngắn, rồi về phía Đông ở, để dẹp yên lòng nghi kỵ trong gia đình và dị nghị của thiên hạ. Đến khi biết lòng của chú, Thành Vương thân chinh đi đón Chu Công về (1112), và giao phó cho việc dẹp loạn Vũ Oanh. Chu Công bình định phản loạn, tổ chức trị yên bốn bể làm cho Trung Quốc trở nên phú cường, thái thịnh.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 豐 其 沛 . 日 中 見 昧 . 折 其 右 肱 . 無 咎 .
象 曰 . 豐 其 沛 . 不 可 大 事 也 . 折 其 右 肱 . 終 不 可 用 也 .
Cửu tam.
Phong kỳ bái. Nhật trung kiến muội. Triết kỳ hữu quăng. Vô cữu.
Tượng viết :
Phong kỳ bái. Bất khả đại sự dã. Triết kỳ hữu quăng.
Chung bất khả dụng dã.
Dịch.
Phong mà cờ xí dày che,
Trưa nhìn sao nhỏ lập loè thinh không.
Như què tay mặt hết dùng,
Sự đời đến thế, còn hòng trách ai.
Tượng rằng:
Dày mà cờ xí dày che,
Phàm làm đại sự, khó bề nên công.
Đã què tay mặt, hết dùng,
Còn dùng chi nữa, mà mong mai này.
Tới Hào Cửu tam, thì sự khuất lấp của nhà vua lại còn tệ hại hơn nữa, chẳng khác nào mặt trời bị nhật thực hoàn toàn, đến nỗi giữa ban ngày thấy rõ cả những ngôi sao nhỏ. (Phong kỳ bái. Nhật trung kiến muội). (Bái là cái màn kín mít. Muội là sao nhỏ). Gặp trường hợp này, Cửu tam dẫu có tài, có đức mấy cũng như gẫy hẳn tay mặt, khó bề xoay trở (Triết kỳ hữu quăng). Nhưng như thế, đâu phải do lỗi của Cửu tam (Vô cữu).
Khi đã gặp trường hợp tiểu nhân bưng bít nhà vua như vậy, thì mình làm sao làm công chuyện lớn được (Phong kỳ bái. Bất khả đại sự dã). Chẳng khác nào tay phải đã bị gẫy, làm sao mà còn dùng được (Triết kỳ hữu quăng. Chung bất khả dụng dã).
4. Hào Cửu Tứ.
九 四 . 豐 其 蔀 . 日 中 見 斗 . 遇 其 夷 主 .吉 .
象 曰 . 豐 其 蔀 . 位 不 當 也 . 日 中 見 斗 . 幽 不 明 也 .
遇 其 夷 主 . 吉 . 行 也 .
Cửu tứ.
Phong kỳ bộ. Nhật trung kiến đẩu. Ngộ kỳ di chủ. Cát.
Tượng viết:
Phong kỳ bộ. Vị bất đáng dã. Nhật trung kiến đẩu.
U bất minh dã. Ngộ kỳ di chủ. Cát hành dã.
Dịch.
Dày mà dày bức màn che,
Trưa nhìn sao đẩu lập lòe thinh không.
Dưới mình, nếu có bạn lòng,
Gặp người đồng đức, mới mong tốt lành.
Tượng rằng: Dày bức màn che,
Vị ngôi còn có lắm bề dở dang.
Trưa nhìn sao đẩu rõ ràng,
Tối tăm mù mịt, sang làm sao đây?
Gặp người đồng đức, mới hay,
Đi tìm gặp gỡ, mới may mới lành.
Khi nhà vua bị tiểu nhân bưng bít, như mặt trời bị khuất lấp, bị nhật thực, ban ngày trông rõ cả sao Bắc Đẩu, thì bậc Đại thần chỉ có cách kết liên với những người đông tâm, đồng đức, như vậy mới là hay.
Tượng Truyện giải thích thêm rằng: Cửu tứ vì ở vào địa vị không được hẳn hoi, nhưng chẳng khác nào như bị bưng bít (Phong kỳ bộ. Vị bất đáng dã). Đàng khác, thì nhà vua hôn ám, chẳng khác nào mặt trời bị nhật thực, đến nỗi ban ngày cũng thấy sao Bắc Đẩu (Nhật trung kiến đẩu. U bất minh dã). Trong trường hợp ấy, mà gặp được người đồng tâm, đồng đức, cộng tác với mình. Thì mọi sự mới là hay (Ngộ kỳ di chủ. Cát hành dã). Di chủ là người cộng tác với mình.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 來 章 . 有 慶 譽 . 吉 .
象 曰 . 六 五 之 吉 . 有 慶 也 .
Lục ngũ.
Lai chương. Hữu khánh dự . Cát.
Tượng viết:
Lục ngũ chi cát. Hữu khánh dã.
Dịch.
Nếu mà chiêu mộ hiền tài,
Thế thời phúc khánh, thế thời vẻ vang.
Tượng rằng: Lục ngũ mà hay,
Thế thời phúc khánh, đó đây đã đành.
Lục ngũ là một bậc quân vương không lấy gì làm xuất sắc, cho nên cần phải biết hạ mình mà cầu người hiền, chiêu mộ những bậc hiền tài (Lai chương). Như vậy mới được phúc khánh (Hữu khánh). Dùng được hiền tài, thời phong doanh, thái thịnh mới có cơ thực hiện, và như vậy mới được vẻ vang, danh giá, còn gì tốt lành hơn nữa (Dự cát).
Cái hay của Lục ngũ chính là được phúc khánh vậy (Lục ngũ chi cát. Hữu khánh dã).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 豐 其 屋 . 蔀 其 家 . 窺 其 戶 .闃 其 無 人 . 三 歲 不 見 . 凶 .
象 曰 . 豐 其 屋 . 天 際 翔 也 . 窺 其 戶 . 闃 其 無 人 . 自 藏 也 .
Thượng Lục.
Phong kỳ ốc. Bộ kỳ gia. Khuy kỳ bộ. Huých kỳ vô nhân.
Tam tuế bất địch. Hung.
Tượng viết:
Phong kỳ ốc. Thiên tế tường dã. Khuy kỳ bộ.
Huých kỳ vô nhân. Tự tàng dã.
Dịch.
Tuy là gia thế phong doanh,
Màn che, trướng rủ bao quanh lấp nhà.
Từ trong cánh cửa nhìn ra,
Tứ bề quạnh quẽ, hỏi là còn ai ?
Ba năm chẳng thấy bóng người,
Sự tình đến thế, thế thời chẳng hay.
Tượng rằng: Gia thế phong doanh,
Một mình tung cánh tầng xanh, liệng vòng.
Từ trong khe cửa vời trông,
Mòn con mắt ngó, tuyệt không bóng người.
Mình che, mình dấu, mình vùi,
Mình xa chẳng phải tự người muốn xa.
Một kẻ chỉ mong vinh thân, phì gia, kiêu căng vô lối, sẽ mất nhân tâm, và sẽ sống một cuộc đời cô độc. Có khác nào một người bưng bít nhà mình, (Phong kỳ ốc. Bộ kỳ gia), rồi nhìn qua khe cửa, chung quanh chẳng thấy một ai (Khuy kỳ bộ. Huých kỳ vô nhân). Tứ bề quạnh quẽ, mấy năm trời cũng chẳng thấy ai lai vãng, thế là xấu, chẳng có ra gì (Tam tuế bất địch. Hung).
Một người cao ngạo, sống cô độc, bưng bít, xa cách mọi người như vậy, chẳng khác nào như bay bổng lên trời, (Phong kỳ ốc. Thiên tế tường dã). Không thấy ai chung quanh mình, chính là vì mình đã có thái độ xa cách đối với mọi người vậy (Huých kỳ vô nhân. Tự tàng dã).
Tự tàng là tự mình che bít mình.
ÁP DỤNG QUẺ PHONG VÀO THỜI ĐẠI
Phong là giàu có, thái thịnh. Quẻ Phong trên là Lôi (Sấm), dưới là Ly (lửa, sáng). Ý nói muốn trở nên giàu có, con người cần phải cố gắng, nỗ lực (Lôi), phải thông minh, sáng suốt(Ly). Khi mình đã cố gắng, đã hết sức suy tư, thì dẫu sự đời có thăng trầm, biến hóa, ta cũng đừng có ngại.
Ở đời, chúng ta thấy nguyên kiếm được miếng cơm, manh áo, nhiều khi cũng rất là khó khăn. Ta có những câu như Hai sương, một nắng, nghĩa là làm việc từ tờ mờ sáng, lúc còn sương mù, cho đến đêm khi bắt đầu có sương. Ngay xứ Mỹ này, còn biết bao người chẳng những đi làm toàn thời gian, mà còn làm thêm nhiều giờ phụ trội để kiếm ăn nữa .
Nhưng bao giờ cũng như bao giờ, chúng ta vẫn cần những người lãnh đạo cho hay, cho giỏi, sống gần dân, chứ không bị bao che, bưng bít, sống không biết dân là gì
Ngày nay, tuy rằng Khoa học đã tiến bộ, nhưng Đạo đức lại thụt lùi, nên tệ đoan của xã hội không giảm được bao nhiêu, mà ở các nước nghèo, chậm tiến, lại càng tệ hơn nữa.
Vậy bổn phận làm người dân của nước nào chăng nữa (dù chính thức hay bán chính thức), nếu chúng ta muốn quốc gia, mà ta đang hiện cư ngụ, được phong thịnh, ta cũng phải có bổn phận cộng tác với chính quyền, giúp đỡ chính quyền trong mọi vấn đề, dù nhẹ nhàng hay nan giải, nếu một khi chính quyền cần đến sự cộng tác của ta.
Ta đừng nên đòi hỏi sự hoàn hảo, hoàn toàn nơi chính quyền, vì quyết nghị của một đạo luật nào, thì cũng là ý kiến của một số người mà thôi, mà đã là người thì không thể không có sai lầm, nên thấy điều gì sai lầm, ta phải mạnh dạn đứng lên vạch rõ sự sai lầm đó, và thành khẩn đưa ra những ý kiến xây dựng của mình, yêu cầu họ cứu xét lại.
Ta phải cộng tác với chính quyền trong việc bài trừ tham nhũng, lưu manh, du đãng, buôn xì ke, ma túy vv... để lành mạnhhóa xã hội.
Tóm lại, đừng bưng bít những gì xấu xa, tệ hại. Phải can đảm đứng lên cộng tác với chính quyền, dù kẻ xấu đó là nhân viên cao cấp của chính quyền cũng đừng sợ hãi. Luôn luôn, phải nhớ rằng, sự thái thịnh của quốc gia, là sự thái thịnh của mình vậy. Nếu quốc gia mà nghèo nàn, công nợ, thì con dân trong nước làm sao được chính phủ lo lắng, hoặc chăm sóc chu toàn cho mình được. Hãy làm tròn bổn phận một người công dân có trách nhiệm với nước của mình, hay với nước mình đang cư ngụ. Như vậy mới xứng đáng là người quân tử, giúp đời, giúp nước.
Sửa lần cuối bởi anhlinhmotminh vào lúc 14:43, 02/02/13 với 1 lần sửa.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
7 ĐỊA HỎA MINH DI
ĐỊA HỎA MINH DI
Minh Di Tự Quái
明 夷 序 卦
Tấn giả tiến dã.
晉 者 進 也.
Tiến tất hữu sở thương.
進 必 有 所 傷.
Cố thụ chi dĩ Minh Di.
故 受 之 以 明 夷.
Di giả thương dã.
夷 者 傷 也.
Minh Di Tự Quái
Cho nên, quẻ Tấn vẽ đường tiến lên.
Tiến trình âu lắm oan khiên.
Minh Di vì vậy, nói lên sự tình.
Quẻ Minh Di, trái ngược với quẻ Tấn. Tấn là mặt trời mọc lên cao mãi, khỏi mặt đất. Minh Di là mặt trời chìm dần xuống lòng đất.
Tấn là một thời kỳ minh thịnh, trên thì có minh quân, dưới thì có hiền thần, cùng nhau tiến bước.
Minh Di, là một thời kỳ hôn ám, trên là hôn quân, dưới là quân thần thọ thương, thọ khổ.
Gọi là Minh Di, có nghĩa là ánh sáng bị thương tổn, quân tử bị thương tổn, tai nạn.
I. Thoán.
Thoán từ.
明 夷. 利 艱 貞.
Minh Di. Lợi gian trinh.
Dịch.
Minh Di mà biết nguy nan,
Lại luôn chính trực, mới gan, mới lời.
