Tượng hào vs tượng quẻ
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem quẻ: Lục nhâm, Thái ất, Lục hào, Mai hoa... Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức Dịch lý.
Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
Đây là chuyên mục dành cho việc xem quẻ: Lục nhâm, Thái ất, Lục hào, Mai hoa... Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức Dịch lý.
Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
CUNG KHÔN
1. KHÔN VI ĐỊA
2. ĐỊA LÔI PHỤC
3. ĐỊA TRẠCH LÂM
4. ĐỊA THIÊN THÁI
5. LÔI THIÊN ĐẠI TRÁNG
6. TRẠCH THIÊN QUẢI
7. THỦY THIÊN NHU
8. THỦY ĐỊA TỶ
1 KHÔN VI ĐỊA
BÁT THUẦN KHÔN
I. Thoán
A. Thoán Từ.
坤:元,亨,利 牝 馬 之 貞。君 子 有 攸 往,先 迷 后 得 主,利 西 南 得 朋,東 北 喪 朋。安 貞,吉。
Khôn. Nguyên hanh. Lợi tẫn mã chi trinh. Quân tử hữu du vãng. Tiên mê hậu đắc. Chủ lợi Tây Nam đắc bằng. Đông Bắc táng bằng. An trinh cát.
Dịch:
Khôn là gốc gác quần sinh.
Làm cho vạn vật phỉ tình hanh thông,
Lại sinh lợi ích khôn cùng,
Như con ngựa cái thung dung, kiên trì,
Khi người quân tử vân vi,
Trước mê, sau gặp chủ thì mới hay,
Tây Nam gặp bạn đường đời,
Đến phương Đông Bắc bạn thời còn ai?
Bền lòng, vững chí hôm mai,
An lòng, vững chí, sẽ may, sẽ lành.
B. Thoán Truyện.
彖 曰: 至 哉 坤 元,萬 物 資 生,乃 順 承 天。坤 厚 載 物,德 合 無 疆。含 弘 光 大,品 物 咸 亨。 牝 馬 地 類,行 地 無 疆,柔 順 利 貞。君 子 攸 行,先 迷 失 道,后 順 得 常。西 南 得 朋,乃 與 類 行﹔東 北 喪 朋,乃 終 有 慶。安 貞 之 吉,應 地 無 疆。
Thoán viết. Chí tai Khôn nguyên. Vạn vật tư sinh. Nãi thuận thừa thiên. Khôn hậu tải vật. Đức hợp vô cương. Hàm hoằng quang đại. Phẩm vật hàm hanh. Tẫn mã địa loại. Hành địa vô cương. Nhu thuận lợi trinh. Quân tử du hành. Tiên mê thất Đạo. Hậu thuận đắc thường. Tây Nam đắc bằng. Nãi dữ loại hành. Đông bắc táng bằng. Nãi chung hữu khánh. An trinh chi cát. Ứng địa vô cương.
Dịch:
Khôn nguyên cao trọng xiết bao,
Muôn loài đều phải nương vào cầu sinh.
Khôn nguyên cao trọng đã đành,
Vì luôn thuận ý cao xanh chẳng rời.
Đất dày nâng đỡ muôn loài,
Xét về đức cả, đành thời vô biên,
Ấp ôm vạn vật mọi miền,
Làm cho đâu đấy sáng lên huy hoàng.
Được nhờ ơn đất cưu mang,
Cho nên muôn vật rỡ ràng, đep tươi.
Ngựa cái với đất cùng loài,
Tung hoành khắp chốn, khắp nơi thỏa tình;
Luôn luôn nhu thuận, lợi trinh.
Cho người quân tử gương lành noi theo.
Mới đầu mê lạc đến điều,
Là vì bỏ mất chẳng theo Đạo Trời.
Sau rồi, nhu thuận, đòi noi,
Mới đâu ra đấy, cơ ngơi rõ ràng.
Tây Nam gặp được bạn đàng,
Cùng người đồng loại, thênh thang đăng trình.
Phía Đông Bắc mất bạn mình,
Cuối cùng vượt được quần sinh mới là.
Siêu quần, bạt tụy mình ta,
Mới là may mắn, mới là vinh xương.
Bền gan, rồi sẽ cát tường,
Y như trái đất, vô cương khác nào.
II. Đại Tượng Truyện
象 曰: 地 勢 坤,君 子 以 厚 德 載 物。
Tượng viết. Địa thế Khôn. Quân tử dĩ hậu đức tải vật.
Dịch:
Tượng rằng: Khôn thế thuận thừa,
Nên người quân tử lo cho đức dày.
Đức dày, tải vật mới hay,
Cưu mang vạn vật, chẳng ngày nào ngơi.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六: 履 霜,堅 冰 至。
象 曰: 履 霜 堅 冰,陰 始 凝 也。 馴 致 其 道,至 堅 冰 也。
Sơ Lục. Lý sương kiên băng chí.
Tượng viết. Lý sương kiên băng. Âm thủy ngưng dã. Tuần trí kỳ Đạo. Chí kiên băng dã.
Dịch:
Dưới chân, sương giá chớm dày,
Rồi ra băng cứng có ngày tới theo.
Tượng rằng:
Dưới chân sương giá chớm dày
Rồi ra băng cứng có ngày tới theo.
Âm vừa ngưng đọng ít nhiều.
Cứ đà ấy tiến, có chiều thành băng.
2. Hào Lục nhị.
六 二 : 直,方,大,不 習 無 不 利。
象 曰: 六 二 之 動,直 以 方 也。不 習 無 不 利,地 道 光 也。
Lục nhị. Trực phương đại. Bất tập vô bất lợi.
Tượng viết. Lục nhị chi động. Trực dĩ phương dã. Bất tập vô bất lợi. Địa Đạo quang dã.
Dịch:
Thẳng ngay, vuông vức, lớn lao.
Không cần tập luyện, việc nào cũng hay.
Tượng rằng:
Hào hai hoạt động thẳng ngay,
Lại luôn vuông vắn, chẳng hay vậy vò.
Không cầu, mà vẫn lợi to,
Bởi vì địa Đạo quang hoa sáng lòa.
3. Hào Lục tam.
六 三: 含 章 可 貞。 或 從 王 事,無 成 有 終。
象 曰: 含 章 可 貞﹔ 以 時 發 也。 或 從 王 事,知 光 大 也。
Lục tam. Hàm chương khả trinh. Hoặc tòng vương sự. Vô thành hữu chung.
Tượng viết. Hàm chương khả trinh. Dĩ thời phát dã. Hoặc tòng vương sự. Tri quang đại dã.
Dịch:
Dấu che vẻ sáng của mình,
Có tài, mà chẳng lộ hình mới hay.
Việc vua khi gánh vác rồi,
Tuy không tranh việc, làm thời nên công.
Tượng rằng: Giấu sáng mới bền,
Tùy thời, đức độ lộ thêm dần dần.
Khi ra gánh việc vương quân,
Biết đường sáng suốt, cao thâm mới là.
4. Hào Lục tứ.
六 四 : 括 囊﹔無 咎,無 譽。
象 曰: 括 囊 無 咎,慎 不 害 也。
Lục tứ. Quát nang. Vô cữu vô dự.
Tượng viết. Quát nang vô cữu. Thận bất hại dã.
Dịch:
Túi đem thắt lại, lỗi chi,
Lỗi tuy không lỗi, vinh thì không vinh.
Tượng rằng: Thắt túi lỗi chi,
Nếu mà thận trọng, chẳng nguy hại nào.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 : 黃 裳,元 吉。
象 曰: 黃 裳 元 吉,文 在 中 也。
Lục ngũ. Hoàng thường. Nguyên cát.
Tượng viết. Hoàng thường nguyên cát. Văn tại trung dã.
Dịch:
Váy vàng thật tốt, thật hay.
Tượng rằng:
Váy vàng thật tốt, thật hay,
Là vì vẻ đẹp ở ngay trong lòng.
6. Hào Thượng Lục.
上 六: 龍 戰 於 野,其 血 玄 黃。
象 曰: 龍 戰 於 野,其 道 窮 也。
Thượng Lục. Long chiến vu dã. Kỳ huyết huyền hoàng.
Tượng viết. Long chiến vu dã. Kỳ Đạo cùng dã.
Dịch:
Ngoài đồng, rồng đánh lộn nhau,
Máu phun chan chứa, pha mầu vàng đen.
Tượng rằng:
Ngoài đồng, rồng đánh lộn nhau,
Là vì vật chất tới cầu cực xương.
7. Hào Dụng Lục.
用 六: 利 永 貞。
象 曰: 用 六 永 貞,以 大 終 也。
Dụng Lục. Lợi vĩnh trinh.
Tượng viết. Dụng Lục vĩnh trinh. Dĩ đại chung dã.
Dịch:
Khí Âm biến hóa xong rồi,
Rồi ra lợi lộc tốt tươi, cửu trường.
Tượng rằng: Vĩnh viễn cửu trường,
Là vì kết cuộc phi thường cao siêu.
IV. VĂN NGÔN
A. VĂN NGÔN bình giải Thoán Từ, Thoán Truyện
文 言 曰:坤 至 柔,而 動 也 剛,至 靜 而 德 方,後 得 主 而 有 常,含 萬 物 而 化 光。坤 道 其 順 乎?承 天 而 時 行。
Văn Ngôn viết. Khôn Chí nhu, nhi động dã cương. Chí tĩnh nhi đức phương. Hậu đắc chủ nhi hữu thường. Hàm vạn vật nhi hóa quang. Khôn Đạo kỳ thuận hồ. Thừa Thiên nhi thời hành.
Dịch:
Khôn nhu khi động, lại cương
Đức thường chí tĩnh, vắn vuông, chẳng rời.
Theo sau, phụ họa với Trời,
Thế là có chủ, thế thời bền lâu.
Ấp ôm vạn vật trước sau,
Làm cho muôn vật một màu sáng choang.
Đạo Khôn nhu thuận, dịu dàng,
Tùy thời hành sự, chẳng ngang ý Trời.
B. Văn Ngôn bình giải các Hào
1. Hào Sơ Lục.
積 善 之 家,必 有 餘 慶;積 不 善 之 家,必 有 餘 殃。臣 弒 其 君,子 弒 其 父,非 一 朝 一 夕 之 故,其 所 由 來 者 漸 矣,由 辯 之 不 早 辯 也。
易 曰:「履 霜 堅 冰 至。」蓋 言 順 也。
Tích thiện chi gia. Tất hữu dư khánh. Tích bất thiện chi gia. Tất hữu dư ương. Thần thí kỳ quân. Tử thí kỳ phụ. Phi nhất triêu nhất tịch chi cố. Kỳ sở do lai giả tiệm hỹ. Do biện chi bất tảo biện dã.
Dịch viết. Lý sương kiên băng chí. Cái ngôn thuận dã.
Dịch:
Nhà nào tích thiện sẽ hay,
Nhà nào tích ác sẽ đầy tai ương,
Tôi mà dám giết quân vương,
Con mà giết bố, dễ thường ngay sao?
Việc đâu một sớm, một chiều,
Duyên do tích lũy, bao nhiêu lâu rồi.
Duyên do lần dẫn tới nơi,
Tại mình chẳng sớm phanh phui tỏ tường.
Dịch rằng: Khi bước trên sương,
Hãy phòng băng cứng, thời thường đến sau,
Ý rằng chuyện sẽ nối nhau,
Nếu mình để mặc từ đầu, đến đuôi.
2. Hào Lục nhị.
直 其 正 也,方 其 義 也。君 子 敬 以 直 內,義 以 方 外,敬 義 立,
而 德 不 孤。「直, 方, 大,不 習 無 不 利」,則 不 疑 其 所 行 也。
Trực kỳ chính dã. Phương kỳ nghĩa dã. Quân tử kính dĩ trực nội. Nghĩa dĩ phương ngoại. Kính nghĩa lập nhi đức bất cô. Trực phương đại. Bất tập vô bất lợi. Tắc bất nghi kỳ sở hành dã.
Dịch:
Trực là trung chính lẽ Trời,
Phương là lễ nghĩa cơ ngơi bên ngoài.
Đã là quân tử trên đời,
Trong thời kính cẩn, ngoài thời minh công.
Kính nên ngay ngắn được lòng,
Nghĩa nên vuông vức được công việc ngoài.
Kính rồi lại Nghĩa, vẹn hai,
Cho nên nhân đức, ắt thôi vẹn toàn.
Chính trung, lễ nghĩa, cao sang,
Chẳng cần vất vả, vẫn mang lợi nhiều.
Từ đây, lòng sẽ khinh phiêu,
Phóng tâm hoạt động, hết điều nghi nan.
3. Hào Lục tam.
陰 雖 有 美,含 之;以 從 王 事,弗 敢 成 也。地 道 也,妻 道 也,臣 道 也。地 道 無 成,而 代 有 終 也。
Âm tuy hữu mỹ hàm chi. Dĩ tòng vương sự. Phất cảm thành dã. Địa Đạo dã. Thê Đạo dã. Thần Đạo dã. Địa Đạo vô thành nhi đại hữu chung dã.
Dịch:
Âm tuy sẵn vẻ đẹp tươi,
Nhưng mà che dấu, chẳng phơi ra ngoài.
Việc vua khi gánh vác rồi,
Chẳng nên tự đắc, mà đòi thành công,
Thay Trời, hành sự tới cùng,
Giúp cho muôn vật, vĩnh chung thái hòa.
4. Hào Lục tứ.
天 地 變 化,草 木 蕃;天 地 閉,賢 人 隱。
易 曰:「括 囊 ,無 咎,無 譽。」蓋 言 謹 也。
Thiên địa biến hoá. Thảo mộc phồn. Thiên địa bế. Hiền nhân ẩn.
Dịch viết. Quát nang vô cữu vô dự. Cái ngôn cẩn dã.
Dịch:
Đất trời biến hóa mới hay,
Làm cho vạn vật, cỏ cây xương phồn.
Đất trời tới vận bế tàng,
Hiền nhân, nên hãy tìm đàng ẩn đi.
Dịch rằng: Thắt túi lỗi chi
Lỗi tuy không lỗi, vinh thì không vinh,
Hãy nên thận trọng giữ mình,
Biết đường cẩn trọng, âu đành thoát nguy.
5. Hào Lục ngũ.
君 子 黃 中 通 理,正 位 居 體,美 在 其 中,而 暢 於 四 支,發 於 事 業,美 之 至 也。
Quân tử hoàng trung thông lý. Chính vị cư thể. Mỹ tại kỳ trung. Nhi sướng ư tứ chi. Phát ư sự nghiệp. Mỹ chi chí dã.
Dịch:
Hiền nhân thông lý Trung hoàng,
Vào nơi chính vị, mà an thân mình.
Đẹp từ tâm khảm, xuất sinh,
Làm cho cơ thể xương vinh, mỹ miều.
Phát ra sự nghiệp cao siêu,
Thực là đẹp đẽ đến điều, còn chi.
6. Hào Thượng Lục.
陰 疑 於 陽, 必 戰。 為 其 嫌 於 無 陽 也,故 稱 龍 焉。猶 未 離 其 類 也,故 稱 血 焉。夫 玄 黃 者,天 地 之 雜 也,天 玄 而 地 黃。
Âm nghi ư Dương tất chiến. Vi kỳ hiềm ư vô Dương dã. Cố xưng long yên. Do vị ly kỳ loại dã. Cố xưng huyết yên. Phù huyền hoàng giả. Thiên địa chi tạp dã. Thiên huyền nhi địa hoàng.
Dịch:
Khi Âm bất tín nơi Dương,
Sẽ sinh chinh chiến, nhiễu nhương, khốn cùng.
Nhưng Dương không thể tuyệt tông,
Cho nên, mới nói rằng rồng giao chinh.
Âm kia biến chửa trọn mình,,
Nên dùng chữ huyết, tỏ rành còn Âm.
Đất trời lộn lạo, nhố nhăng,
Vàng, đen, xáo trộn, đất bằng chông gai.
BÌNH GIẢNG
Quẻ Khôn thực ra không đến nỗi khó hiểu, khó hiểu chăng là vì có nhiều đoạn đã bị các nhà bình giải làm cho rối lên như canh hẹ. Nguyên có cách phân câu, mà đã chia thành năm bè, bảy bối. Ví dụ, đối với câu:
Khôn. Nguyên Hanh. Lợi tẫn mã chi trinh.
Trình tử đọc là: Khôn. Nguyên. Hanh. Lợi. Tẫn mã chi trinh, vì cho rằng Khôn có đủ tứ đức như Kiền.
Chu Hi đọc là: Khôn. Nguyên. Hanh. Lợi tẫn mã chi trinh, vì cho rằng Khôn phải thua Kiền, không thể đủ tứ đức như Kiền.
Đến như câu: Tiên mê hậu đắc. Chủ lợi Tây nam đắc bằng. Đông bắc táng bằng, thì lại càng rắc rối hơn nữa. Trình tử hiểu như sau: Tiên mê hậu đắc. Chủ lợi. Tây nam đắc bằng. Đông bắc táng bằng.
Vương Bật đọc: Quân tử hữu du vãng tiên mê. Hậu đắc chủ lợi.
Lai Trí Đức đọc: Tiên mê hậu đắc chủ. Lợi.
Ngự Án của vua Khang Hi đọc rằng: Tiên mê hậu đắc chủ. Lợi Tây nam đắc bằng. Đông bắc táng bằng. Ngự Án cho rằng: chính Văn Ngôn cũng đọc là Hậu đắc chủ. Theo Ngự Án, chữ Lợi phải cho về câu sau, và phải hiểu đại khái rằng: Tây nam được bạn là lợi. Đông Bắc mất bạn là lợi. Nơi đây, chúng ta không đi sâu vào chi tiết các lời bình giải ấy, mà chỉ cố tìm cho ra những đại chỉ của Dịch Kinh nơi quẻ Khôn.
A. Nhận định đầu tiên của chúng ta như sau:
-Kiền và Khôn là hai chiều, hai mặt của một thực thể, tức là Thái cực. Để hiểu Kiền, Khôn chúng ta xem đồ bản sau:
Kiền
Khôn
Dương
Âm
9
6
3
2
Thần
Vật
Tinh thần
Vật chất
Nội giới (spiritual world)
Ngoại giới (world of the senses)
Tâm chi thần minh
Ngũ quan bá thể
Đạo Tâm
Nhân tâm
Thánh Đạo
Hiền Đạo
Vương Đạo
Thần Đạo
Phụ
Tử
Phu
Phụ
Thành
Kính
Nhân
Nghĩa
Xướng
Họa
Cương
Nhu
Quân tử
Tiểu nhân
Thời gian
Không gian
Tròn
Vuông
Đại
Tiểu
B. Về phương diện Triết học & Siêu hình
Quẻ Khôn chủ trương rằng:
-Đất Trời cộng tác chặt chẽ với nhau, để sinh ra muôn ngàn biến hóa.
-Đất Trời là cặp ngẫu lực Âm Dương, luôn luôn tác động, luôn luôn hỗ trợ nhau, để hoàn thành công trình sinh dục vạn vật.
Kiền là mầm mộng sinh hóa, là tinh thần, là nguồn sống, là sinh khí, là hạt, là nhân .
Khôn là vỏ, là môi trường hoạt động, là hình hài, sắc tướng, là vật chất hữu hình bên ngoài.
Đất Trời trường cửu ngang nhau, cùng nhau góp công trình sinh dục vạn vật, nhưng chính, tùy, đôi đường phân cách. Trời là chủ chốt. Tinh thần là chủ chốt. Đất là tùy thuộc. Xác thân là tùy thuộc. Hoàn cảnh vật chất là tùy thuộc.
Định được lẽ tôn ti như vậy, mới tránh được nhiều điều lầm lỗi, nhiều hung họa tai ương. Dịch kinh bao giờ cũng chủ trương Dương tôn, Âm ti.
Hiểu được lẽ Dương tôn, Âm ti; Dương hơn, Âm kém; tinh thần trọng, vật chất khinh; Kiền Đạo hay Tinh thần làm chủ chốt, Khôn Đạo hay vật chất đóng vai tùy thuộc; ta sẽ hiểu được đại chỉ của Dịch kinh.
Dịch kinh, tuy biết lẽ biến hóa, tồn vong, tiêu tức chi phối cả Âm lẫn Dương, và cơ Trời biến hóa đó không sao tránh khỏi, nhưng bao giờ cũng chủ trương Âm khinh, Dương trọng, và luôn luôn hỗ trợ Dương, kiềm chế Âm.
Tiên Nho định lẽ khinh trọng ấy bằng hai con số 9 và 6. - Số 9 chỉ Dương ( đơn giản hóa còn 3). -Số 6 chỉ Âm đơn giản hóa còn 2. Vậy Dương cũng còn là 3, mà Âm là 2. Đó là ý nghĩa của mấy chữ Tam Thiên, Lưỡng Địa trong chương I Thuyết Quái.
Trong vòng Dịch Tiên Thiên, Kiền đứng đầu 32 quẻ Dương bên trái, Khôn đứng đầu 32 quẻ Âm bên phải.
Dương ở phía tả, chủ sinh dục, trưởng dưỡng, chủ cương cường, trong sáng, chủ nhân nghĩa, đạo đức. Đó là Đạo người quân tử. Làm cho Đạo Dương, Đạo Kiền (Đạo Quân tử hay Đạo Thánh nhân), phát huy đến cùng cực, sẽ đem lại cho trần thế sự an bình, thịnh trị.
Âm ở phía hữu, chỉ sự di thương, thảm sát. Âm là Nhu, Tối, Tư tà, Lợi lộc, là Đạo Kẻ Tiểu nhân. Để nó triển dương đến kỳ cùng, nó sẽ phát Sát cơ, sinh ra chiến tranh, tang tóc và muôn vàn tai họa, như Hào Thượng Lục của quẻ Khôn đã ám chỉ. Vì thế Thánh nhân viết Kinh Dịch, lúc nào cũng lo lắng phù trì Dương Đạo, phù trì Đạo người Quân tử, những ước mong cho nó được trở nên cường thịnh, viên mãn.
Ngược lại, lúc nào cũng muốn kiềm chế, bức bách cho Âm Đạo, cho Đạo kẻ Tiểu nhân suy vi, mai một. Nếu chủ trương Âm trọng, Dương khinh sẽ đi đến chỗ chiến tranh, tai ương , tàn khốc.
Ngự Án nơi Hào Sơ Lục quẻ Khôn, cũng bình luận rất sâu sắc về lẽ Âm, Dương. Ngự Án cho rằng:
Nơi con người, thì Dương là Tâm chi thần minh, Âm là ngũ quan bá thể. Trong nhân luân, thì Dương là vua, là cha, là chồng. Âm là bầy tôi, là con, là vợ.
Tâm linh, nhờ có chân tay mới vận động được, vua nhờ có tôi, chồng nhờ có vợ, cha nhờ có con, công việc mới chu toàn. Nơi con người, thì ngũ quan bá thể phải thuận phục tâm linh. Trong xã hội, thì thần tử, thê thiếp phải thuận phục quân phụ, hay phu quyền, như vậy xã hội mới có tôn ti, thể thống. Nếu nơi con người, tứ chi, tai mắt tự do theo sở dục; nếu trong xã hội, thần tử, thê thiếp tự ý hành sự; nếu nơi nhân thân, mà lý với dục giao tranh; nếu nơi xã hội mà công tư va chạm, thì mầm loạn lạc sẽ phát sinh. Như vậy Ngự Án đã cho ta biết cơ vi thiện ác, trị loạn và những phương cách phòng ngừa.
C. Quẻ Khôn là đường lối tu thân của một người chưa được minh giác, chưa phối hợp được với Thượng Đế.
Khi chưa được minh giác, tức là khi tâm hồn còn bơ vơ, vô chủ, sống mặc tình theo những phản ứng của tâm tư, những suy luận hẹp hòi của lý trí, nên dĩ nhiên là bị lầm than, mê lạc. Chỉ khi nào, nhận định ra được căn cơ, chủ chốt của lòng mình là Thiên Tính, là Đạo Tâm, thì bấy giờ mới mong được hưởng thụ phúc khánh!
Khi chưa giác ngộ, nên theo đa số mà xử sự, ở ăn; lúc đã nhận định được Thiên địa chi tâm trong lòng mình, thời phải biết siêu quần bạt tụy, sống khinh phiêu, thung dung, tự tại. Được như vậy, mới thật là may mắn, hạnh phúc. (Xem lời Thoán).
Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
Hào Sơ Lý Sương mô tả lúc Âm khí vừa thoạt mới manh nha. Tuy nó vừa chớm nở, chớm phát, nhưng đó là điềm quốc phá gia vong sau này. Phải thận trọng, phải ngăn ngừa ngay mới kịp (Lý sương. Kiên băng chí)
2. Hào Lục nhị.
Người Quân tử, khi mới bước chân vào con đường Tu thân, Tu Đạo, hãy biết lấy chữ Kính làm đầu. Kính sợ Trời ẩn áo, huyền vi ngay trong tâm khảm mình, chỉnh trang lại tâm thần cho nên hẳn hoi, ngay ngắn. Cải thiện lại đời sống bên ngoài, cố sao cho hành vi, cử chỉ nhất thiết hợp Đạo, hơp nghĩa. Có như vậy mới đi đến chỗ cao đại được (Trực phương đại. Bất tập vô bất lợi)
3. Hào Lục tam.
Quẻ Khôn cũng dạy Đạo làm thần tử. Người thần tử lo thi hành phận vụ, không ỷ chức, ỷ quyền, không tâng công, không khoe tài, khoe trí, dẫu có tài cũng không phô trương, luôn khiêm cung, kín đáo, tùy thời, tùy thế mà thi thố tài năng để làm tròn phận vụ (Hàm chương khả trinh. Hoặc tòng vương sự. Vô thành hữu chung.)
4. Hào Lục tứ.
Gặp khi thời cuộc đảo điên, gặp khi người trên sinh lòng ngờ vực, thời lại càng phải biết im hơi lặng tiếng, minh triết bảo thân. Thế mới là Quát nang vô cữu.
5. Hào Lục ngũ.
Hơn nữa, mục đích tu thân của người quân tử, là đạt tới Thiên vị, tức Trung Điểm, hay Lý Trung Hoàng. Nhận thức được bản tính cao sang của mình, thực hiện được định mệnh sang cả của mình, lồng được Trời vào trong Tâm mình, để cho vẻ đẹp đẽ của Trời chói rọi ra nơi châu thân mình, tỏa lan ra sự nghiệp của mình. Thế mới là đắc Đạo (Hoàng thường. Nguyên cát).
6. Hào Thượng Lục.
Ngoài ra, quẻ Khôn còn như muốn tiên tri, tiên đoán một thời đại mà vật chất hoàn toàn làm chủ, đa số làm chủ, phân ly, gián cách làm chủ. Khi ấy nhân loại sẽ sống một thời kỳ nhiễu nhương, máu lửa ngập trời. Dịch kinh đã đề cập đến thời đại ấy bằng mấy chữ Long chiến vu dã. Kỳ huyết huyền hoàng.
*Nếu thời Kiền là thời hoàng kim mai hậu, là thời thái bình lúc chung cuộc; thì thời Khôn là thời sắt thép, lúc muôn sự còn dở dang, nửa đời, nửa đoạn. Đó là thời mạt kiếp, mạt pháp, mà các Đạo giáo thường nhắc nhở tới. Nhưng đối với Dịch, tuy thời Khôn là thời nhiễu nhương máu lửa, nhưng không phải vì thế mà lịch sử nhân quần sẽ cáo chung, Vật cùng tắc biến, biến tắc thông. Sau thời kỳ đen tối ấy, nhân loại sẽ quay trở về với các giá trị tinh thần, mọi sự rồi ra sẽ trở nên tốt, nên hay. Cho nên Hào Dụng Lục nói thêm:
Khí Âm biến hóa xong rồi,
Rồi ra lợi lộc tốt tươi, Cửu trường.
Tượng rằng: Vĩnh viễn, Cửu trường,
Là vì kết cuộc phi thường cao siêu.
ÁP DỤNG QUẺ KIỀN VÀO THỜI ĐẠI
Quẻ Khôn dạy chúng ta phải luôn gia ý đề phòng, đừng để nước đến chân mới nhẩy, phải biết nhìn xa, trông rộng, biết lo lường, ngăn chặn ngay từ lúc hung họa mới manh nha. Nếu chúng ta biết đề phòng, biết ngăn ngừa căn cơ hung họa từ khi mới nứt nanh sơ khởi, thì làm sao chúng ta có thể lâm cảnh thân tàn, ma dại, nước mất, nhà tan. Một mặt khác, nếu chúng ta biết tích đức, tu thân, gặp điều lành dẫu là nhỏ mấy, cũng tha thiết mà làm, mà gom, mà góp, cứ như thế thì lo chi không được phúc khánh miên trường. Trong Thái Thượng Cảm ứng thiên có câu: Hoạ phúc vô môn duy nhân tự chiêu (Họa phúc không cửa ngõ, do người tự chiêu lai), cũng không ngoài ý đó. Tóm lại, quẻ Khôn dạy ta lẽ Xướng tùy, hòa hợp: nhân tâm phải biết tùy thuộc Đạo tâm, Người phải biết tùy thuộc Trời; người dưới tùy thuộc người trên; vợ tùy thuộc chồng. Tùy thuộc đây phải được hiểu theo lẽ xướng họa hô ứng, một bên khởi xướng, một bên thi hành, chung lưng góp sức, cùng nhau đắp xây đại cuộc.