Minh Di, là thời quân tử lâm nàn, nên Thoán từ mở đầu bằng một lời khuyên: Gian nan mà vẫn giữ được chính lý, chính đạo, mới hay: Minh Di. Lợi gian trinh.
Thoán Truyện.
彖 曰. 明 入 地 中. 明 夷. 內文 明 而 外 柔 順. 以 蒙 大 難. 文 王 以 之.
利 艱 貞. 晦 其 明 也. 內 難 而 能 正 其 志. 箕 子 以 之.
Thoán viết:
Minh nhập địa trung. Minh Di. Nội văn minh nhi ngoại nhu thuận.
Dĩ mông đại nạn. Văn vương dĩ chi. Lợi gian trinh. Hối kỳ minh dã.
Nội nạn nhi năng chính kỳ chí. Cơ Tử dĩ chi.
Dịch.
Thoán rằng: sáng nhập đất rồi,
Minh Di là sáng chôn vùi tầng sâu.
Trong tuy sáng tỏ mặc dầu,
Ngoài thời nhu thuận, qua cầu gian nan.
Văn Vương gặp buổi tai nàn,
Đã theo lối đó, mới an mới lành.
Gian nan, mà vẫn trung trinh,
Thế thời ích lợi âu đành mấy mươi.
Giấu che thông sáng với đời,
Gặp cơn hoạn nạn, chẳng rời trung trinh.
Sắt son giữa buổi điêu linh,
Được như Cơ Tử, sử sanh mấy người.
Thoán Truyện giải hai chữ Minh Di là Minh nhập địa trung, nghĩa là Ánh sáng đã vào lòng đất
Thoán Truyện bày cách cho người quân tử xử sự khi gặp thời buổi Minh Di, khi mà hôn quân những toan hãm hại mình. Lúc ấy người quân tử, tuy tâm thần bên trong sáng láng, nhưng bên ngoài phải tỏ ra phục tùng, nhu thuận. Đó là đường lối Văn vương đã theo, khi gặp đaị nạn, và bị Trụ Vương cầm tù bảy năm ở Dũ Lý.
Thoán rằng: Nội văn minh. Nhi ngoại nhu thuận. Dĩ mông đại nạn. Văn Vương dĩ chi. Mông đây là gặp.
Gặp thời buổi gian nan như vậy, phải biết che dấu sự thông sáng của mình, mà vẫn giữ tròn được chính đạo, thế mới là đường lối vẹn toàn. Cơ Tử đã theo được đường lối này. Lợi gian trinh. Hối kỳ minh dã. Nội nạn nhi năng chính kỳ chí. Cơ Tử dĩ chi. Gặp lúc hôn quân nghi kỵ, mà không dấu được sự thông minh sáng láng của mình, tất sẽ gặp hoạn nạn; bằng không giữ được lòng ngay chính, thì không phải là những trang hiền minh, trung liệt.
Người xưa nói: Người có nhân, không vì thịnh suy, mà đổi tiết, Người có nghĩa, không vì còn, mất mà thay lòng. Thực đúng là trường hợp Cơ Tử. Văn vương và Cơ Tử chẳng những đã khéo xử, trong thời Minh Di, nên đã thoát được tay Trụ Vương hãm hại, mà còn lợi dụng đưọc thời Minh Di, mà làm nên sự nghiệp.
Văn Vương, trong 7 năm bị giam cầm ở Dũ Lý, đã biết lợi dụng thời gian đó mà làm Dịch. Còn Cơ Tử giả cuồng, giả dại, đem thân ở đợ cho người, thời lại phát minh ra được vi ý Lạc Thơ của Đại Võ mà viết thành thiên Hồng Phạm Cửu Trù, truyền lại cho hậu thế. Như vậy chẳng đáng phục lắm sao?
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 明 入 地 中. 明 夷. 君 子 以 蒞 眾. 用 晦 而 明.
Tượng viết:
Minh nhập địa trung. Minh Di. Quân tử dĩ lỵ chúng. Dụng hối nhi minh.
Dịch. Tượng rằng:
Sáng vào lòng đất, Minh Di,
Nên người quân tử cũng y tượng trời.
Xuề xòa đối đãi với người,
Bề trong sáng suốt, bề ngoài giả lơ.
Tượng Truyện nhân quẻ Minh Di, dạy chúng ta bài học trị dân. Dịch cho rằng: khi người quân tử đến với dân, không nên quá soi mói, tuy bề trong mình sáng láng, nhưng bề ngoài nhiều khi phải giả lơ như là không biết, không nghe. Thế tức là: Quân tử dĩ lỵ chúng. Dụng hối nhi minh.
Mũ miện của vua chúa xưa, thường có những bông tua rủ xuống trước mắt, trước tai, hoặc dùng bình phong che ngoài cửa, cốt tỏ muốn nhắm mắt bưng tai, làm ngơ bớt trước những lỗi lầm của kẻ dưới.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九. 明 夷 于 飛 . 垂 其 翼 . 君 子 于 行. 三 日 不 食.
有 攸 往. 主 人 有 言.
象 曰: 君 子 于 行,義 不 食 也。
Sơ Cửu. Minh Di vu phi. Thùy kỳ dực. Quân tử vu hành.
Tam nhật bất thực. Hữu du vãng. Chủ nhân hữu ngôn.
Tượng viết:
Quân tử vu hành. Nghĩa bất thực dã.
Dịch. Sơ Cửu.
Minh Di, tăm tối nguy thay,
Tìm đường cao chạy xa bay cho rồi.
Cố sao che được mắt người,
Như chim rũ cánh, vẻ ngoài thọ thương.
Ra đi quân tử lo lường,
Ba ngày ròng rã chẳng màng uống ăn.
Đi đâu, cũng bị tiếng tăm.
Miệng đời đàm tiếu, lăng nhăng quản gì.
Tượng rằng: quân tử ra đi,
Cố sao đi thoát, quản gì uống ăn.
Sơ Cửu tượng trưng cho ngươi quân tử gặp thời Minh Di, nhưng hãy còn xa hôn quân, xa họa hoạn.
Lúc ấy phải xử trí ra sao? Thưa phải tìm đường cao phi, viễn tẩu. Thế tức là Minh Di vu phi. Tống Bản thập tam kinh giải chữ Vu phi, là theo một đường lối đặc biệt, để thoát nạn, là phải giả đò ốm đau, bệnh hoạn, để dễ bề rút lui, chẳng khác nào con chim bị thương, rũ cánh xuống; Thùy kỳ dực.
Đã đi trốn được rồi, phải đi cho cấp tốc, kẻo bị bắt lại; đừng kể chi đến ăn uống nữa, dầu nhịn đói ba ngày mà cứu được mạng mình, cũng nên nhịn mà trốn. Quân tử vu hành. Tam nhật bất thực. Khi hiểm nguy chưa biểu lộ, mà mình lo đi gấp, âu sẽ có nhiều người chê cười, cho là hèn nhát, là điên cuồng. Nhưng người quân tử phải kiến cơ nhi tác, chứ không đợi nước đến chân mới nhẩy. Vì thế Hào từ viết thêm: Hữu du vãng. Chủ nhân hữu ngôn. Chữ Chủ nhân đây không nhất thiết phải là chủ nhân của mình, mà cũng có thể hiểu trống là người ta. Trình tử cũng giải thích rằng: Mình ra đi, mà có người nói xấu sau lưng mình.
Khi Mục Sinh, rời nước Sở, thì Thân Công, Bạch Công, đều chê là chẳng phải, chứ đừng nói chi đến người thường, nhưng có biết đâu Mục Sinh ra đi để lánh nạn Tư Mỹ. Các nhà bình giải Quẻ Minh Di, cũng thường lấy chuyện các hiền thần đời vua Trụ, mà giải các Hào.
Hào Sơ này làm ta liên tưởng đến Bá Di, chạy lên biển Bắc; Thái Công Vọng, chạy ra biển Đông, để lánh nạn Trụ Vương. Bầy mưu, tính kế, để cao chạy xa bay, đó là cách thế người xưa thường dùng.
Đọc Tây Hán Chí, ta thấy Bái Công, Trương Lương và Trần Bình, phải tốn bao tâm cơ, mới được Hạng Võ cho phép vào Hán Trung. Và khi đã được Hạng Võ chấp thuận rồi, Bái Công đã vội vã ra đi, thoát nanh vuốt Hạng Võ, sớm chừng nào hay chừng nấy. Thật đúng là: Quân tử vu hành. Nghĩa bất thực dã.
2. Hào Lục nhị.
六 二. 明 匈 . 夷 于 左 股 . 用 拯 . 馬 壯 . 吉.
象 曰. 六 二 之 吉. 順 以 則 也 .
Lục nhị. Minh Di. Di vu tả cổ. Dụng chửng. Mã tráng. Cát.
Tượng viết:
Lục nhị chi cát. Thuận dĩ tắc dã.
Dịch.
Minh Di phải buổi nhiễu nhương,
Làm cho đùi trái thọ thương mất rồi.
Ngựa hay, sẽ cứu được người,
Ruổi rong lưng ngựa, may thời ắt may.
Tượng rằng: Lục nhị gặp may,
Vì theo phép nước, chẳng thay đổi lòng.
Lục nhị đây là một bậc hiền minh chi tài, gặp thời Minh Di, mà biết ăn ở theo lẽ trung chính, lại bên ngoài, biết tỏ vẻ nhu thuận, phục tùng.
Những người như vậy, dẫu gặp hoàn cảnh éo le, nguy hiểm, vẫn biết thuận thời tự xử, chờ tới khi có người đến cứu thoát, cũng y thức như một người mới bị thương, và chân trái tuy không đi được, nhưng nếu có ngựa hay, ngựa mạnh, vẫn có thể cưỡi mà trốn thoát. Vì thế, Dịch mới nói: Lục nhị. Minh Di. Di vu tả cổ. Dụng chửng. Mã tráng. Cát. Đó là trường hợp Văn Vương, khi bị cầm tù ở ngục Dũ Lý. Ngài một niềm trung thuận, giữ trọn đạo bầy tôi.
Sau này, Tán Nghi Sinh sai Thái Diên và Hoàng Yêu dâng vàng bạc, châu báu, cho Vưu Bồn, Bí Trọng, để hai tên gian thần này bảo tấu với Trụ Vương, mà xin tha cho Văn Vương.
Thế tức là: Lục nhị chi cát. Thuận dĩ tắc dã.
3. Hào Cửu tam.
九 三. 明 夷 于 南 狩. 得 其 大 首. 不 可 疾 貞.
象 曰. 南 狩 之 志. 乃 大 得 也.
Cửu tam. Minh Di vu nam thú. Đắc kỳ đại thủ. Bất khả tật trinh.
Tượng viết:
Nam thú chi chí. Nãi đại đắc dã.
Dịch.
Minh Di săn thú phía nam,
Gặp ngay chủ chốt, bắt mang trở về.
Dân tình vất vưởng, ủ ê,
Chớ nên vội vã, ép bề phép khuôn.
Tượng rằng: Săn thú phía nam,
Cho nên việc lớn đã làm nên công.
Cửu tam là chí minh, nên khắc với Hào Thượng Lục là ám. Vì thế nên Hào Cửu tam chính là những người anh tài, như Thang, Võ sẽ ra tay, vì dân trừ kẻ bạo tàn là Kiệt, Trụ. Họ là những kẻ đứng lên, tiến lên để ruồng bắt, những kẻ đại gian, đại ác, hại dân, hại nước.
Dịch nói: Cửu tam. Minh Di vu nam thú. Đắc kỳ đại thủ, chính là vì vậy. Trong công cuộc này, Dịch khuyên không nên vội vàng, nhất là khi phải chỉnh đốn lại guồng máy chính trị, tình hình xã hội. Hào từ nói: Bất khả tật trinh, chính là vì thế.
Kinh Thư, thiên Tửu Cáo khuyên không nên giết hại những quan chức nhà Châu, mắc tật bê tha rượu chè, mà phải giáo hoá, dẫn dụ họ. Từ khi Thành Thang thoát ngục Hạ Đài, cho đến khi lật đổ được vua Kiệt; từ khi Văn Vương thoát được ngục Dũ Lý, cho đến khi Vũ Vương lật đổ được vua Trụ, cũng phải mất nhiều năm, nhiều tháng. Tóm lại muốn lật đổ một hôn quân vô đạo, không phải là một chuyện dễ, cần phải chuẩn bị lâu dài, chứ không thể vội vã được.
4. Hào Lục tứ.
六 四. 入 于 左 腹. 獲 明 夷 之 心. 于 出 門 庭.
象 曰. 入 于 左 腹. 獲 心 意 也.