1. KHÔN VI ĐỊA
2. ĐỊA LÔI PHỤC
3. ĐỊA TRẠCH LÂM
4. ĐỊA THIÊN THÁI
5. LÔI THIÊN ĐẠI TRÁNG
6. TRẠCH THIÊN QUẢI
7. THỦY THIÊN NHU
8. THỦY ĐỊA TỶ
1 KHÔN VI ĐỊA
BÁT THUẦN KHÔN
I. Thoán
A. Thoán Từ.
坤:元,亨,利 牝 馬 之 貞。君 子 有 攸 往,先 迷 后 得 主,利 西 南 得 朋,東 北 喪 朋。安 貞,吉。
Khôn. Nguyên hanh. Lợi tẫn mã chi trinh. Quân tử hữu du vãng. Tiên mê hậu đắc. Chủ lợi Tây Nam đắc bằng. Đông Bắc táng bằng. An trinh cát.
Dịch:
Khôn là gốc gác quần sinh.
Làm cho vạn vật phỉ tình hanh thông,
Lại sinh lợi ích khôn cùng,
Như con ngựa cái thung dung, kiên trì,
Khi người quân tử vân vi,
Trước mê, sau gặp chủ thì mới hay,
Tây Nam gặp bạn đường đời,
Đến phương Đông Bắc bạn thời còn ai?
Bền lòng, vững chí hôm mai,
An lòng, vững chí, sẽ may, sẽ lành.
B. Thoán Truyện.
彖 曰: 至 哉 坤 元,萬 物 資 生,乃 順 承 天。坤 厚 載 物,德 合 無 疆。含 弘 光 大,品 物 咸 亨。 牝 馬 地 類,行 地 無 疆,柔 順 利 貞。君 子 攸 行,先 迷 失 道,后 順 得 常。西 南 得 朋,乃 與 類 行﹔東 北 喪 朋,乃 終 有 慶。安 貞 之 吉,應 地 無 疆。
Thoán viết. Chí tai Khôn nguyên. Vạn vật tư sinh. Nãi thuận thừa thiên. Khôn hậu tải vật. Đức hợp vô cương. Hàm hoằng quang đại. Phẩm vật hàm hanh. Tẫn mã địa loại. Hành địa vô cương. Nhu thuận lợi trinh. Quân tử du hành. Tiên mê thất Đạo. Hậu thuận đắc thường. Tây Nam đắc bằng. Nãi dữ loại hành. Đông bắc táng bằng. Nãi chung hữu khánh. An trinh chi cát. Ứng địa vô cương.
Dịch:
Khôn nguyên cao trọng xiết bao,
Muôn loài đều phải nương vào cầu sinh.
Khôn nguyên cao trọng đã đành,
Vì luôn thuận ý cao xanh chẳng rời.
Đất dày nâng đỡ muôn loài,
Xét về đức cả, đành thời vô biên,
Ấp ôm vạn vật mọi miền,
Làm cho đâu đấy sáng lên huy hoàng.
Được nhờ ơn đất cưu mang,
Cho nên muôn vật rỡ ràng, đep tươi.
Ngựa cái với đất cùng loài,
Tung hoành khắp chốn, khắp nơi thỏa tình;
Luôn luôn nhu thuận, lợi trinh.
Cho người quân tử gương lành noi theo.
Mới đầu mê lạc đến điều,
Là vì bỏ mất chẳng theo Đạo Trời.
Sau rồi, nhu thuận, đòi noi,
Mới đâu ra đấy, cơ ngơi rõ ràng.
Tây Nam gặp được bạn đàng,
Cùng người đồng loại, thênh thang đăng trình.
Phía Đông Bắc mất bạn mình,
Cuối cùng vượt được quần sinh mới là.
Siêu quần, bạt tụy mình ta,
Mới là may mắn, mới là vinh xương.
Bền gan, rồi sẽ cát tường,
Y như trái đất, vô cương khác nào.
II. Đại Tượng Truyện
象 曰: 地 勢 坤,君 子 以 厚 德 載 物。
Tượng viết. Địa thế Khôn. Quân tử dĩ hậu đức tải vật.
Dịch:
Tượng rằng: Khôn thế thuận thừa,
Nên người quân tử lo cho đức dày.
Đức dày, tải vật mới hay,
Cưu mang vạn vật, chẳng ngày nào ngơi.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六: 履 霜,堅 冰 至。
象 曰: 履 霜 堅 冰,陰 始 凝 也。 馴 致 其 道,至 堅 冰 也。
Sơ Lục. Lý sương kiên băng chí.
Tượng viết. Lý sương kiên băng. Âm thủy ngưng dã. Tuần trí kỳ Đạo. Chí kiên băng dã.
Dịch:
Dưới chân, sương giá chớm dày,
Rồi ra băng cứng có ngày tới theo.
Tượng rằng:
Dưới chân sương giá chớm dày
Rồi ra băng cứng có ngày tới theo.
Âm vừa ngưng đọng ít nhiều.
Cứ đà ấy tiến, có chiều thành băng.
2. Hào Lục nhị.
六 二 : 直,方,大,不 習 無 不 利。
象 曰: 六 二 之 動,直 以 方 也。不 習 無 不 利,地 道 光 也。
Lục nhị. Trực phương đại. Bất tập vô bất lợi.
Tượng viết. Lục nhị chi động. Trực dĩ phương dã. Bất tập vô bất lợi. Địa Đạo quang dã.
Dịch:
Thẳng ngay, vuông vức, lớn lao.
Không cần tập luyện, việc nào cũng hay.
Tượng rằng:
Hào hai hoạt động thẳng ngay,
Lại luôn vuông vắn, chẳng hay vậy vò.
Không cầu, mà vẫn lợi to,
Bởi vì địa Đạo quang hoa sáng lòa.
3. Hào Lục tam.
六 三: 含 章 可 貞。 或 從 王 事,無 成 有 終。
象 曰: 含 章 可 貞﹔ 以 時 發 也。 或 從 王 事,知 光 大 也。
Lục tam. Hàm chương khả trinh. Hoặc tòng vương sự. Vô thành hữu chung.
Tượng viết. Hàm chương khả trinh. Dĩ thời phát dã. Hoặc tòng vương sự. Tri quang đại dã.
Dịch:
Dấu che vẻ sáng của mình,
Có tài, mà chẳng lộ hình mới hay.
Việc vua khi gánh vác rồi,
Tuy không tranh việc, làm thời nên công.
Tượng rằng: Giấu sáng mới bền,
Tùy thời, đức độ lộ thêm dần dần.
Khi ra gánh việc vương quân,
Biết đường sáng suốt, cao thâm mới là.
4. Hào Lục tứ.
六 四 : 括 囊﹔無 咎,無 譽。
象 曰: 括 囊 無 咎,慎 不 害 也。
Lục tứ. Quát nang. Vô cữu vô dự.
Tượng viết. Quát nang vô cữu. Thận bất hại dã.
Dịch:
Túi đem thắt lại, lỗi chi,
Lỗi tuy không lỗi, vinh thì không vinh.
Tượng rằng: Thắt túi lỗi chi,
Nếu mà thận trọng, chẳng nguy hại nào.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 : 黃 裳,元 吉。
象 曰: 黃 裳 元 吉,文 在 中 也。
Lục ngũ. Hoàng thường. Nguyên cát.
Tượng viết. Hoàng thường nguyên cát. Văn tại trung dã.
Dịch:
Váy vàng thật tốt, thật hay.
Tượng rằng:
Váy vàng thật tốt, thật hay,
Là vì vẻ đẹp ở ngay trong lòng.
6. Hào Thượng Lục.
上 六: 龍 戰 於 野,其 血 玄 黃。
象 曰: 龍 戰 於 野,其 道 窮 也。
Thượng Lục. Long chiến vu dã. Kỳ huyết huyền hoàng.
Tượng viết. Long chiến vu dã. Kỳ Đạo cùng dã.
Dịch:
Ngoài đồng, rồng đánh lộn nhau,
Máu phun chan chứa, pha mầu vàng đen.
Tượng rằng:
Ngoài đồng, rồng đánh lộn nhau,
Là vì vật chất tới cầu cực xương.
7. Hào Dụng Lục.
用 六: 利 永 貞。
象 曰: 用 六 永 貞,以 大 終 也。
Dụng Lục. Lợi vĩnh trinh.
Tượng viết. Dụng Lục vĩnh trinh. Dĩ đại chung dã.
Dịch:
Khí Âm biến hóa xong rồi,
Rồi ra lợi lộc tốt tươi, cửu trường.
Tượng rằng: Vĩnh viễn cửu trường,
Là vì kết cuộc phi thường cao siêu.
IV. VĂN NGÔN
A. VĂN NGÔN bình giải Thoán Từ, Thoán Truyện
文 言 曰:坤 至 柔,而 動 也 剛,至 靜 而 德 方,後 得 主 而 有 常,含 萬 物 而 化 光。坤 道 其 順 乎?承 天 而 時 行。
Văn Ngôn viết. Khôn Chí nhu, nhi động dã cương. Chí tĩnh nhi đức phương. Hậu đắc chủ nhi hữu thường. Hàm vạn vật nhi hóa quang. Khôn Đạo kỳ thuận hồ. Thừa Thiên nhi thời hành.
Dịch:
Khôn nhu khi động, lại cương
Đức thường chí tĩnh, vắn vuông, chẳng rời.
Theo sau, phụ họa với Trời,
Thế là có chủ, thế thời bền lâu.
Ấp ôm vạn vật trước sau,
Làm cho muôn vật một màu sáng choang.
Đạo Khôn nhu thuận, dịu dàng,
Tùy thời hành sự, chẳng ngang ý Trời.
B. Văn Ngôn bình giải các Hào
1. Hào Sơ Lục.
積 善 之 家,必 有 餘 慶;積 不 善 之 家,必 有 餘 殃。臣 弒 其 君,子 弒 其 父,非 一 朝 一 夕 之 故,其 所 由 來 者 漸 矣,由 辯 之 不 早 辯 也。
易 曰:「履 霜 堅 冰 至。」蓋 言 順 也。
Tích thiện chi gia. Tất hữu dư khánh. Tích bất thiện chi gia. Tất hữu dư ương. Thần thí kỳ quân. Tử thí kỳ phụ. Phi nhất triêu nhất tịch chi cố. Kỳ sở do lai giả tiệm hỹ. Do biện chi bất tảo biện dã.
Dịch viết. Lý sương kiên băng chí. Cái ngôn thuận dã.
Dịch:
Nhà nào tích thiện sẽ hay,
Nhà nào tích ác sẽ đầy tai ương,
Tôi mà dám giết quân vương,
Con mà giết bố, dễ thường ngay sao?
Việc đâu một sớm, một chiều,
Duyên do tích lũy, bao nhiêu lâu rồi.
Duyên do lần dẫn tới nơi,
Tại mình chẳng sớm phanh phui tỏ tường.
Dịch rằng: Khi bước trên sương,
Hãy phòng băng cứng, thời thường đến sau,
Ý rằng chuyện sẽ nối nhau,
Nếu mình để mặc từ đầu, đến đuôi.
2. Hào Lục nhị.
直 其 正 也,方 其 義 也。君 子 敬 以 直 內,義 以 方 外,敬 義 立,
而 德 不 孤。「直, 方, 大,不 習 無 不 利」,則 不 疑 其 所 行 也。
Trực kỳ chính dã. Phương kỳ nghĩa dã. Quân tử kính dĩ trực nội. Nghĩa dĩ phương ngoại. Kính nghĩa lập nhi đức bất cô. Trực phương đại. Bất tập vô bất lợi. Tắc bất nghi kỳ sở hành dã.
Dịch:
Trực là trung chính lẽ Trời,
Phương là lễ nghĩa cơ ngơi bên ngoài.
Đã là quân tử trên đời,
Trong thời kính cẩn, ngoài thời minh công.
Kính nên ngay ngắn được lòng,
Nghĩa nên vuông vức được công việc ngoài.
Kính rồi lại Nghĩa, vẹn hai,
Cho nên nhân đức, ắt thôi vẹn toàn.
Chính trung, lễ nghĩa, cao sang,
Chẳng cần vất vả, vẫn mang lợi nhiều.
Từ đây, lòng sẽ khinh phiêu,
Phóng tâm hoạt động, hết điều nghi nan.
3. Hào Lục tam.
陰 雖 有 美,含 之;以 從 王 事,弗 敢 成 也。地 道 也,妻 道 也,臣 道 也。地 道 無 成,而 代 有 終 也。
Âm tuy hữu mỹ hàm chi. Dĩ tòng vương sự. Phất cảm thành dã. Địa Đạo dã. Thê Đạo dã. Thần Đạo dã. Địa Đạo vô thành nhi đại hữu chung dã.
Dịch:
Âm tuy sẵn vẻ đẹp tươi,
Nhưng mà che dấu, chẳng phơi ra ngoài.
Việc vua khi gánh vác rồi,
Chẳng nên tự đắc, mà đòi thành công,
Thay Trời, hành sự tới cùng,
Giúp cho muôn vật, vĩnh chung thái hòa.
4. Hào Lục tứ.
天 地 變 化,草 木 蕃;天 地 閉,賢 人 隱。
易 曰:「括 囊 ,無 咎,無 譽。」蓋 言 謹 也。
Thiên địa biến hoá. Thảo mộc phồn. Thiên địa bế. Hiền nhân ẩn.
Dịch viết. Quát nang vô cữu vô dự. Cái ngôn cẩn dã.
Dịch:
Đất trời biến hóa mới hay,
Làm cho vạn vật, cỏ cây xương phồn.
Đất trời tới vận bế tàng,
Hiền nhân, nên hãy tìm đàng ẩn đi.
Dịch rằng: Thắt túi lỗi chi
Lỗi tuy không lỗi, vinh thì không vinh,
Hãy nên thận trọng giữ mình,
Biết đường cẩn trọng, âu đành thoát nguy.
5. Hào Lục ngũ.
君 子 黃 中 通 理,正 位 居 體,美 在 其 中,而 暢 於 四 支,發 於 事 業,美 之 至 也。
Quân tử hoàng trung thông lý. Chính vị cư thể. Mỹ tại kỳ trung. Nhi sướng ư tứ chi. Phát ư sự nghiệp. Mỹ chi chí dã.
Dịch:
Hiền nhân thông lý Trung hoàng,
Vào nơi chính vị, mà an thân mình.
Đẹp từ tâm khảm, xuất sinh,
Làm cho cơ thể xương vinh, mỹ miều.
Phát ra sự nghiệp cao siêu,
Thực là đẹp đẽ đến điều, còn chi.
6. Hào Thượng Lục.
陰 疑 於 陽, 必 戰。 為 其 嫌 於 無 陽 也,故 稱 龍 焉。猶 未 離 其 類 也,故 稱 血 焉。夫 玄 黃 者,天 地 之 雜 也,天 玄 而 地 黃。
Âm nghi ư Dương tất chiến. Vi kỳ hiềm ư vô Dương dã. Cố xưng long yên. Do vị ly kỳ loại dã. Cố xưng huyết yên. Phù huyền hoàng giả. Thiên địa chi tạp dã. Thiên huyền nhi địa hoàng.
Dịch:
Khi Âm bất tín nơi Dương,
Sẽ sinh chinh chiến, nhiễu nhương, khốn cùng.
Nhưng Dương không thể tuyệt tông,
Cho nên, mới nói rằng rồng giao chinh.
Âm kia biến chửa trọn mình,,
Nên dùng chữ huyết, tỏ rành còn Âm.
Đất trời lộn lạo, nhố nhăng,
Vàng, đen, xáo trộn, đất bằng chông gai.
BÌNH GIẢNG
Quẻ Khôn thực ra không đến nỗi khó hiểu, khó hiểu chăng là vì có nhiều đoạn đã bị các nhà bình giải làm cho rối lên như canh hẹ. Nguyên có cách phân câu, mà đã chia thành năm bè, bảy bối. Ví dụ, đối với câu:
Khôn. Nguyên Hanh. Lợi tẫn mã chi trinh.
Trình tử đọc là: Khôn. Nguyên. Hanh. Lợi. Tẫn mã chi trinh, vì cho rằng Khôn có đủ tứ đức như Kiền.
Chu Hi đọc là: Khôn. Nguyên. Hanh. Lợi tẫn mã chi trinh, vì cho rằng Khôn phải thua Kiền, không thể đủ tứ đức như Kiền.
Đến như câu: Tiên mê hậu đắc. Chủ lợi Tây nam đắc bằng. Đông bắc táng bằng, thì lại càng rắc rối hơn nữa. Trình tử hiểu như sau: Tiên mê hậu đắc. Chủ lợi. Tây nam đắc bằng. Đông bắc táng bằng.
Vương Bật đọc: Quân tử hữu du vãng tiên mê. Hậu đắc chủ lợi.
Lai Trí Đức đọc: Tiên mê hậu đắc chủ. Lợi.
Ngự Án của vua Khang Hi đọc rằng: Tiên mê hậu đắc chủ. Lợi Tây nam đắc bằng. Đông bắc táng bằng. Ngự Án cho rằng: chính Văn Ngôn cũng đọc là Hậu đắc chủ. Theo Ngự Án, chữ Lợi phải cho về câu sau, và phải hiểu đại khái rằng: Tây nam được bạn là lợi. Đông Bắc mất bạn là lợi. Nơi đây, chúng ta không đi sâu vào chi tiết các lời bình giải ấy, mà chỉ cố tìm cho ra những đại chỉ của Dịch Kinh nơi quẻ Khôn.
A. Nhận định đầu tiên của chúng ta như sau:
-Kiền và Khôn là hai chiều, hai mặt của một thực thể, tức là Thái cực. Để hiểu Kiền, Khôn chúng ta xem đồ bản sau:
Kiền
Khôn
Dương
Âm
9
6
3
2
Thần
Vật
Tinh thần
Vật chất
Nội giới (spiritual world)
Ngoại giới (world of the senses)
Tâm chi thần minh
Ngũ quan bá thể
Đạo Tâm
Nhân tâm
Thánh Đạo
Hiền Đạo
Vương Đạo
Thần Đạo
Phụ
Tử
Phu
Phụ
Thành
Kính
Nhân
Nghĩa
Xướng
Họa
Cương
Nhu
Quân tử
Tiểu nhân
Thời gian
Không gian
Tròn
Vuông
Đại
Tiểu
B. Về phương diện Triết học & Siêu hình
Quẻ Khôn chủ trương rằng:
-Đất Trời cộng tác chặt chẽ với nhau, để sinh ra muôn ngàn biến hóa.
-Đất Trời là cặp ngẫu lực Âm Dương, luôn luôn tác động, luôn luôn hỗ trợ nhau, để hoàn thành công trình sinh dục vạn vật.
Kiền là mầm mộng sinh hóa, là tinh thần, là nguồn sống, là sinh khí, là hạt, là nhân .
Khôn là vỏ, là môi trường hoạt động, là hình hài, sắc tướng, là vật chất hữu hình bên ngoài.
Đất Trời trường cửu ngang nhau, cùng nhau góp công trình sinh dục vạn vật, nhưng chính, tùy, đôi đường phân cách. Trời là chủ chốt. Tinh thần là chủ chốt. Đất là tùy thuộc. Xác thân là tùy thuộc. Hoàn cảnh vật chất là tùy thuộc.
Định được lẽ tôn ti như vậy, mới tránh được nhiều điều lầm lỗi, nhiều hung họa tai ương. Dịch kinh bao giờ cũng chủ trương Dương tôn, Âm ti.
Hiểu được lẽ Dương tôn, Âm ti; Dương hơn, Âm kém; tinh thần trọng, vật chất khinh; Kiền Đạo hay Tinh thần làm chủ chốt, Khôn Đạo hay vật chất đóng vai tùy thuộc; ta sẽ hiểu được đại chỉ của Dịch kinh.
Dịch kinh, tuy biết lẽ biến hóa, tồn vong, tiêu tức chi phối cả Âm lẫn Dương, và cơ Trời biến hóa đó không sao tránh khỏi, nhưng bao giờ cũng chủ trương Âm khinh, Dương trọng, và luôn luôn hỗ trợ Dương, kiềm chế Âm.
Tiên Nho định lẽ khinh trọng ấy bằng hai con số 9 và 6. - Số 9 chỉ Dương ( đơn giản hóa còn 3). -Số 6 chỉ Âm đơn giản hóa còn 2. Vậy Dương cũng còn là 3, mà Âm là 2. Đó là ý nghĩa của mấy chữ Tam Thiên, Lưỡng Địa trong chương I Thuyết Quái.
Trong vòng Dịch Tiên Thiên, Kiền đứng đầu 32 quẻ Dương bên trái, Khôn đứng đầu 32 quẻ Âm bên phải.
Dương ở phía tả, chủ sinh dục, trưởng dưỡng, chủ cương cường, trong sáng, chủ nhân nghĩa, đạo đức. Đó là Đạo người quân tử. Làm cho Đạo Dương, Đạo Kiền (Đạo Quân tử hay Đạo Thánh nhân), phát huy đến cùng cực, sẽ đem lại cho trần thế sự an bình, thịnh trị.
Âm ở phía hữu, chỉ sự di thương, thảm sát. Âm là Nhu, Tối, Tư tà, Lợi lộc, là Đạo Kẻ Tiểu nhân. Để nó triển dương đến kỳ cùng, nó sẽ phát Sát cơ, sinh ra chiến tranh, tang tóc và muôn vàn tai họa, như Hào Thượng Lục của quẻ Khôn đã ám chỉ. Vì thế Thánh nhân viết Kinh Dịch, lúc nào cũng lo lắng phù trì Dương Đạo, phù trì Đạo người Quân tử, những ước mong cho nó được trở nên cường thịnh, viên mãn.
Ngược lại, lúc nào cũng muốn kiềm chế, bức bách cho Âm Đạo, cho Đạo kẻ Tiểu nhân suy vi, mai một. Nếu chủ trương Âm trọng, Dương khinh sẽ đi đến chỗ chiến tranh, tai ương , tàn khốc.
Ngự Án nơi Hào Sơ Lục quẻ Khôn, cũng bình luận rất sâu sắc về lẽ Âm, Dương. Ngự Án cho rằng:
Nơi con người, thì Dương là Tâm chi thần minh, Âm là ngũ quan bá thể. Trong nhân luân, thì Dương là vua, là cha, là chồng. Âm là bầy tôi, là con, là vợ.
Tâm linh, nhờ có chân tay mới vận động được, vua nhờ có tôi, chồng nhờ có vợ, cha nhờ có con, công việc mới chu toàn. Nơi con người, thì ngũ quan bá thể phải thuận phục tâm linh. Trong xã hội, thì thần tử, thê thiếp phải thuận phục quân phụ, hay phu quyền, như vậy xã hội mới có tôn ti, thể thống. Nếu nơi con người, tứ chi, tai mắt tự do theo sở dục; nếu trong xã hội, thần tử, thê thiếp tự ý hành sự; nếu nơi nhân thân, mà lý với dục giao tranh; nếu nơi xã hội mà công tư va chạm, thì mầm loạn lạc sẽ phát sinh. Như vậy Ngự Án đã cho ta biết cơ vi thiện ác, trị loạn và những phương cách phòng ngừa.
C. Quẻ Khôn là đường lối tu thân của một người chưa được minh giác, chưa phối hợp được với Thượng Đế.
Khi chưa được minh giác, tức là khi tâm hồn còn bơ vơ, vô chủ, sống mặc tình theo những phản ứng của tâm tư, những suy luận hẹp hòi của lý trí, nên dĩ nhiên là bị lầm than, mê lạc. Chỉ khi nào, nhận định ra được căn cơ, chủ chốt của lòng mình là Thiên Tính, là Đạo Tâm, thì bấy giờ mới mong được hưởng thụ phúc khánh!
Khi chưa giác ngộ, nên theo đa số mà xử sự, ở ăn; lúc đã nhận định được Thiên địa chi tâm trong lòng mình, thời phải biết siêu quần bạt tụy, sống khinh phiêu, thung dung, tự tại. Được như vậy, mới thật là may mắn, hạnh phúc. (Xem lời Thoán).
Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
Hào Sơ Lý Sương mô tả lúc Âm khí vừa thoạt mới manh nha. Tuy nó vừa chớm nở, chớm phát, nhưng đó là điềm quốc phá gia vong sau này. Phải thận trọng, phải ngăn ngừa ngay mới kịp (Lý sương. Kiên băng chí)
2. Hào Lục nhị.
Người Quân tử, khi mới bước chân vào con đường Tu thân, Tu Đạo, hãy biết lấy chữ Kính làm đầu. Kính sợ Trời ẩn áo, huyền vi ngay trong tâm khảm mình, chỉnh trang lại tâm thần cho nên hẳn hoi, ngay ngắn. Cải thiện lại đời sống bên ngoài, cố sao cho hành vi, cử chỉ nhất thiết hợp Đạo, hơp nghĩa. Có như vậy mới đi đến chỗ cao đại được (Trực phương đại. Bất tập vô bất lợi)
3. Hào Lục tam.
Quẻ Khôn cũng dạy Đạo làm thần tử. Người thần tử lo thi hành phận vụ, không ỷ chức, ỷ quyền, không tâng công, không khoe tài, khoe trí, dẫu có tài cũng không phô trương, luôn khiêm cung, kín đáo, tùy thời, tùy thế mà thi thố tài năng để làm tròn phận vụ (Hàm chương khả trinh. Hoặc tòng vương sự. Vô thành hữu chung.)
4. Hào Lục tứ.
Gặp khi thời cuộc đảo điên, gặp khi người trên sinh lòng ngờ vực, thời lại càng phải biết im hơi lặng tiếng, minh triết bảo thân. Thế mới là Quát nang vô cữu.
5. Hào Lục ngũ.
Hơn nữa, mục đích tu thân của người quân tử, là đạt tới Thiên vị, tức Trung Điểm, hay Lý Trung Hoàng. Nhận thức được bản tính cao sang của mình, thực hiện được định mệnh sang cả của mình, lồng được Trời vào trong Tâm mình, để cho vẻ đẹp đẽ của Trời chói rọi ra nơi châu thân mình, tỏa lan ra sự nghiệp của mình. Thế mới là đắc Đạo (Hoàng thường. Nguyên cát).
6. Hào Thượng Lục.
Ngoài ra, quẻ Khôn còn như muốn tiên tri, tiên đoán một thời đại mà vật chất hoàn toàn làm chủ, đa số làm chủ, phân ly, gián cách làm chủ. Khi ấy nhân loại sẽ sống một thời kỳ nhiễu nhương, máu lửa ngập trời. Dịch kinh đã đề cập đến thời đại ấy bằng mấy chữ Long chiến vu dã. Kỳ huyết huyền hoàng.
*Nếu thời Kiền là thời hoàng kim mai hậu, là thời thái bình lúc chung cuộc; thì thời Khôn là thời sắt thép, lúc muôn sự còn dở dang, nửa đời, nửa đoạn. Đó là thời mạt kiếp, mạt pháp, mà các Đạo giáo thường nhắc nhở tới. Nhưng đối với Dịch, tuy thời Khôn là thời nhiễu nhương máu lửa, nhưng không phải vì thế mà lịch sử nhân quần sẽ cáo chung, Vật cùng tắc biến, biến tắc thông. Sau thời kỳ đen tối ấy, nhân loại sẽ quay trở về với các giá trị tinh thần, mọi sự rồi ra sẽ trở nên tốt, nên hay. Cho nên Hào Dụng Lục nói thêm:
Khí Âm biến hóa xong rồi,
Rồi ra lợi lộc tốt tươi, Cửu trường.
Tượng rằng: Vĩnh viễn, Cửu trường,
Là vì kết cuộc phi thường cao siêu.
ÁP DỤNG QUẺ KIỀN VÀO THỜI ĐẠI
Quẻ Khôn dạy chúng ta phải luôn gia ý đề phòng, đừng để nước đến chân mới nhẩy, phải biết nhìn xa, trông rộng, biết lo lường, ngăn chặn ngay từ lúc hung họa mới manh nha. Nếu chúng ta biết đề phòng, biết ngăn ngừa căn cơ hung họa từ khi mới nứt nanh sơ khởi, thì làm sao chúng ta có thể lâm cảnh thân tàn, ma dại, nước mất, nhà tan. Một mặt khác, nếu chúng ta biết tích đức, tu thân, gặp điều lành dẫu là nhỏ mấy, cũng tha thiết mà làm, mà gom, mà góp, cứ như thế thì lo chi không được phúc khánh miên trường. Trong Thái Thượng Cảm ứng thiên có câu: Hoạ phúc vô môn duy nhân tự chiêu (Họa phúc không cửa ngõ, do người tự chiêu lai), cũng không ngoài ý đó. Tóm lại, quẻ Khôn dạy ta lẽ Xướng tùy, hòa hợp: nhân tâm phải biết tùy thuộc Đạo tâm, Người phải biết tùy thuộc Trời; người dưới tùy thuộc người trên; vợ tùy thuộc chồng. Tùy thuộc đây phải được hiểu theo lẽ xướng họa hô ứng, một bên khởi xướng, một bên thi hành, chung lưng góp sức, cùng nhau đắp xây đại cuộc.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
2 ĐỊA LÔI PHỤC
Phục Tự Quái
復 序 卦
Bác giả bác dã.
剝 者 剝 也
Vật bất khả dĩ chung tận.
物 不 可 以 終 盡。
Bác cùng thượng phản hạ.
剝 窮 上 反 下,
Cố thụ chi dĩ Phục.
故 受 之 以 復。
Phục Tự Quái
Sự đời đâu mãi tan hoang,
Bác cùng trên dưới, đôi đàng trở trăn.
Cho nên Phục đã theo chân...
Quẻ Phục là một trong những quẻ quan trọng của Dịch kinh; nói lên được lẽ Âm Dương tiêu trưởng, lẽ phản phục của Trời Đất và của tâm lý con người. Từ xưa tới nay, các nhà bình giải cũng đã nhận định được rằng: Quẻ Phục đề cập đến 2 vấn đề:
- Sư hồi phục của khí Dương.