Lục tứ: Nhập vu tả phúc. Hoạch Minh Di chi tâm. Vu xuất môn đình.
Tượng viết:
Nhập vu tả phúc. Hoạch tâm ý dã.
Dịch.
Phía lòng bên trái lọt vào,
Mới hay tâm địa cơ cầu Minh Di.
Cửa nhà vội bỏ ra đi.
Tượng rằng: ruột trái đi vào.
Ấy là biết được gót đầu tâm tư.
Hào Lục tứ tượng trưng cho một người thân thiết của hôn quân, đã được lòng của hôn quân (Hoạch Minh Di chi tâm. Vu xuất môn đình), đã đi sâu được vào tâm địa của hôn quân (Nhập vu tả phúc. Hoạch tâm ý dã), và biết chắc chắn không có cách nào cảm hóa được hôn quân, không còn cách nào cứu vãn được sự đổ nát của triều chính, vì thế nên đành rứt áo ra đi (Vu xuất môn đình).
Đó là trường hợp Vi Tử, anh ruột vua Trụ, đã phải bỏ nước ra đi (Kinh Thư, Vi Tử).
5. Hào Lục ngũ.
六 五. 箕 子 之 明 夷. 利 貞.
象 曰. 箕 子 之 貞. 明 不 可 息 也.
Lục ngũ. Cơ Tử chi Minh Di. Lợi trinh.
Tượng viết:
Cơ Tử chi trinh. Minh bất khả tức dã.
Dịch.
Bền gan sống buổi Minh Di,
Được như Cơ Tử, còn gì lợi hơn.
Tượng rằng: Cơ Tử bền gan,
Mới hay sáng láng, khó làm tắt đi.
Lục ngũ chính là trường hợp của Cơ Tử. Cơ Tử kề cận quân vương, cầm giường mối cho đất nước, vì thế Cơ Tử không thể ra đi được.
Cơ Tử, sau khi đã khuyên Vi Tử, nên đi trốn, để bảo toàn giòng giõi nhà Thương, đã kết luận: Còn tôi, tôi không nghĩ đến chuyện đi trốn (Ngã bất cố hành độn. Kinh Thư, Vi tử), mà ở lại, thiệt càng khó xử. Muốn Trụ Vương, khỏi hại mình, ông phải giả điên, giả khùng, đi ở đợ cho người. Một hiền thần như vậy, thật đáng quí trọng. Vì thế Hào từ mới nói, Cơ Tử chi trinh. Minh bất khả tức dã. Cơ Tử thực là nhân vật hiếm có trong lịch sử.
Khi nhà Thương còn, thì ông đã hết sức ẩn nhẫn, đợi thời, gây dựng lại cơ nghiệp đã suy tàn. Khi nhà Thương mất, Võ vương khẩn khoản xin ông chỉ cho cách trị dân, thì ông dạy cho Hồng Phạm Cửu Trù, nhưng trước sau, ông nhất định không chịu thờ nhà Châu. Võ vương đành cho ông đến xứ Cao Ly xưng vương, lập quốc. Thật hi hữu vậy.
6. Hào Thượng Lục.
上 六. 不 明 晦. 初 登 于 天. 后 入 于 地.
象 曰. 初 登 于 天. 照 四 國 也. 后 入 于 地. 失 則 也.
Thượng Lục. Bất minh hối. Sơ đăng vu thiên. Hậu nhập vu địa.
Tượng viết:
Sơ đăng vu thiên. Chiếu tứ quốc dã. Hậu nhập vu địa. Thất tắc dã.
Dịch. Thượng lục.
Sáng không sáng lại tối thui,
Trước lên trời thẳm, sau vùi đất sâu.
Tượng rằng: Mới đầu lên vút tận trời,
Sau sa lòng đất, vì rời phép khuôn.
Hào Thượng Lục, là Hào cuối của quẻ Minh Di, và cũng là Hào cuối của quẻ Khôn, tượng trưng ánh sáng bị thương tổn đến cùng cực (Bất minh hối). Không làm sáng được đức mình, để nó trở nên tối tăm; những người thế ấy mà ở cao ngôi, sẽ làm hại những người minh chính, sau cùng họ sẽ trở lại làm hại chính họ. Đó chính là trường hợp Trụ Vương; mới đầu thì uy quyền chấn bốn phương; sau này vì mê Đát Kỷ, chuyên hãm hại hiền thần, lập ra những hình phạt khủng khiếp, như Sái Bồn, Bào Lạc, để cuối cùng cũng đi đến chỗ mất ngôi, mất nước, phải tự thiêu ở Lộc Đài. Thật đúng là : Sơ đăng vu thiên. Hậu nhập vu địa. Đáng cho ta phải để tâm suy nghĩ
Các nhà bình giải, thường lấy các nhân vật đời Trụ Vương mà giải quẻ Minh Di, nhưng Minh Di không phải là một trường hợp lịch sử duy nhất, áp dụng cho thời Trụ Vương mà thôi đâu; mà còn áp dụng mãi mãi trong lịch sử, mỗi khi có hôn quân định hãm hại hiền thần; trụy lạc, hoang dâm làm cho nhà tan, nước mất.
Tiểu Tượng Truyện kết luận rằng: Sự đoạ lạc xẩy ra, là vì không theo định luật tự nhiên của trời đất (Hậu nhập vu địa. Thất tắc dã).
ÁP DỤNG QUẺ MINH DI VÀO THỜI ĐẠI
Minh Di trên là trái đất, dưới là mặt trời. Ý nói trên là hôn quân, đè nén, áp bức, hãm hại một hiền thần ở dưới. Gặp trường hợp nguy hiểm đó, người bầy tôi này phải xử trí ra sao? Thưa, phải dấu bớt sự thông minh, sáng láng của mình, như Văn vương xưa đã làm.
Đọc lịch sử Việt Nam và Trung Hoa, ta thấy, xưa nay các vua chúa giết công thần khá nhiều. Người xưa nói: được chim thì bẻ ná, được cá thì quên nơm, chính là vì vậy.
- Câu Tiễn giết công thần là Văn Chủng, Hán Cao Tổ giết Hàn Tín, Anh Bố và Bành Việt, và khiến cho Trương Lương qui ẩn.
-Đại Minh Hồng Võ Chu Nguyên Chương giết nguyên soái Thường Ngộ Xuân. Ở Việt Nam, thời nhà Lê, vì vụ án Thị Lộ, mà vua Lê Nhân Tông giết và chu di cả 3 họ Nguyễn Trãi. Thời Gia Long năm 16, Nguyễn văn Thành bị kết tội làm phản, và đã tự sát (1817), thật là vô vàn sự tích, không thể kể hết được.
Lời khuyên trên của Kinh Dịch, có ít người đã theo được, ví dụ như Tư Mã Ý đã giả điếc, nên đã thoát nạn.
Từ năm 1789, Pháp đã làm một cuộc Cách mạng lớn. Người ta không còn cho rằng vua chúa được trị vì là do Mệnh Trời. Người ta đề cao giá trị con người. Các Triết gia, Văn gia thời ấy như Diderot,Voltaire, Jean Jacques Rousseau, đã chủ trương Nhân chi sơ, tính bản thiện, (trước kia bên Âu Châu chủ trương Nhân chi sơ, tính bản ác, vì cho rằng con người sinh ra vốn đã ác, là do tội tổ tông), và cho rằng vua chúa chẳng qua chỉ là những công bộc quốc gia mà thôi. Quyền cai trị, là do dân, thuộc dân. Vì dân không đảm nhiệm được sự cai trị, nên dùng lá phiếu của mình để ủy nhiệm người khác. Và trên nguyên tắc, không ai được đặc quyền, đặc lợi gì hơn ai. Cách Mạng 1789 bùng nổ, và chọn khẩu hiệu là Tự Do, Bình đẳng và Anh em (Liberté, Égalité, Fraternité). Cũng từ thuở ấy, Đạo giáo cũng không còn được can thiệp vào chính quyền. Từ Cách Mạng Pháp, phần lớn các nước trong thiên hạ đã dần dần bỏ chế độ Quân chủ, cha truyền con nối, mà theo chế độ dân chủ, thay nhau trị dân, do dân bầu mỗi người một ít năm. Hoặc chỉ còn một số ít nước vẫn còn theo chế độ quân chủ, nhưng là quân chủ lập hiến, vua chỉ là tượng trưng, chứ không có thực quyền như xưa. Ví dụ như vua nước Anh, Nhật vv... Thật là một tiến bộ lớn cho nhân loại, và những chuyện giết chóc vô lý, cũng dần dần không còn nữa.
Ngày nay, các báo chí luôn soi mói vào công việc của chính quyền, nên các vị Nguyên Thủ có muốn cũng không dở dói gì được. Vả lại, muốn lập một Tổng hay Bộ Trưởng, thì ngoài đề nghị của Tổng Thống, còn phải có sự khảo hạch, chọn lựa của Quốc Hội.
Theo tôi, (tác giả bài này) ngày nay hơn xưa, vì hợp tình, hợp lý hơn. Ngày nay, nếu ta bị chính quyền chèn ép, ta phải liệu cao chạy xa bay; đi làm bị cấp trên chèn ép, ta phải liệu tìm sở khác mà làm, để tránh những sự không hay có thể xẩy ra mai sau v.v...
Tóm lại, Học Dịch, Hiểu Dịch, nhưng phải Áp dụng theo Dịch nữa, thì mới là hoàn hảo.
ĐỊA HỎA MINH DI
Minh Di Tự Quái
明 夷 序 卦
Tấn giả tiến dã.
晉 者 進 也.
Tiến tất hữu sở thương.
進 必 有 所 傷.
Cố thụ chi dĩ Minh Di.
故 受 之 以 明 夷.
Di giả thương dã.
夷 者 傷 也.
Minh Di Tự Quái
Cho nên, quẻ Tấn vẽ đường tiến lên.
Tiến trình âu lắm oan khiên.
Minh Di vì vậy, nói lên sự tình.
Quẻ Minh Di, trái ngược với quẻ Tấn. Tấn là mặt trời mọc lên cao mãi, khỏi mặt đất. Minh Di là mặt trời chìm dần xuống lòng đất.
Tấn là một thời kỳ minh thịnh, trên thì có minh quân, dưới thì có hiền thần, cùng nhau tiến bước.
Minh Di, là một thời kỳ hôn ám, trên là hôn quân, dưới là quân thần thọ thương, thọ khổ.
Gọi là Minh Di, có nghĩa là ánh sáng bị thương tổn, quân tử bị thương tổn, tai nạn.
I. Thoán.
Thoán từ.
明 夷. 利 艱 貞.
Minh Di. Lợi gian trinh.
Dịch.
Minh Di mà biết nguy nan,
Lại luôn chính trực, mới gan, mới lời.
Minh Di, là thời quân tử lâm nàn, nên Thoán từ mở đầu bằng một lời khuyên: Gian nan mà vẫn giữ được chính lý, chính đạo, mới hay: Minh Di. Lợi gian trinh.
Thoán Truyện.
彖 曰. 明 入 地 中. 明 夷. 內文 明 而 外 柔 順. 以 蒙 大 難. 文 王 以 之.
利 艱 貞. 晦 其 明 也. 內 難 而 能 正 其 志. 箕 子 以 之.
Thoán viết:
Minh nhập địa trung. Minh Di. Nội văn minh nhi ngoại nhu thuận.
Dĩ mông đại nạn. Văn vương dĩ chi. Lợi gian trinh. Hối kỳ minh dã.
Nội nạn nhi năng chính kỳ chí. Cơ Tử dĩ chi.
Dịch.
Thoán rằng: sáng nhập đất rồi,
Minh Di là sáng chôn vùi tầng sâu.
Trong tuy sáng tỏ mặc dầu,
Ngoài thời nhu thuận, qua cầu gian nan.
Văn Vương gặp buổi tai nàn,
Đã theo lối đó, mới an mới lành.
Gian nan, mà vẫn trung trinh,
Thế thời ích lợi âu đành mấy mươi.
Giấu che thông sáng với đời,
Gặp cơn hoạn nạn, chẳng rời trung trinh.
Sắt son giữa buổi điêu linh,
Được như Cơ Tử, sử sanh mấy người.
Thoán Truyện giải hai chữ Minh Di là Minh nhập địa trung, nghĩa là Ánh sáng đã vào lòng đất
Thoán Truyện bày cách cho người quân tử xử sự khi gặp thời buổi Minh Di, khi mà hôn quân những toan hãm hại mình. Lúc ấy người quân tử, tuy tâm thần bên trong sáng láng, nhưng bên ngoài phải tỏ ra phục tùng, nhu thuận. Đó là đường lối Văn vương đã theo, khi gặp đaị nạn, và bị Trụ Vương cầm tù bảy năm ở Dũ Lý.