- Sự hồi phục của nhân tâm về cùng đạo lý.
Ngày nay, với sự tiến triển của Khoa Học, với sự phổ biến của các Triết thuyết Âu. Á, ta có thể bàn rộng hơn về lẽ phản phục của Đất, Trời, cũng như của Lịch sử.
A. Phục đánh dấu 1 thời kỳ mà vũ trụ sẽ bắt đầu co lại. Vì nếu vũ trụ khuếch tán được, triển dương được, thì cũng có thể co lại được, phản phục được. (M. Sénard , Le Zodiaque, Le Capricorne, p. 376).
Cũng một nhẽ, thời gian cũng có thể phản phục được, vì thời gian gắn liền với không gian. Cho tới ngày nay, ít ai nghĩ được rằng thời gian cũng có hai chiều, hai hướng, cũng có thể vãng phục như không gian.
B. Phục đứng về phương diện tiết khí, là lúc mà sinh khí phục hồi. Trong ngày Đông Chí, khi mà vạn vật trên mặt đất như đang muốn chết cóng vì gió sương, băng tuyết, thì ở dưới lòng đất, Dương khí phục sinh, để chuẩn bị cho gian trần một mùa Xuân mới, để đem lại cho muôn loài một luồng sinh khí mới.
C. Phục cũng vẽ lại con đường phiêu lãng của vừng Dương. Phục xét về phương diện Lịch số là ngày Đông Chí, là ngày mà vừng Dương như dừng gót lại, để trở về sống gần gũi với Trái Đất & Vạn vật hơn.
Các dân tộc xưa thường ăn mừng ngày Đông chí, để đáng dấu sự phục sinh của Mặt Trời, của thần Mithra.
Từ thế kỷ thứ Tư, Giáo Hội La Mã cũng theo tục lệ của dân gian, mà ăn mừng Lễ Sinh Nhật vào ngày 25 tháng chạp, tức là vài ngày sau tiết Đông Chí.
D. Xét về phương diện Lịch sử, thì khi tới quẻ Phục, nhân loại đã đạt tới một mức độ văn minh vật chất tuyệt đích.
E. Đối với con người. Quẻ Phục là lúc con người trở nên minh giác, giác ngộ, biết được Thiên Mệnh, biết được rằng trong lòng mình vốn có sẵn Lòng Trời:
Phục kỳ kiến Thiên địa chi tâm hồ?
Theo Toán Học cổ truyền, con người có thể giác ngộ năm 42, 43 tuổi.
G. Về Triết Lý & Đạo Giáo. Quẻ Phục nêu lên mấy vấn đề:
1) Con người khi nào sẽ kiến Thiên địa chi tâm?
2)Và làm sao biết mình đã kiến Thiên địa chi tâm?
Các nhà bình giải thường cho rằng: chỉ khi nào tâm hồn con người chí hư, chí tĩnh, mới thấy được Thiên địa chi tâm.
Thiên tâm, đạo tâm là nguồn năng lực, là nguồn sinh hóa, cho nên khi đã kiến Thiên Địa chi tâm, ta sẽ thấy tâm hồn chuyển động, nguồn sống trở nên dạt dào, cảm hứng trở nên sôi động, trí tuệ trở nên mẫn tiệp. Nói tóm lại, ta đã trở thành con người mới.
Phục chính là bước đầu của con đường trở lại. Dịch Kinh đề cập quẻ Phục một cách đơn giản.
*Nơi Thoán thì dùng cho sự hồi phục của Dương khí.
* Nơi Tượng thì nói đến tục lệ đời xưa đã theo trong ngày Đông chí.
* Nơi các Hào thì bình luận cung cách con người trở về cùng Đạo Lý.
I. Thoán.
Thoán Từ.
復:亨。 出 入 無 疾,朋 來 無 咎。 反 復 其 道,七 日 來 復,利 有 攸 往。
Phục. Hanh. Xuất nhập vô tật. Bằng lai vô cữu. Phản phục kỳ đạo. Thất nhật lai phục. Lợi hữu du vãng.
Dịch.
Dương về, vận đã hanh thông,
Cho nên xuất nhập thong dong, nhẹ nhàng.
Có thêm bè bạn lo toan,
Rồi ra sẽ hết vấn vương, lỗi lầm.
Đạo Trời phản phục, cùng thông,
Đường đi bảy độ, lại vòng về ngay.
Đường về, vận đã hoá hay.
Làm đi, rồi sẽ có ngày thành công.
Phục là Dương khí mới trở về (Phục), và sẽ hứa hẹn một vận hội hanh thông mới (Hanh). Người quân tử tuy biết rằng: Cơ phục hồi đạo lý đã trở lại, nhưng chớ nên vội vàng, chớ nên hấp tấp mà hại cho đạo lý, cho lý tưởng (Xuất nhập vô tật). Hãy ráng chờ cho thêm đồng tâm, đồng chí (Bằng lai), rồi mới tránh khỏi được những chuyện lỗi lầm (Vô cữu).
Cơ Trời muốn phục hồi, phải qua hết 6 giai đoạn biến hóa, đó là: Cấu ( tháng 5), Độn (tháng 6), Bĩ (tháng 7), Quan (tháng 8), Bác (tháng 9), Khôn (tháng 10). Thiên vận, thế vận, phải đi cho cùng đường biến hoá, từ tinh thần ra đến vật chất, rồi mới có thể quay ngược trở lại được. Trở về đến quẻ Phục, tức là giai đoạn thứ bảy. Lúc ấy người quân tử mới có cơ hội hoạt động (Phản phục kỳ đạo thất nhật lai phục. Lợi hữu du vãng).
Thoán truyện.
彖 曰 : 復 亨 ﹔ 剛 反,動 而 以 順 行,是 以 出 入 無 疾,朋 來 無 咎。反 復 其 道,七 日 來 復,天 行 也。 利 有 攸 往,剛 長 也。 復 其 見 天 地 之 心 乎?
Thoán viết:
Phục hanh. Cương phản. Động nhi dĩ thuận hành. Thị dĩ xuất nhập vô tật.
Bằng lai vô cữu. Phản phục kỳ đạo. Thất nhật lai phục. Thiên hành dã.
Lợi hữu du vãng. Cương trưởng dã. Phục kỳ kiến thiên địa chi tâm hồ.
Dịch.
Thoán rằng: Vận Phục mà hay,
Là vì Dương cứng tới nay phục hồi,
Động mà vẫn thuận cơ Trời,
Cho nên lui tới thảnh thơi, nhẹ nhàng.
Có thêm bè bạn lo toan,
Xây nền đạo lý, ai than, ai cười.
Vãng lai, phản phục đạo Trời,
Đi đà bảy độ, lại hồi, lại quay.
Làm gì cũng sẽ mắn may,
Là vì Dương vận tới ngày hanh thông,
Phục rồi, được thấy Thiên tâm,
(Vì lòng Trời đất cũng trong lòng người.)
Thoán Truyện đã đưa ra 2 nhận định:
1.) Người quân tử tuy nay gặp hoàn cảnh thuận tiện hơn để hoạt động, nhưng phải hành động cho khéo léo, cho hợp với đạo lý, như vậy mới không chiêu hại cho mình (Động nhi dĩ thuận thị dĩ xuất nhập vô tật.)
2.) Lúc này là lúc con người trở về để tìm cho ra được Thiên địa chi tâm. Tìm ra được Thiên địa chi tâm, chẳng qua là tìm ra được Đạo tâm vi tế trong lòng mình, và nói lên được như Thánh Phao Lồ rằng: Tôi nghĩ tôi có Thần Chúa trong tôi (I Cor. J. 39)
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 : 雷 在 地 中,復 ; 先 王 以 至 日 閉 關,商 旅 不 行,后 不 省 方。
Tượng viết:
Lôi tại địa trung. Phục. Tiên vương dĩ chí nhật bế quan.
Thương lữ bất hành. Hậu bất tỉnh phương.
Dịch. Tượng rằng:
Phục là lòng đất sấm ran,
Tiên vương Đông chí, cửa quan bế tàng.
Ngược xuôi, vắng bóng khách thương.
Nhà vua tránh chẳng lên đường tuần du.
Tượng Truyện nhắc lại hành động của những vị quân vương xưa trong ngày Đông Chí: Đông chí là ngày Nhất Dương sơ động, chính là lúc ứng vào Hào Sơ quẻ Kiền: Tiềm long vật dụng = Rồng ẩn chớ dùng. Cho nên ngày ấy, đóng cửa quan ải, ngăn cấm khách thương đi lại, và nhà vua cũng không đi tuần thú. Nguyên tắc của các vị quân vương xưa là : Theo Trời mà hành sự, cho nên ngày Thu phân thì truyền cho sửa sang lại cân lạng,(vì là ngày tượng trưng cho sự quân bằng mọi sự = ngày, đêm dài bằng nhau), ngày Đông chí là ngày hàm dưỡng, nghỉ ngơi.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
Các Hào bàn về sự trở về cùng đạo lý. Nguyên tắc tu thân xưa là: Tu thân dĩ đạo. Tu đạo dĩ nhân = Dùng đạo để tu thân. Lấy sự hoàn thiện để tu đạo.
Tu thân là đi vào con đường hoàn thiện, là để trở nên hoàn thiện, là để tìm cho ra được Thiên địa chi tâm = tìm cho ra được đạo tâm.
1. Hào Sơ Cửu.
初 九. 不 復 遠,無 只 悔,元 吉。
象 曰: 不 遠 之 復,以 修 身 也。
Sơ Cửu: Bất viễn phục. Vô kỳ hối. Nguyên cát.
Tượng viết:
Bất viễn chi phục. Dĩ tu thân dã.
Dịch.
Chưa xa đã biết phục hồi,
Thế thời khỏi hối, thế thời rất may.
Tượng rằng:
Chưa xa đã biết phục hồi,
Tu thân ấy chính cơ ngơi mối giường.
Hào Sơ là nhất Dương sơ động, ám chỉ những hạng người như Nhan Hồi, hăng hái theo đường đạo lý. Tuy chưa phải là Thánh Hiền, tuy hãy còn có những điều lầm lỗi, nhưng lỗi thời biết, biết thời không tái phạm nữa.
Tóm lại, Hào Sơ là những người đã sống gần tới mức lý tưởng, dầu chưa được mười phân vẹn mười, thì cũng đã gần Trời, gần Đạo. Mỗi khi có một tà niệm, một mầm mống bất thiện nào vừa muốn nhô lên trong tâm hồn họ, là họ cố tiêu diệt ngay, vì vậy tâm hồn họ thời thường là như ngọc trắng, gương trong chẳng bợn trần ai, tục lụy. Vì vậy, Hào Sơ này nói lên hai chữ tu thân, tức là đặt căn bản cho công cuộc tu thân vậy.
2. Hào Lục Nhị.
六 二 : 休 復,吉。
象 曰: 休 復 之 吉,以 下 仁 也。
Lục nhị. Hưu phục. Cát.
Tượng viết:
Hưu phục chi cát. Dĩ hạ nhân dã.
Dịch.
Phục hồi đẹp đẽ biết bao!
Tượng rằng:
Phục hồi đẹp đẽ biết bao.
Là vì đã biết nương vào đức nhân.
Hào Lục nhị là hạng người trung chính, lại có cái may mắn ở gần những người hiền đức. Họ là những người thành khẩn, muốn khắc kỷ, phục lễ, lấy sự hoàn thiện làm tiêu chuẩn cho đời mình, và công cuộc tu thân đối với họ cũng chẳng mấy khó khăn. Vì thế, dùng chữ Hưu phục.
Hào hai chỉ nói đến tu thân, đến sự hoàn thiện để làm tiêu chuẩn cho cuộc đời, nên đặc biệt có chữ Nhân.
3. Hào Lục tam.
六 三 : 頻 復,厲 無 咎。
象 曰: 頻 復 之 厲,義 無 咎 也。
Lục tam. Tần phục. Lệ. Vô cữu.
Tượng viết:
Tần phục chi lệ. Nghĩa vô cữu dã.
Dịch.
Trở đi, trở lại nhiều lần,
Tuy rằng nguy hiểm, lỗi lầm chi đâu.
Tượng rằng:
Trở đi, trở lại nhiều lần.
Xét theo nghĩa lý, thì lầm lỗi chi?
Hào Lục tam chỉ những hạng người thiếu nghị lực, nên tuy muốn bỏ điều xấu, mà vẫn không thể dứt bỏ, vẫn sa đi, ngã lại nhiều lần. Mặc dầu vậy, mỗi lần họ sa ngã, là một lần họ ăn năn, họ chỗi dậy. Nếu đã thực tâm hối quá, thì cũng không đáng chê bai.
4. Hào Lục tứ.
六 四 : 中 行 獨 復。
象 曰: 中 行 獨 復,以 從 道 也。
Lục tứ. Trung hành độc phục.
Tượng viết:
Trung hành độc phục. Dĩ tòng đạo dã.
Dịch.
Một mình giữa bọn tiểu nhân,
Thế mà đơn độc hồi tâm, hồi đầu.
Tượng rằng:
Một mình giữa bọn tiểu nhân,
Một mình trở lại theo chân đạo Trời.
Hào Lục tứ Độc Phục chính là những cánh sen trong bùn, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Tuy sống trong hoàn cảnh ngang trái, mà lòng vẫn hướng về lý tưởng, đaọ lý. Sống giữa bầy tiểu nhân, mà lòng vẫn hướng về phía chính nhân, quân tử.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 : 敦 復,無 悔。
象 曰: 敦 復 無 悔,中 以 自 考 也。
Lục ngũ. Đôn Phục. Vô hối.
Tượng viết:
Đôn Phục vô hối. Trung dĩ tự khảo dã.
Dịch. Lục ngũ:
Đạo Trời thành khẩn phục luôn.
Hết còn hối hận, tâm xoang an bình.
Tượng rằng:
Đạo Trời thành khẩn phục luôn.
Một mình nghiền ngẫm sớm hôm đạo Trời.
Hào Lục ngũ là hạng người không có cái duyên may mắn gần được người Hiền Thánh, nhưng đã một mình tìm được ra Chân Lý (vì thế gọi là tự khảo), mà khi đã tìm ra được đạo lý rồi, thì nhất tâm giữ vẹn Đạo Trời.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 : 爻 辭:迷 復,凶,有 災 眚。用 行 師,終 有 大 敗,
以 其 國 君,凶 ; 至 于 十 年,不 克 征。
象 曰: 迷 復 之 凶,反 君 道 也。
Thượng Lục. Mê Phục. Hung. Hữu tai sảnh. Dụng hành sư.
Chung hữu đại bại. Dĩ kỳ quốc quân hung. Chí vu thập niên bất khắc chinh.
Tượng viết:
Mê phục chi hung. Phản quân đạo dã.
Dịch. Thượng Lục:
Nếu mà mê mẩn, chẳng hồi tâm,
Thời thôi họa hại, thật vô ngần.
Điều động binh đao, âu cũng hỏng,
Dẫu làm vua chúa, vẫn gian truân.
Mê chi, mê mẩn tâm thần.
Suốt đời vẫn chẳng qui tâm, hồi đầu.
Tượng rằng: Mê chẳng phục hồi.
Ấy là phản lại đạo Trời trước sau.
Hào Thượng Cửu: Tuy là ở trong hồi Phục Hưng đạo lý, hồi mà nhân tâm qui thuận thiên lý, cũng vẫn có những người mê lú, không chịu trở lại đường ngay. Họ không chịu phục thiện được vì nhiều lẽ:
1) Vì địa vị họ quá cao, nên họ không thể nhận chân lý, nhận đạo lý nơi người khác.
2) Họ xa những người hay, nên không có dịp trở về cùng đạo lý.
3) Bản chất họ tối tăm, dày đặc, nên họ không thể khai ngộ được.
4) Họ không đủ nghị lực để cải tà, qui chánh.
Khi mà họ đã một mực theo đường tà, mặc cho dục tình lôi cuốn, không đếm xỉa gì đến đạo lý nữa, thì dĩ nhiên họ sẽ lâm vào cảnh quốc phá, gia vong. Dẫu họ có làm vua, làm tướng chi nữa, nếu không theo chính nghĩa, thì cũng chỉ là hôn quân, bại tướng.
ÁP DỤNG QUẺ PHỤC VÀO THỜI ĐẠI
Có nhiều người, sau khi đã đi một quãng đường dài trong cuộc đời, đã từng thành công cũng như thất bại, đã sống trên nhung lụa, kẻ hầu người hạ, nhưng cũng có khi ăn tháng này, đã phải lo tháng sau liệu có đủ hay không? Chợt một lúc nào đó, họ cảm thấy đời sống thật là vô vị, không lẽ sinh ra đời chỉ là để lo làm sao cuộc sống được đầy đủ hay sao? Hay sinh ra đời chỉ để làm phân bón nuôi vợ con? Sáng sớm thức dậy đã phải lo đi làm việc, có nhiều người làm việc vất vả hơn trâu. Nhất là ở xứ Mỹ này, đàn ông cũng như đàn bà có người ngày làm hai, ba nơi. Làm mệt quên nghỉ, làm cốt chỉ để kiếm tiền cho thật nhiều, mặc dù họ không cần thiết phải vất vả như vậy họ vẫn đủ sống. Họ làm việc mà không có mục đích, không có lý tưởng, họ làm cho có nhiều tiền, để ăn tiêu huy hoàng hơn người khác, và để tỏ cho người ngoài thấy họ là người tài giỏi, thế thôi.
Nhưng có ai chịu hiểu sâu sa hơn, là Thượng đế sinh ra loài người đâu phải chỉ để nguyên có sống để mà hưởng thụ, như các loài động vật khác, mà Ngài sinh ra loài người là muốn họ phải tiến hóa về mọi mặt, tiến lên để giống Ngài.
Về mặt Vật chất, họ phải tiến cao để tạo cho thế giới ngày thêm tươi đẹp, đầy đủ tiện nghi, cho con người được thoải mái phần nào sau nhiều giờ làm việc trong ngày.
Về mặt Tinh thần, họ phải suy tư, tìm hiểu đâu là bản thể của mình, vì Thần của họ là gốc gác Thần minh, họ phải biết đường để quay về với Thần minh, nếu không sẽ có lúc họ cảm thấy đời vô ý nghĩa, và họ sẽ chán nản vô cùng, vì thế có nhiều người chẳng hiểu vì lý do gì mà lại tự tử.
Thật vậy, nếu chúng ta sinh ra đời, mà suốt cuộc đời sống không mục đích, không lý tưởng, thì quả thật cuộc sống thật là vô vị, và lúc lâm chung chẳng hiểu mình sẽ đi về đâu?
Theo thiển ý của tôi, khi còn nhỏ sống trong gia đình, ta hãy ăn ở sao cho cha mẹ, và thày giáo vui lòng. Khi khôn lớn, giữ sao cho hạnh kiểm đường hoàng, cho minh chính để mọi người nể trọng mình. Ta cứ lập gia đình, tạo sự nghiệp, để góp mặt với xã hội nhân quần. Nhưng khi tóc đã hoa râm, đã qua được quá nửa đời người (quãng 42- 43 tuổi), thì ta phải biết suy tư, học đạo để quay về với nguồn gốc của mình, nếu cứ mê đắm trong hoan lạc, e cuối đời ăn năn không kịp, như Hào Thượng Lục của quẻ Phục răn ta:
Chấp nê, một dạ sống trong mê,
Nghĩa lý, lìa xa chẳng chịu về.
Vương, tướng nghênh ngang, phường múa rối,
Đạo Trời chẳng biết, sống ra chi !
Quẻ Phục này đáng cho ta suy nghĩ vậy!
Phục Tự Quái
復 序 卦
Bác giả bác dã.
剝 者 剝 也
Vật bất khả dĩ chung tận.
物 不 可 以 終 盡。
Bác cùng thượng phản hạ.
剝 窮 上 反 下,
Cố thụ chi dĩ Phục.
故 受 之 以 復。
Phục Tự Quái
Sự đời đâu mãi tan hoang,
Bác cùng trên dưới, đôi đàng trở trăn.
Cho nên Phục đã theo chân...
Quẻ Phục là một trong những quẻ quan trọng của Dịch kinh; nói lên được lẽ Âm Dương tiêu trưởng, lẽ phản phục của Trời Đất và của tâm lý con người. Từ xưa tới nay, các nhà bình giải cũng đã nhận định được rằng: Quẻ Phục đề cập đến 2 vấn đề:
- Sư hồi phục của khí Dương.
- Sự hồi phục của nhân tâm về cùng đạo lý.
Ngày nay, với sự tiến triển của Khoa Học, với sự phổ biến của các Triết thuyết Âu. Á, ta có thể bàn rộng hơn về lẽ phản phục của Đất, Trời, cũng như của Lịch sử.
A. Phục đánh dấu 1 thời kỳ mà vũ trụ sẽ bắt đầu co lại. Vì nếu vũ trụ khuếch tán được, triển dương được, thì cũng có thể co lại được, phản phục được. (M. Sénard , Le Zodiaque, Le Capricorne, p. 376).
Cũng một nhẽ, thời gian cũng có thể phản phục được, vì thời gian gắn liền với không gian. Cho tới ngày nay, ít ai nghĩ được rằng thời gian cũng có hai chiều, hai hướng, cũng có thể vãng phục như không gian.
B. Phục đứng về phương diện tiết khí, là lúc mà sinh khí phục hồi. Trong ngày Đông Chí, khi mà vạn vật trên mặt đất như đang muốn chết cóng vì gió sương, băng tuyết, thì ở dưới lòng đất, Dương khí phục sinh, để chuẩn bị cho gian trần một mùa Xuân mới, để đem lại cho muôn loài một luồng sinh khí mới.
C. Phục cũng vẽ lại con đường phiêu lãng của vừng Dương. Phục xét về phương diện Lịch số là ngày Đông Chí, là ngày mà vừng Dương như dừng gót lại, để trở về sống gần gũi với Trái Đất & Vạn vật hơn.
Các dân tộc xưa thường ăn mừng ngày Đông chí, để đáng dấu sự phục sinh của Mặt Trời, của thần Mithra.
Từ thế kỷ thứ Tư, Giáo Hội La Mã cũng theo tục lệ của dân gian, mà ăn mừng Lễ Sinh Nhật vào ngày 25 tháng chạp, tức là vài ngày sau tiết Đông Chí.
D. Xét về phương diện Lịch sử, thì khi tới quẻ Phục, nhân loại đã đạt tới một mức độ văn minh vật chất tuyệt đích.
E. Đối với con người. Quẻ Phục là lúc con người trở nên minh giác, giác ngộ, biết được Thiên Mệnh, biết được rằng trong lòng mình vốn có sẵn Lòng Trời:
Phục kỳ kiến Thiên địa chi tâm hồ?
Theo Toán Học cổ truyền, con người có thể giác ngộ năm 42, 43 tuổi.
G. Về Triết Lý & Đạo Giáo. Quẻ Phục nêu lên mấy vấn đề:
1) Con người khi nào sẽ kiến Thiên địa chi tâm?
2)Và làm sao biết mình đã kiến Thiên địa chi tâm?
Các nhà bình giải thường cho rằng: chỉ khi nào tâm hồn con người chí hư, chí tĩnh, mới thấy được Thiên địa chi tâm.
Thiên tâm, đạo tâm là nguồn năng lực, là nguồn sinh hóa, cho nên khi đã kiến Thiên Địa chi tâm, ta sẽ thấy tâm hồn chuyển động, nguồn sống trở nên dạt dào, cảm hứng trở nên sôi động, trí tuệ trở nên mẫn tiệp. Nói tóm lại, ta đã trở thành con người mới.
Phục chính là bước đầu của con đường trở lại. Dịch Kinh đề cập quẻ Phục một cách đơn giản.
*Nơi Thoán thì dùng cho sự hồi phục của Dương khí.
* Nơi Tượng thì nói đến tục lệ đời xưa đã theo trong ngày Đông chí.
* Nơi các Hào thì bình luận cung cách con người trở về cùng Đạo Lý.
I. Thoán.
Thoán Từ.
復:亨。 出 入 無 疾,朋 來 無 咎。 反 復 其 道,七 日 來 復,利 有 攸 往。
Phục. Hanh. Xuất nhập vô tật. Bằng lai vô cữu. Phản phục kỳ đạo. Thất nhật lai phục. Lợi hữu du vãng.
Dịch.
Dương về, vận đã hanh thông,
Cho nên xuất nhập thong dong, nhẹ nhàng.
Có thêm bè bạn lo toan,
Rồi ra sẽ hết vấn vương, lỗi lầm.
Đạo Trời phản phục, cùng thông,
Đường đi bảy độ, lại vòng về ngay.
Đường về, vận đã hoá hay.
Làm đi, rồi sẽ có ngày thành công.
Phục là Dương khí mới trở về (Phục), và sẽ hứa hẹn một vận hội hanh thông mới (Hanh). Người quân tử tuy biết rằng: Cơ phục hồi đạo lý đã trở lại, nhưng chớ nên vội vàng, chớ nên hấp tấp mà hại cho đạo lý, cho lý tưởng (Xuất nhập vô tật). Hãy ráng chờ cho thêm đồng tâm, đồng chí (Bằng lai), rồi mới tránh khỏi được những chuyện lỗi lầm (Vô cữu).
Cơ Trời muốn phục hồi, phải qua hết 6 giai đoạn biến hóa, đó là: Cấu ( tháng 5), Độn (tháng 6), Bĩ (tháng 7), Quan (tháng 8), Bác (tháng 9), Khôn (tháng 10). Thiên vận, thế vận, phải đi cho cùng đường biến hoá, từ tinh thần ra đến vật chất, rồi mới có thể quay ngược trở lại được. Trở về đến quẻ Phục, tức là giai đoạn thứ bảy. Lúc ấy người quân tử mới có cơ hội hoạt động (Phản phục kỳ đạo thất nhật lai phục. Lợi hữu du vãng).
Thoán truyện.
彖 曰 : 復 亨 ﹔ 剛 反,動 而 以 順 行,是 以 出 入 無 疾,朋 來 無 咎。反 復 其 道,七 日 來 復,天 行 也。 利 有 攸 往,剛 長 也。 復 其 見 天 地 之 心 乎?
Thoán viết:
Phục hanh. Cương phản. Động nhi dĩ thuận hành. Thị dĩ xuất nhập vô tật.
Bằng lai vô cữu. Phản phục kỳ đạo. Thất nhật lai phục. Thiên hành dã.
Lợi hữu du vãng. Cương trưởng dã. Phục kỳ kiến thiên địa chi tâm hồ.
Dịch.
Thoán rằng: Vận Phục mà hay,
Là vì Dương cứng tới nay phục hồi,
Động mà vẫn thuận cơ Trời,
Cho nên lui tới thảnh thơi, nhẹ nhàng.
Có thêm bè bạn lo toan,
Xây nền đạo lý, ai than, ai cười.
Vãng lai, phản phục đạo Trời,
Đi đà bảy độ, lại hồi, lại quay.
Làm gì cũng sẽ mắn may,
Là vì Dương vận tới ngày hanh thông,
Phục rồi, được thấy Thiên tâm,
(Vì lòng Trời đất cũng trong lòng người.)
Thoán Truyện đã đưa ra 2 nhận định:
1.) Người quân tử tuy nay gặp hoàn cảnh thuận tiện hơn để hoạt động, nhưng phải hành động cho khéo léo, cho hợp với đạo lý, như vậy mới không chiêu hại cho mình (Động nhi dĩ thuận thị dĩ xuất nhập vô tật.)
2.) Lúc này là lúc con người trở về để tìm cho ra được Thiên địa chi tâm. Tìm ra được Thiên địa chi tâm, chẳng qua là tìm ra được Đạo tâm vi tế trong lòng mình, và nói lên được như Thánh Phao Lồ rằng: Tôi nghĩ tôi có Thần Chúa trong tôi (I Cor. J. 39)
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 : 雷 在 地 中,復 ; 先 王 以 至 日 閉 關,商 旅 不 行,后 不 省 方。
Tượng viết:
Lôi tại địa trung. Phục. Tiên vương dĩ chí nhật bế quan.
Thương lữ bất hành. Hậu bất tỉnh phương.
Dịch. Tượng rằng:
Phục là lòng đất sấm ran,
Tiên vương Đông chí, cửa quan bế tàng.
Ngược xuôi, vắng bóng khách thương.
Nhà vua tránh chẳng lên đường tuần du.
Tượng Truyện nhắc lại hành động của những vị quân vương xưa trong ngày Đông Chí: Đông chí là ngày Nhất Dương sơ động, chính là lúc ứng vào Hào Sơ quẻ Kiền: Tiềm long vật dụng = Rồng ẩn chớ dùng. Cho nên ngày ấy, đóng cửa quan ải, ngăn cấm khách thương đi lại, và nhà vua cũng không đi tuần thú. Nguyên tắc của các vị quân vương xưa là : Theo Trời mà hành sự, cho nên ngày Thu phân thì truyền cho sửa sang lại cân lạng,(vì là ngày tượng trưng cho sự quân bằng mọi sự = ngày, đêm dài bằng nhau), ngày Đông chí là ngày hàm dưỡng, nghỉ ngơi.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
Các Hào bàn về sự trở về cùng đạo lý. Nguyên tắc tu thân xưa là: Tu thân dĩ đạo. Tu đạo dĩ nhân = Dùng đạo để tu thân. Lấy sự hoàn thiện để tu đạo.
Tu thân là đi vào con đường hoàn thiện, là để trở nên hoàn thiện, là để tìm cho ra được Thiên địa chi tâm = tìm cho ra được đạo tâm.
1. Hào Sơ Cửu.
初 九. 不 復 遠,無 只 悔,元 吉。
象 曰: 不 遠 之 復,以 修 身 也。
Sơ Cửu: Bất viễn phục. Vô kỳ hối. Nguyên cát.
Tượng viết:
Bất viễn chi phục. Dĩ tu thân dã.
Dịch.
Chưa xa đã biết phục hồi,
Thế thời khỏi hối, thế thời rất may.
Tượng rằng:
Chưa xa đã biết phục hồi,
Tu thân ấy chính cơ ngơi mối giường.
Hào Sơ là nhất Dương sơ động, ám chỉ những hạng người như Nhan Hồi, hăng hái theo đường đạo lý. Tuy chưa phải là Thánh Hiền, tuy hãy còn có những điều lầm lỗi, nhưng lỗi thời biết, biết thời không tái phạm nữa.
Tóm lại, Hào Sơ là những người đã sống gần tới mức lý tưởng, dầu chưa được mười phân vẹn mười, thì cũng đã gần Trời, gần Đạo. Mỗi khi có một tà niệm, một mầm mống bất thiện nào vừa muốn nhô lên trong tâm hồn họ, là họ cố tiêu diệt ngay, vì vậy tâm hồn họ thời thường là như ngọc trắng, gương trong chẳng bợn trần ai, tục lụy. Vì vậy, Hào Sơ này nói lên hai chữ tu thân, tức là đặt căn bản cho công cuộc tu thân vậy.
2. Hào Lục Nhị.
六 二 : 休 復,吉。
象 曰: 休 復 之 吉,以 下 仁 也。
Lục nhị. Hưu phục. Cát.
Tượng viết:
Hưu phục chi cát. Dĩ hạ nhân dã.
Dịch.
Phục hồi đẹp đẽ biết bao!
Tượng rằng:
Phục hồi đẹp đẽ biết bao.
Là vì đã biết nương vào đức nhân.
Hào Lục nhị là hạng người trung chính, lại có cái may mắn ở gần những người hiền đức. Họ là những người thành khẩn, muốn khắc kỷ, phục lễ, lấy sự hoàn thiện làm tiêu chuẩn cho đời mình, và công cuộc tu thân đối với họ cũng chẳng mấy khó khăn. Vì thế, dùng chữ Hưu phục.
Hào hai chỉ nói đến tu thân, đến sự hoàn thiện để làm tiêu chuẩn cho cuộc đời, nên đặc biệt có chữ Nhân.
3. Hào Lục tam.
六 三 : 頻 復,厲 無 咎。
象 曰: 頻 復 之 厲,義 無 咎 也。
Lục tam. Tần phục. Lệ. Vô cữu.
Tượng viết:
Tần phục chi lệ. Nghĩa vô cữu dã.
Dịch.
Trở đi, trở lại nhiều lần,
Tuy rằng nguy hiểm, lỗi lầm chi đâu.
Tượng rằng:
Trở đi, trở lại nhiều lần.
Xét theo nghĩa lý, thì lầm lỗi chi?
Hào Lục tam chỉ những hạng người thiếu nghị lực, nên tuy muốn bỏ điều xấu, mà vẫn không thể dứt bỏ, vẫn sa đi, ngã lại nhiều lần. Mặc dầu vậy, mỗi lần họ sa ngã, là một lần họ ăn năn, họ chỗi dậy. Nếu đã thực tâm hối quá, thì cũng không đáng chê bai.
4. Hào Lục tứ.
六 四 : 中 行 獨 復。
象 曰: 中 行 獨 復,以 從 道 也。
Lục tứ. Trung hành độc phục.
Tượng viết:
Trung hành độc phục. Dĩ tòng đạo dã.
Dịch.
Một mình giữa bọn tiểu nhân,
Thế mà đơn độc hồi tâm, hồi đầu.
Tượng rằng:
Một mình giữa bọn tiểu nhân,
Một mình trở lại theo chân đạo Trời.
Hào Lục tứ Độc Phục chính là những cánh sen trong bùn, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Tuy sống trong hoàn cảnh ngang trái, mà lòng vẫn hướng về lý tưởng, đaọ lý. Sống giữa bầy tiểu nhân, mà lòng vẫn hướng về phía chính nhân, quân tử.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 : 敦 復,無 悔。
象 曰: 敦 復 無 悔,中 以 自 考 也。
Lục ngũ. Đôn Phục. Vô hối.
Tượng viết:
Đôn Phục vô hối. Trung dĩ tự khảo dã.
Dịch. Lục ngũ:
Đạo Trời thành khẩn phục luôn.
Hết còn hối hận, tâm xoang an bình.
Tượng rằng:
Đạo Trời thành khẩn phục luôn.
Một mình nghiền ngẫm sớm hôm đạo Trời.
Hào Lục ngũ là hạng người không có cái duyên may mắn gần được người Hiền Thánh, nhưng đã một mình tìm được ra Chân Lý (vì thế gọi là tự khảo), mà khi đã tìm ra được đạo lý rồi, thì nhất tâm giữ vẹn Đạo Trời.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 : 爻 辭:迷 復,凶,有 災 眚。用 行 師,終 有 大 敗,
以 其 國 君,凶 ; 至 于 十 年,不 克 征。
象 曰: 迷 復 之 凶,反 君 道 也。
Thượng Lục. Mê Phục. Hung. Hữu tai sảnh. Dụng hành sư.
Chung hữu đại bại. Dĩ kỳ quốc quân hung. Chí vu thập niên bất khắc chinh.
Tượng viết:
Mê phục chi hung. Phản quân đạo dã.
Dịch. Thượng Lục:
Nếu mà mê mẩn, chẳng hồi tâm,
Thời thôi họa hại, thật vô ngần.
Điều động binh đao, âu cũng hỏng,
Dẫu làm vua chúa, vẫn gian truân.
Mê chi, mê mẩn tâm thần.
Suốt đời vẫn chẳng qui tâm, hồi đầu.
Tượng rằng: Mê chẳng phục hồi.
Ấy là phản lại đạo Trời trước sau.
Hào Thượng Cửu: Tuy là ở trong hồi Phục Hưng đạo lý, hồi mà nhân tâm qui thuận thiên lý, cũng vẫn có những người mê lú, không chịu trở lại đường ngay. Họ không chịu phục thiện được vì nhiều lẽ:
1) Vì địa vị họ quá cao, nên họ không thể nhận chân lý, nhận đạo lý nơi người khác.
2) Họ xa những người hay, nên không có dịp trở về cùng đạo lý.
3) Bản chất họ tối tăm, dày đặc, nên họ không thể khai ngộ được.
4) Họ không đủ nghị lực để cải tà, qui chánh.
Khi mà họ đã một mực theo đường tà, mặc cho dục tình lôi cuốn, không đếm xỉa gì đến đạo lý nữa, thì dĩ nhiên họ sẽ lâm vào cảnh quốc phá, gia vong. Dẫu họ có làm vua, làm tướng chi nữa, nếu không theo chính nghĩa, thì cũng chỉ là hôn quân, bại tướng.
ÁP DỤNG QUẺ PHỤC VÀO THỜI ĐẠI
Có nhiều người, sau khi đã đi một quãng đường dài trong cuộc đời, đã từng thành công cũng như thất bại, đã sống trên nhung lụa, kẻ hầu người hạ, nhưng cũng có khi ăn tháng này, đã phải lo tháng sau liệu có đủ hay không? Chợt một lúc nào đó, họ cảm thấy đời sống thật là vô vị, không lẽ sinh ra đời chỉ là để lo làm sao cuộc sống được đầy đủ hay sao? Hay sinh ra đời chỉ để làm phân bón nuôi vợ con? Sáng sớm thức dậy đã phải lo đi làm việc, có nhiều người làm việc vất vả hơn trâu. Nhất là ở xứ Mỹ này, đàn ông cũng như đàn bà có người ngày làm hai, ba nơi. Làm mệt quên nghỉ, làm cốt chỉ để kiếm tiền cho thật nhiều, mặc dù họ không cần thiết phải vất vả như vậy họ vẫn đủ sống. Họ làm việc mà không có mục đích, không có lý tưởng, họ làm cho có nhiều tiền, để ăn tiêu huy hoàng hơn người khác, và để tỏ cho người ngoài thấy họ là người tài giỏi, thế thôi.
Nhưng có ai chịu hiểu sâu sa hơn, là Thượng đế sinh ra loài người đâu phải chỉ để nguyên có sống để mà hưởng thụ, như các loài động vật khác, mà Ngài sinh ra loài người là muốn họ phải tiến hóa về mọi mặt, tiến lên để giống Ngài.
Về mặt Vật chất, họ phải tiến cao để tạo cho thế giới ngày thêm tươi đẹp, đầy đủ tiện nghi, cho con người được thoải mái phần nào sau nhiều giờ làm việc trong ngày.
Về mặt Tinh thần, họ phải suy tư, tìm hiểu đâu là bản thể của mình, vì Thần của họ là gốc gác Thần minh, họ phải biết đường để quay về với Thần minh, nếu không sẽ có lúc họ cảm thấy đời vô ý nghĩa, và họ sẽ chán nản vô cùng, vì thế có nhiều người chẳng hiểu vì lý do gì mà lại tự tử.
Thật vậy, nếu chúng ta sinh ra đời, mà suốt cuộc đời sống không mục đích, không lý tưởng, thì quả thật cuộc sống thật là vô vị, và lúc lâm chung chẳng hiểu mình sẽ đi về đâu?
Theo thiển ý của tôi, khi còn nhỏ sống trong gia đình, ta hãy ăn ở sao cho cha mẹ, và thày giáo vui lòng. Khi khôn lớn, giữ sao cho hạnh kiểm đường hoàng, cho minh chính để mọi người nể trọng mình. Ta cứ lập gia đình, tạo sự nghiệp, để góp mặt với xã hội nhân quần. Nhưng khi tóc đã hoa râm, đã qua được quá nửa đời người (quãng 42- 43 tuổi), thì ta phải biết suy tư, học đạo để quay về với nguồn gốc của mình, nếu cứ mê đắm trong hoan lạc, e cuối đời ăn năn không kịp, như Hào Thượng Lục của quẻ Phục răn ta:
Chấp nê, một dạ sống trong mê,
Nghĩa lý, lìa xa chẳng chịu về.
Vương, tướng nghênh ngang, phường múa rối,
Đạo Trời chẳng biết, sống ra chi !
Quẻ Phục này đáng cho ta suy nghĩ vậy!
Sửa lần cuối bởi anhlinhmotminh vào lúc 07:52, 11/02/13 với 1 lần sửa.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
3 ĐỊA TRẠCH LÂM
Lâm Tự Quái
臨 序 卦
Cổ giả sự dã.
蠱 者 事 也
Hữu sự nhi hậu khả đại.
有 事 而 後 可 大
Cố thụ chi dĩ Lâm.
故 受 之 以 臨
Lâm giả đại dã.
臨 者 大 也
Lâm Tự Quái
Cổ là công chuyện thi hành trước sau,
Công nhiều, sau sẽ lớn cao.
Cho nên quẻ nối tiếp vào là Lâm.
Lâm là cao đại vượt tầm.
Quẻ Lâm có 2 Hào Dương ở dưới, bốn Hào Âm ở trên, nói lên cái thế đương lên của Dương khí, cũng như của người quân tử. Vì thế Lâm báo trước một thời kỳ thịnh đạt.
Lâm trên là Khôn = Đất, dưới là Đoài = Hồ. Bờ hồ và hồ nước tiếp cận mật thiết với nhau. Cho nên quẻ Lâm mượn tượng này mà đề cập đến sự thân yêu, thành khẩn tiếp súc với dân của những người cầm quyền.
Lâm dưới có quẻ Đoài là hòa duyệt, trên có Khôn là Nhu thuận, ý nói người quân tử lúc gặp thời thế hãy hòa duyệt mà tiến lên, đừng có kiêu sa, hung bạo. Làm sao cho vạn dân phục tùng mình mới hay.
Lâm có 2 Hào Dương ở dưới, 4 Hào Âm ở trên, nói lên quan điểm rằng tuy mình mạnh thế, nhưng phải luôn theo chính lý, chính nghĩa mà tác tạo cho dân, phải luôn luôn cảm thông với dân, mới được dân thương, dân phục.
Lâm là cách đối xử của người trên đối với người dưới. Phàm người trên khi tiếp xúc với dân phải uy nghi, trang kính, phải thành khẩn, cẩn trọng.
I. Thoán.
Thoán Từ.
元,亨,利,貞。 至 于 八 月 有 凶。
Lâm. Nguyên hanh lợi trinh. Chí vu bát nguyệt hữu hung.
Dịch.
Lâm là tiến bước dần dà.
Thật là cao đại, thật là hanh thông.
Lợi vì minh chính, một lòng.
Tới hồi tháng tám, họa hung có ngày.
Thoán Truyện.
彖 曰 : 臨,剛 浸 而 長。 說 而 順,剛 中 而 應,大 亨 以 正,
天 之 道 也。至 于 八 月 有 凶,消 不 久 也。
Thoán viết.
Lâm. Cương tẩm nhi trưởng. Duyệt nhi thuận. Cương trung nhi ứng. Đại hanh dĩ chính. Thiên chi đạo dã. Chí vu bát nguyệt hữu hung. Tiêu bất cửu dã.
Dịch.
Lâm là tiến bước dần dà,
Cương cường, hùng dũng, được đà triển dương.
Vui hòa, thuận thảo, mọi đường,
Kiên trinh, chính đáng, huy quang với đời,
Chính minh, cao đại, rạng ngời,
Chính minh, cao đại, ắt rồi hanh thông.
Cứ theo đường cũ ruổi rong,
Trời kia âu cũng một giòng thế thôi.
Họa hung tháng tám trông vời.
Sớm chầy cũng sẽ gặp hồi suy vi.
Thoán Từ, Thoán Truyện đại khái nói rằng: Gặp thời Dương thịnh, gặp thời quân tử đương lên, là một điều đáng mừng cho nhân loại, có thể mở một kỷ nguyên thái thịnh, an bình (Nguyên hanh). Nhưng người quân tử đừng thấy mình đắc thế mà quên đi mất chính nghĩa. Phải luôn luôn xử sự theo đường minh chính, mới hay, mới lợi. (Lợi trinh). Cai trị sao, mình được thư thái, hòa duyệt, mà dân thì thuận phục (Duyệt nhi thuận). Đừng có ỷ vào sức mạnh, mà phải luôn cảm thông với người (Cương trung nhi ứng). Gặp thời cơ thái thịnh, hanh thông, mà mình vẫn giữ được chính nghĩa (Đại hanh dĩ chính), mới là đi đúng đường lối của Trời Đất (Thiên chi đạo dã). Vả nay mình thịnh, nên nghĩ tới một ngày kia mình suy. Nay mình còn tại chức, nên nghĩ tới một ngày kia mình phải lui chân. Mà cái ngày ấy chẳng có xa, như quẻ Lâm sau 8 tháng lại đến quẻ Bĩ vậy (Chí vu bát nguyệt hữu hung. Tiêu bất cửu dã ). Có nghĩ được như vậy, mới tiếp nhân sử kỷ cho trọn vẹn được.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰: 澤 上 有 地,臨 ﹔ 君 子 以 教 思 無 窮,容 保 民 無 疆。
Tượng viết.
Trạch thượng hữu địa. Lâm. Quân tử dĩ giáo tư vô cùng.
Dung bảo dân vô Cương.
Dịch.
Hồ trên có đất là Lâm,
Hiền nhân giáo dưỡng chúng nhân chẳng rời.
Hồ với đất ven hồ luôn tiếp cận mật thiết với nhau. Đó là bài học dạy người quân tử khi đến với dân, cũng phải thân cận với dân như vậy. Đó là phải lo dạy dỗ dân mãi mãi, và phải lo bao bọc che chở cho dân để họ được có một đời sống sung túc, an lạc. Như vậy mới là trị dân.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 : 咸 臨,貞 吉。
象 曰: 咸 臨 貞 吉,志 行 正 也。
Sơ Cửu. Hàm Lâm. Trinh cát.
Tượng viết.
Hàm Lâm trinh cát. Chí hành chính dã.
Dịch.
Cùng nhau chung sức giúp đời,
Mở mang chính nghĩa, hay thời đã hay.
Tượng rằng:
Hay vì chung sức giúp đời,
Mở mang chính nghĩa, chẳng lơi tấc lòng.
Hào Sơ dạy rằng: khi người quân tử gặp thời cơ thuận tiện, hãy kéo nhau ra giúp đời. Nhưng phải theo đúng nghĩa công chính, mới hay, mới tốt. Cho nên chí hướng lúc nào cũng phải gửi gấp theo nhẽ công chính.
2. Hào Cửu nhị.
九 二: 咸 臨,吉 無 不 利。
象 曰: 咸 臨,吉 無 不 利 ﹔ 未 順 命 也。
Cửu nhị. Hàm Lâm. Cát. Vô bất lợi.
Tượng viết:
Hàm Lâm cát vô bất lợi. Vị thuận mệnh dã.
Dịch.
Cửu nhị: Cùng nhau chung sức giúp đời,
Xét về lợi ích, thì thôi vẹn toàn.
Tượng rằng:
Cùng nhau chung sức giúp đời,
Làm nên ích lợi, chúa tôi hiệp hòa.
Hào hai dạy thêm: Khi gặp thời cơ thuận tiện, quân tử hãy hợp lực với nhau, đoàn kết với nhau, mà giúp đời. Nếu được như vậy, làm gì cũng hay, cũng lợi ( Hàm Lâm cát vô bất lợi). Hơn nữa, dẫu gặp thời cơ thuận tiện, đừng bao giờ quên nỗ lực, cố gắng, đừng có ỷ lại nguyên vào Thời Trời, Mệnh Trời (Vị thuận mệnh dã).
3. Hào Lục tam.
六 三. 甘 臨,無 攸 利。 既 憂 之,無 咎。
象 曰: 甘 臨,位 不 當 也。 既 憂 之,咎 不 長 也。
Lục tam. Cam Lâm. Vô du lợi. Ký ưu chi. Vô cữu.
Tượng viết.
Cam Lâm. Vị bất đáng dã. Ký ưu chi. Cữu bất trưởng dã.
Dịch.
Lục tam vồn vã, ngọt ngào.
Mà không tài đức, thời nào ích chi?
Thà lo tu tỉnh hành vi,
Nếu làm được vậy, có gì lỗi đâu.
Tượng rằng: Vồn vã, ngọt ngào,
Vị ngôi không đáng, thời nào ích chi.
Thà lo tu tỉnh hành vi,
Lỗi lầm như vậy, nhẽ gì bền lâu?
Hào ba là Hào Lục tam bất trung, bất chính, ám chỉ một kẻ tiểu nhân ở địa vị cao, nhưng không có tài đức, chỉ ngọt ngào, ve vãn lấy lòng người. Nhưng sự ngọt ngào ấy là thứ ngọt ngào giả tạo, đáng sợ, đó là Tiếu lý tàng đao = Trong cái cười có dấu con dao bén. Tiểu nhân dẫu sao cũng không thể chinh phục quân tử bằng sự ngọt ngào giả tạo ấy được. Nếu họ biết rằng tài đức của họ chưa xứng kỳ vị (Vị bất đáng dã), mà biết lo cải hóa, biết lo trau dồi tài đức, thì cái lỗi lầm của họ, một ngày nào đó có thể xóa bỏ được.
4. Hào Lục tứ.
六 四 : 至 臨,無 咎。
象 曰: 至 臨 無 咎,位 當 也。
Lục tứ. Chí Lâm. Vô cữu.
Tượng viết:
Chí Lâm vô cữu. Vị đáng dã.
Dịch. Lục tứ:
Hết lòng cộng tác với người hay,
Nếu mình thành khẩn, lỗi chi đây.
Tượng rằng:
Ưa làm việc với người hay,
Vì mình xứng đáng với ngôi vị mình.
Hào Bốn cũng là Hào Âm, nhưng đắc vị, lại ứng với Sơ Cửu là người có tài. Hai bên nếu biết giao thiệp với nhau cho chí tình, chí thiết, thì cũng có thể cùng nhau giúp đời, vì thế mới gọi là (Chí Lâm vô cữu).
5. Hào Lục ngũ.
六 五 : 知 臨,大 君 之 宜,吉。
象 曰: 大 君 之 宜,行 中 之 謂 也。
Lục ngũ. Tri Lâm. Đại quân chi nghi. Cát.
Tượng viết:
Đại quân chi nghi. Hành trung chi vị dã.
Dịch.
Khôn ngoan, khéo dụng nhân tài,
Đó là hay, khéo của người minh quân.
Tượng rằng:
Minh quân xử sự êm xuôi,
Đó là làm đúng phận người quân vương.
Hào năm đề cập đến cách trị dân của một đấng quân vương. Thiên hạ thì bao la, nên vua không thể nào ôm đồm, không thể nào thấu suốt được mọi công việc. Vì vậy bổn phận nhà vua là phải tìm cho ra hiền tài phụ bật, rồi sau đó phải ủy thác cho họ công cuộc trị dân. Như vậy mới là người minh trí. Cho nên nói Tri Lâm. Bất kỳ vị vua danh tiếng nào cũng phải làm như vậy (Đại quân chi nghi).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 : 敦 臨,吉 無 咎。
象 曰: 敦 臨 之 吉,志 在 內 也。
Thượng Lục. Đôn Lâm. Cát. Vô cữu.
Tượng viết:
Đôn Lâm chi cát. Chí tại nội dã.
Dịch. Thượng Lục:
Một lòng nâng đỡ hiền tài,
Là hay, là tốt, ai người kêu ca.
Tượng rằng:
Hiền tài nâng đỡ mới hay,
Ấy vì quí chuộng người tài, chẳng quên.
Hào Sáu, tiếp tục chủ trương: Khi ở ngôi cao trị dân, mà không dồi dào tài đức, thì lại càng phải thành khẩn mà tiếp đãi các bậc hiền tài. Hoặc là đã trị dân, thời trước cũng như sau, phải một lòng thành khẩn vì dân, vì nước mới là hay.
ÁP DỤNG QUẺ LÂM VÀO THỜI ĐẠI
Ngày nay, dần dà thế giới đi vào chế độ dân chủ, mà điển hình là chế độ Tổng thống & Lưỡng viện. Tổng Thống có quyền chọn lựa một vị Phó Tổng Thống để điều hành việc nước chung với mình. Còn Lưỡng Viện là Thượng nghị viện & Hạ nghị viện, đều không thuộc quyền Tổng Thống. Thượng, Hạ 2 viện là cơ quan Lập pháp, còn Tổng Thống là cơ quan hành pháp
Xưa, nếu người dân bị nghi là có tội, là bị giam giữ, tù tội, có khi còn bị chém đầu, tịch thu tài sản, nếu nặng còn có thể bị chu di 3 họ. Ngày nay, bất cứ tội gì cũng phải có bằng chứng thì mới có thể bắt bớ, giam giữ người ta được.
Xưa, bất cứ có công chuyện gì mà đến chính quyền là phải hối lộ, đút lót. Nay, người làm công chức phải có lễ độ, nếu người trong chính quyền làm bậy, hoặc hống hách, đã có cơ quan ngôn luận là báo chí lên tiếng tố cáo công khai, hơn nữa công danh của họ là do dân bầu lên, do đó họ đâu dám đè đầu cưỡi cổ dân công khai, hoặc quá đáng.
Tóm lại cách cai trị dân của thời nay, làm cho dân cảm thấy mình sống được tự do thoải mái hơn xưa nhiều, thêm vào đấy, sự tiến triển của Khoa Học càng ngày càng cao, khiến con người nói chung, dân chúng nói riêng, cảm thấy đời sống bớt nặng nề, nhọc nhằn, cơ cực. Ứớc mong Đạo Đức cũng tiến, thì chúng ta sẽ sống trong hoan lạc thật sự vậy. Và như vậy là đúng theo ý muốn của quẻ Lâm.
Lâm Tự Quái
臨 序 卦
Cổ giả sự dã.
蠱 者 事 也
Hữu sự nhi hậu khả đại.
有 事 而 後 可 大
Cố thụ chi dĩ Lâm.
故 受 之 以 臨
Lâm giả đại dã.
臨 者 大 也
Lâm Tự Quái
Cổ là công chuyện thi hành trước sau,
Công nhiều, sau sẽ lớn cao.
Cho nên quẻ nối tiếp vào là Lâm.
Lâm là cao đại vượt tầm.
Quẻ Lâm có 2 Hào Dương ở dưới, bốn Hào Âm ở trên, nói lên cái thế đương lên của Dương khí, cũng như của người quân tử. Vì thế Lâm báo trước một thời kỳ thịnh đạt.
Lâm trên là Khôn = Đất, dưới là Đoài = Hồ. Bờ hồ và hồ nước tiếp cận mật thiết với nhau. Cho nên quẻ Lâm mượn tượng này mà đề cập đến sự thân yêu, thành khẩn tiếp súc với dân của những người cầm quyền.
Lâm dưới có quẻ Đoài là hòa duyệt, trên có Khôn là Nhu thuận, ý nói người quân tử lúc gặp thời thế hãy hòa duyệt mà tiến lên, đừng có kiêu sa, hung bạo. Làm sao cho vạn dân phục tùng mình mới hay.
Lâm có 2 Hào Dương ở dưới, 4 Hào Âm ở trên, nói lên quan điểm rằng tuy mình mạnh thế, nhưng phải luôn theo chính lý, chính nghĩa mà tác tạo cho dân, phải luôn luôn cảm thông với dân, mới được dân thương, dân phục.
Lâm là cách đối xử của người trên đối với người dưới. Phàm người trên khi tiếp xúc với dân phải uy nghi, trang kính, phải thành khẩn, cẩn trọng.
I. Thoán.
Thoán Từ.
元,亨,利,貞。 至 于 八 月 有 凶。
Lâm. Nguyên hanh lợi trinh. Chí vu bát nguyệt hữu hung.
Dịch.
Lâm là tiến bước dần dà.
Thật là cao đại, thật là hanh thông.
Lợi vì minh chính, một lòng.
Tới hồi tháng tám, họa hung có ngày.
Thoán Truyện.
彖 曰 : 臨,剛 浸 而 長。 說 而 順,剛 中 而 應,大 亨 以 正,
天 之 道 也。至 于 八 月 有 凶,消 不 久 也。
Thoán viết.
Lâm. Cương tẩm nhi trưởng. Duyệt nhi thuận. Cương trung nhi ứng. Đại hanh dĩ chính. Thiên chi đạo dã. Chí vu bát nguyệt hữu hung. Tiêu bất cửu dã.
Dịch.
Lâm là tiến bước dần dà,
Cương cường, hùng dũng, được đà triển dương.
Vui hòa, thuận thảo, mọi đường,
Kiên trinh, chính đáng, huy quang với đời,
Chính minh, cao đại, rạng ngời,
Chính minh, cao đại, ắt rồi hanh thông.
Cứ theo đường cũ ruổi rong,
Trời kia âu cũng một giòng thế thôi.
Họa hung tháng tám trông vời.
Sớm chầy cũng sẽ gặp hồi suy vi.
Thoán Từ, Thoán Truyện đại khái nói rằng: Gặp thời Dương thịnh, gặp thời quân tử đương lên, là một điều đáng mừng cho nhân loại, có thể mở một kỷ nguyên thái thịnh, an bình (Nguyên hanh). Nhưng người quân tử đừng thấy mình đắc thế mà quên đi mất chính nghĩa. Phải luôn luôn xử sự theo đường minh chính, mới hay, mới lợi. (Lợi trinh). Cai trị sao, mình được thư thái, hòa duyệt, mà dân thì thuận phục (Duyệt nhi thuận). Đừng có ỷ vào sức mạnh, mà phải luôn cảm thông với người (Cương trung nhi ứng). Gặp thời cơ thái thịnh, hanh thông, mà mình vẫn giữ được chính nghĩa (Đại hanh dĩ chính), mới là đi đúng đường lối của Trời Đất (Thiên chi đạo dã). Vả nay mình thịnh, nên nghĩ tới một ngày kia mình suy. Nay mình còn tại chức, nên nghĩ tới một ngày kia mình phải lui chân. Mà cái ngày ấy chẳng có xa, như quẻ Lâm sau 8 tháng lại đến quẻ Bĩ vậy (Chí vu bát nguyệt hữu hung. Tiêu bất cửu dã ). Có nghĩ được như vậy, mới tiếp nhân sử kỷ cho trọn vẹn được.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰: 澤 上 有 地,臨 ﹔ 君 子 以 教 思 無 窮,容 保 民 無 疆。
Tượng viết.
Trạch thượng hữu địa. Lâm. Quân tử dĩ giáo tư vô cùng.
Dung bảo dân vô Cương.
Dịch.
Hồ trên có đất là Lâm,
Hiền nhân giáo dưỡng chúng nhân chẳng rời.
Hồ với đất ven hồ luôn tiếp cận mật thiết với nhau. Đó là bài học dạy người quân tử khi đến với dân, cũng phải thân cận với dân như vậy. Đó là phải lo dạy dỗ dân mãi mãi, và phải lo bao bọc che chở cho dân để họ được có một đời sống sung túc, an lạc. Như vậy mới là trị dân.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 : 咸 臨,貞 吉。
象 曰: 咸 臨 貞 吉,志 行 正 也。
Sơ Cửu. Hàm Lâm. Trinh cát.
Tượng viết.
Hàm Lâm trinh cát. Chí hành chính dã.
Dịch.
Cùng nhau chung sức giúp đời,
Mở mang chính nghĩa, hay thời đã hay.
Tượng rằng:
Hay vì chung sức giúp đời,
Mở mang chính nghĩa, chẳng lơi tấc lòng.