Thoán rằng: Nội văn minh. Nhi ngoại nhu thuận. Dĩ mông đại nạn. Văn Vương dĩ chi. Mông đây là gặp.
Gặp thời buổi gian nan như vậy, phải biết che dấu sự thông sáng của mình, mà vẫn giữ tròn được chính đạo, thế mới là đường lối vẹn toàn. Cơ Tử đã theo được đường lối này. Lợi gian trinh. Hối kỳ minh dã. Nội nạn nhi năng chính kỳ chí. Cơ Tử dĩ chi. Gặp lúc hôn quân nghi kỵ, mà không dấu được sự thông minh sáng láng của mình, tất sẽ gặp hoạn nạn; bằng không giữ được lòng ngay chính, thì không phải là những trang hiền minh, trung liệt.
Người xưa nói: Người có nhân, không vì thịnh suy, mà đổi tiết, Người có nghĩa, không vì còn, mất mà thay lòng. Thực đúng là trường hợp Cơ Tử. Văn vương và Cơ Tử chẳng những đã khéo xử, trong thời Minh Di, nên đã thoát được tay Trụ Vương hãm hại, mà còn lợi dụng đưọc thời Minh Di, mà làm nên sự nghiệp.
Văn Vương, trong 7 năm bị giam cầm ở Dũ Lý, đã biết lợi dụng thời gian đó mà làm Dịch. Còn Cơ Tử giả cuồng, giả dại, đem thân ở đợ cho người, thời lại phát minh ra được vi ý Lạc Thơ của Đại Võ mà viết thành thiên Hồng Phạm Cửu Trù, truyền lại cho hậu thế. Như vậy chẳng đáng phục lắm sao?
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 明 入 地 中. 明 夷. 君 子 以 蒞 眾. 用 晦 而 明.
Tượng viết:
Minh nhập địa trung. Minh Di. Quân tử dĩ lỵ chúng. Dụng hối nhi minh.
Dịch. Tượng rằng:
Sáng vào lòng đất, Minh Di,
Nên người quân tử cũng y tượng trời.
Xuề xòa đối đãi với người,
Bề trong sáng suốt, bề ngoài giả lơ.
Tượng Truyện nhân quẻ Minh Di, dạy chúng ta bài học trị dân. Dịch cho rằng: khi người quân tử đến với dân, không nên quá soi mói, tuy bề trong mình sáng láng, nhưng bề ngoài nhiều khi phải giả lơ như là không biết, không nghe. Thế tức là: Quân tử dĩ lỵ chúng. Dụng hối nhi minh.
Mũ miện của vua chúa xưa, thường có những bông tua rủ xuống trước mắt, trước tai, hoặc dùng bình phong che ngoài cửa, cốt tỏ muốn nhắm mắt bưng tai, làm ngơ bớt trước những lỗi lầm của kẻ dưới.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九. 明 夷 于 飛 . 垂 其 翼 . 君 子 于 行. 三 日 不 食.
有 攸 往. 主 人 有 言.
象 曰: 君 子 于 行,義 不 食 也。
Sơ Cửu. Minh Di vu phi. Thùy kỳ dực. Quân tử vu hành.
Tam nhật bất thực. Hữu du vãng. Chủ nhân hữu ngôn.
Tượng viết:
Quân tử vu hành. Nghĩa bất thực dã.
Dịch. Sơ Cửu.
Minh Di, tăm tối nguy thay,
Tìm đường cao chạy xa bay cho rồi.
Cố sao che được mắt người,
Như chim rũ cánh, vẻ ngoài thọ thương.
Ra đi quân tử lo lường,
Ba ngày ròng rã chẳng màng uống ăn.
Đi đâu, cũng bị tiếng tăm.
Miệng đời đàm tiếu, lăng nhăng quản gì.
Tượng rằng: quân tử ra đi,
Cố sao đi thoát, quản gì uống ăn.
Sơ Cửu tượng trưng cho ngươi quân tử gặp thời Minh Di, nhưng hãy còn xa hôn quân, xa họa hoạn.
Lúc ấy phải xử trí ra sao? Thưa phải tìm đường cao phi, viễn tẩu. Thế tức là Minh Di vu phi. Tống Bản thập tam kinh giải chữ Vu phi, là theo một đường lối đặc biệt, để thoát nạn, là phải giả đò ốm đau, bệnh hoạn, để dễ bề rút lui, chẳng khác nào con chim bị thương, rũ cánh xuống; Thùy kỳ dực.
Đã đi trốn được rồi, phải đi cho cấp tốc, kẻo bị bắt lại; đừng kể chi đến ăn uống nữa, dầu nhịn đói ba ngày mà cứu được mạng mình, cũng nên nhịn mà trốn. Quân tử vu hành. Tam nhật bất thực. Khi hiểm nguy chưa biểu lộ, mà mình lo đi gấp, âu sẽ có nhiều người chê cười, cho là hèn nhát, là điên cuồng. Nhưng người quân tử phải kiến cơ nhi tác, chứ không đợi nước đến chân mới nhẩy. Vì thế Hào từ viết thêm: Hữu du vãng. Chủ nhân hữu ngôn. Chữ Chủ nhân đây không nhất thiết phải là chủ nhân của mình, mà cũng có thể hiểu trống là người ta. Trình tử cũng giải thích rằng: Mình ra đi, mà có người nói xấu sau lưng mình.
Khi Mục Sinh, rời nước Sở, thì Thân Công, Bạch Công, đều chê là chẳng phải, chứ đừng nói chi đến người thường, nhưng có biết đâu Mục Sinh ra đi để lánh nạn Tư Mỹ. Các nhà bình giải Quẻ Minh Di, cũng thường lấy chuyện các hiền thần đời vua Trụ, mà giải các Hào.
Hào Sơ này làm ta liên tưởng đến Bá Di, chạy lên biển Bắc; Thái Công Vọng, chạy ra biển Đông, để lánh nạn Trụ Vương. Bầy mưu, tính kế, để cao chạy xa bay, đó là cách thế người xưa thường dùng.
Đọc Tây Hán Chí, ta thấy Bái Công, Trương Lương và Trần Bình, phải tốn bao tâm cơ, mới được Hạng Võ cho phép vào Hán Trung. Và khi đã được Hạng Võ chấp thuận rồi, Bái Công đã vội vã ra đi, thoát nanh vuốt Hạng Võ, sớm chừng nào hay chừng nấy. Thật đúng là: Quân tử vu hành. Nghĩa bất thực dã.
2. Hào Lục nhị.
六 二. 明 匈 . 夷 于 左 股 . 用 拯 . 馬 壯 . 吉.
象 曰. 六 二 之 吉. 順 以 則 也 .
Lục nhị. Minh Di. Di vu tả cổ. Dụng chửng. Mã tráng. Cát.
Tượng viết:
Lục nhị chi cát. Thuận dĩ tắc dã.
Dịch.
Minh Di phải buổi nhiễu nhương,
Làm cho đùi trái thọ thương mất rồi.
Ngựa hay, sẽ cứu được người,
Ruổi rong lưng ngựa, may thời ắt may.
Tượng rằng: Lục nhị gặp may,
Vì theo phép nước, chẳng thay đổi lòng.
Lục nhị đây là một bậc hiền minh chi tài, gặp thời Minh Di, mà biết ăn ở theo lẽ trung chính, lại bên ngoài, biết tỏ vẻ nhu thuận, phục tùng.
Những người như vậy, dẫu gặp hoàn cảnh éo le, nguy hiểm, vẫn biết thuận thời tự xử, chờ tới khi có người đến cứu thoát, cũng y thức như một người mới bị thương, và chân trái tuy không đi được, nhưng nếu có ngựa hay, ngựa mạnh, vẫn có thể cưỡi mà trốn thoát. Vì thế, Dịch mới nói: Lục nhị. Minh Di. Di vu tả cổ. Dụng chửng. Mã tráng. Cát. Đó là trường hợp Văn Vương, khi bị cầm tù ở ngục Dũ Lý. Ngài một niềm trung thuận, giữ trọn đạo bầy tôi.
Sau này, Tán Nghi Sinh sai Thái Diên và Hoàng Yêu dâng vàng bạc, châu báu, cho Vưu Bồn, Bí Trọng, để hai tên gian thần này bảo tấu với Trụ Vương, mà xin tha cho Văn Vương.
Thế tức là: Lục nhị chi cát. Thuận dĩ tắc dã.
3. Hào Cửu tam.
九 三. 明 夷 于 南 狩. 得 其 大 首. 不 可 疾 貞.
象 曰. 南 狩 之 志. 乃 大 得 也.
Cửu tam. Minh Di vu nam thú. Đắc kỳ đại thủ. Bất khả tật trinh.
Tượng viết:
Nam thú chi chí. Nãi đại đắc dã.
Dịch.
Minh Di săn thú phía nam,
Gặp ngay chủ chốt, bắt mang trở về.
Dân tình vất vưởng, ủ ê,
Chớ nên vội vã, ép bề phép khuôn.
Tượng rằng: Săn thú phía nam,
Cho nên việc lớn đã làm nên công.
Cửu tam là chí minh, nên khắc với Hào Thượng Lục là ám. Vì thế nên Hào Cửu tam chính là những người anh tài, như Thang, Võ sẽ ra tay, vì dân trừ kẻ bạo tàn là Kiệt, Trụ. Họ là những kẻ đứng lên, tiến lên để ruồng bắt, những kẻ đại gian, đại ác, hại dân, hại nước.
Dịch nói: Cửu tam. Minh Di vu nam thú. Đắc kỳ đại thủ, chính là vì vậy. Trong công cuộc này, Dịch khuyên không nên vội vàng, nhất là khi phải chỉnh đốn lại guồng máy chính trị, tình hình xã hội. Hào từ nói: Bất khả tật trinh, chính là vì thế.
Kinh Thư, thiên Tửu Cáo khuyên không nên giết hại những quan chức nhà Châu, mắc tật bê tha rượu chè, mà phải giáo hoá, dẫn dụ họ. Từ khi Thành Thang thoát ngục Hạ Đài, cho đến khi lật đổ được vua Kiệt; từ khi Văn Vương thoát được ngục Dũ Lý, cho đến khi Vũ Vương lật đổ được vua Trụ, cũng phải mất nhiều năm, nhiều tháng. Tóm lại muốn lật đổ một hôn quân vô đạo, không phải là một chuyện dễ, cần phải chuẩn bị lâu dài, chứ không thể vội vã được.
4. Hào Lục tứ.
六 四. 入 于 左 腹. 獲 明 夷 之 心. 于 出 門 庭.
象 曰. 入 于 左 腹. 獲 心 意 也.
Lục tứ: Nhập vu tả phúc. Hoạch Minh Di chi tâm. Vu xuất môn đình.
Tượng viết:
Nhập vu tả phúc. Hoạch tâm ý dã.
Dịch.
Phía lòng bên trái lọt vào,
Mới hay tâm địa cơ cầu Minh Di.
Cửa nhà vội bỏ ra đi.
Tượng rằng: ruột trái đi vào.
Ấy là biết được gót đầu tâm tư.
Hào Lục tứ tượng trưng cho một người thân thiết của hôn quân, đã được lòng của hôn quân (Hoạch Minh Di chi tâm. Vu xuất môn đình), đã đi sâu được vào tâm địa của hôn quân (Nhập vu tả phúc. Hoạch tâm ý dã), và biết chắc chắn không có cách nào cảm hóa được hôn quân, không còn cách nào cứu vãn được sự đổ nát của triều chính, vì thế nên đành rứt áo ra đi (Vu xuất môn đình).
Đó là trường hợp Vi Tử, anh ruột vua Trụ, đã phải bỏ nước ra đi (Kinh Thư, Vi Tử).
5. Hào Lục ngũ.
六 五. 箕 子 之 明 夷. 利 貞.
象 曰. 箕 子 之 貞. 明 不 可 息 也.
Lục ngũ. Cơ Tử chi Minh Di. Lợi trinh.
Tượng viết:
Cơ Tử chi trinh. Minh bất khả tức dã.
Dịch.
Bền gan sống buổi Minh Di,
Được như Cơ Tử, còn gì lợi hơn.
Tượng rằng: Cơ Tử bền gan,
Mới hay sáng láng, khó làm tắt đi.
Lục ngũ chính là trường hợp của Cơ Tử. Cơ Tử kề cận quân vương, cầm giường mối cho đất nước, vì thế Cơ Tử không thể ra đi được.
Cơ Tử, sau khi đã khuyên Vi Tử, nên đi trốn, để bảo toàn giòng giõi nhà Thương, đã kết luận: Còn tôi, tôi không nghĩ đến chuyện đi trốn (Ngã bất cố hành độn. Kinh Thư, Vi tử), mà ở lại, thiệt càng khó xử. Muốn Trụ Vương, khỏi hại mình, ông phải giả điên, giả khùng, đi ở đợ cho người. Một hiền thần như vậy, thật đáng quí trọng. Vì thế Hào từ mới nói, Cơ Tử chi trinh. Minh bất khả tức dã. Cơ Tử thực là nhân vật hiếm có trong lịch sử.
Khi nhà Thương còn, thì ông đã hết sức ẩn nhẫn, đợi thời, gây dựng lại cơ nghiệp đã suy tàn. Khi nhà Thương mất, Võ vương khẩn khoản xin ông chỉ cho cách trị dân, thì ông dạy cho Hồng Phạm Cửu Trù, nhưng trước sau, ông nhất định không chịu thờ nhà Châu. Võ vương đành cho ông đến xứ Cao Ly xưng vương, lập quốc. Thật hi hữu vậy.
6. Hào Thượng Lục.
上 六. 不 明 晦. 初 登 于 天. 后 入 于 地.
象 曰. 初 登 于 天. 照 四 國 也. 后 入 于 地. 失 則 也.
Thượng Lục. Bất minh hối. Sơ đăng vu thiên. Hậu nhập vu địa.
Tượng viết:
Sơ đăng vu thiên. Chiếu tứ quốc dã. Hậu nhập vu địa. Thất tắc dã.
Dịch. Thượng lục.
Sáng không sáng lại tối thui,
Trước lên trời thẳm, sau vùi đất sâu.
Tượng rằng: Mới đầu lên vút tận trời,
Sau sa lòng đất, vì rời phép khuôn.
Hào Thượng Lục, là Hào cuối của quẻ Minh Di, và cũng là Hào cuối của quẻ Khôn, tượng trưng ánh sáng bị thương tổn đến cùng cực (Bất minh hối). Không làm sáng được đức mình, để nó trở nên tối tăm; những người thế ấy mà ở cao ngôi, sẽ làm hại những người minh chính, sau cùng họ sẽ trở lại làm hại chính họ. Đó chính là trường hợp Trụ Vương; mới đầu thì uy quyền chấn bốn phương; sau này vì mê Đát Kỷ, chuyên hãm hại hiền thần, lập ra những hình phạt khủng khiếp, như Sái Bồn, Bào Lạc, để cuối cùng cũng đi đến chỗ mất ngôi, mất nước, phải tự thiêu ở Lộc Đài. Thật đúng là : Sơ đăng vu thiên. Hậu nhập vu địa. Đáng cho ta phải để tâm suy nghĩ
Các nhà bình giải, thường lấy các nhân vật đời Trụ Vương mà giải quẻ Minh Di, nhưng Minh Di không phải là một trường hợp lịch sử duy nhất, áp dụng cho thời Trụ Vương mà thôi đâu; mà còn áp dụng mãi mãi trong lịch sử, mỗi khi có hôn quân định hãm hại hiền thần; trụy lạc, hoang dâm làm cho nhà tan, nước mất.
Tiểu Tượng Truyện kết luận rằng: Sự đoạ lạc xẩy ra, là vì không theo định luật tự nhiên của trời đất (Hậu nhập vu địa. Thất tắc dã).
ÁP DỤNG QUẺ MINH DI VÀO THỜI ĐẠI
Minh Di trên là trái đất, dưới là mặt trời. Ý nói trên là hôn quân, đè nén, áp bức, hãm hại một hiền thần ở dưới. Gặp trường hợp nguy hiểm đó, người bầy tôi này phải xử trí ra sao? Thưa, phải dấu bớt sự thông minh, sáng láng của mình, như Văn vương xưa đã làm.
Đọc lịch sử Việt Nam và Trung Hoa, ta thấy, xưa nay các vua chúa giết công thần khá nhiều. Người xưa nói: được chim thì bẻ ná, được cá thì quên nơm, chính là vì vậy.
- Câu Tiễn giết công thần là Văn Chủng, Hán Cao Tổ giết Hàn Tín, Anh Bố và Bành Việt, và khiến cho Trương Lương qui ẩn.
-Đại Minh Hồng Võ Chu Nguyên Chương giết nguyên soái Thường Ngộ Xuân. Ở Việt Nam, thời nhà Lê, vì vụ án Thị Lộ, mà vua Lê Nhân Tông giết và chu di cả 3 họ Nguyễn Trãi. Thời Gia Long năm 16, Nguyễn văn Thành bị kết tội làm phản, và đã tự sát (1817), thật là vô vàn sự tích, không thể kể hết được.
Lời khuyên trên của Kinh Dịch, có ít người đã theo được, ví dụ như Tư Mã Ý đã giả điếc, nên đã thoát nạn.
Từ năm 1789, Pháp đã làm một cuộc Cách mạng lớn. Người ta không còn cho rằng vua chúa được trị vì là do Mệnh Trời. Người ta đề cao giá trị con người. Các Triết gia, Văn gia thời ấy như Diderot,Voltaire, Jean Jacques Rousseau, đã chủ trương Nhân chi sơ, tính bản thiện, (trước kia bên Âu Châu chủ trương Nhân chi sơ, tính bản ác, vì cho rằng con người sinh ra vốn đã ác, là do tội tổ tông), và cho rằng vua chúa chẳng qua chỉ là những công bộc quốc gia mà thôi. Quyền cai trị, là do dân, thuộc dân. Vì dân không đảm nhiệm được sự cai trị, nên dùng lá phiếu của mình để ủy nhiệm người khác. Và trên nguyên tắc, không ai được đặc quyền, đặc lợi gì hơn ai. Cách Mạng 1789 bùng nổ, và chọn khẩu hiệu là Tự Do, Bình đẳng và Anh em (Liberté, Égalité, Fraternité). Cũng từ thuở ấy, Đạo giáo cũng không còn được can thiệp vào chính quyền. Từ Cách Mạng Pháp, phần lớn các nước trong thiên hạ đã dần dần bỏ chế độ Quân chủ, cha truyền con nối, mà theo chế độ dân chủ, thay nhau trị dân, do dân bầu mỗi người một ít năm. Hoặc chỉ còn một số ít nước vẫn còn theo chế độ quân chủ, nhưng là quân chủ lập hiến, vua chỉ là tượng trưng, chứ không có thực quyền như xưa. Ví dụ như vua nước Anh, Nhật vv... Thật là một tiến bộ lớn cho nhân loại, và những chuyện giết chóc vô lý, cũng dần dần không còn nữa.
Ngày nay, các báo chí luôn soi mói vào công việc của chính quyền, nên các vị Nguyên Thủ có muốn cũng không dở dói gì được. Vả lại, muốn lập một Tổng hay Bộ Trưởng, thì ngoài đề nghị của Tổng Thống, còn phải có sự khảo hạch, chọn lựa của Quốc Hội.
Theo tôi, (tác giả bài này) ngày nay hơn xưa, vì hợp tình, hợp lý hơn. Ngày nay, nếu ta bị chính quyền chèn ép, ta phải liệu cao chạy xa bay; đi làm bị cấp trên chèn ép, ta phải liệu tìm sở khác mà làm, để tránh những sự không hay có thể xẩy ra mai sau v.v...
Tóm lại, Học Dịch, Hiểu Dịch, nhưng phải Áp dụng theo Dịch nữa, thì mới là hoàn hảo.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
8 ĐỊA THỦY SƯ
ĐỊA THỦY SƯ
Sư Tự Quái
師 序 卦
Tụng tất hữu chúng khởi,
訟 必 有 眾 起
Cố thụ chi dĩ Sư
故 受 之 以 師
Sư Tự Quái
Tranh dành, quần chúng âu đành nổi lên.
Quẻ Sư vì vậy tiếp liền.
Cá nhân bất hòa sẽ sinh kiện tụng. Quốc gia bất hòa cùng nhau, sẽ sinh chinh chiến. Cho nên sau quẻ Tụng, bàn đến quẻ Sư. Quẻ Sư, trên là Khôn = Đất = Nhu thuận, dưới là Khảm = Nước = Nguy hiểm, lại có 1 Hào Dương ở Cửu nhị, thống lãnh 5 Hào Âm. Nó gợi lên những ý nghĩa sau :
1. Chinh chiến là một công chuyện hết sức hiểm nghèo, cần phải được thuận tình, thuận lý, tức là phải có chính nghĩa, có lý do xác đáng, và được quốc dân tán thành mới nên.
2. Đời xưa cho rằng: quân ẩn trong lòng dân, như nước ẩn trong đất, quân và dân không thể rời nhau. Thời bình thì quân là dân, thời chiến thì dân là quân. Vì thế Chu Hi mới bàn rằng: Người xưa cho rằng quân nhân vốn đã tiềm ẩn ngay trong tầng lớp nông dân, cái chí hiểm đã tàng phục ngay trong cái chí thuận, và cái bất trắc đã tàng ẩn ngay trong cái tĩnh lãng.
Quân và dân liên lạc hết sức mật thiết với nhau, nên tổ chức hành chánh (Quẻ Tỉ), và tổ chức quân sự (Quẻ Sư) là hai tổ chức song hành và tương ứng.
3. Quẻ Sư có một Hào Dương (Hào Cửu nhị), thống lãnh quần Âm, đó là tượng trưng cho một vị tướng soái, thừa ủy nhiệm vua, thống lĩnh ba quân xông pha gian hiểm, để chinh thảo địch quân.
Trước khi khảo sát quẻ Sư, ta nên biết Hiền thánh đời xưa rất ghét binh bị, vì binh bị độc nhân, hại chúng. Hồng phạm Cửu trù, xếp Binh bị vào hàng cuối cùng trong Bát chính (tám phương sách trị dân).
Gần đây, Thánh Gandhi cũng nhất định đề xướng lên cùng thế giới chủ trương Bất hại ( Ahimsa), và chủ trương Bất bạo động. Ông viết: Nếu trong một cuộc chiến tranh vì chính nghĩa, cần phải hại tới sinh mạng con người, thì người ta nên bắt chước chúa Jésus sẵn sàng đổ máu mình, thay vì đổ máu kẻ khác, như vậy máu bớt chẩy trong hoàn vũ ( Autobiographie d'un Yogi p, 440 ).
Tự Quái đề cập tới duyên cớ chiến tranh, và cho rằng vì người ta chia rẽ, tranh dành nhau nên mới có chiến tranh.
I. Thoán.
Thoán Từ.
師: 貞,丈 人,吉. 無 咎。
Sư. Trinh. Trượng nhân, cát. Vô cữu.
Dịch.
Xuất sư, chính nghĩa phải theo,
Tướng gồm tài đức, hết điều dở dang.
Thoán Từ chủ trương: Mỗi khi hưng sư, động chúng phải có một duyên cớ xác đáng. Người xưa hưng binh để trừ bạo chúa, như Thành Thang hưng binh diệt Kiệt, Võ Vương hưng binh diệt Trụ. Vì vậy, không có động chạm đến dân chúng.
Thoán Truyện.
師,眾 也,貞 正 也,能 以 眾 正,可 以 王 矣。剛 中 而 應,行 險
而 順,以 此 毒 天 下,而 民 從 之,吉 又 何 咎 矣。
Thoán viết: Sư. Chúng dã. Trinh. Chính dã. Năng dĩ chúng chính. Khả dĩ vương hĩ. Cương trung nhi ứng. Hành hiểm nhi thuận. Dữ thử độc thiên hạ nhi dân tòng chi. Cát. Hựu hà cữu hĩ.
Dịch.
Thoán rằng: Sư ấy quân đông.
Trinh là chính nghĩa, phục tòng, mới hay.
Bắt quân theo được đường ngay,
Đáng làm vương tướng, làm thầy thế gian.
Cương cường, thừa lệnh quân vương,
Đi vào nguy hiểm, biết đường xở xoay,
Quân binh độc địa xưa nay,
Biết dùng, thiên hạ vẫn quay theo mình.
Khéo dùng, quân sự cũng lành,
Lỗi lầm, hồ dễ nẩy sinh được nào.
Một khi đã có lý do chính đáng để hưng binh, động chúng, nhà vua có nhiệm vụ lựa một tướng có tài đức cầm quân. Quyết định này sẽ có ảnh hưởng lớn đến sự thắng lợi của toàn quân. Lịch sử đã chứng minh điều đó:
Bái Công thắng trận nhờ Hàn Tín.
Nước Pháp thắng trận liên miên ở Ý (1796), nhờ Carnot biết bổ dụng Bonaparte v v . . .