Hào Sơ dạy rằng: khi người quân tử gặp thời cơ thuận tiện, hãy kéo nhau ra giúp đời. Nhưng phải theo đúng nghĩa công chính, mới hay, mới tốt. Cho nên chí hướng lúc nào cũng phải gửi gấp theo nhẽ công chính.
2. Hào Cửu nhị.
九 二: 咸 臨,吉 無 不 利。
象 曰: 咸 臨,吉 無 不 利 ﹔ 未 順 命 也。
Cửu nhị. Hàm Lâm. Cát. Vô bất lợi.
Tượng viết:
Hàm Lâm cát vô bất lợi. Vị thuận mệnh dã.
Dịch.
Cửu nhị: Cùng nhau chung sức giúp đời,
Xét về lợi ích, thì thôi vẹn toàn.
Tượng rằng:
Cùng nhau chung sức giúp đời,
Làm nên ích lợi, chúa tôi hiệp hòa.
Hào hai dạy thêm: Khi gặp thời cơ thuận tiện, quân tử hãy hợp lực với nhau, đoàn kết với nhau, mà giúp đời. Nếu được như vậy, làm gì cũng hay, cũng lợi ( Hàm Lâm cát vô bất lợi). Hơn nữa, dẫu gặp thời cơ thuận tiện, đừng bao giờ quên nỗ lực, cố gắng, đừng có ỷ lại nguyên vào Thời Trời, Mệnh Trời (Vị thuận mệnh dã).
3. Hào Lục tam.
六 三. 甘 臨,無 攸 利。 既 憂 之,無 咎。
象 曰: 甘 臨,位 不 當 也。 既 憂 之,咎 不 長 也。
Lục tam. Cam Lâm. Vô du lợi. Ký ưu chi. Vô cữu.
Tượng viết.
Cam Lâm. Vị bất đáng dã. Ký ưu chi. Cữu bất trưởng dã.
Dịch.
Lục tam vồn vã, ngọt ngào.
Mà không tài đức, thời nào ích chi?
Thà lo tu tỉnh hành vi,
Nếu làm được vậy, có gì lỗi đâu.
Tượng rằng: Vồn vã, ngọt ngào,
Vị ngôi không đáng, thời nào ích chi.
Thà lo tu tỉnh hành vi,
Lỗi lầm như vậy, nhẽ gì bền lâu?
Hào ba là Hào Lục tam bất trung, bất chính, ám chỉ một kẻ tiểu nhân ở địa vị cao, nhưng không có tài đức, chỉ ngọt ngào, ve vãn lấy lòng người. Nhưng sự ngọt ngào ấy là thứ ngọt ngào giả tạo, đáng sợ, đó là Tiếu lý tàng đao = Trong cái cười có dấu con dao bén. Tiểu nhân dẫu sao cũng không thể chinh phục quân tử bằng sự ngọt ngào giả tạo ấy được. Nếu họ biết rằng tài đức của họ chưa xứng kỳ vị (Vị bất đáng dã), mà biết lo cải hóa, biết lo trau dồi tài đức, thì cái lỗi lầm của họ, một ngày nào đó có thể xóa bỏ được.
4. Hào Lục tứ.
六 四 : 至 臨,無 咎。
象 曰: 至 臨 無 咎,位 當 也。
Lục tứ. Chí Lâm. Vô cữu.
Tượng viết:
Chí Lâm vô cữu. Vị đáng dã.
Dịch. Lục tứ:
Hết lòng cộng tác với người hay,
Nếu mình thành khẩn, lỗi chi đây.
Tượng rằng:
Ưa làm việc với người hay,
Vì mình xứng đáng với ngôi vị mình.
Hào Bốn cũng là Hào Âm, nhưng đắc vị, lại ứng với Sơ Cửu là người có tài. Hai bên nếu biết giao thiệp với nhau cho chí tình, chí thiết, thì cũng có thể cùng nhau giúp đời, vì thế mới gọi là (Chí Lâm vô cữu).
5. Hào Lục ngũ.
六 五 : 知 臨,大 君 之 宜,吉。
象 曰: 大 君 之 宜,行 中 之 謂 也。
Lục ngũ. Tri Lâm. Đại quân chi nghi. Cát.
Tượng viết:
Đại quân chi nghi. Hành trung chi vị dã.
Dịch.
Khôn ngoan, khéo dụng nhân tài,
Đó là hay, khéo của người minh quân.
Tượng rằng:
Minh quân xử sự êm xuôi,
Đó là làm đúng phận người quân vương.
Hào năm đề cập đến cách trị dân của một đấng quân vương. Thiên hạ thì bao la, nên vua không thể nào ôm đồm, không thể nào thấu suốt được mọi công việc. Vì vậy bổn phận nhà vua là phải tìm cho ra hiền tài phụ bật, rồi sau đó phải ủy thác cho họ công cuộc trị dân. Như vậy mới là người minh trí. Cho nên nói Tri Lâm. Bất kỳ vị vua danh tiếng nào cũng phải làm như vậy (Đại quân chi nghi).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 : 敦 臨,吉 無 咎。
象 曰: 敦 臨 之 吉,志 在 內 也。
Thượng Lục. Đôn Lâm. Cát. Vô cữu.
Tượng viết:
Đôn Lâm chi cát. Chí tại nội dã.
Dịch. Thượng Lục:
Một lòng nâng đỡ hiền tài,
Là hay, là tốt, ai người kêu ca.
Tượng rằng:
Hiền tài nâng đỡ mới hay,
Ấy vì quí chuộng người tài, chẳng quên.
Hào Sáu, tiếp tục chủ trương: Khi ở ngôi cao trị dân, mà không dồi dào tài đức, thì lại càng phải thành khẩn mà tiếp đãi các bậc hiền tài. Hoặc là đã trị dân, thời trước cũng như sau, phải một lòng thành khẩn vì dân, vì nước mới là hay.
ÁP DỤNG QUẺ LÂM VÀO THỜI ĐẠI
Ngày nay, dần dà thế giới đi vào chế độ dân chủ, mà điển hình là chế độ Tổng thống & Lưỡng viện. Tổng Thống có quyền chọn lựa một vị Phó Tổng Thống để điều hành việc nước chung với mình. Còn Lưỡng Viện là Thượng nghị viện & Hạ nghị viện, đều không thuộc quyền Tổng Thống. Thượng, Hạ 2 viện là cơ quan Lập pháp, còn Tổng Thống là cơ quan hành pháp
Xưa, nếu người dân bị nghi là có tội, là bị giam giữ, tù tội, có khi còn bị chém đầu, tịch thu tài sản, nếu nặng còn có thể bị chu di 3 họ. Ngày nay, bất cứ tội gì cũng phải có bằng chứng thì mới có thể bắt bớ, giam giữ người ta được.
Xưa, bất cứ có công chuyện gì mà đến chính quyền là phải hối lộ, đút lót. Nay, người làm công chức phải có lễ độ, nếu người trong chính quyền làm bậy, hoặc hống hách, đã có cơ quan ngôn luận là báo chí lên tiếng tố cáo công khai, hơn nữa công danh của họ là do dân bầu lên, do đó họ đâu dám đè đầu cưỡi cổ dân công khai, hoặc quá đáng.
Tóm lại cách cai trị dân của thời nay, làm cho dân cảm thấy mình sống được tự do thoải mái hơn xưa nhiều, thêm vào đấy, sự tiến triển của Khoa Học càng ngày càng cao, khiến con người nói chung, dân chúng nói riêng, cảm thấy đời sống bớt nặng nề, nhọc nhằn, cơ cực. Ứớc mong Đạo Đức cũng tiến, thì chúng ta sẽ sống trong hoan lạc thật sự vậy. Và như vậy là đúng theo ý muốn của quẻ Lâm.
Sửa lần cuối bởi anhlinhmotminh vào lúc 07:53, 11/02/13 với 1 lần sửa.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
4 ĐỊA THIÊN THÁI
Thái Tự Quái
泰 序 卦
Lý nhi Thái.
履 而 泰
Nhiên hậu an.
然 后 安
Cố thụ chi dĩ Thái.
故 受 之 以 泰
Thái giả thông dã.
泰 者 通 也
Thái Tự Quái
Lý là lễ phép, dễ bề thái khang.
Thái khang, âu sẽ bình an.
Cho nên quẻ Thái đường hoàng theo sau.
Thái là thông suốt, thông lầu...
Quẻ Thái là một trong 20 quẻ Tam Âm, Tam Dương. Xét về Từ nguyên, Thái như một người đang nhởn nhơ bơi lội trên giòng nước. Thái là thông, mà thông là thông thương, đâm chòi, nẩy lộc. Âm Dương có góp sức nhau, thì cây cối mớ đâm chồi, nẩy lộc. Trong xã hội, trên dưới có góp súc nhau, thì tài năng, đức độ mới triển dương được.
Xét về vị trí Âm Dương của quẻ, ta thấy 3 Dương làm chủ chốt bên trong, 3 Âm phụ bật bên ngoài, cái gì quý được hàm súc bên trong, cái gì tiện được xếp ra bên ngoài để đóng vai bao bọc, hỗ trợ. Vả lại, ở vị trí này thì Dương khí thượng thăng, địa khí hạ giáng, sẽ tiếp sức nhau, cộng tác nhau, để làm nên đại công, đại nghiệp.
Quẻ Thái Tượng trưng cho tháng Giêng, lúc mà dương khí trong lòng đất đang hưng thịnh, ngùn ngụt bốc lên, làm cho muôn loài bừng tỉnh, vạn vật hồi xuân, cây cối nẩy mầm, nẩy mộng, đem xuân sắc về cho nhân quần, hoàn võ.
I. Thoán.
Thoán Từ.
泰 . 小 往 大 來 . 吉 亨 .
Thái. Tiểu vãng đại lai. Cát hanh.
Dịch.
Thái là nhỏ nhặt ra đi,
Lớn lao trở lại, muôn bề cát hanh.
Thoán Truyện. Thoán viết.
泰 小 往 大 來 吉 亨 . 則 是 天 地 交 而 萬 物 通 也 . 上 下 交 而 其 志 同 也 . 内 陽 而 外 陰 . 内 健 而 外 順 . 内 君 子 而 外 小 人 . 君 子 道 長 . 小 人 道 消 也 .
Thái. Tiểu vãng đại lai cát hanh. Tắc thị thiên địa giao nhi vạn vật thông dã. Thượng hạ giao nhi kỳ chí đòng dã. Nội Dương nhi ngoại Âm. Nội kiện nhi ngoại thuận. Nội quân tử nhi ngoại tiểu nhân. Quân tử đạo trưởng. Tiểu nhân đạo tiêu dã.
Dịch.
Thoán rằng: Nhỏ nhặt ra đi,
Lớn lao trở lại, muôn bề cát hanh.
Đất trời gom góp công trình,
Làm cho vạn vật, quần sinh vui vầy.
Dưới trên cộng tác hòa hài,
Một lòng, một dạ, hết bài phân chia.
Dương trong, Âm ở ngoài lề,
trong cương ngoài thuận, hai bề vẹn hai.
Quân tử trong, tiểu nhân ngoài,
Thịnh đời quân tử, suy đời tiểu nhân.
Thoán Từ, Thoán Truyện chủ trương:
1/ Trời đất có hài hòa, có cộng tác, vạn vật mới được vinh xương, thái thịnh.
2/ Các tầng lớp nhân dân trong xã hội có hòa hài, có đồng tâm, đồng chí, quốc gia mới đi đến chỗ thái thịnh.
3/ Trong mà đã hay, thì dẫu ngoài có dở, sau trước sau cũng sẽ hay. Nói cách khác, tinh thần quốc dân mà cao, thì những khuyết điểm vật chất ngoại cảnh bên ngoài, sau trước cũng sẽ được giải quyết.
4/ Quân tử cầm quyền, tiểu nhân phục mệnh, nước nhà mới thái thịnh.
5/ Suy rộng ra, ở nơi con người, nếu tinh thần làm chủ vật chất làm tôi, thì mới có thể có sự quân bình, thái thịnh chân chính.
6/ Nói theo đạo lý, chỉ khi nào Trời làm chủ chốt trong tâm, chỉ khi nào Thiên tại nội, nhân tại ngoại, như lời Trang Tử, thì con người mới được thái thịnh.
Lễ nghĩa là đường lối người quân tử. Tranh đoạt, tàn sát là đường lối tiểu nhân. Lối đường quân tử mà được theo sẽ đem đến thái thịnh. Lối đường tiểu nhân mà được theo, sẽ đưa đến suy bĩ. Hiểu được lẽ đó, sẽ hiểu được lý do của sự thịnh suy, trị loạn, rõ như thấy ngọn đèn vậy.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 天 地 交 . 泰 . 后 以 財 成 天 地 之 道 . 輔 相 天 地 之 宜 .
以 左 右 民 .
Tượng viết. Thiên địa giao. Thái. Hậu dĩ tài thành thiên địa chi đạo. Phụ tướng thiên địa chi nghi. Dĩ tả hữu dân.
Dịch.
Tượng rằng: Trời đất hòa hài,
Gây nên thái thịnh, khắp nơi, khắp miền.
Nhà vua thấy thế, triền miên,
Công trình trời đất giúp nên thành toàn.
Tiện nghi trời đất đã ban,
Giúp thêm hoàn mỹ, nhân gian ơn nhờ.
Tượng truyện dạy rằng: Muốn đi đến thái thịnh, bậc nguyên thủ trong nước phải biết lợi dụng, biết khai thác: Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa.
- Khai thác Thiên thời, bằng cách lập ra lịch số, để biết tuần tiết nào phải làm gì cho hay, cho lợi.
- Khai thác Địa Lợi, là phải biết tùy địa thế mà canh tác, ruộng cao cấy lúa mùa, ruộng thấp cấy lúa chiêm...
- Khai thác Nhân hòa, là khai thác khả năng, tâm tình của mọi người, đem lý tưởng, đem nhân luân răn dạy người, để ai cũng được xử dụng đúng mức, đúng chỗ, ai cũng sung sướng vì biết mình thực sự đóng góp vào đại công, đại nghiệp, để ai cũng vui theo đường đạo lý, biết Nhân, Kính, Hiếu, Từ.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 抜 茅 茹 . 以 其 彙 . 征 吉 .
象 曰 . 抜 茅 征 吉 . 志 在 外 也 .
Sơ Cửu. Bạt mao như. Dĩ kỳ vị. Chinh cát.
Tượng viết:
Bạt mao chinh cát. Chí tại ngoại dã.
Dịch.
Hào Sơ Cửu, cỏ gianh muốn nhổ,
Nhổ một cây, cụm bửa lên theo,
Giúp đời, đã đúng lúc chiều.
Tượng rằng; Như nhổ cỏ gianh,
Cây bưng, cụm bửa, công trình đành hay.
Tâm tình dồn cả ra ngoài,
Tâm tình, trí lự, vì đời hiển dương.
Hào Sơ Củu cho rằng: Khi gặp thời cơ thuận tiện, người quân tử phải hô hào, đắt díu nhau ra giúp nước.
Người quân tử về phương diện chính trị, là người phò vua, giúp nước cho hay. Còn tiểu nhân, đừng nên để họ cầm quyền. Khi đã định tâm giúp nước, người quân tử phải dốc hết tinh thần vào công cuộc kiến thiết quốc gia.
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 包 荒 . 用 馮 河 . 不 選 遺 . 朋 亡 . 得 尚 于 中 行 .
象 曰 . 包 荒 . 得 尚 于 中 行 . 以 光 大 也 .
Cửu nhị. Bao hoang. Dụng bằng hà. Bất hà di. Bằng vong.
Đắc Thượng vu trung hành.
Tượng viết:
Bao hoang. Đắc Thượng vu trung hành. Dĩ quang đại dã.
Dịch.
Hào Cửu nhị: Bao dung kẻ dở,
Cần lội sông, há sợ qua sông?
Việc xa, vẫn để mắt trông,
Bạn bè nào dám mơ mòng riêng tây.
Thế là theo được đường ngay.
Tượng rằng: Kẻ dở bao dung,
Ở ăn đúng mực, một lòng quang minh.
Hào Cửu nhị nói: Khi người quân tử cầm quyền:
a) Phải biết bao dung kẻ dưới, không được hất hủi kẻ kém tài, kém trí, mà phải biết dụng nhân như mộc, tùy tài của mỗi người mà dùng họ cho thích đáng (Bao hoang).
b) Phải biết lãnh trách nhiệm đứng mũi chịu sào, phải biết liều khi cần liều, vì đại công đại nghiệp (bằng hà).
c) Phải biết nhìn xa, trông rộng, phòng nguy, lự hiểm (bất hà di).
d) Phải biết vì đại nghĩa mà quên tư tình, gột bỏ óc chất bè phái. (bằng vong)
e) Phải biết xử sự cho luôn trung chính, quang minh, cao đại (đắc thượng vu trung hành).
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 無 平 不 陂 . 無 往 不 復 . 艱 貞 無 咎 . 勿 恤 其 孚 . 于 食 有 福 .
象 曰 . 無 往 不 復 . 天 地 際 也 .
Cửu tam. Vô hình bất bí. Vô vãng bất phục. Gian trinh vô cữu.
Vật tuất kỳ phu. Vu thực hữu phúc.
Tượng viết:
Vô vãng bất phục. Thiên địa tế dã.
Dịch.
Cửu tam dạy: Phẳng rồi sẽ dốc,
Có lúc đi, có lúc lại về,
đường đời dẫu gặp gian nguy,
Bền gan, chính trực, lo gì mà lo.
Đừng rằng, thực tại cam go,
Phúc mình, mình hưởng, hồ đồ mà chi.
Tượng rằng: Đi ắt có về,
Ấy là định luật chỉ huy đất trời.
Hào Cửu tam luận về đầy vơi, tăng giảm của Trời đất. sự thịnh suy của dân tộc, chính thể, đất nước. người quân tử đùng lấy thế mà buồn, mà nản. Trái lại khi gặp thái thịnh, phải biết hân hoan, đón nhận ân sủng của Trời đất.
4. Hào Lục tứ.
六 四 . 翩 翩 . 不 富 . 以 其 鄰 . 不 戒 以 孚 .
象 曰 . 翩 翩 不 富 . 皆 失 實 也 . 不 戒 以 孚 . 中 心 愿 也 .
Lục tứ. Phiên phiên. Bất phú dĩ kỳ lân. Bất giới dĩ phu.
Tượng viết.
Phiên phiên bất phú. Giai thất thực dã. Bất giới dĩ phu.
Trung tâm nguyện dã.
Dịch.
Lục tứ sống an nhiên thư thái,
Chẳng khoe khoang của cải với người,
Sống cùng lân lý trong ngoài,
Chân thành chẳng chút đãi bôi, màu mè.
Tượng rằng: Thư thái, chẳng khoe giàu,
Giàu sang: giả cảnh, thực chi đâu,
Đối đãi với nhau, bằng tình thực,
Đó là tâm nguyện sống chung nhau.
Hào Lục tứ cho rằng: Muốn đưọc thái thịnh, kẻ giàu có phải biết thành khẩn đóng góp vào đại công, đại nghiệp khi cần, chứ không phải giầu để mà ỷ của, ỷ tiền, khoe giầu, khoe có với người. Cũng có người giải Hào này một cách bi quan, và cho rằng cả bây Âm đang kéo nhau xà xuống đẩy phe quân tử ra khỏi chính quyền.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 帝 乙 歸 妹 . 以 祉 元 吉 .
象 曰 . 以 祉 元 吉 . 中 以 行 愿 也 .
Lục ngũ. Đế Ất quy muội. Dĩ chỉ nguyên cát.
Tượng viết.
Dĩ chỉ nguyên cát. trung dĩ hành nguyện dã.
Dịch.
Vua Đế Ất đem em gái gả,
Thật vẹn hay, vẹn cả mọi bề.
Tượng rằng: Hạnh phúc mọi bề,
Là vì trung chính, thoả thuê ước nguyền.
Hào Lục ngũ cho rằng muốn được thái thịnh, người giầu sang không được cậy quyền, cậy chức, mà phải biết sống hòa mình với mọi người. Nên theo đường lối của vua Đế Ất. Vua Đế Ất đã ra một đạo sắc chỉ và truyền dạy các vị công chúa, khi về nhà chồng, phải biết tùng phục chồng, mặc dù chồng không phải là vương tướng.
6. Hào Thượng lục.
上 六 . 城 復 于 隍 . 勿 用 師 . 自 邑 告 命 . 貞 吝 .
象 曰 . 城 復 于 隍 . 其 命 亂 也 .
Thượng lục. Thành phục vu hoàng. Vật dụng sư.
Tự ấp cáo mệnh. Trinh lận.
Tượng viết:
Thành phục vu hoàng. Kỳ mệnh loạn dã.
Dịch.
Hào Thượng lục: lũy thành đổ nát,
Hãy dụ dân, đừng phát đao binh.
Dụ dân, ngay tự thành mình,
Nếu mà giết chóc sẽ thành công toi.
Tượng rằng: thành hoang, lũy đã hỏng rồi,
Là vì mệnh lệnh rối bời, còn đâu.
Hào Thượng lục cho rằng: Thái mà không biết giữ sẽ suy vi. Khi ma` người ta đã bớt cố gắng, giữ gìn, săn sóc, bớt tình đoàn kết, sáng suốt, thì mọi sự bên ngoài sẽ dần dần suy sụp. Thành lũy mà đã long, đã lõm, đã biến thành hào rãnh, thì lòng con người chắc đã thờ ơ, nguội lạnh, ươn hèn lắm mất còn gì. Bấy giờ, dù có dùng những phương pháp cưỡng chế mạnh mẽ, cũng chẳng đi đến đâu, chỉ càng làm cho thêm tan hoang, đổ nát. Muốn cứu vãn tình thế lúc ấy, cần phải khéo léo, tinh tế, nhẹ nhàng, phải biết thu hẹp tầm hoạt động, chứ đừng mơ ước những công tác đại quy mô nữa.
ÁP DỤNG QUẺ THÁI VÀO THỜI ĐẠI
Quẻ Thái tượng trưng cho sự quân bình, hòa hợp giữa Âm và Dương, giữa người có tài và kẻ vô tài. Người có tài đóng vai chủ chốt, kẻ vô tài đóng vai phụ dịch, trên dưới một lòng, mọi người đều xứng ngôi, xứng vị, mọi người đều đồng tâm, đồng chí, cộng tác để xây dựng nước non.
Hơn nữa, muốn cho quốc gia được hưởng thái bình, thịnh trị, không phải là chuyện dễ, nó đòi hỏi tất cả mọi người phải đồng lao, cộng tác, phải cố gắng.
Muốn được thái thịnh, phải chuẩn bị lâu dài, có những phương châm, những chương trình hoạt động rõ ràng, những giai đoạn sơ khởi cần phải được thực hiện. Dịch kinh đã đề cập đến những điều kiện tiên quyết ấy ở trong 10 quẻ đầu:
1) Căn nguyên và cùng đích con người là ở Trời, vì thế con người phải bắt chước Trời mà hành sự, cố gắng cải thiện không ngừng, để thần thành hóa mình, trở về được với Trời (Kiền).
2) Sống trong muôn vàn biến hóa, phải biết tùy thời, tùy thế, phòng nguy, lự hiểm, để tìm về được Hoàng Trung Chính Vị (Hằng Cửu), trung tâm chủ chốt của biến thiên (Khôn).
3) Cần phải có bậc anh tài, ra kinh luân dựng nhà, lập nước (Truân).
4) Phải đặt nặng vấn đề giáo hóa dân chúng (Mông).
5) Phải lo cho cơm áo của chúng dân cho chu đáo (Nhu)
6) Những bất đồng, những tranh chấp về tư lợi, tư dục, giũa cá nhân, cần phải giải quyết cho thỏa đáng (Tụng).
7) Phải có binh hùng, tướng giỏi để phòng bị xâm lăng (Sư).
8) Phải đề cao tình tương thân, tương trợ, giữa các tầng lớp dân chúng, để xây dựng tương lai cho đất nước (Tỉ).
9) Phải biết trau dồi tác phong, đức độ, và không nên sợ hãi khi gặp trở lực, khó khăn trên bước đường tiến thủ (Tiểu Súc).
10) Mọi người trên dưới phải biết vui thuận theo đạo lý (Lý).
Nói thế, tức là bất kỳ phương diện nào: Đạo giáo, Tâm lý, Luân lý, Xã hội, Chính trị, Kinh tế, Binh bị đều phải được tổ chức, sắp xếp cho chu đáo, mới có thể thực hiện được sự thái thịnh cho đất nước.
Con người có lý và có dục. Theo nghĩa lý mà xử sự, thương giúp lẫn nhau, mình hết lòng vì người, thì người cũng hết lòng vì mình. Kinh tế do đó mà trở nên thái thịnh, trật tự do đó mà trở nên vững vàng. Cảnh thái bình, hòa hợp, chính là do sự đồng lao, cộng tác mà sinh ra. Nhược bằng theo Tính Dục mà xử sự, sẽ ghen ghét, tranh cướp lẫn nhau. Càng tranh đoạt, càng tàn sát lẫn nhau, thờ sự sinh sản cũng sẽ suy giảm, trật tự sẽ bị xáo trộn, hỗn loạn. Cảnh sẻ nghé, tan đàn, lao lung, khốn khổ, chính là do sự tranh đoạt mà phát sinh. Hai bộ mặt Trị và Loạn đều do những nguyên cớ đó mà ra.
Thế vận bĩ thái, xã hội thịnh suy, đều do phong khí của lòng người. Nhân tâm mà phấn khởi, chính nghĩa mà phát dương, thời xã hội sẽ đượm nhuần không khí đầm ấm, vui vầy, văn hò sẽ tiến bộ, và cảnh thái thịnh sẽ hiện ra. Nhân tâm mà đồi trụy, con người mà khí trá lần nhau, thời xã hội sẽ chìm đắm trong bầu không khí dối trá, văn hóa sẽ suy đồi. Đó là cảnh tượng của thời suy bĩ vậy.
Nếu con người biết dùng tâm thần mình để chi phối ngoại cảnh, thì vật chất sẽ làm tôi tớ, sẽ phụ bật cho con người. Nhược bằng, đem tâm thần chạy theo ngoại cảnh, đem tâm thần làm tôi tớ cho vật chất, vật dục, thì sẽ bị ngoại vật bưng bít cho mờ ám; trí tuệ vì thế không thể phát sinh, cuộc sống vì thế mà phản bội với lễ nghĩa, như vậy xã hội chắc chắn sẽ thoái hóa.
Thái Tự Quái
泰 序 卦
Lý nhi Thái.
履 而 泰
Nhiên hậu an.
然 后 安
Cố thụ chi dĩ Thái.
故 受 之 以 泰
Thái giả thông dã.
泰 者 通 也
Thái Tự Quái
Lý là lễ phép, dễ bề thái khang.
Thái khang, âu sẽ bình an.
Cho nên quẻ Thái đường hoàng theo sau.
Thái là thông suốt, thông lầu...
Quẻ Thái là một trong 20 quẻ Tam Âm, Tam Dương. Xét về Từ nguyên, Thái như một người đang nhởn nhơ bơi lội trên giòng nước. Thái là thông, mà thông là thông thương, đâm chòi, nẩy lộc. Âm Dương có góp sức nhau, thì cây cối mớ đâm chồi, nẩy lộc. Trong xã hội, trên dưới có góp súc nhau, thì tài năng, đức độ mới triển dương được.
Xét về vị trí Âm Dương của quẻ, ta thấy 3 Dương làm chủ chốt bên trong, 3 Âm phụ bật bên ngoài, cái gì quý được hàm súc bên trong, cái gì tiện được xếp ra bên ngoài để đóng vai bao bọc, hỗ trợ. Vả lại, ở vị trí này thì Dương khí thượng thăng, địa khí hạ giáng, sẽ tiếp sức nhau, cộng tác nhau, để làm nên đại công, đại nghiệp.
Quẻ Thái Tượng trưng cho tháng Giêng, lúc mà dương khí trong lòng đất đang hưng thịnh, ngùn ngụt bốc lên, làm cho muôn loài bừng tỉnh, vạn vật hồi xuân, cây cối nẩy mầm, nẩy mộng, đem xuân sắc về cho nhân quần, hoàn võ.
I. Thoán.
Thoán Từ.
泰 . 小 往 大 來 . 吉 亨 .
Thái. Tiểu vãng đại lai. Cát hanh.
Dịch.
Thái là nhỏ nhặt ra đi,
Lớn lao trở lại, muôn bề cát hanh.
Thoán Truyện. Thoán viết.
泰 小 往 大 來 吉 亨 . 則 是 天 地 交 而 萬 物 通 也 . 上 下 交 而 其 志 同 也 . 内 陽 而 外 陰 . 内 健 而 外 順 . 内 君 子 而 外 小 人 . 君 子 道 長 . 小 人 道 消 也 .
Thái. Tiểu vãng đại lai cát hanh. Tắc thị thiên địa giao nhi vạn vật thông dã. Thượng hạ giao nhi kỳ chí đòng dã. Nội Dương nhi ngoại Âm. Nội kiện nhi ngoại thuận. Nội quân tử nhi ngoại tiểu nhân. Quân tử đạo trưởng. Tiểu nhân đạo tiêu dã.
Dịch.
Thoán rằng: Nhỏ nhặt ra đi,
Lớn lao trở lại, muôn bề cát hanh.
Đất trời gom góp công trình,
Làm cho vạn vật, quần sinh vui vầy.
Dưới trên cộng tác hòa hài,
Một lòng, một dạ, hết bài phân chia.
Dương trong, Âm ở ngoài lề,
trong cương ngoài thuận, hai bề vẹn hai.
Quân tử trong, tiểu nhân ngoài,
Thịnh đời quân tử, suy đời tiểu nhân.
Thoán Từ, Thoán Truyện chủ trương:
1/ Trời đất có hài hòa, có cộng tác, vạn vật mới được vinh xương, thái thịnh.
2/ Các tầng lớp nhân dân trong xã hội có hòa hài, có đồng tâm, đồng chí, quốc gia mới đi đến chỗ thái thịnh.
3/ Trong mà đã hay, thì dẫu ngoài có dở, sau trước sau cũng sẽ hay. Nói cách khác, tinh thần quốc dân mà cao, thì những khuyết điểm vật chất ngoại cảnh bên ngoài, sau trước cũng sẽ được giải quyết.
4/ Quân tử cầm quyền, tiểu nhân phục mệnh, nước nhà mới thái thịnh.
5/ Suy rộng ra, ở nơi con người, nếu tinh thần làm chủ vật chất làm tôi, thì mới có thể có sự quân bình, thái thịnh chân chính.
6/ Nói theo đạo lý, chỉ khi nào Trời làm chủ chốt trong tâm, chỉ khi nào Thiên tại nội, nhân tại ngoại, như lời Trang Tử, thì con người mới được thái thịnh.
Lễ nghĩa là đường lối người quân tử. Tranh đoạt, tàn sát là đường lối tiểu nhân. Lối đường quân tử mà được theo sẽ đem đến thái thịnh. Lối đường tiểu nhân mà được theo, sẽ đưa đến suy bĩ. Hiểu được lẽ đó, sẽ hiểu được lý do của sự thịnh suy, trị loạn, rõ như thấy ngọn đèn vậy.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 天 地 交 . 泰 . 后 以 財 成 天 地 之 道 . 輔 相 天 地 之 宜 .
以 左 右 民 .
Tượng viết. Thiên địa giao. Thái. Hậu dĩ tài thành thiên địa chi đạo. Phụ tướng thiên địa chi nghi. Dĩ tả hữu dân.
Dịch.
Tượng rằng: Trời đất hòa hài,
Gây nên thái thịnh, khắp nơi, khắp miền.
Nhà vua thấy thế, triền miên,
Công trình trời đất giúp nên thành toàn.
Tiện nghi trời đất đã ban,
Giúp thêm hoàn mỹ, nhân gian ơn nhờ.
Tượng truyện dạy rằng: Muốn đi đến thái thịnh, bậc nguyên thủ trong nước phải biết lợi dụng, biết khai thác: Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa.
- Khai thác Thiên thời, bằng cách lập ra lịch số, để biết tuần tiết nào phải làm gì cho hay, cho lợi.
- Khai thác Địa Lợi, là phải biết tùy địa thế mà canh tác, ruộng cao cấy lúa mùa, ruộng thấp cấy lúa chiêm...
- Khai thác Nhân hòa, là khai thác khả năng, tâm tình của mọi người, đem lý tưởng, đem nhân luân răn dạy người, để ai cũng được xử dụng đúng mức, đúng chỗ, ai cũng sung sướng vì biết mình thực sự đóng góp vào đại công, đại nghiệp, để ai cũng vui theo đường đạo lý, biết Nhân, Kính, Hiếu, Từ.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 抜 茅 茹 . 以 其 彙 . 征 吉 .
象 曰 . 抜 茅 征 吉 . 志 在 外 也 .
Sơ Cửu. Bạt mao như. Dĩ kỳ vị. Chinh cát.
Tượng viết:
Bạt mao chinh cát. Chí tại ngoại dã.
Dịch.
Hào Sơ Cửu, cỏ gianh muốn nhổ,
Nhổ một cây, cụm bửa lên theo,
Giúp đời, đã đúng lúc chiều.
Tượng rằng; Như nhổ cỏ gianh,
Cây bưng, cụm bửa, công trình đành hay.
Tâm tình dồn cả ra ngoài,
Tâm tình, trí lự, vì đời hiển dương.
Hào Sơ Củu cho rằng: Khi gặp thời cơ thuận tiện, người quân tử phải hô hào, đắt díu nhau ra giúp nước.
Người quân tử về phương diện chính trị, là người phò vua, giúp nước cho hay. Còn tiểu nhân, đừng nên để họ cầm quyền. Khi đã định tâm giúp nước, người quân tử phải dốc hết tinh thần vào công cuộc kiến thiết quốc gia.
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 包 荒 . 用 馮 河 . 不 選 遺 . 朋 亡 . 得 尚 于 中 行 .
象 曰 . 包 荒 . 得 尚 于 中 行 . 以 光 大 也 .
Cửu nhị. Bao hoang. Dụng bằng hà. Bất hà di. Bằng vong.
Đắc Thượng vu trung hành.
Tượng viết:
Bao hoang. Đắc Thượng vu trung hành. Dĩ quang đại dã.
Dịch.
Hào Cửu nhị: Bao dung kẻ dở,
Cần lội sông, há sợ qua sông?
Việc xa, vẫn để mắt trông,
Bạn bè nào dám mơ mòng riêng tây.
Thế là theo được đường ngay.
Tượng rằng: Kẻ dở bao dung,
Ở ăn đúng mực, một lòng quang minh.
Hào Cửu nhị nói: Khi người quân tử cầm quyền:
a) Phải biết bao dung kẻ dưới, không được hất hủi kẻ kém tài, kém trí, mà phải biết dụng nhân như mộc, tùy tài của mỗi người mà dùng họ cho thích đáng (Bao hoang).
b) Phải biết lãnh trách nhiệm đứng mũi chịu sào, phải biết liều khi cần liều, vì đại công đại nghiệp (bằng hà).
c) Phải biết nhìn xa, trông rộng, phòng nguy, lự hiểm (bất hà di).
d) Phải biết vì đại nghĩa mà quên tư tình, gột bỏ óc chất bè phái. (bằng vong)
e) Phải biết xử sự cho luôn trung chính, quang minh, cao đại (đắc thượng vu trung hành).
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 無 平 不 陂 . 無 往 不 復 . 艱 貞 無 咎 . 勿 恤 其 孚 . 于 食 有 福 .
象 曰 . 無 往 不 復 . 天 地 際 也 .
Cửu tam. Vô hình bất bí. Vô vãng bất phục. Gian trinh vô cữu.
Vật tuất kỳ phu. Vu thực hữu phúc.
Tượng viết:
Vô vãng bất phục. Thiên địa tế dã.
Dịch.
Cửu tam dạy: Phẳng rồi sẽ dốc,
Có lúc đi, có lúc lại về,
đường đời dẫu gặp gian nguy,
Bền gan, chính trực, lo gì mà lo.
Đừng rằng, thực tại cam go,
Phúc mình, mình hưởng, hồ đồ mà chi.
Tượng rằng: Đi ắt có về,
Ấy là định luật chỉ huy đất trời.
Hào Cửu tam luận về đầy vơi, tăng giảm của Trời đất. sự thịnh suy của dân tộc, chính thể, đất nước. người quân tử đùng lấy thế mà buồn, mà nản. Trái lại khi gặp thái thịnh, phải biết hân hoan, đón nhận ân sủng của Trời đất.
4. Hào Lục tứ.
六 四 . 翩 翩 . 不 富 . 以 其 鄰 . 不 戒 以 孚 .
象 曰 . 翩 翩 不 富 . 皆 失 實 也 . 不 戒 以 孚 . 中 心 愿 也 .
Lục tứ. Phiên phiên. Bất phú dĩ kỳ lân. Bất giới dĩ phu.
Tượng viết.
Phiên phiên bất phú. Giai thất thực dã. Bất giới dĩ phu.
Trung tâm nguyện dã.
Dịch.
Lục tứ sống an nhiên thư thái,
Chẳng khoe khoang của cải với người,
Sống cùng lân lý trong ngoài,
Chân thành chẳng chút đãi bôi, màu mè.
Tượng rằng: Thư thái, chẳng khoe giàu,
Giàu sang: giả cảnh, thực chi đâu,
Đối đãi với nhau, bằng tình thực,
Đó là tâm nguyện sống chung nhau.
Hào Lục tứ cho rằng: Muốn đưọc thái thịnh, kẻ giàu có phải biết thành khẩn đóng góp vào đại công, đại nghiệp khi cần, chứ không phải giầu để mà ỷ của, ỷ tiền, khoe giầu, khoe có với người. Cũng có người giải Hào này một cách bi quan, và cho rằng cả bây Âm đang kéo nhau xà xuống đẩy phe quân tử ra khỏi chính quyền.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 帝 乙 歸 妹 . 以 祉 元 吉 .
象 曰 . 以 祉 元 吉 . 中 以 行 愿 也 .
Lục ngũ. Đế Ất quy muội. Dĩ chỉ nguyên cát.
Tượng viết.
Dĩ chỉ nguyên cát. trung dĩ hành nguyện dã.
Dịch.
Vua Đế Ất đem em gái gả,
Thật vẹn hay, vẹn cả mọi bề.
Tượng rằng: Hạnh phúc mọi bề,
Là vì trung chính, thoả thuê ước nguyền.
Hào Lục ngũ cho rằng muốn được thái thịnh, người giầu sang không được cậy quyền, cậy chức, mà phải biết sống hòa mình với mọi người. Nên theo đường lối của vua Đế Ất. Vua Đế Ất đã ra một đạo sắc chỉ và truyền dạy các vị công chúa, khi về nhà chồng, phải biết tùng phục chồng, mặc dù chồng không phải là vương tướng.
6. Hào Thượng lục.
上 六 . 城 復 于 隍 . 勿 用 師 . 自 邑 告 命 . 貞 吝 .
象 曰 . 城 復 于 隍 . 其 命 亂 也 .
Thượng lục. Thành phục vu hoàng. Vật dụng sư.
Tự ấp cáo mệnh. Trinh lận.
Tượng viết:
Thành phục vu hoàng. Kỳ mệnh loạn dã.
Dịch.
Hào Thượng lục: lũy thành đổ nát,
Hãy dụ dân, đừng phát đao binh.
Dụ dân, ngay tự thành mình,
Nếu mà giết chóc sẽ thành công toi.
Tượng rằng: thành hoang, lũy đã hỏng rồi,
Là vì mệnh lệnh rối bời, còn đâu.
Hào Thượng lục cho rằng: Thái mà không biết giữ sẽ suy vi. Khi ma` người ta đã bớt cố gắng, giữ gìn, săn sóc, bớt tình đoàn kết, sáng suốt, thì mọi sự bên ngoài sẽ dần dần suy sụp. Thành lũy mà đã long, đã lõm, đã biến thành hào rãnh, thì lòng con người chắc đã thờ ơ, nguội lạnh, ươn hèn lắm mất còn gì. Bấy giờ, dù có dùng những phương pháp cưỡng chế mạnh mẽ, cũng chẳng đi đến đâu, chỉ càng làm cho thêm tan hoang, đổ nát. Muốn cứu vãn tình thế lúc ấy, cần phải khéo léo, tinh tế, nhẹ nhàng, phải biết thu hẹp tầm hoạt động, chứ đừng mơ ước những công tác đại quy mô nữa.
ÁP DỤNG QUẺ THÁI VÀO THỜI ĐẠI
Quẻ Thái tượng trưng cho sự quân bình, hòa hợp giữa Âm và Dương, giữa người có tài và kẻ vô tài. Người có tài đóng vai chủ chốt, kẻ vô tài đóng vai phụ dịch, trên dưới một lòng, mọi người đều xứng ngôi, xứng vị, mọi người đều đồng tâm, đồng chí, cộng tác để xây dựng nước non.
Hơn nữa, muốn cho quốc gia được hưởng thái bình, thịnh trị, không phải là chuyện dễ, nó đòi hỏi tất cả mọi người phải đồng lao, cộng tác, phải cố gắng.
Muốn được thái thịnh, phải chuẩn bị lâu dài, có những phương châm, những chương trình hoạt động rõ ràng, những giai đoạn sơ khởi cần phải được thực hiện. Dịch kinh đã đề cập đến những điều kiện tiên quyết ấy ở trong 10 quẻ đầu:
1) Căn nguyên và cùng đích con người là ở Trời, vì thế con người phải bắt chước Trời mà hành sự, cố gắng cải thiện không ngừng, để thần thành hóa mình, trở về được với Trời (Kiền).
2) Sống trong muôn vàn biến hóa, phải biết tùy thời, tùy thế, phòng nguy, lự hiểm, để tìm về được Hoàng Trung Chính Vị (Hằng Cửu), trung tâm chủ chốt của biến thiên (Khôn).
3) Cần phải có bậc anh tài, ra kinh luân dựng nhà, lập nước (Truân).
4) Phải đặt nặng vấn đề giáo hóa dân chúng (Mông).
5) Phải lo cho cơm áo của chúng dân cho chu đáo (Nhu)
6) Những bất đồng, những tranh chấp về tư lợi, tư dục, giũa cá nhân, cần phải giải quyết cho thỏa đáng (Tụng).
7) Phải có binh hùng, tướng giỏi để phòng bị xâm lăng (Sư).
8) Phải đề cao tình tương thân, tương trợ, giữa các tầng lớp dân chúng, để xây dựng tương lai cho đất nước (Tỉ).
9) Phải biết trau dồi tác phong, đức độ, và không nên sợ hãi khi gặp trở lực, khó khăn trên bước đường tiến thủ (Tiểu Súc).
10) Mọi người trên dưới phải biết vui thuận theo đạo lý (Lý).
Nói thế, tức là bất kỳ phương diện nào: Đạo giáo, Tâm lý, Luân lý, Xã hội, Chính trị, Kinh tế, Binh bị đều phải được tổ chức, sắp xếp cho chu đáo, mới có thể thực hiện được sự thái thịnh cho đất nước.
Con người có lý và có dục. Theo nghĩa lý mà xử sự, thương giúp lẫn nhau, mình hết lòng vì người, thì người cũng hết lòng vì mình. Kinh tế do đó mà trở nên thái thịnh, trật tự do đó mà trở nên vững vàng. Cảnh thái bình, hòa hợp, chính là do sự đồng lao, cộng tác mà sinh ra. Nhược bằng theo Tính Dục mà xử sự, sẽ ghen ghét, tranh cướp lẫn nhau. Càng tranh đoạt, càng tàn sát lẫn nhau, thờ sự sinh sản cũng sẽ suy giảm, trật tự sẽ bị xáo trộn, hỗn loạn. Cảnh sẻ nghé, tan đàn, lao lung, khốn khổ, chính là do sự tranh đoạt mà phát sinh. Hai bộ mặt Trị và Loạn đều do những nguyên cớ đó mà ra.
Thế vận bĩ thái, xã hội thịnh suy, đều do phong khí của lòng người. Nhân tâm mà phấn khởi, chính nghĩa mà phát dương, thời xã hội sẽ đượm nhuần không khí đầm ấm, vui vầy, văn hò sẽ tiến bộ, và cảnh thái thịnh sẽ hiện ra. Nhân tâm mà đồi trụy, con người mà khí trá lần nhau, thời xã hội sẽ chìm đắm trong bầu không khí dối trá, văn hóa sẽ suy đồi. Đó là cảnh tượng của thời suy bĩ vậy.
Nếu con người biết dùng tâm thần mình để chi phối ngoại cảnh, thì vật chất sẽ làm tôi tớ, sẽ phụ bật cho con người. Nhược bằng, đem tâm thần chạy theo ngoại cảnh, đem tâm thần làm tôi tớ cho vật chất, vật dục, thì sẽ bị ngoại vật bưng bít cho mờ ám; trí tuệ vì thế không thể phát sinh, cuộc sống vì thế mà phản bội với lễ nghĩa, như vậy xã hội chắc chắn sẽ thoái hóa.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
5 LÔI THIÊN ĐẠI TRÁNG
Đại Tráng Tự Quái
大 壯 序 卦
Độn giả thoái dã.
遯 者 退 也
Vật bất khả dĩ chung Độn
物 不 可 以 終 遯
Cố thụ chi dĩ Đại Tráng
故 受 之 以 大壯
Đại Tráng Tự Quái
Đời mà trốn mãi cũng kỳ,
Nên rằng: Đại Tráng để ghi quật cường.
Quẻ Đại Tráng tiếp sau quẻ Độn, như để nói lên sự biến dịch, tuần hoàn, doanh hư, tiêu tức của Trời đất. Độn là thời Âm trưởng, Dương tiêu; Đại Tráng là thời Dương trưởng, Âm tiêu.
I. Thoán.
Thoán Từ.
大 壯:利 貞。
Đại Tráng. Lợi trinh.
Dịch:
Lớn mạnh (Đại Tráng) muốn hay cần chính đáng.
Gọi bằng Đại Tráng, vì Dương là Đại, Âm là Tiểu; ở đây 4 Dương đang hồi cường thịnh, nên gọi bằng Đại Tráng. Hon nữa Quẻ Đại Tráng, dưới có Kiền là cương kiện, trên có Chấn là Lôi, là Động; thử hỏi còn gì mạnh hơn sấm sét được. Đại Tráng là thời kỳ Dương thịnh, mà Dương tượng trưng cho tinh hoa Trời đất, cho tất cả những gì chính đại quang minh. Cho nên trong Thoán Truyện đã đề cập đến 2 chữ Chính Đại.
Quẻ Đại Tráng, bàn về uy dũng, nhưng lại đề cao uy dũng tinh thần, uy dũng của đạo nghĩa nhân đức.
Uy dũng, nhưng minh chính, uy dũng nhưng vẫn biết Tri cơ hành sự, uy dũng nhưng hoạt động luôn theo quy định phương pháp. Cho nên, uy dũng ở đây không phải là vũ dũng. Sức mạnh con người có thể phân chia thành nhiều loại:
- Sức mạnh của thể chất hay Sức lực
- Sức mạnh của cơ mưu hay Trí lực,
- Sức mạnh của tâm tình hay Tâm lực,
- Sức mạnh của địa vị hay Thế lực.
- Sức mạnh của uy quyền hay Quyền lực
- Sức mạnh của đức độ.
Người ta có thể dùng sức mạnh mình sẵn có, để mà làm những chuyện hay, cũng như chuyện dở. Dịch khuyên dùng sức mạnh để làm điều hay, để thực hiện nghĩa lý mới tốt, mới lợi. Vì thế Thoán viết: Đại Tráng, lợi trinh. Dịch cho rằng, tất cả những năng lực tiềm tàng trong vũ trụ này là cốt giúp cho con người thực hiện sự cao đại. Hiểu được điều đó là hiểu được ý Trời.
Thoán truyện.
Thoán Truyện viết:
大 壯,大 者 壯 也。 剛 以 動,故 壯。 大 壯 利 貞﹔ 大 者 正 也。
正 大 而 天 地 之 情 可 見 矣!
Đại Tráng. Đại giả Tráng dã. Cương dĩ động. Cố tráng. Đại Tráng lợi trinh.
Đại giả chính dã. Chính đại nhi thiên địa chi tình khả kiến hỹ.
Dịch.
Quẻ Đại Tráng, Dương đà tráng thịnh,
Cứng động, nên mới mạnh, mới cương.
Mạnh mà minh chính, đường hoàng,
Mới hay, mới lợi lẽ thường xưa nay.
Đại là chính đại, thẳng ngay,
Hoằng dương chính đại, biết ngay tình Trời.
Tào Thăng bình quẻ Đại Tráng như sau: Đại Tráng là chính đại. Dương trưởng mà cương động; đại là chính. Trời đất có chính khí, chính khí ấy lưu hành tràn ngập vũ trụ, cho nên trên trời thì sinh ra nhật nguyệt, tinh cầu; dưới đất thì sinh ra cúi cao, sông rộng. thánh nhân nuôi dưỡng khí hạo nhiên của Trời đất; chí đại chí cương; giữ nhân cách mình cho tôn nghiêm, và là sư biểu cho đời về nhân luân; các ngài không bao giờ có lời nghị luận kỳ quặc, không bao giờ có những hành động a dua; các ngài cương kiên, thiết thạch, chí trung, chí chính.
Người quân tử theo gương Thánh nhân cũng cố vươn lên cho tới cao đại, cố thực hiện công chính. Khi phú quý không hoang dâm, phóng túng, lúc bần hàn chẳng đổi dời tiết tháo, uy vũ không khuất phục được chí khí... cái quý của sĩ phu, chẳng phải là tại đó sao?
II. Đại Tượng Truyện.
象曰: 雷 在 天 上,大 壯﹔ 君 子 以 非 禮 弗 履。
Tượng Viết:
Lôi tại thiên thượng. Đại Tráng. Quân tử dĩ phi lễ phất lý.
Dịch.
Tượng rằng: Sấm động trên Trời;
Là to, là mạnh, khắp nơi vang rền.
Những điều chẳng phải, chẳng nên.
Đã là quân tử, tất nhiên chẳng làm.
Tượng truyện tiếp tục bàn rằng: muốn có sức mạnh tinh thần, người quân tử phải theo đúng định luật của Trời đất. Mà định luật của Trời đất là: Tập trung thời mạnh, phá tán thời yếu, cho nên người quân tử đừng để cho tâm thần bị phá tán trước những cám dỗ của dục vọng, của ngoại cảnh, thời mới trở nên mạnh được.
Sách xưa có câu: Lòng Chân nhân như hạt châu tại vực thẳm; lòng chúng nhân như bèo bọt trên mặt nước; thật là chí lý vậy. người dũng cảm đối với Nho gia là con người theo đúng thiên lý, xét lòng mình không thấy điều chi đáng trách, đáng thẹn.
Người dũng cảm là người biết liêm sỉ. Có liêm sỉ mới biết xấu hổ, vì thấy mình còn hèn kém, mới nỗ lực gắng công, mới có thể cải hóa, tự tân, cố gắng tiến bước, và như vậy nghị lực tinh thần mới dần dần tăng trưởng thêm được mãi.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.
Các Hào lại tiếp tục bàn về sức mạnh, và các cách thi triển về sức mạnh, dở cùng như hay.
Muốn hiểu sáu Hào này trước tiên, ta phải nhận định rằng: Chí khí, dũng cảm, đối với Đức Khổng không phải liều mạng, bạo hổ, bằng hà, không phải là cương dõng như người phương Bắc, mê thích binh đao; ngủ cũng đeo gươm, mặc giáp, chết cũng không sao. (Trung Dung X); mà dũng tức là giữ được niềm hòa khí, lúc nào cũng sống với đạo lý của mình, dù lúc nước nhà bình yên, hay lúc giang sơn nghiêng ngửa.
1. Hào Sơ Cửu.
初九: 壯 于 趾,征 凶,有 孚。
象曰: 壯 于 趾,其 孚 窮 也。
Sơ Cửu. tráng vu chỉ. Chinh hung. Hữu phu.
Tượng viết:
Tráng vu chỉ. Kỳ phu cùng dã.
Dịch.
Mạnh mà mạnh ở ngón chân.
Ra đi ắt sẽ đâm xầm hung tai.
Tượng rằng: mạnh ở ngón chân,
Ra đi ắt sẽ đâm xầm hung tai.
Hào Sơ chê những người không biết tự lượng, ở cấp dưới mà cậy sức muốn làm đại sự, hoặc mới bắt tay vào một công việc mà cậy vũ dũng, cứ hùng hục mà tiến tới; những người như vậy ắt sẽ đi đến bại vong.
Hào này làm ta nhớ đến Long Đàm, một tên tiểu hiệu của vừa mới được thăng quan, đà muốn xin đi làm tiên phong, để đến nỗi bị nguyên soái Tiên Chẩn mắng cho một trận, vuốt mặt không kịp. (Đông Châu Liệt quốc, Võ Minh Trí 537)
Hào này làm ta liên tưởng đến Mạnh minh Thị và Kiển Thúc đem quân Tần đi đánh Tấn, nhơn nhơn cậy sức mạnh, mà không cần tìm hiểu về địa hình, địa thế, nên đã mắc nạn tại Hào Sơn, khiến quân sĩ bị tận diệt, còn mình thì giơ tay chịu trói. (Đông Châu Liệt quốc trang 566-568)
Vì thế Hào Sơ mới nói bóng bẩy mà rằng: Mới mạnh nơi ngón chân, mà đã tập tễnh ra đi, chắc chắn sẽ mắc hung họa, cùng khốn. Sơ Cửu: Tráng vu chỉ. Chinh hung, Hữu phu. Tượng viết: Tráng vu chỉ. Kỳ phu cùng dã. Chữ Hữu phu ở đây, phải hiểu là chắc chắn, chữ Kỳ phu cùng dã phải hiểu là chắc chắn sẽ bị khốn cùng.
2. Hào Cửu nhị.
九二: 貞吉。
象曰: 九二貞吉,以中也。
Cửu nhị. Trinh cát.
Tượng viết:
Cửu nhị trinh cát. Dĩ trung dã.
Dịch.
Bền lòng, minh chính mới hay,
Tượng rằng: Cửu nhị mới hay,
Là vì trung đạo bấy nay chu toàn.
Hào Cửu nhị. Trinh cát. Tượng viết: Cửu nhị trinh cát. Dĩ trung dã. Thế là Hào Cửu nhị đề cao hai chữ Trung và Chính. (Trinh)
Tấn văn Công muốn tìm người làm nguyên soái. Triệu Thôi tiến cử Khước Cốc mà thưa rằng: làm nguyên soái, mạnh chẳng bằng trí, trí chẳng bằng có học; như dùng kẻ trí dõng thì không thiếu gì; bằng dùng kẻ có học, duy có một Khước Cốc mà thôi. Cốc năm mươi tuổi, ham học, biết lễ, có nhân, lại thông binh pháp. Binh là dân, biết thương dân thì dùng binh mới được. Văn Công khen phải, bèn vời Khước Cốc làm nguyên soái, cũng lấy nhân nghĩa, trung tín để thu phục lòng người, mà lập nên nghiệp bá. Thế là Trung Chính vẫn hay, vẫn lợi.
3. Hào Cửu Tam.
九 三: 小 人 用 壯,君 子 用 罔,貞 厲。 羝 羊 觸 藩,羸 其 角。
象 曰: 小 人 用 壯,君 子 罔 也。
Cửu tam. Tiểu nhân dụng tráng. Quân tử dụng võng. Trinh lệ.
Đê dương xúc phiên. Luy kỳ giốc.
Tượng viết:
Tiểu nhân dụng tráng. Quân tử võng dã.
Dịch.
Tiểu nhân cậy sức mạnh mình,
Còn người quân tử đã đành là không.
Dậu phên dê đực húc nhăng,
Húc càn phên dậu, vướng sừng chẳng ra.
Tượng rằng:
Tiểu nhân cậy sức mạnh mình,
Còn người quân tử đã đành là không.
Câu: Tiểu nhân dụng tráng. Quân tử dụng võng của Hào ba này có thể giải bằng hai cách:
Chu Hi, Trình Tử cho rằng: Dụng võng đây đây là khinh thường, là coi thường. Các ông cho rằng: tiểu nhân mà dùng lực, quân tử mà khinh thường, thời đều hay mắc họa.
Lai Trí Đức, Wilhelm, Legge, R.G.H, Siu đều dịch chữ quân tử dụng võng là người quân tử không làm như vậy.
Sở muốn đánh Tấn. Tiên Chẩn khuyên Tấn Văn Công xuất quân đánh, vì đánh ắt thắng. Hồ Yển trái lại khuyên Tấn Văn Công nên tránh quân Sở, và lui binh 90 dặm, để giữ lời Văn Công hứa với quân Sở khi xưa.
Khi phá Sở xong, Tấn Văn Công ban sư, luận công ban thưởng, phong cho Hồ Yển công đầu, Tiên Chẩn công thứ. Các quan tâu hỏi rằng: Vả trận Thành Bộc thì một tay Tiên Chẩn dùng kỳ mưu mà phá Sở, nay lại phong Hồ Yển làm đầu công là sao? Văn Công đáp: Trận Thành Bộc thì Tiên Chẩn dốc đánh Sở để thủ thắng, còn Hồ Yển thì dốc tránh Sở để thủ tín. Vả chăng cái công thủ thắng, làm nên trong một thủa, còn thủ tín làm có lợi muôn đời, thì có lý nào đem công một thủa mà gác lên công muôn đời hay sao? Vì vậy phải phong công đầu cho Hồ Yển. Chư tướng nghe rõ rồi, ai ai cũng đều khâm phục. (Đông Châu Liệt quốc, Võ Minh Trí - 534)
Thế là võ lực không bằng tín nghĩa (đức độ).
4. Hào Cửu tứ
九 四: 貞 吉 悔 亡,藩 決 不 羸,壯 于 大 輿 之 輹。
象 曰: 藩 決 不 羸,尚 往 也。
Hào Cửu tứ. Cửu tứ. Trinh cát hối vong.
Phiên quyết bất luy. Tráng vu đại dư chỉ phúc.
Tượng viết:
Phiên quyết bất luy. Thượng vãng dã.
Dịch.
Một lòng minh chính mới hay,
Hết ngay hối hận, hết ngay phàn nàn.
Dậu phên giăng mắc đã tan,
Cưỡi xe trục mạnh, đàng hoàng ruỗi rong.
Tượng rằng: Dậu hết vướng ngăn,
Cưõi xe rong ruỗi, băng băng dặm trường.
Hào Cửu Tứ đứng đầu quần dương, tức là lãnh tụ trong đám quân tử, vì thế hào tứ khuyên hãy gìữ con đường minh chính mới hay, mới lành, mới khỏi ăn năn hối hận. Hào Cửu tứ trước mặt có hai Hào Âm, vì thế mới nói dậu phên đã bị khai phá, không còn là trở ngại nữa.
Lại nói có sức mạnh tinh thần, sẽ lướt thắng được mọi trở lực, cũng như nhờ sức mạnh vô hình của cốt xe, của trục xe, mà xe mang nổi được cả xe.