Vị nguyên soái ấy phải giữ được chính nghĩa, thuận quân và thuận dân, đem chiến thắng vinh quang về cho đất nước, mới có thể gọi được là xuất quân tuyệt hảo.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 地 中 有 水,師﹔ 君 子 以 容 民 畜 眾。
Tượng viết:
Địa trung hữu thủy. Sư. Quân tử dĩ dung dân súc chúng.
Dịch.
Nước trong lòng đất, gọi là Sư,
Nuôi dưỡng nhân dân, hãy lắng lo.
Quân tử dung dân, và xuất chúng,
Quân dân đất nước, hãy nên so.
Tượng Truyện đề cập đến một vấn đề hết sức quan hệ, và cho rằng quân là dân, dân là quân. Nuôi dân, dạy dân tức là nuôi quân, dạy quân. Vấn đề này từ năm 1789 trở đi đã trở thành một vấn đề quốc tế. Thực vậy, sau cuộc Cách Mạng Pháp, chính phủ Pháp đã thực hiện một cuộc động viên toàn diện, và bắt toàn dân tham chiến. Từ chủ nghĩa Karl Marx ra đời, các lãnh tụ Cộng Sản đều lấy đó làm vấn đề then chốt. Và Cộng Sản đã thực hiện triệt để khẩu hiệu Quân dân cá nước, cho quân lẩn vào dân, sống nhờ dân, phối hợp với dân ( du kích chiến), phối hợp dân với quân ( Vận động chiến, Trận địa chiến), để đi đến thắng lợi cuối cùng.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六. 師 出 以 律,否 臧 凶。
象 曰: 師 出 以 律,失 律 凶 也。
Sơ Lục. Sư xuất dĩ luật. Phủ tang hung.
Tượng viết:
Sư xuất dĩ luật. Thất luật hung dã.
Dịch. Sơ Lục:
Xuất quân cần có phép.
Nếu không hung họa sẽ tới nơi.
Tượng rằng:
Ra quân phép tắc đàng hoàng.
Nếu không phép tắc, tan hoang đã đành.
Hào Sơ cho rằng ra quân cần phải có kỷ luật. Điều này cả Đông lẫn Tây đều cho là then chốt. Quân tướng mà không nhất trí, tiến thoái mà không đồng nhất, hiệu lệnh mà không nghiêm chỉnh, thì cũng chỉ là loạn quân, là quân ô hợp, không làm nên chuyện gì.
2. Hào Cửu nhị.
九 二. 在 師 中,吉 無 咎,王 三 錫 命。
象 曰: 在 師 中 吉,承 天 寵 也。 王 三 錫 命,懷 萬 邦 也。
Cửu nhị. Tại sư trung. Cát. Vô cửu. Vương tam tích mệnh.
Tượng viết:
Tại sư trung cát. Thừa thiên sủng dã. Vương tam tích mệnh.
Hoài vạn bang dã.
Dịch.
Nếu gặp anh tài cầm quân lữ,
Rồi ra mọi sự sẽ hoá hay.
Vua đã ba lần ban tưởng thưởng,
Nghĩ đến dân gian khắp đó đây.
Tượng rằng:
Ở chốn ba quân, vẫn được hay,
Ơn trời mưa móc, hưởng tràn đầy.
Ba lần vua đã ban ân thưởng,
Vì luyến dân tình khắp đó đây.
Hào Cửu nhị cho rằng tướng soái cầm quân cần có tài đức và có đủ uy quyền. Đánh giặc cũng như đánh cờ, giỏi sẽ thắng, dốt sẽ bại. Tôn Võ cầm quân đánh giúp vua Ngô, nên Nam thì phá được Sở, Bắc thì phục được Tề, được Tấn. Hưng Đạo cầm quân đã ba lần cả phá quân Nguyên. Tướng soái ra quân cần có đủ uy quyền, như vậy binh sĩ mới phục. Trong quẻ Sư, Tướng soái là một Hào Dương chói sáng, còn vị quân vương lại là một Hào Âm lu mờ, nghĩa là ở nơi chiến địa, Tướng soái mới là Vua. Xưa kia, Vua tiễn Tướng ra quân, thời nói: Từ cổng thành trở ra, là do Tướng quân quyết đoán. Sở dĩ Vua trao quyền định đoạt cho Tướng soái, là vì nếu Tướng không có quyền, thì không điều khiển được sĩ tốt. Hơn nữa, nhà vua ở xa trận địa, không hiểu rõ được diễn biến của tình thế một cách thấu đáo, nên không thể nào quyết đoán được sự tiến, thoái, công, thủ được
3. Hào Lục tam.
六 三. 師 或 輿 尸,凶。
象 曰: 師 或 輿 尸,大 無 功也。
Lục tam. Sư hoặc dư thi. Hung.
Tượng viết:
Sư hoặc dư thi. Đại vô công dã.
Dịch.
Ra quân, mà đến chở thây,
Thì thôi, hung họa, đắng cay, còn gì?
Tượng rằng:
Ra quân mà đến chở thây,
Công trình mây khói, khói mây còn gì?
Hào Lục tam cho ta thấy tướng dở mà cầm quân là đưa quân vào cõi chết. Năm 1954, ở Việt Nam, tướng Navarre đã cho quân Pháp đóng vào lòng chảo của Diện Biên Phủ, một nơi tử địa, chung quanh là núi non, lại thường có sương mù, nên đã làm mồi cho các ổ trọng pháo của Việt Cộng, và đã phải đầu hàng ngày 7 tháng 5 năm 1954 sau 55 ngày ác chiến. Sau cuộc chiến này, sự đô hộ của người Pháp trên lãnh thổ Việt Nam đã cáo chung.
4. Hào Lục tứ.
六 四. 師 左 次,無 咎。
象 曰: 左 次 無 咎,未 失 常 也。
Lục tứ. Sư tả thứ. Vô cữu.
Tượng viết:
Tả thứ vô cữu. Vị thất thường dã.
Dịch.
Lục tứ, lui quân lại phía sau,
Lui quân, nào đáng trách chi đâu.
Tượng rằng:
Lui quân có lỗi chi đâu,
Quân cơ, tiến thoái, trước sau, là thường.
Hào Lục tứ bàn về một vấn đề binh pháp, người làm tướng phải biết tiến, biết lui, như vậy mới có thể bảo toàn được lực lượng. Chỉ biết tiến, mà không biết lui, nguy hiểm vô cùng. Lỗi lầm của Hitler trong trận Stalingrad là bắt tướng Paulus phải cố thủ, không được rút lui, mặc dầu đã ở trong tình thế tuyệt vọng. Vì thế, nên ngày 31 tháng 1 năm 1942, hết lương thảo và quân nhu, binh sĩ lại đau ốm, Von Paulus phải ra hàng với 22 tướng và 200.000 quân sĩ.
Kutosof đã dùng chiến thuật rút lui, vườn không, nhà trống, nhử đại binh của Napoléon vào trọng địa, để rồi ra nhờ đói khổ, rét mướt, bệnh tật, và du kích, chiến thuật tiêu hao, truy kích, mà làm cho 500 ngàn quân thiện chiến của Napoléon hoàn toàn bị tiêu diệt, chỉ còn được vài chục ngàn người đi không vững.
5. Hào Lục ngũ.
六 四. 師 左 次,無 咎。
象 曰: 左 次 無 咎,未 失 常 也。
Lục ngũ. Điền hữu cầm. Lợi chấp ngôn. Vô cữu.
Trưởng tử soái sư. Đệ tử dư thi. Trinh hung.
Tượng viết:
Trưởng tử soái sư. Dĩ trung hành dã. Đệ tử dư thi. Xử bất đáng dã.
Dịch.
Lục ngũ: thú rừng về đồng nội,
Đi lùng, đi bắt, vẫn là hay.
Dùng được tướng tài, thời khỏi lỗi,
Dùng kẻ vô năng, sẽ chở thây
Tướng tài dùng được, mới hay,
Dùng người bất lực, chở thây vong tàn.
Tượng rằng:
Tướng giỏi ra quân, quân mới vẹn,
Người ngu khiển chúng, chúng phơi thây.
Dùng người, có dở, có hay.
Hào Lục ngũ cho rằng chỉ khi nào có quân xâm lăng vi phạm cõi bờ, thì mới nên xuất quân chinh thảo. Vì dầu sao, binh cách cũng là chuyện bất tường. Người xưa có câu: Binh đi tới đâu, chông gai nẩy tới đó.
Khi đã có lý do chính đáng để hưng binh rồi, cần phải biết dùng tướng tài, bỏ tướng dở. Tôn Tử viết: Binh là việc lớn của nước, là vấn đề sống chết, là con đường còn mất, không thể không xét biết.
Tướng chịu trách nhiệm về sự tồn vong của ba quân. Vua chịu trách nhiệm tìm ra tướng tài.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 大 君 有 命,開 國 承 家,小 人 勿 用。
象 曰: 大 君 有 命,以 正 功 也;小 人 勿 用,必 亂 邦 也。
Thượng Lục.
Đại quân hữu mệnh. Khai quốc thừa gia. Tiểu nhân vật dụng.
Tượng viết:
Đại quân hữu mệnh. Dĩ chính công dã. Tiểu nhân vật dụng.
Tất loạn bang dã.
Dịch.
Thượng Lục: quân vương truyền mệnh lệnh,
Khai quốc công hầu, cấp đất đai.
Tiểu nhân thôi chớ có xài.
Tượng rằng:
Nhà vua lúc thưởng công lao,
Tiểu nhân thôi chớ có trao chức quyền,
Tiểu nhân, ăn chốc, ngồi trên.
Loạn nhà, loạn nước, đến liền chẳng sai.
Thượng Lục thì bàn rằng, khi đã chiến thắng, khi chiến tranh đã kết liễu, thời nên tưởng thưởng chiến sĩ cho trọng hậu, nhưng không được dùng kẻ tiểu nhân để trị nước, vì đó là mầm họa hoạn. Thế mới hay, trị quân khác trị dân, chống ngoại xâm khác với đem hưng thịnh về cho đất nước.
Những ý niệm đại cương trên đây cũng làm ta suy nghĩ rất nhiều. Nếu đã mang danh tướng soái, cầm quân diệt giặc, thì phải là người học rộng, biết nhiều, học các chiến tích danh nhân kim cổ, đọc hết các binh thư, biết dùng thời tiết, biết dùng người, dùng quân, dùng dân, biết khuyến binh, khích tướng, biết dùng địa hình, địa thế, biết khai thác và lợi dụng triệt để các loại vũ khí, các phát minh của khoa học để thủ thắng. Tóm lại, binh là biến, người cầm binh phải biết biến. Nơi trang giấy nhỏ này, ta không thể bàn cãi cho xiết mọi khía cạnh của chiến tranh, của binh thư, binh pháp, của chiến thuật, chiến lược. Và ta cũng bắt chước Kinh Dịch, nói đến Tụng, là ước mong không còn kiện tụng, nói đến Sư là chỉ ước mong không còn chiến tranh trên mặt đất này nữa.
ÁP DỤNG QUẺ SƯ VÀO THỜI ĐẠI
Trước khi nói về quẻ Sư, áp dụng vào thời đại này, ta hãy đọc qua cách bầy binh, bố trận của người đời xưa, và của người đời nay, để tìm ra sự khác biệt của chúng.
Tôn Võ Tử, một binh gia nổi tiếng thời Xuân Thu, tác giả bộ Binh Pháp Tôn Tử ( sách dùng binh sớm nhất của Trung quốc) viết: Binh là việc lớn của nước, là vấn đề sống chết, là con đường còn mất, không thể không xét biết.
*Binh thư Tôn Võ cho rằng: Trong phép dùng binh:
-Ta gấp 10 địch, ta bao vây.
-Ta gấp 5 địch, ta tấn công.
-Ta gấp 2 địch, ta chia quân đánh 2 mặt.
-Ta ngang với địch, ta phải biết quyết đánh.
-Ta kém hơn địch về quân số, ta phải hết sức tránh né giao phong.
*Fabius, nhờ chiến thuật tránh né và rút lui, đã cầm chân Annibal được mấy năm trời, không cho tiến tới được La Mã. Nhờ vậy, sau này Scipion mới đánh tan được quân Annibal ở Zania (202 BC ).
*Trương Lương, đã dùng Tâm lý chiến đánh tan quân của Hạng Võ.
*Kutosof đã dùng chiến thuật rút lui, vườn không, nhà trống, đánh quân của Napoléon, như trên đã nói.
* Mao Trạch Đông, dùng chiến thuật du kích, và cho khẩu lệnh là: Địch tiến, ta lui; địch nghỉ, ta quấy; địch mệt, ta đánh; địch lui, ta đuổi.
*Napoléon, Clausewitz, Hồng quân đã dùng chiến thuật công kỳ vô bị, xuất kỳ bất ý (của Tôn võ Tử), là đánh khi địch chưa đề phòng, ta thình lình ra quân.
a -Điều động binh mã sao cho âm thầm, ngày nghỉ, đêm đi, nấp trong rừng, nấp trong dân, để địch quân không biết mình ở đâu, muốn gì, có bao nhiêu quân, cơ giới gì.
b -Trước khi đánh, phải chuẩn bị cho kỹ lưỡng, nghiên cứu tình hình địch quân cho cặn kẽ, bằng tình báo, bằng dân, bằng quân. Kế hoạch xuất quân, phải soạn thảo kỹ càng, tản binh để di chuyển, tập binh để xung kích.
c -Lúc đánh, phải có mục tiêu rõ rệt, đường hướng rõ rệt, và đánh cho thần tốc, dũng mãnh, sấm sét, ào ạt, lấy mười đánh một, đánh vào chỗ sơ hở, đánh vào lúc bất kỳ. Xong xuôi phải khai thác thắng lợi, tiêu diệt địch quân.
*Binh pháp của Thống Tướng Foch là lúc nào cũng phải bảo tồn lực lượng, có tiền phong, tả dực, hữu dực, có trung quân, hậu quân, có chính, có kỳ. Chính thường ở giữa để thủ, kỳ thường ở hai cánh để công vào sườn, vào hông, vào lưng địch.
Hơn nữa, binh pháp, chiến pháp thường thay đổi luôn luôn, cho hợp với tình thế, hợp với đà phát triển của khoa học, của vũ khí. Dần dà, các chiến thuật gia, lấy dân và quân kết thành thế liên hoàn, nên vừa có Du kích chiến, vừa có Chính qui chiến, Trận địa chiến. Xử dụng được cả quân lẫn dân, biết động, tĩnh khôn lường; biết tụ, tán; biết quyền, biến; biết chính, kỳ; biết triển dương, thu xúc, tức là áp dụng được lẽ Dịch trong vũ trụ vào Binh bị.
Khi xưa, trong chiến trận, chỉ 2 tướng đánh nhau, tướng nào thua, là quân hàng, coi như trận đó thắng bại đã rõ rệt,( như vậy đỡ chết quân).
Sau đó, du kích chiến, trận địa chiến v v... nên quân chết nhiều. Chiến tranh dần dà biến thành một thứ chiến tranh toàn diện, có mục đích là tiêu diệt, thành thử có một bộ mặt hết sức là ghê gớm. Người ta chế tạo ra bom nguyên tử, khinh khí, hơi ngạt, và còn bom vi trùng để tiêu diệt nhau khi có chiến tranh.
Khi xưa, hưng binh để trừ bạo chúa thôi, ngày nay chiến tranh để thực hiện mộng xâm lăng; xâm chiếm đất đai; gây hiềm khích giữa các nước người để tạo chiến tranh, để bán võ khí; hoặc chiến tranh để thực hiện chủ nghĩa của 2 khối Tư Bản & Cộng Sản. Nay khối Cộng Sản đã cáo chung, mong rằng Hòa Bình sẽ tới, và sẽ ngự trị mãi mãi trên trái đất này, đó là điều chúng ta & Kinh Dịch mong mỏi vậy.
ĐỊA THỦY SƯ
Sư Tự Quái
師 序 卦
Tụng tất hữu chúng khởi,
訟 必 有 眾 起
Cố thụ chi dĩ Sư
故 受 之 以 師
Sư Tự Quái
Tranh dành, quần chúng âu đành nổi lên.
Quẻ Sư vì vậy tiếp liền.
Cá nhân bất hòa sẽ sinh kiện tụng. Quốc gia bất hòa cùng nhau, sẽ sinh chinh chiến. Cho nên sau quẻ Tụng, bàn đến quẻ Sư. Quẻ Sư, trên là Khôn = Đất = Nhu thuận, dưới là Khảm = Nước = Nguy hiểm, lại có 1 Hào Dương ở Cửu nhị, thống lãnh 5 Hào Âm. Nó gợi lên những ý nghĩa sau :
1. Chinh chiến là một công chuyện hết sức hiểm nghèo, cần phải được thuận tình, thuận lý, tức là phải có chính nghĩa, có lý do xác đáng, và được quốc dân tán thành mới nên.
2. Đời xưa cho rằng: quân ẩn trong lòng dân, như nước ẩn trong đất, quân và dân không thể rời nhau. Thời bình thì quân là dân, thời chiến thì dân là quân. Vì thế Chu Hi mới bàn rằng: Người xưa cho rằng quân nhân vốn đã tiềm ẩn ngay trong tầng lớp nông dân, cái chí hiểm đã tàng phục ngay trong cái chí thuận, và cái bất trắc đã tàng ẩn ngay trong cái tĩnh lãng.
Quân và dân liên lạc hết sức mật thiết với nhau, nên tổ chức hành chánh (Quẻ Tỉ), và tổ chức quân sự (Quẻ Sư) là hai tổ chức song hành và tương ứng.
3. Quẻ Sư có một Hào Dương (Hào Cửu nhị), thống lãnh quần Âm, đó là tượng trưng cho một vị tướng soái, thừa ủy nhiệm vua, thống lĩnh ba quân xông pha gian hiểm, để chinh thảo địch quân.
Trước khi khảo sát quẻ Sư, ta nên biết Hiền thánh đời xưa rất ghét binh bị, vì binh bị độc nhân, hại chúng. Hồng phạm Cửu trù, xếp Binh bị vào hàng cuối cùng trong Bát chính (tám phương sách trị dân).
Gần đây, Thánh Gandhi cũng nhất định đề xướng lên cùng thế giới chủ trương Bất hại ( Ahimsa), và chủ trương Bất bạo động. Ông viết: Nếu trong một cuộc chiến tranh vì chính nghĩa, cần phải hại tới sinh mạng con người, thì người ta nên bắt chước chúa Jésus sẵn sàng đổ máu mình, thay vì đổ máu kẻ khác, như vậy máu bớt chẩy trong hoàn vũ ( Autobiographie d'un Yogi p, 440 ).
Tự Quái đề cập tới duyên cớ chiến tranh, và cho rằng vì người ta chia rẽ, tranh dành nhau nên mới có chiến tranh.
I. Thoán.
Thoán Từ.
師: 貞,丈 人,吉. 無 咎。
Sư. Trinh. Trượng nhân, cát. Vô cữu.
Dịch.
Xuất sư, chính nghĩa phải theo,
Tướng gồm tài đức, hết điều dở dang.
Thoán Từ chủ trương: Mỗi khi hưng sư, động chúng phải có một duyên cớ xác đáng. Người xưa hưng binh để trừ bạo chúa, như Thành Thang hưng binh diệt Kiệt, Võ Vương hưng binh diệt Trụ. Vì vậy, không có động chạm đến dân chúng.
Thoán Truyện.
師,眾 也,貞 正 也,能 以 眾 正,可 以 王 矣。剛 中 而 應,行 險
而 順,以 此 毒 天 下,而 民 從 之,吉 又 何 咎 矣。
Thoán viết: Sư. Chúng dã. Trinh. Chính dã. Năng dĩ chúng chính. Khả dĩ vương hĩ. Cương trung nhi ứng. Hành hiểm nhi thuận. Dữ thử độc thiên hạ nhi dân tòng chi. Cát. Hựu hà cữu hĩ.
Dịch.
Thoán rằng: Sư ấy quân đông.
Trinh là chính nghĩa, phục tòng, mới hay.
Bắt quân theo được đường ngay,
Đáng làm vương tướng, làm thầy thế gian.
Cương cường, thừa lệnh quân vương,
Đi vào nguy hiểm, biết đường xở xoay,
Quân binh độc địa xưa nay,
Biết dùng, thiên hạ vẫn quay theo mình.
Khéo dùng, quân sự cũng lành,
Lỗi lầm, hồ dễ nẩy sinh được nào.
Một khi đã có lý do chính đáng để hưng binh, động chúng, nhà vua có nhiệm vụ lựa một tướng có tài đức cầm quân. Quyết định này sẽ có ảnh hưởng lớn đến sự thắng lợi của toàn quân. Lịch sử đã chứng minh điều đó:
Bái Công thắng trận nhờ Hàn Tín.
Nước Pháp thắng trận liên miên ở Ý (1796), nhờ Carnot biết bổ dụng Bonaparte v v . . .
Vị nguyên soái ấy phải giữ được chính nghĩa, thuận quân và thuận dân, đem chiến thắng vinh quang về cho đất nước, mới có thể gọi được là xuất quân tuyệt hảo.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 地 中 有 水,師﹔ 君 子 以 容 民 畜 眾。
Tượng viết:
Địa trung hữu thủy. Sư. Quân tử dĩ dung dân súc chúng.
Dịch.
Nước trong lòng đất, gọi là Sư,
Nuôi dưỡng nhân dân, hãy lắng lo.
Quân tử dung dân, và xuất chúng,
Quân dân đất nước, hãy nên so.
Tượng Truyện đề cập đến một vấn đề hết sức quan hệ, và cho rằng quân là dân, dân là quân. Nuôi dân, dạy dân tức là nuôi quân, dạy quân. Vấn đề này từ năm 1789 trở đi đã trở thành một vấn đề quốc tế. Thực vậy, sau cuộc Cách Mạng Pháp, chính phủ Pháp đã thực hiện một cuộc động viên toàn diện, và bắt toàn dân tham chiến. Từ chủ nghĩa Karl Marx ra đời, các lãnh tụ Cộng Sản đều lấy đó làm vấn đề then chốt. Và Cộng Sản đã thực hiện triệt để khẩu hiệu Quân dân cá nước, cho quân lẩn vào dân, sống nhờ dân, phối hợp với dân ( du kích chiến), phối hợp dân với quân ( Vận động chiến, Trận địa chiến), để đi đến thắng lợi cuối cùng.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六. 師 出 以 律,否 臧 凶。
象 曰: 師 出 以 律,失 律 凶 也。
Sơ Lục. Sư xuất dĩ luật. Phủ tang hung.
Tượng viết:
Sư xuất dĩ luật. Thất luật hung dã.
Dịch. Sơ Lục:
Xuất quân cần có phép.
Nếu không hung họa sẽ tới nơi.
Tượng rằng:
Ra quân phép tắc đàng hoàng.
Nếu không phép tắc, tan hoang đã đành.
Hào Sơ cho rằng ra quân cần phải có kỷ luật. Điều này cả Đông lẫn Tây đều cho là then chốt. Quân tướng mà không nhất trí, tiến thoái mà không đồng nhất, hiệu lệnh mà không nghiêm chỉnh, thì cũng chỉ là loạn quân, là quân ô hợp, không làm nên chuyện gì.
2. Hào Cửu nhị.
九 二. 在 師 中,吉 無 咎,王 三 錫 命。
象 曰: 在 師 中 吉,承 天 寵 也。 王 三 錫 命,懷 萬 邦 也。
Cửu nhị. Tại sư trung. Cát. Vô cửu. Vương tam tích mệnh.
Tượng viết:
Tại sư trung cát. Thừa thiên sủng dã. Vương tam tích mệnh.
Hoài vạn bang dã.
Dịch.
Nếu gặp anh tài cầm quân lữ,
Rồi ra mọi sự sẽ hoá hay.
Vua đã ba lần ban tưởng thưởng,
Nghĩ đến dân gian khắp đó đây.
Tượng rằng:
Ở chốn ba quân, vẫn được hay,
Ơn trời mưa móc, hưởng tràn đầy.
Ba lần vua đã ban ân thưởng,
Vì luyến dân tình khắp đó đây.
Hào Cửu nhị cho rằng tướng soái cầm quân cần có tài đức và có đủ uy quyền. Đánh giặc cũng như đánh cờ, giỏi sẽ thắng, dốt sẽ bại. Tôn Võ cầm quân đánh giúp vua Ngô, nên Nam thì phá được Sở, Bắc thì phục được Tề, được Tấn. Hưng Đạo cầm quân đã ba lần cả phá quân Nguyên. Tướng soái ra quân cần có đủ uy quyền, như vậy binh sĩ mới phục. Trong quẻ Sư, Tướng soái là một Hào Dương chói sáng, còn vị quân vương lại là một Hào Âm lu mờ, nghĩa là ở nơi chiến địa, Tướng soái mới là Vua. Xưa kia, Vua tiễn Tướng ra quân, thời nói: Từ cổng thành trở ra, là do Tướng quân quyết đoán. Sở dĩ Vua trao quyền định đoạt cho Tướng soái, là vì nếu Tướng không có quyền, thì không điều khiển được sĩ tốt. Hơn nữa, nhà vua ở xa trận địa, không hiểu rõ được diễn biến của tình thế một cách thấu đáo, nên không thể nào quyết đoán được sự tiến, thoái, công, thủ được
3. Hào Lục tam.
六 三. 師 或 輿 尸,凶。
象 曰: 師 或 輿 尸,大 無 功也。
Lục tam. Sư hoặc dư thi. Hung.