Cửu tứ. Trinh cát hối vong. Phiên quyết bất luy. Tráng vu đại dư chi phúc. Cũng có thể hiểu rằng: Nhờ sự kiên trì, bền bĩ, con người sẽ lướt thắng được mọi trở lực, cùng như nhờ sức mạnh vô hình của cốt xe, của trục xe, mà xe mang tải được nhưng trọng lượng lớn. Tấn Văn Công, nhờ ở sự kiên trì, bền bĩ, nên sau nhiều năm lưu lạc, đa trở về tấn mà lập nghiệp bá. Khi mà trở lực hết rồi, thòi có thể thẳng tiến mãi mãi. Vì thế Tượng bàn thêm: Phiên quyết bất luy. Thượng vãng dã. Thượng đây là tiến lên mãi mãi.
5. Hào Lục ngũ.
六 五: 喪 羊 于 易,無 悔。
象 曰: 喪 羊 于 易,位 不 當 也。
Lục ngũ. Táng dương vu dị. Vô hối.
Tượng viết:
Táng dương vu dị. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Ôn hòa, dê hết lố lăng,
Ôn hòa đối xử, ăn năn lẽ nào.
Tượng rằng: Ôn hòa dê hết lố lăng,
Vị ngôi chẳng đáng, hung hăng cách nào.
Hào Lục ngũ nói: Táng dương vu dị. Vô hối. Có nhiều cách giải nghĩa hào này: Trình Tử giải rằng: Hào năm Âm nhu, mà bốn Hào dưới toàn là Dương. Khí thế hung hăng, nhưng Lục ngũ có thể dùng Âm nhu, mà hóa giải được sự cương táo của quần Dương. Trương Trung Khê cũng gỉải như vậy, và trích lời vua Quang Võ: Ta lấy nhu mà trị thiên hạ.
Tượng viết: Táng dương vu dị. Vị bất đáng dã.
6. Hào Thượng lục.
上六 : 羝 羊 觸 藩,不 能 退,不 能 遂,無 攸 利,艱 則 吉。
象曰: 不 能 退,不 能 遂,不 祥 也。 艱 則 吉,咎 不 長 也。
Thượng lục. Đê dương xúc phiên. Bất năng thoái.
Bất năng toại. Vô du lợi. Gian tắc cát.
Tượng viết:
Bất năng thoái. Bất năng toại. Bất tường dã.
Gian tắc cát. Cữu bất trường dã.
Dịch.
Dậu phên dê đực húc càn,
Tiến lui đều mắc, biết làm sao đây.
Bề nào cũng chẳng mắn may,
Biết mình gặp khó, mới hay, mới lành.
Tượng rằng:
Tiến lui đều chẳng được nào,
Thế là gặp lúc lao đao, chẳng lành.
Biết mình gặp bước chông chênh,
Là hay, vì biết tội tình làm sai.
Hào Thượng lục này tượng trưng cho một người đi quá trớn, thành ra mắc kẹt tiến thoái lưỡng nan, chẳng khác nào con dê húc càng vào dậu, vướng sừng không thể tiến lui được nữa. Nếu họ sớm nhận ra khuyết điểm của mình, thời tội lỗi cũng không bao nhiêu. Vì thế Thượng lục nói: Đê dương xúc phiên. Bất năng thoái. Bất năng toại. Vô du lợi. Gian tắc cát.
ÁP DỤNG QUẺ ĐẠI TRÁNG VÀO THỜI ĐẠI.
Ta sinh ra đời, phải biết dùng sức mạnh mình mà thay đổi ngoại cảnh, để mọi sự sẽ tiến tới thành toàn. Chúng ta phải có kế hoạch cho cuộc đời ngay từ thủa còn thơ. Ta phải biết ta phải làm những gì, sẽ làm những gì; và cố gắng thực hiện nó. Nhưng đôi khi, kế hoạch dự định đó khó, thì ta cần phải có chí khí và dũng cảm.
Con người dũng cảm, chí khí, là con người:
- Thấy việc nghĩa nhất định phải làm.
- Thiết tha với hoài bão của mình.
- Tìm mọi biện pháp để thực hiện.
- Bền tâm, dốc chí thực hiện cho được hoài bão đó, không quản khó nhọc, gian lao.
Chúng ta phải hiểu rõ: sức mạnh của chân tay, chỉ giải quyết được những công việc nhỏ, nhưng sức mạnh của trí lực hơn gấp bội phần. Ví dụ: muốn phá núi để mở đường, nếu dùng sức người thì sao bằng dùng thuốc nổ.
* Một người mẹ thương con, họ có thể hy sinh hết cho con. Một người đang hư hỏng, hoang đàng, nếu yêu tha thiết một người nào, có thể thay đổi để trở thành một người tốt. Đó là sức mạnh tâm tình.
* Một người làm nên, có địa vị, hoặc giầu có, thì đi giao thiệp hay làm việc gì đều có lợi hơn một người không có gì cả. Đó là sức mạnh của Thể lực.
* Lưu manh, trộm cướp, phá hại xã hội, chỉ có chính quyền mới tiêu diệt nổi chúng. Đó là sức mạnh của Quyền lực.
Tóm lại, chỉ có sức mạnh của bạo tàn thì sẽ không đi tới đâu!
Đại Tráng Tự Quái
大 壯 序 卦
Độn giả thoái dã.
遯 者 退 也
Vật bất khả dĩ chung Độn
物 不 可 以 終 遯
Cố thụ chi dĩ Đại Tráng
故 受 之 以 大壯
Đại Tráng Tự Quái
Đời mà trốn mãi cũng kỳ,
Nên rằng: Đại Tráng để ghi quật cường.
Quẻ Đại Tráng tiếp sau quẻ Độn, như để nói lên sự biến dịch, tuần hoàn, doanh hư, tiêu tức của Trời đất. Độn là thời Âm trưởng, Dương tiêu; Đại Tráng là thời Dương trưởng, Âm tiêu.
I. Thoán.
Thoán Từ.
大 壯:利 貞。
Đại Tráng. Lợi trinh.
Dịch:
Lớn mạnh (Đại Tráng) muốn hay cần chính đáng.
Gọi bằng Đại Tráng, vì Dương là Đại, Âm là Tiểu; ở đây 4 Dương đang hồi cường thịnh, nên gọi bằng Đại Tráng. Hon nữa Quẻ Đại Tráng, dưới có Kiền là cương kiện, trên có Chấn là Lôi, là Động; thử hỏi còn gì mạnh hơn sấm sét được. Đại Tráng là thời kỳ Dương thịnh, mà Dương tượng trưng cho tinh hoa Trời đất, cho tất cả những gì chính đại quang minh. Cho nên trong Thoán Truyện đã đề cập đến 2 chữ Chính Đại.
Quẻ Đại Tráng, bàn về uy dũng, nhưng lại đề cao uy dũng tinh thần, uy dũng của đạo nghĩa nhân đức.
Uy dũng, nhưng minh chính, uy dũng nhưng vẫn biết Tri cơ hành sự, uy dũng nhưng hoạt động luôn theo quy định phương pháp. Cho nên, uy dũng ở đây không phải là vũ dũng. Sức mạnh con người có thể phân chia thành nhiều loại:
- Sức mạnh của thể chất hay Sức lực
- Sức mạnh của cơ mưu hay Trí lực,
- Sức mạnh của tâm tình hay Tâm lực,
- Sức mạnh của địa vị hay Thế lực.
- Sức mạnh của uy quyền hay Quyền lực
- Sức mạnh của đức độ.
Người ta có thể dùng sức mạnh mình sẵn có, để mà làm những chuyện hay, cũng như chuyện dở. Dịch khuyên dùng sức mạnh để làm điều hay, để thực hiện nghĩa lý mới tốt, mới lợi. Vì thế Thoán viết: Đại Tráng, lợi trinh. Dịch cho rằng, tất cả những năng lực tiềm tàng trong vũ trụ này là cốt giúp cho con người thực hiện sự cao đại. Hiểu được điều đó là hiểu được ý Trời.
Thoán truyện.
Thoán Truyện viết:
大 壯,大 者 壯 也。 剛 以 動,故 壯。 大 壯 利 貞﹔ 大 者 正 也。
正 大 而 天 地 之 情 可 見 矣!
Đại Tráng. Đại giả Tráng dã. Cương dĩ động. Cố tráng. Đại Tráng lợi trinh.
Đại giả chính dã. Chính đại nhi thiên địa chi tình khả kiến hỹ.
Dịch.
Quẻ Đại Tráng, Dương đà tráng thịnh,
Cứng động, nên mới mạnh, mới cương.
Mạnh mà minh chính, đường hoàng,
Mới hay, mới lợi lẽ thường xưa nay.
Đại là chính đại, thẳng ngay,
Hoằng dương chính đại, biết ngay tình Trời.
Tào Thăng bình quẻ Đại Tráng như sau: Đại Tráng là chính đại. Dương trưởng mà cương động; đại là chính. Trời đất có chính khí, chính khí ấy lưu hành tràn ngập vũ trụ, cho nên trên trời thì sinh ra nhật nguyệt, tinh cầu; dưới đất thì sinh ra cúi cao, sông rộng. thánh nhân nuôi dưỡng khí hạo nhiên của Trời đất; chí đại chí cương; giữ nhân cách mình cho tôn nghiêm, và là sư biểu cho đời về nhân luân; các ngài không bao giờ có lời nghị luận kỳ quặc, không bao giờ có những hành động a dua; các ngài cương kiên, thiết thạch, chí trung, chí chính.
Người quân tử theo gương Thánh nhân cũng cố vươn lên cho tới cao đại, cố thực hiện công chính. Khi phú quý không hoang dâm, phóng túng, lúc bần hàn chẳng đổi dời tiết tháo, uy vũ không khuất phục được chí khí... cái quý của sĩ phu, chẳng phải là tại đó sao?
II. Đại Tượng Truyện.
象曰: 雷 在 天 上,大 壯﹔ 君 子 以 非 禮 弗 履。
Tượng Viết:
Lôi tại thiên thượng. Đại Tráng. Quân tử dĩ phi lễ phất lý.
Dịch.
Tượng rằng: Sấm động trên Trời;
Là to, là mạnh, khắp nơi vang rền.
Những điều chẳng phải, chẳng nên.
Đã là quân tử, tất nhiên chẳng làm.
Tượng truyện tiếp tục bàn rằng: muốn có sức mạnh tinh thần, người quân tử phải theo đúng định luật của Trời đất. Mà định luật của Trời đất là: Tập trung thời mạnh, phá tán thời yếu, cho nên người quân tử đừng để cho tâm thần bị phá tán trước những cám dỗ của dục vọng, của ngoại cảnh, thời mới trở nên mạnh được.
Sách xưa có câu: Lòng Chân nhân như hạt châu tại vực thẳm; lòng chúng nhân như bèo bọt trên mặt nước; thật là chí lý vậy. người dũng cảm đối với Nho gia là con người theo đúng thiên lý, xét lòng mình không thấy điều chi đáng trách, đáng thẹn.
Người dũng cảm là người biết liêm sỉ. Có liêm sỉ mới biết xấu hổ, vì thấy mình còn hèn kém, mới nỗ lực gắng công, mới có thể cải hóa, tự tân, cố gắng tiến bước, và như vậy nghị lực tinh thần mới dần dần tăng trưởng thêm được mãi.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.
Các Hào lại tiếp tục bàn về sức mạnh, và các cách thi triển về sức mạnh, dở cùng như hay.
Muốn hiểu sáu Hào này trước tiên, ta phải nhận định rằng: Chí khí, dũng cảm, đối với Đức Khổng không phải liều mạng, bạo hổ, bằng hà, không phải là cương dõng như người phương Bắc, mê thích binh đao; ngủ cũng đeo gươm, mặc giáp, chết cũng không sao. (Trung Dung X); mà dũng tức là giữ được niềm hòa khí, lúc nào cũng sống với đạo lý của mình, dù lúc nước nhà bình yên, hay lúc giang sơn nghiêng ngửa.
1. Hào Sơ Cửu.
初九: 壯 于 趾,征 凶,有 孚。
象曰: 壯 于 趾,其 孚 窮 也。
Sơ Cửu. tráng vu chỉ. Chinh hung. Hữu phu.
Tượng viết:
Tráng vu chỉ. Kỳ phu cùng dã.
Dịch.
Mạnh mà mạnh ở ngón chân.
Ra đi ắt sẽ đâm xầm hung tai.
Tượng rằng: mạnh ở ngón chân,
Ra đi ắt sẽ đâm xầm hung tai.
Hào Sơ chê những người không biết tự lượng, ở cấp dưới mà cậy sức muốn làm đại sự, hoặc mới bắt tay vào một công việc mà cậy vũ dũng, cứ hùng hục mà tiến tới; những người như vậy ắt sẽ đi đến bại vong.
Hào này làm ta nhớ đến Long Đàm, một tên tiểu hiệu của vừa mới được thăng quan, đà muốn xin đi làm tiên phong, để đến nỗi bị nguyên soái Tiên Chẩn mắng cho một trận, vuốt mặt không kịp. (Đông Châu Liệt quốc, Võ Minh Trí 537)
Hào này làm ta liên tưởng đến Mạnh minh Thị và Kiển Thúc đem quân Tần đi đánh Tấn, nhơn nhơn cậy sức mạnh, mà không cần tìm hiểu về địa hình, địa thế, nên đã mắc nạn tại Hào Sơn, khiến quân sĩ bị tận diệt, còn mình thì giơ tay chịu trói. (Đông Châu Liệt quốc trang 566-568)
Vì thế Hào Sơ mới nói bóng bẩy mà rằng: Mới mạnh nơi ngón chân, mà đã tập tễnh ra đi, chắc chắn sẽ mắc hung họa, cùng khốn. Sơ Cửu: Tráng vu chỉ. Chinh hung, Hữu phu. Tượng viết: Tráng vu chỉ. Kỳ phu cùng dã. Chữ Hữu phu ở đây, phải hiểu là chắc chắn, chữ Kỳ phu cùng dã phải hiểu là chắc chắn sẽ bị khốn cùng.
2. Hào Cửu nhị.
九二: 貞吉。
象曰: 九二貞吉,以中也。
Cửu nhị. Trinh cát.
Tượng viết:
Cửu nhị trinh cát. Dĩ trung dã.
Dịch.
Bền lòng, minh chính mới hay,
Tượng rằng: Cửu nhị mới hay,
Là vì trung đạo bấy nay chu toàn.
Hào Cửu nhị. Trinh cát. Tượng viết: Cửu nhị trinh cát. Dĩ trung dã. Thế là Hào Cửu nhị đề cao hai chữ Trung và Chính. (Trinh)
Tấn văn Công muốn tìm người làm nguyên soái. Triệu Thôi tiến cử Khước Cốc mà thưa rằng: làm nguyên soái, mạnh chẳng bằng trí, trí chẳng bằng có học; như dùng kẻ trí dõng thì không thiếu gì; bằng dùng kẻ có học, duy có một Khước Cốc mà thôi. Cốc năm mươi tuổi, ham học, biết lễ, có nhân, lại thông binh pháp. Binh là dân, biết thương dân thì dùng binh mới được. Văn Công khen phải, bèn vời Khước Cốc làm nguyên soái, cũng lấy nhân nghĩa, trung tín để thu phục lòng người, mà lập nên nghiệp bá. Thế là Trung Chính vẫn hay, vẫn lợi.
3. Hào Cửu Tam.
九 三: 小 人 用 壯,君 子 用 罔,貞 厲。 羝 羊 觸 藩,羸 其 角。
象 曰: 小 人 用 壯,君 子 罔 也。
Cửu tam. Tiểu nhân dụng tráng. Quân tử dụng võng. Trinh lệ.
Đê dương xúc phiên. Luy kỳ giốc.
Tượng viết:
Tiểu nhân dụng tráng. Quân tử võng dã.
Dịch.
Tiểu nhân cậy sức mạnh mình,
Còn người quân tử đã đành là không.
Dậu phên dê đực húc nhăng,
Húc càn phên dậu, vướng sừng chẳng ra.
Tượng rằng:
Tiểu nhân cậy sức mạnh mình,
Còn người quân tử đã đành là không.
Câu: Tiểu nhân dụng tráng. Quân tử dụng võng của Hào ba này có thể giải bằng hai cách:
Chu Hi, Trình Tử cho rằng: Dụng võng đây đây là khinh thường, là coi thường. Các ông cho rằng: tiểu nhân mà dùng lực, quân tử mà khinh thường, thời đều hay mắc họa.
Lai Trí Đức, Wilhelm, Legge, R.G.H, Siu đều dịch chữ quân tử dụng võng là người quân tử không làm như vậy.
Sở muốn đánh Tấn. Tiên Chẩn khuyên Tấn Văn Công xuất quân đánh, vì đánh ắt thắng. Hồ Yển trái lại khuyên Tấn Văn Công nên tránh quân Sở, và lui binh 90 dặm, để giữ lời Văn Công hứa với quân Sở khi xưa.
Khi phá Sở xong, Tấn Văn Công ban sư, luận công ban thưởng, phong cho Hồ Yển công đầu, Tiên Chẩn công thứ. Các quan tâu hỏi rằng: Vả trận Thành Bộc thì một tay Tiên Chẩn dùng kỳ mưu mà phá Sở, nay lại phong Hồ Yển làm đầu công là sao? Văn Công đáp: Trận Thành Bộc thì Tiên Chẩn dốc đánh Sở để thủ thắng, còn Hồ Yển thì dốc tránh Sở để thủ tín. Vả chăng cái công thủ thắng, làm nên trong một thủa, còn thủ tín làm có lợi muôn đời, thì có lý nào đem công một thủa mà gác lên công muôn đời hay sao? Vì vậy phải phong công đầu cho Hồ Yển. Chư tướng nghe rõ rồi, ai ai cũng đều khâm phục. (Đông Châu Liệt quốc, Võ Minh Trí - 534)
Thế là võ lực không bằng tín nghĩa (đức độ).
4. Hào Cửu tứ
九 四: 貞 吉 悔 亡,藩 決 不 羸,壯 于 大 輿 之 輹。
象 曰: 藩 決 不 羸,尚 往 也。
Hào Cửu tứ. Cửu tứ. Trinh cát hối vong.
Phiên quyết bất luy. Tráng vu đại dư chỉ phúc.
Tượng viết:
Phiên quyết bất luy. Thượng vãng dã.
Dịch.
Một lòng minh chính mới hay,
Hết ngay hối hận, hết ngay phàn nàn.
Dậu phên giăng mắc đã tan,
Cưỡi xe trục mạnh, đàng hoàng ruỗi rong.
Tượng rằng: Dậu hết vướng ngăn,
Cưõi xe rong ruỗi, băng băng dặm trường.
Hào Cửu Tứ đứng đầu quần dương, tức là lãnh tụ trong đám quân tử, vì thế hào tứ khuyên hãy gìữ con đường minh chính mới hay, mới lành, mới khỏi ăn năn hối hận. Hào Cửu tứ trước mặt có hai Hào Âm, vì thế mới nói dậu phên đã bị khai phá, không còn là trở ngại nữa.
Lại nói có sức mạnh tinh thần, sẽ lướt thắng được mọi trở lực, cũng như nhờ sức mạnh vô hình của cốt xe, của trục xe, mà xe mang nổi được cả xe.
Cửu tứ. Trinh cát hối vong. Phiên quyết bất luy. Tráng vu đại dư chi phúc. Cũng có thể hiểu rằng: Nhờ sự kiên trì, bền bĩ, con người sẽ lướt thắng được mọi trở lực, cùng như nhờ sức mạnh vô hình của cốt xe, của trục xe, mà xe mang tải được nhưng trọng lượng lớn. Tấn Văn Công, nhờ ở sự kiên trì, bền bĩ, nên sau nhiều năm lưu lạc, đa trở về tấn mà lập nghiệp bá. Khi mà trở lực hết rồi, thòi có thể thẳng tiến mãi mãi. Vì thế Tượng bàn thêm: Phiên quyết bất luy. Thượng vãng dã. Thượng đây là tiến lên mãi mãi.
5. Hào Lục ngũ.
六 五: 喪 羊 于 易,無 悔。
象 曰: 喪 羊 于 易,位 不 當 也。
Lục ngũ. Táng dương vu dị. Vô hối.
Tượng viết:
Táng dương vu dị. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Ôn hòa, dê hết lố lăng,
Ôn hòa đối xử, ăn năn lẽ nào.
Tượng rằng: Ôn hòa dê hết lố lăng,
Vị ngôi chẳng đáng, hung hăng cách nào.
Hào Lục ngũ nói: Táng dương vu dị. Vô hối. Có nhiều cách giải nghĩa hào này: Trình Tử giải rằng: Hào năm Âm nhu, mà bốn Hào dưới toàn là Dương. Khí thế hung hăng, nhưng Lục ngũ có thể dùng Âm nhu, mà hóa giải được sự cương táo của quần Dương. Trương Trung Khê cũng gỉải như vậy, và trích lời vua Quang Võ: Ta lấy nhu mà trị thiên hạ.
Tượng viết: Táng dương vu dị. Vị bất đáng dã.
6. Hào Thượng lục.
上六 : 羝 羊 觸 藩,不 能 退,不 能 遂,無 攸 利,艱 則 吉。
象曰: 不 能 退,不 能 遂,不 祥 也。 艱 則 吉,咎 不 長 也。
Thượng lục. Đê dương xúc phiên. Bất năng thoái.
Bất năng toại. Vô du lợi. Gian tắc cát.
Tượng viết:
Bất năng thoái. Bất năng toại. Bất tường dã.
Gian tắc cát. Cữu bất trường dã.
Dịch.
Dậu phên dê đực húc càn,
Tiến lui đều mắc, biết làm sao đây.
Bề nào cũng chẳng mắn may,
Biết mình gặp khó, mới hay, mới lành.
Tượng rằng:
Tiến lui đều chẳng được nào,
Thế là gặp lúc lao đao, chẳng lành.
Biết mình gặp bước chông chênh,
Là hay, vì biết tội tình làm sai.
Hào Thượng lục này tượng trưng cho một người đi quá trớn, thành ra mắc kẹt tiến thoái lưỡng nan, chẳng khác nào con dê húc càng vào dậu, vướng sừng không thể tiến lui được nữa. Nếu họ sớm nhận ra khuyết điểm của mình, thời tội lỗi cũng không bao nhiêu. Vì thế Thượng lục nói: Đê dương xúc phiên. Bất năng thoái. Bất năng toại. Vô du lợi. Gian tắc cát.
ÁP DỤNG QUẺ ĐẠI TRÁNG VÀO THỜI ĐẠI.
Ta sinh ra đời, phải biết dùng sức mạnh mình mà thay đổi ngoại cảnh, để mọi sự sẽ tiến tới thành toàn. Chúng ta phải có kế hoạch cho cuộc đời ngay từ thủa còn thơ. Ta phải biết ta phải làm những gì, sẽ làm những gì; và cố gắng thực hiện nó. Nhưng đôi khi, kế hoạch dự định đó khó, thì ta cần phải có chí khí và dũng cảm.
Con người dũng cảm, chí khí, là con người:
- Thấy việc nghĩa nhất định phải làm.
- Thiết tha với hoài bão của mình.
- Tìm mọi biện pháp để thực hiện.
- Bền tâm, dốc chí thực hiện cho được hoài bão đó, không quản khó nhọc, gian lao.
Chúng ta phải hiểu rõ: sức mạnh của chân tay, chỉ giải quyết được những công việc nhỏ, nhưng sức mạnh của trí lực hơn gấp bội phần. Ví dụ: muốn phá núi để mở đường, nếu dùng sức người thì sao bằng dùng thuốc nổ.
* Một người mẹ thương con, họ có thể hy sinh hết cho con. Một người đang hư hỏng, hoang đàng, nếu yêu tha thiết một người nào, có thể thay đổi để trở thành một người tốt. Đó là sức mạnh tâm tình.
* Một người làm nên, có địa vị, hoặc giầu có, thì đi giao thiệp hay làm việc gì đều có lợi hơn một người không có gì cả. Đó là sức mạnh của Thể lực.
* Lưu manh, trộm cướp, phá hại xã hội, chỉ có chính quyền mới tiêu diệt nổi chúng. Đó là sức mạnh của Quyền lực.
Tóm lại, chỉ có sức mạnh của bạo tàn thì sẽ không đi tới đâu!
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
6 Trạch Thiên Quải
Quải Tự Quái
Ích nhi bất dĩ tất quyết.
Cố thụ chi dĩ quải.
Quải giả quyết dã.
夬 序 卦
益 而 不 已 必 決
故受 之 以 夬
夬 者 決 也
Dịch: Quải Tự Quái
Tăng mà tăng mãi, có lần nứt thôi.
Cho nên Quải mới tiếp ngôi
Quải là nứt rạn, vỡ rời, tan hoang.
Tăng mãi có lúc rạn nứt, nước tức quá ắt phải vỡ bờ, nên sau quẻ Ích là quẻ Quải. Tự Quái giải nghĩa chữ Quải là quyết, mà quyết là khơi tháo, là vỡ bờ; theo Từ nguyên Quyết có nghĩa là phân chia. Quẻ Quải trên là hồ, dưới là trời, nước hồ dâng chất ngất lưng trời, sẽ đưa đến cảnh tức nước vỡ bờ, vì thế Quải là vỡ lở.
Quẻ Quải trên có 1 Hào Âm, dưới có 5 Hào Dương. Một Hào Âm lộng quyền, đè nén quần Dương; quá quắt lắm, sẽ tức nước vỡ bờ, làm cho quần Dương nổi lên thanh toán Hào Âm. Áp dụng vào triền năm, Quải tượng trưng cho tháng 3 ta, lúc mà Dương khí đang thời kỳ thịnh, Âm khí đang thời kỳ suy. Tóm lại ý tứ quẻ Quải, ta kết luận:
-Quải là Dương thanh toán Âm.
-Quân tử thanh toán tiểu nhân.
-Trung thần thanh toán gian thần tại triều ca.
I. Thoán.
夬. 揚 于 王 庭 . 孚 號 . 有 厲 . 告 自 邑 . 不 利 即 戎 . 利 有 攸 往 .
Thoán từ.
Quải. Dương vu vương đình. Phu hiệu. Hữu lệ. Cáo tự ấp. Bất lợi tức nhung. Lợi hữu du vãng.
Dịch.
Quải là quyết diệt tiểu nhân,
Giãi bầy ủy khúc trước sân triều đình,
Hô Hào thanh thế cho mình,
Hô Hào bằng cách chân thành, chính trung.
Cũng nên lo sợ, đề phòng,
Báo cho trong ấp biết công việc mình.
Chẳng nên điều động đao binh,
Tính toan như vậy tốt lành biết bao.
Như trên đã nói, Quải là trung thần muốn diệt trừ gian thần. Muốn diệt trừ gian thần phải:
1. Hỏi tội nó trước triều đình (Dương vu vương đình)
2. Phải vận động, hô hào quần thần nổi lên, một lòng chống đối (phu hiệu)
3. Phải lo lắng, đề phòng vì gian thần có thể quật khởi, phản công.(hữu lệ)
4. Mình phải ngay chính để gian thần không bắt lỗi mình được.(cáo tự ấp)
5. Không nên dùng tới quân lực (Bất lợi tức nhung). Được như vậy tiến hành công chuyện mới tốt. (lợi hữu du vãng.)
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰. 夬. 決 也 . 剛 決 柔 也 . 健 而 說 . 決 而 和 . 揚 于 王 庭 . 柔 乘 五 剛 也 .孚 號 有 厲 . 其 危 乃 光 也 . 告 自 邑 . 不 利 即 戎 . 所 尚 乃 窮 也 . 利 有 攸 往 . 剛 長 乃 終 也 .
Quải. Quyết dã. Cương quyết nhu dã. Kiện nhi duyệt. Quyết nhi hoà. Dương vu Vương đình. Nhu thừa ngũ cương dã. Phu hiệu hữu lệ. Kỳ nguy nãi quang dã. Cáo tự ấp. Bất lợi tức nhung. Sở thượng nãi cùng dã. Lợi hữu du vãng. Cương trưởng nãi chung dã.
Dịch. Thoán rằng:
Quải là quyết diệt tiểu nhân,
Dương cương quyết diệt nhu Âm bấy chầy.
Mạnh mà vui vẻ, mới hay,
Đã vừa cương quyết, vả nay ôn hòa.
Giãi bầy ở chốn triều ca,
Vì Nhu cưỡi cổ những là năm Dương.
Hô Hào vả lại lo lường,
Là vì nguy hiểm rõ ràng chẳng sai.
Báo cho dân ấp trong ngoài,
Vả đừng nên tính đến bài đao binh.
Thích dùng binh cách chiến tranh,
Sẽ gây bế tắc, tốt lành chi đâu?
Làm đi, lợi sẽ theo sau,
Thuần Dương vận ấy, đáo đầu chẳng sai.
Thoán Truyện định nghĩa: Quải là thanh toán. Cương thanh toán Nhu (Quyết dã. Cương quyết Nhu dã). Cương quyết như trung thần muốn thanh toán gian thần, phải mạnh bạo, nhưng vẫn tươi vui, cương quyết nhưng vẫn giữ được hòa khí (Kiện nhi duyệt. Quyết nhi hòa).
Gian thần là quan lớn trong triều ca, nhiều khi lại đứng đầu quần thần, vì thế muốn thanh toán nó, cần phải hài rõ tội lỗi nó trước triều đình (Dương vu Vương đình. Nhu thừa ngũ cương dã). Làm công chuyện ấy chính là cỡi đầu voi dữ, nên phải viện vây cánh cho đông, phải lo lắng đề phòng, vì nguy hiểm quá rõ vậy (Phu hiệu hữu lệ. Kỳ nguy nãi quang dã). Muốn đàn hạch người, trước tiên mình phải trong trắng (Cáo tự ấp). Và cũng không nên dùng đến binh cách là con đường cùng vậy (Bất lợi tức nhung. Sở thượng nãi cùng dã). Thanh toán được gian thần, thì trung thần mới có thể tiến lên làm điều ích quốc, lợi dân lâu dài (Lợi hữu du vãng. Cương trưởng nãi trung dã).