Tượng viết:
Sư hoặc dư thi. Đại vô công dã.
Dịch.
Ra quân, mà đến chở thây,
Thì thôi, hung họa, đắng cay, còn gì?
Tượng rằng:
Ra quân mà đến chở thây,
Công trình mây khói, khói mây còn gì?
Hào Lục tam cho ta thấy tướng dở mà cầm quân là đưa quân vào cõi chết. Năm 1954, ở Việt Nam, tướng Navarre đã cho quân Pháp đóng vào lòng chảo của Diện Biên Phủ, một nơi tử địa, chung quanh là núi non, lại thường có sương mù, nên đã làm mồi cho các ổ trọng pháo của Việt Cộng, và đã phải đầu hàng ngày 7 tháng 5 năm 1954 sau 55 ngày ác chiến. Sau cuộc chiến này, sự đô hộ của người Pháp trên lãnh thổ Việt Nam đã cáo chung.
4. Hào Lục tứ.
六 四. 師 左 次,無 咎。
象 曰: 左 次 無 咎,未 失 常 也。
Lục tứ. Sư tả thứ. Vô cữu.
Tượng viết:
Tả thứ vô cữu. Vị thất thường dã.
Dịch.
Lục tứ, lui quân lại phía sau,
Lui quân, nào đáng trách chi đâu.
Tượng rằng:
Lui quân có lỗi chi đâu,
Quân cơ, tiến thoái, trước sau, là thường.
Hào Lục tứ bàn về một vấn đề binh pháp, người làm tướng phải biết tiến, biết lui, như vậy mới có thể bảo toàn được lực lượng. Chỉ biết tiến, mà không biết lui, nguy hiểm vô cùng. Lỗi lầm của Hitler trong trận Stalingrad là bắt tướng Paulus phải cố thủ, không được rút lui, mặc dầu đã ở trong tình thế tuyệt vọng. Vì thế, nên ngày 31 tháng 1 năm 1942, hết lương thảo và quân nhu, binh sĩ lại đau ốm, Von Paulus phải ra hàng với 22 tướng và 200.000 quân sĩ.
Kutosof đã dùng chiến thuật rút lui, vườn không, nhà trống, nhử đại binh của Napoléon vào trọng địa, để rồi ra nhờ đói khổ, rét mướt, bệnh tật, và du kích, chiến thuật tiêu hao, truy kích, mà làm cho 500 ngàn quân thiện chiến của Napoléon hoàn toàn bị tiêu diệt, chỉ còn được vài chục ngàn người đi không vững.
5. Hào Lục ngũ.
六 四. 師 左 次,無 咎。
象 曰: 左 次 無 咎,未 失 常 也。
Lục ngũ. Điền hữu cầm. Lợi chấp ngôn. Vô cữu.
Trưởng tử soái sư. Đệ tử dư thi. Trinh hung.
Tượng viết:
Trưởng tử soái sư. Dĩ trung hành dã. Đệ tử dư thi. Xử bất đáng dã.
Dịch.
Lục ngũ: thú rừng về đồng nội,
Đi lùng, đi bắt, vẫn là hay.
Dùng được tướng tài, thời khỏi lỗi,
Dùng kẻ vô năng, sẽ chở thây
Tướng tài dùng được, mới hay,
Dùng người bất lực, chở thây vong tàn.
Tượng rằng:
Tướng giỏi ra quân, quân mới vẹn,
Người ngu khiển chúng, chúng phơi thây.
Dùng người, có dở, có hay.
Hào Lục ngũ cho rằng chỉ khi nào có quân xâm lăng vi phạm cõi bờ, thì mới nên xuất quân chinh thảo. Vì dầu sao, binh cách cũng là chuyện bất tường. Người xưa có câu: Binh đi tới đâu, chông gai nẩy tới đó.
Khi đã có lý do chính đáng để hưng binh rồi, cần phải biết dùng tướng tài, bỏ tướng dở. Tôn Tử viết: Binh là việc lớn của nước, là vấn đề sống chết, là con đường còn mất, không thể không xét biết.
Tướng chịu trách nhiệm về sự tồn vong của ba quân. Vua chịu trách nhiệm tìm ra tướng tài.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 大 君 有 命,開 國 承 家,小 人 勿 用。
象 曰: 大 君 有 命,以 正 功 也;小 人 勿 用,必 亂 邦 也。
Thượng Lục.
Đại quân hữu mệnh. Khai quốc thừa gia. Tiểu nhân vật dụng.
Tượng viết:
Đại quân hữu mệnh. Dĩ chính công dã. Tiểu nhân vật dụng.
Tất loạn bang dã.
Dịch.
Thượng Lục: quân vương truyền mệnh lệnh,
Khai quốc công hầu, cấp đất đai.
Tiểu nhân thôi chớ có xài.
Tượng rằng:
Nhà vua lúc thưởng công lao,
Tiểu nhân thôi chớ có trao chức quyền,
Tiểu nhân, ăn chốc, ngồi trên.
Loạn nhà, loạn nước, đến liền chẳng sai.
Thượng Lục thì bàn rằng, khi đã chiến thắng, khi chiến tranh đã kết liễu, thời nên tưởng thưởng chiến sĩ cho trọng hậu, nhưng không được dùng kẻ tiểu nhân để trị nước, vì đó là mầm họa hoạn. Thế mới hay, trị quân khác trị dân, chống ngoại xâm khác với đem hưng thịnh về cho đất nước.
Những ý niệm đại cương trên đây cũng làm ta suy nghĩ rất nhiều. Nếu đã mang danh tướng soái, cầm quân diệt giặc, thì phải là người học rộng, biết nhiều, học các chiến tích danh nhân kim cổ, đọc hết các binh thư, biết dùng thời tiết, biết dùng người, dùng quân, dùng dân, biết khuyến binh, khích tướng, biết dùng địa hình, địa thế, biết khai thác và lợi dụng triệt để các loại vũ khí, các phát minh của khoa học để thủ thắng. Tóm lại, binh là biến, người cầm binh phải biết biến. Nơi trang giấy nhỏ này, ta không thể bàn cãi cho xiết mọi khía cạnh của chiến tranh, của binh thư, binh pháp, của chiến thuật, chiến lược. Và ta cũng bắt chước Kinh Dịch, nói đến Tụng, là ước mong không còn kiện tụng, nói đến Sư là chỉ ước mong không còn chiến tranh trên mặt đất này nữa.
ÁP DỤNG QUẺ SƯ VÀO THỜI ĐẠI
Trước khi nói về quẻ Sư, áp dụng vào thời đại này, ta hãy đọc qua cách bầy binh, bố trận của người đời xưa, và của người đời nay, để tìm ra sự khác biệt của chúng.
Tôn Võ Tử, một binh gia nổi tiếng thời Xuân Thu, tác giả bộ Binh Pháp Tôn Tử ( sách dùng binh sớm nhất của Trung quốc) viết: Binh là việc lớn của nước, là vấn đề sống chết, là con đường còn mất, không thể không xét biết.
*Binh thư Tôn Võ cho rằng: Trong phép dùng binh:
-Ta gấp 10 địch, ta bao vây.
-Ta gấp 5 địch, ta tấn công.
-Ta gấp 2 địch, ta chia quân đánh 2 mặt.
-Ta ngang với địch, ta phải biết quyết đánh.
-Ta kém hơn địch về quân số, ta phải hết sức tránh né giao phong.
*Fabius, nhờ chiến thuật tránh né và rút lui, đã cầm chân Annibal được mấy năm trời, không cho tiến tới được La Mã. Nhờ vậy, sau này Scipion mới đánh tan được quân Annibal ở Zania (202 BC ).
*Trương Lương, đã dùng Tâm lý chiến đánh tan quân của Hạng Võ.
*Kutosof đã dùng chiến thuật rút lui, vườn không, nhà trống, đánh quân của Napoléon, như trên đã nói.
* Mao Trạch Đông, dùng chiến thuật du kích, và cho khẩu lệnh là: Địch tiến, ta lui; địch nghỉ, ta quấy; địch mệt, ta đánh; địch lui, ta đuổi.
*Napoléon, Clausewitz, Hồng quân đã dùng chiến thuật công kỳ vô bị, xuất kỳ bất ý (của Tôn võ Tử), là đánh khi địch chưa đề phòng, ta thình lình ra quân.
a -Điều động binh mã sao cho âm thầm, ngày nghỉ, đêm đi, nấp trong rừng, nấp trong dân, để địch quân không biết mình ở đâu, muốn gì, có bao nhiêu quân, cơ giới gì.
b -Trước khi đánh, phải chuẩn bị cho kỹ lưỡng, nghiên cứu tình hình địch quân cho cặn kẽ, bằng tình báo, bằng dân, bằng quân. Kế hoạch xuất quân, phải soạn thảo kỹ càng, tản binh để di chuyển, tập binh để xung kích.
c -Lúc đánh, phải có mục tiêu rõ rệt, đường hướng rõ rệt, và đánh cho thần tốc, dũng mãnh, sấm sét, ào ạt, lấy mười đánh một, đánh vào chỗ sơ hở, đánh vào lúc bất kỳ. Xong xuôi phải khai thác thắng lợi, tiêu diệt địch quân.
*Binh pháp của Thống Tướng Foch là lúc nào cũng phải bảo tồn lực lượng, có tiền phong, tả dực, hữu dực, có trung quân, hậu quân, có chính, có kỳ. Chính thường ở giữa để thủ, kỳ thường ở hai cánh để công vào sườn, vào hông, vào lưng địch.
Hơn nữa, binh pháp, chiến pháp thường thay đổi luôn luôn, cho hợp với tình thế, hợp với đà phát triển của khoa học, của vũ khí. Dần dà, các chiến thuật gia, lấy dân và quân kết thành thế liên hoàn, nên vừa có Du kích chiến, vừa có Chính qui chiến, Trận địa chiến. Xử dụng được cả quân lẫn dân, biết động, tĩnh khôn lường; biết tụ, tán; biết quyền, biến; biết chính, kỳ; biết triển dương, thu xúc, tức là áp dụng được lẽ Dịch trong vũ trụ vào Binh bị.
Khi xưa, trong chiến trận, chỉ 2 tướng đánh nhau, tướng nào thua, là quân hàng, coi như trận đó thắng bại đã rõ rệt,( như vậy đỡ chết quân).
Sau đó, du kích chiến, trận địa chiến v v... nên quân chết nhiều. Chiến tranh dần dà biến thành một thứ chiến tranh toàn diện, có mục đích là tiêu diệt, thành thử có một bộ mặt hết sức là ghê gớm. Người ta chế tạo ra bom nguyên tử, khinh khí, hơi ngạt, và còn bom vi trùng để tiêu diệt nhau khi có chiến tranh.
Khi xưa, hưng binh để trừ bạo chúa thôi, ngày nay chiến tranh để thực hiện mộng xâm lăng; xâm chiếm đất đai; gây hiềm khích giữa các nước người để tạo chiến tranh, để bán võ khí; hoặc chiến tranh để thực hiện chủ nghĩa của 2 khối Tư Bản & Cộng Sản. Nay khối Cộng Sản đã cáo chung, mong rằng Hòa Bình sẽ tới, và sẽ ngự trị mãi mãi trên trái đất này, đó là điều chúng ta & Kinh Dịch mong mỏi vậy.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
8 QUẺ CUNG CẤN
CUNG CẤN
1. CẤN VI SƠN
2. SƠN HỎA BÔN
3. SƠN THIÊN ĐẠI SÚC
4. SƠN TRẠCH TỐN
5. HỎA TRẠCH KHÊ
6. THIÊN TRẠCH LÝ
7. PHONG TRẠCH TRUNG PHU
8. PHONG SƠN TIỆM
CUNG CẤN
1. CẤN VI SƠN
2. SƠN HỎA BÔN
3. SƠN THIÊN ĐẠI SÚC
4. SƠN TRẠCH TỐN
5. HỎA TRẠCH KHÊ
6. THIÊN TRẠCH LÝ
7. PHONG TRẠCH TRUNG PHU
8. PHONG SƠN TIỆM