Lịch sử đã cho ta nhiều ví dụ điển hình: Đời vua Tống Nhân Tông, Bao Công đã diệt Quách Hòe và Lưu Thái hậu về tội ly miêu hoán chúa.
Hoặc Bao Công thanh toán Bàng Hồng là Thái sư, và đồng thời là Quốc cữu, và Bàng phi là sủng phi của vua Nhân Tôn, về tội đã liên kết với Liêu chúa để hãm hại Địch Thanh, 1 danh tướng đương triều, và hưng binh xâm phạm Trung Quốc. Muốn thanh toán Bàng Hồng, Bao Công phải tìm ra bao chứng cớ để buộc tội Bàng Hồng đã dựa vào thế lực của Bàng Quí phi để làm bậy, như tư thông với ngoại quốc, ăn hối lộ của ngoại quốc, để bầy mưu giết Địch Thanh.
Vua Nhân Tôn vì quá yêu Bàng Quí phi, nên nhất định che chở cho Bàng Hồng và Bàng Quí phi; nên Bao Công đã phải vận động đến mấy bà Thái Hậu và cả triều thần, mới có thể xử giảo được Bàng Quí phi, chém Bàng Hồng và con rể là Tôn Tú.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 澤 上 于 天 . 夬. 君 子 以 施 祿 及 下 . 居 德 則 忌 .
Tượng viết:
Trạch thượng ư thiên. Quải. Quân tử dĩ thi lộc cập hạ. Cư đức tắc kỵ.
Dịch. Tượng rằng:
Hồ nước lưng trời,
Nước dâng, nước bốc lại rơi xuống trần.
Nên người quân tử thi ân,
Trau dồi đức độ, chẳng phân lơ là.
Nước hồ mà dâng cao lưng trời, sẽ đổ xuống trần gian. Người quân tử luôn bắt chước đó mà đổ ân trạch xuống cho muôn dân, có vậy mới vững ngôi. Lại nữa, trong vấn đề tu nhân, tích đức, người quân tử chẳng khi nào nên ngưng nghỉ. (Trạch thượng ư thiên. Quải. Quân tử dĩ thi lộc cập hạ. Cư đức tắc kỵ).
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Hào từ dạy đường lối phải theo, khi muốn diệt trừ gian thần.
1. 初 九 . 壯 于 前 趾 . 往 不 勝 為 吝 .
象 曰 . 不 勝 而 往 . 咎 也 .
Hào Sơ Cửu. Sơ Cửu.
Tráng vu tiền chỉ. Vãng bất thắng vi cữu.
Tượng viết: Bất thắng nhi vãng. Cữu dã.
Dịch.
Mạnh mà mạnh ở ngón chân,
Đi mà không thắng, nên lầm, nên sai.
Tượng rằng: Không thắng mà đi,
Đi không sửa soạn, nên chi lỗi lầm.
Hào Sơ Cửu là chỉ 1 người ở địa vị thấp thỏi. Mình đã thấp thỏi như vậy, mà lăm le muốn diệt một đại thần gian ác, thì có khác nào một người chỉ mạnh nơi ngón chân, đâu biết rằng không thắng mà vẫn làm, vẫn tiến, là lầm lỗi vậy (Tráng vu tiền chỉ. Vãng bất thắng vi cữu).
Đời vua Đường Túc Tông, có Mai Khôi vẫn là 1 vị khoa bảng. Sau mười mấy năm làm tri huyện, mới được triệu về kinh làm chức Lại Bộ đô cấp sự; Mai Khôi là 1 vị quan hết sức thanh liêm. Thuở ấy Thừa Tướng trong triều là Lư Khởi, là 1 đại gian thần, được vua sủng ái, nên làm rất nhiều điều sằng bậy. Mai Khôi nhất định ra mặt chống đối. Về kinh có mấy ngày, ông đã ra mặt khinh khi phỉ báng Lư Khởi. Gặp ngày Lư Khởi ăn lễ hạ thọ, các quan văn võ đều đến khánh hạ và đem lễ mừng. Mai Khôi mang đến 3 cân bột khoai, và 1 cặp đèn. Khi vào bàn tiệc, Mai Khôi hết lời mắng nhiếc Lễ Bộ Thượng Thư Hoàng Tung là con nuôi Lư Khởi. Cũng vì sự dại dột đó, mà Lư Khởi và Hoàng Tung bầy mưu, khiến vua đem Mai Khôi ra xử tử , rồi lại truyền bắt hết cả gia quuyến. Đó thật là: Bất thắng nhi vãng. Cữu dã.
2. 九 二 . 惕 號 . 莫 夜 有 戎 . 勿 恤 .
象 曰 . 莫 夜 有 戎 . 得 中 道 也 .
Hào Cửu nhị. Cửu nhị.
Dịch Hào. Mộ dạ hữu nhung. Vật tuất.
Tượng viết: Hữu nhung vật tuất. Đắc trung đạo dã.
Dịch.
Những là lo lắng, hô hào,
Dẫu đêm có giặc, chi nào có lo.
Tượng rằng: Có giặc chẳng lo,
Là vì xử sự hợp như đạo trời.
Hào Cửu nhị: khuyên muốn diệt gian thần, phải biết lo sợ, biết vận dụng khéo léo cho mọi người theo mình (Dịch Hào) Được như vậy, mình không còn lo bất trắc, ví như 1 vị tướng quân, biết gia tâm phòng bị, nên dầu có giặc tấn công ban đêm cũng chẳng có lo (Mộ dạ hữu nhung. Vật tuất.) Tại sao không lo? Chính vì mình đã hành xử chu toàn, vẹn hảo (Hữu nhung vật tuất. Đắc trung đạo dã).
3. 九 三 . 壯 于頄. 有 凶 . 君 子 夬夬. 獨 行 遇 雨 . 若 濡 有 慍 . 無 咎 .
象 曰 . 君 子 夬 夬. 終 無 咎 也 .
Hào Cửu tam. Cửu tam.
Tráng vu quỳ. Hữu hung. Quân tử quyết quyết. Độc hành ngộ vũ. Nhược nhu. Hữu uẩn. Vô cữu.
Tượng viết: Quân tử quyết quyết. Chung vô cữu dã.
Dịch.
Mạnh mà sắc mặt lộ ra,
Lộ ra sắc mặt, hẳn là chẳng hay.
Trừ gian đã quyết dạ này,
Nhưng ngoài mặt vẫn bắt tay với thù.
Y như đơn độc dầm mưa,
Ướt dầm, bè bạn đâm ra ghét mình.
Nhưng sau khi chuyện đã thành,
Mới hay ta vẫn anh minh, chẳng nhầm.
Tượng rằng: Quân tử quyết lòng,
Rồi ra âu cũng sẽ không lỗi lầm.
Hào Cửu tam: Muốn diệt trừ gian thần, cơ mưu phải kín đáo, không nên để lộ ra sắc diện. Ghét người mà để lộ ra sắc mặt là rất nguy, vì ắt sẽ bị gian thần phản công (Tráng vu quì. Hữu hung. Người quân tử trong dạ đã nhất quyết diệt gian thần (Quân tử quyết quyết), bề ngoài nhiều khi vẫn phải o bế gian thần, như vậy danh dự mình đôi khi cũng bị thương tổn, chẳng khác nào 1 người chịu dầm mưa một mình, đến nỗi bị ướt hết. (Độc hành ngộ vũ. Nhược nhu). Nhiều người không hiểu đường lối mình sẽ ghét mình (Hữu uẩn), dầu vậy cũng chẳng có lỗi (Vô cữu). Mình mà quyết tâm diệt gian thần, cuối cùng mọi người sẽ biết, nên chẳng lỗi gì.
Tượng viết: Quân tử quyết quyết. Chung vô cữu dã. Vương Doãn muốn dùng Lã Bố giết Đổng Trác, bèn ra sức o bế Lã Bố và đem Điêu Thuyền hứa gả cho Lã Bố, rồi lại đem gả cho Đổng Trác, dạy Điêu Thuyền bắt tình với cả 2 cha con Đổng Trác, Lã Bố để gây thâm thù giữa 2 người. Đến sau quả nhiên Lã Bố giết Đổng Trác.
4. 九 四 . 臀 無 膚 . 其 行 次 且 . 牽 羊 悔 亡 . 聞 言 不 信 .
象 曰. 其 行 次 且 . 位 不 當 也 . 聞 言 不 信 . 聰 不 明 也 .
Hào Cửu Tứ. Cửu tứ.
Đồn vô phu. Kỳ hành thứ thư. Khiên dương hối vong. Văn ngôn bất tín.
Tượng viết: Kỳ hành thứ thư. Vị bất đáng dã. Văn ngôn bất tín. Thông bất minh dã.
Dịch.
Như mông mà chẳng có da,
Cho nên đi lại vật vờ, lết lê.
Nếu làm được chuyện lùa dê,
Âu là tránh được kẻ chê, người cười.
Nghe lời, nhưng chẳng tin lời.
Tượng rằng: Đi đứng lết lê,
Là vì chẳng được xứng bề vị ngôi.
Nghe lời, mà chẳng tin lời,
Khôn thời đành có, ngoan thời đành không.
Lục tứ là một hạng người do dự, khi cả đình thần muốn diệt trừ gian thần; nhưng do dự không dám xử trí ra sao, ấm ớ không có thái độ rứt khoát. Họ như một người mà mông chẳng có thịt, nên đứng ngồi chẳng yên (Kỳ hành thứ thư). Kỳ hành thứ thư là đi lại khó khăn. Giả sử, ho đóng được vai trò lùa dê thì cũng khả trợ. Theo đuôi, vì người chăn dê lùa dê đi trước, còn mình theo sau. Đàng này họ kém sáng suốt, có người giải cho nghe điều hơn, lẽ thiệt thì cũng không tin (Văn ngôn bất tín). Họ là những người không xứng ngôi, xứng vị, nên không biết xoay sở thế nào cho phải. Người khuyên hay cũng chẳng tin theo, như vậy có khôn mà chẳng có ngoan (Kỳ hành thứ thư. Vị bất đáng dã. Văn ngôn bất tín. Thông bất minh dã).
Hào Cửu tứ này làm ta liên tưởng tới Vương Bỉnh. Đời vua Tống Nhân Tông, Vương Bỉnh làm Hình Bộ Thượng Thư, vốn được tiếng là công bình, chính trực. Vương Bỉnh được triều đình giao phó cho việc tra án Quách Hoè.
Vương Bỉnh thấy vụ án động chạm đến Lưu Thái Hậu, nên sợ hãi , không dám xử công minh. Nhân lại nhận được mật chiếu và vàng bạc của Lưu Thái Hậu, nên Vương Bỉnh nhất định dấu tội cho Quách Hòe. Lúc đem Quách Hòe ra xử, thì lại xử ban đêm, không cho ai được vào chứng kiến. Quách Hòe thật thì đem dấu dưới gầm bàn, lại dùng một tử tội giả làm Quách Hòe, bắt quì trước công đường mà khảo đả, để che mắt thế gian. Hay đâu, Bao Công đi tuần tra, vào khám phá được mưu gian, liền bắt giam cả bọn và trình nội vụ lên thiên tử. Vương Bỉnh sau bị chết chém.
5. 九 五. 莧 陸 . 夬夬 .中 行 無 咎 .
象 曰 . 中 行 無 咎 . 中 未 光 也 .
Hào Cửu ngũ. Cửu ngũ.
Hiện lục. Quyết quyết. Trung hành vô cữu.
Tượng viết: Trung hành vô cữu. Trung vị quang dã.
Dịch.
Rau sam cương quyết diệt trừ,
Theo đường lối phải, chẳng lo lỗi lầm.
Tượng rằng: Theo đường phải hết lỗi lầm,
Nghĩa là chưa được thập phần quang minh.
Cửu ngũ dạy, đã diệt trừ gian thần, phải cho cương quyết, phải trảm thảo, trừ căn vì gian thần như loài rau sam, rất dễ sinh lại. Vì thế mình phải hành xử sao cho khéo, mới khỏi lỗi lầm. Cửu ngũ nơi đây cũng chưa được thập phần quang minh, vì thế phải khuyên hãy xử sao cho khéo léo (Trung hành vô cữu. Trung vị quang dã).
Tiết Cương, sau khi bắt được Trương quân Tả, Trương quân Hữu và Võ Tam Tư liền đem ra pháp trường xử chém. Trình Giảo Kim xin tha cho Võ Tam Tư. Tiết Cương nghe lời, liền sai đánh Võ Tam Tư mấy chục hèo rồi tha. Sau Võ Tam Tư tư thông với Vi Hậu, đầu độc vua Trung Tôn,và định soán ngôi nhà Đường. Tiết Cương, Tiết Cường lại một phen huy động binh đao mới bắt, và giết được Võ Tam Tư và Vi Hậu.
6. 上 六. 無 號 . 終 有 凶 .
象 曰 . 無 號 之 凶 .終 不 可 長 也 .
Hào Thượng Lục. Thượng Lục.
Vô Hào. Chung hữu hung.
Tượng viết: Vô Hào chi hung. Chung bất khả trường dã.
Dịch.
Hô Hào mà chẳng ai theo,
Cuối cùng sẽ bị những điều họa hung.
Tiểu nhân cũng lúc phải dùng,
Làm sao trường thịnh, mà mong cửu trường.
Thượng Lục chỉ những gian thần khi đã hết thời, van xin lúc ấy cũng vô ích, chẳng còn có ai thương, ai nghe. Và cuối cùng sẽ gặp hung họa (Vô Hào chi hung. Chung bất khả trường dã).
ÁP DỤNG QUẺ QUẢI VÀO THỜI ĐẠI
Trong Chính quyền, cũng như trong bất kỳ đoàn thể nào cũng có những con chiên ghẻ, những người xấu. Những người này nhiều khi có thế lực rất mạnh, rất khó trừ. Kinh Dịch khuyên ta nên trừ khử những kẻ gian ác ấy.
Vào thời Quải, tức là thời đời sống gần như là đã Thuần Dương, chỉ còn sót lại có một Âm, y như khi ta mặc một chiếc áo trắng, mà lại có một vết đen lớn ở giữa ngực, thì trông sao được, do đó ta phải tẩy sạch nó đi.
Ta có thể lấy một thí dụ điển hình ngay ở Mỹ này. Gần đây, có vụ Thượng Nghị sĩ Jack Reeves, 56 tuổi, bị kết án 99 năm tù, tại Dallas (Texas), vì cách đây 18 năm đã giết bà vợ cả là Sharon. Trước kia cảnh sát đã cho rằng bà Sharon đã tự tử bằng súng. Tháng 1/1996, ông bị kết án 18 năm tù, và ngày 4 tháng 8/1996, ông lĩnh thêm một bản án mới 99 năm tù, vì đã giết thêm bà vợ thứ tư là Emilita. Ông Reeves khai là ông không hề giết vợ và đã chống án. Nếu sự việc trên mà đúng, thì theo tôi ông đáng bị tử hình.
Thời vua Càn Long (Trung Hoa), có đại thần là Hòa Thân, chuyên môn nhận hối lộ, hắn giầu có hơn cả triều đình. Phải đợi đến đời Gia Khánh (kế Càn Long), mới diệt được Hòa Thân.
Như vậy, ta thấy từ xưa tới nay, dân đều muốn rằng những người cầm đầu phải là những người trong sạch, hoàn hảo. Còn người trên thì bao giờ cũng che đậy cái xấu, cái dở của mình. Nên muốn trừ diệt họ, phải đợi thời cơ, và tìm bằng chứng tội ác của họ.
Quải Tự Quái
Ích nhi bất dĩ tất quyết.
Cố thụ chi dĩ quải.
Quải giả quyết dã.
夬 序 卦
益 而 不 已 必 決
故受 之 以 夬
夬 者 決 也
Dịch: Quải Tự Quái
Tăng mà tăng mãi, có lần nứt thôi.
Cho nên Quải mới tiếp ngôi
Quải là nứt rạn, vỡ rời, tan hoang.
Tăng mãi có lúc rạn nứt, nước tức quá ắt phải vỡ bờ, nên sau quẻ Ích là quẻ Quải. Tự Quái giải nghĩa chữ Quải là quyết, mà quyết là khơi tháo, là vỡ bờ; theo Từ nguyên Quyết có nghĩa là phân chia. Quẻ Quải trên là hồ, dưới là trời, nước hồ dâng chất ngất lưng trời, sẽ đưa đến cảnh tức nước vỡ bờ, vì thế Quải là vỡ lở.
Quẻ Quải trên có 1 Hào Âm, dưới có 5 Hào Dương. Một Hào Âm lộng quyền, đè nén quần Dương; quá quắt lắm, sẽ tức nước vỡ bờ, làm cho quần Dương nổi lên thanh toán Hào Âm. Áp dụng vào triền năm, Quải tượng trưng cho tháng 3 ta, lúc mà Dương khí đang thời kỳ thịnh, Âm khí đang thời kỳ suy. Tóm lại ý tứ quẻ Quải, ta kết luận:
-Quải là Dương thanh toán Âm.
-Quân tử thanh toán tiểu nhân.
-Trung thần thanh toán gian thần tại triều ca.
I. Thoán.
夬. 揚 于 王 庭 . 孚 號 . 有 厲 . 告 自 邑 . 不 利 即 戎 . 利 有 攸 往 .
Thoán từ.
Quải. Dương vu vương đình. Phu hiệu. Hữu lệ. Cáo tự ấp. Bất lợi tức nhung. Lợi hữu du vãng.
Dịch.
Quải là quyết diệt tiểu nhân,
Giãi bầy ủy khúc trước sân triều đình,
Hô Hào thanh thế cho mình,
Hô Hào bằng cách chân thành, chính trung.
Cũng nên lo sợ, đề phòng,
Báo cho trong ấp biết công việc mình.
Chẳng nên điều động đao binh,
Tính toan như vậy tốt lành biết bao.
Như trên đã nói, Quải là trung thần muốn diệt trừ gian thần. Muốn diệt trừ gian thần phải:
1. Hỏi tội nó trước triều đình (Dương vu vương đình)
2. Phải vận động, hô hào quần thần nổi lên, một lòng chống đối (phu hiệu)
3. Phải lo lắng, đề phòng vì gian thần có thể quật khởi, phản công.(hữu lệ)
4. Mình phải ngay chính để gian thần không bắt lỗi mình được.(cáo tự ấp)
5. Không nên dùng tới quân lực (Bất lợi tức nhung). Được như vậy tiến hành công chuyện mới tốt. (lợi hữu du vãng.)
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰. 夬. 決 也 . 剛 決 柔 也 . 健 而 說 . 決 而 和 . 揚 于 王 庭 . 柔 乘 五 剛 也 .孚 號 有 厲 . 其 危 乃 光 也 . 告 自 邑 . 不 利 即 戎 . 所 尚 乃 窮 也 . 利 有 攸 往 . 剛 長 乃 終 也 .
Quải. Quyết dã. Cương quyết nhu dã. Kiện nhi duyệt. Quyết nhi hoà. Dương vu Vương đình. Nhu thừa ngũ cương dã. Phu hiệu hữu lệ. Kỳ nguy nãi quang dã. Cáo tự ấp. Bất lợi tức nhung. Sở thượng nãi cùng dã. Lợi hữu du vãng. Cương trưởng nãi chung dã.
Dịch. Thoán rằng:
Quải là quyết diệt tiểu nhân,
Dương cương quyết diệt nhu Âm bấy chầy.
Mạnh mà vui vẻ, mới hay,
Đã vừa cương quyết, vả nay ôn hòa.
Giãi bầy ở chốn triều ca,
Vì Nhu cưỡi cổ những là năm Dương.
Hô Hào vả lại lo lường,
Là vì nguy hiểm rõ ràng chẳng sai.
Báo cho dân ấp trong ngoài,
Vả đừng nên tính đến bài đao binh.
Thích dùng binh cách chiến tranh,
Sẽ gây bế tắc, tốt lành chi đâu?
Làm đi, lợi sẽ theo sau,
Thuần Dương vận ấy, đáo đầu chẳng sai.
Thoán Truyện định nghĩa: Quải là thanh toán. Cương thanh toán Nhu (Quyết dã. Cương quyết Nhu dã). Cương quyết như trung thần muốn thanh toán gian thần, phải mạnh bạo, nhưng vẫn tươi vui, cương quyết nhưng vẫn giữ được hòa khí (Kiện nhi duyệt. Quyết nhi hòa).
Gian thần là quan lớn trong triều ca, nhiều khi lại đứng đầu quần thần, vì thế muốn thanh toán nó, cần phải hài rõ tội lỗi nó trước triều đình (Dương vu Vương đình. Nhu thừa ngũ cương dã). Làm công chuyện ấy chính là cỡi đầu voi dữ, nên phải viện vây cánh cho đông, phải lo lắng đề phòng, vì nguy hiểm quá rõ vậy (Phu hiệu hữu lệ. Kỳ nguy nãi quang dã). Muốn đàn hạch người, trước tiên mình phải trong trắng (Cáo tự ấp). Và cũng không nên dùng đến binh cách là con đường cùng vậy (Bất lợi tức nhung. Sở thượng nãi cùng dã). Thanh toán được gian thần, thì trung thần mới có thể tiến lên làm điều ích quốc, lợi dân lâu dài (Lợi hữu du vãng. Cương trưởng nãi trung dã).
Lịch sử đã cho ta nhiều ví dụ điển hình: Đời vua Tống Nhân Tông, Bao Công đã diệt Quách Hòe và Lưu Thái hậu về tội ly miêu hoán chúa.
Hoặc Bao Công thanh toán Bàng Hồng là Thái sư, và đồng thời là Quốc cữu, và Bàng phi là sủng phi của vua Nhân Tôn, về tội đã liên kết với Liêu chúa để hãm hại Địch Thanh, 1 danh tướng đương triều, và hưng binh xâm phạm Trung Quốc. Muốn thanh toán Bàng Hồng, Bao Công phải tìm ra bao chứng cớ để buộc tội Bàng Hồng đã dựa vào thế lực của Bàng Quí phi để làm bậy, như tư thông với ngoại quốc, ăn hối lộ của ngoại quốc, để bầy mưu giết Địch Thanh.
Vua Nhân Tôn vì quá yêu Bàng Quí phi, nên nhất định che chở cho Bàng Hồng và Bàng Quí phi; nên Bao Công đã phải vận động đến mấy bà Thái Hậu và cả triều thần, mới có thể xử giảo được Bàng Quí phi, chém Bàng Hồng và con rể là Tôn Tú.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 澤 上 于 天 . 夬. 君 子 以 施 祿 及 下 . 居 德 則 忌 .
Tượng viết:
Trạch thượng ư thiên. Quải. Quân tử dĩ thi lộc cập hạ. Cư đức tắc kỵ.
Dịch. Tượng rằng:
Hồ nước lưng trời,
Nước dâng, nước bốc lại rơi xuống trần.
Nên người quân tử thi ân,
Trau dồi đức độ, chẳng phân lơ là.
Nước hồ mà dâng cao lưng trời, sẽ đổ xuống trần gian. Người quân tử luôn bắt chước đó mà đổ ân trạch xuống cho muôn dân, có vậy mới vững ngôi. Lại nữa, trong vấn đề tu nhân, tích đức, người quân tử chẳng khi nào nên ngưng nghỉ. (Trạch thượng ư thiên. Quải. Quân tử dĩ thi lộc cập hạ. Cư đức tắc kỵ).
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Hào từ dạy đường lối phải theo, khi muốn diệt trừ gian thần.
1. 初 九 . 壯 于 前 趾 . 往 不 勝 為 吝 .
象 曰 . 不 勝 而 往 . 咎 也 .
Hào Sơ Cửu. Sơ Cửu.
Tráng vu tiền chỉ. Vãng bất thắng vi cữu.
Tượng viết: Bất thắng nhi vãng. Cữu dã.
Dịch.
Mạnh mà mạnh ở ngón chân,
Đi mà không thắng, nên lầm, nên sai.
Tượng rằng: Không thắng mà đi,
Đi không sửa soạn, nên chi lỗi lầm.
Hào Sơ Cửu là chỉ 1 người ở địa vị thấp thỏi. Mình đã thấp thỏi như vậy, mà lăm le muốn diệt một đại thần gian ác, thì có khác nào một người chỉ mạnh nơi ngón chân, đâu biết rằng không thắng mà vẫn làm, vẫn tiến, là lầm lỗi vậy (Tráng vu tiền chỉ. Vãng bất thắng vi cữu).
Đời vua Đường Túc Tông, có Mai Khôi vẫn là 1 vị khoa bảng. Sau mười mấy năm làm tri huyện, mới được triệu về kinh làm chức Lại Bộ đô cấp sự; Mai Khôi là 1 vị quan hết sức thanh liêm. Thuở ấy Thừa Tướng trong triều là Lư Khởi, là 1 đại gian thần, được vua sủng ái, nên làm rất nhiều điều sằng bậy. Mai Khôi nhất định ra mặt chống đối. Về kinh có mấy ngày, ông đã ra mặt khinh khi phỉ báng Lư Khởi. Gặp ngày Lư Khởi ăn lễ hạ thọ, các quan văn võ đều đến khánh hạ và đem lễ mừng. Mai Khôi mang đến 3 cân bột khoai, và 1 cặp đèn. Khi vào bàn tiệc, Mai Khôi hết lời mắng nhiếc Lễ Bộ Thượng Thư Hoàng Tung là con nuôi Lư Khởi. Cũng vì sự dại dột đó, mà Lư Khởi và Hoàng Tung bầy mưu, khiến vua đem Mai Khôi ra xử tử , rồi lại truyền bắt hết cả gia quuyến. Đó thật là: Bất thắng nhi vãng. Cữu dã.
2. 九 二 . 惕 號 . 莫 夜 有 戎 . 勿 恤 .
象 曰 . 莫 夜 有 戎 . 得 中 道 也 .
Hào Cửu nhị. Cửu nhị.
Dịch Hào. Mộ dạ hữu nhung. Vật tuất.
Tượng viết: Hữu nhung vật tuất. Đắc trung đạo dã.
Dịch.
Những là lo lắng, hô hào,
Dẫu đêm có giặc, chi nào có lo.
Tượng rằng: Có giặc chẳng lo,
Là vì xử sự hợp như đạo trời.
Hào Cửu nhị: khuyên muốn diệt gian thần, phải biết lo sợ, biết vận dụng khéo léo cho mọi người theo mình (Dịch Hào) Được như vậy, mình không còn lo bất trắc, ví như 1 vị tướng quân, biết gia tâm phòng bị, nên dầu có giặc tấn công ban đêm cũng chẳng có lo (Mộ dạ hữu nhung. Vật tuất.) Tại sao không lo? Chính vì mình đã hành xử chu toàn, vẹn hảo (Hữu nhung vật tuất. Đắc trung đạo dã).
3. 九 三 . 壯 于頄. 有 凶 . 君 子 夬夬. 獨 行 遇 雨 . 若 濡 有 慍 . 無 咎 .
象 曰 . 君 子 夬 夬. 終 無 咎 也 .
Hào Cửu tam. Cửu tam.
Tráng vu quỳ. Hữu hung. Quân tử quyết quyết. Độc hành ngộ vũ. Nhược nhu. Hữu uẩn. Vô cữu.
Tượng viết: Quân tử quyết quyết. Chung vô cữu dã.
Dịch.
Mạnh mà sắc mặt lộ ra,
Lộ ra sắc mặt, hẳn là chẳng hay.
Trừ gian đã quyết dạ này,
Nhưng ngoài mặt vẫn bắt tay với thù.
Y như đơn độc dầm mưa,
Ướt dầm, bè bạn đâm ra ghét mình.
Nhưng sau khi chuyện đã thành,
Mới hay ta vẫn anh minh, chẳng nhầm.
Tượng rằng: Quân tử quyết lòng,
Rồi ra âu cũng sẽ không lỗi lầm.
Hào Cửu tam: Muốn diệt trừ gian thần, cơ mưu phải kín đáo, không nên để lộ ra sắc diện. Ghét người mà để lộ ra sắc mặt là rất nguy, vì ắt sẽ bị gian thần phản công (Tráng vu quì. Hữu hung. Người quân tử trong dạ đã nhất quyết diệt gian thần (Quân tử quyết quyết), bề ngoài nhiều khi vẫn phải o bế gian thần, như vậy danh dự mình đôi khi cũng bị thương tổn, chẳng khác nào 1 người chịu dầm mưa một mình, đến nỗi bị ướt hết. (Độc hành ngộ vũ. Nhược nhu). Nhiều người không hiểu đường lối mình sẽ ghét mình (Hữu uẩn), dầu vậy cũng chẳng có lỗi (Vô cữu). Mình mà quyết tâm diệt gian thần, cuối cùng mọi người sẽ biết, nên chẳng lỗi gì.
Tượng viết: Quân tử quyết quyết. Chung vô cữu dã. Vương Doãn muốn dùng Lã Bố giết Đổng Trác, bèn ra sức o bế Lã Bố và đem Điêu Thuyền hứa gả cho Lã Bố, rồi lại đem gả cho Đổng Trác, dạy Điêu Thuyền bắt tình với cả 2 cha con Đổng Trác, Lã Bố để gây thâm thù giữa 2 người. Đến sau quả nhiên Lã Bố giết Đổng Trác.
4. 九 四 . 臀 無 膚 . 其 行 次 且 . 牽 羊 悔 亡 . 聞 言 不 信 .
象 曰. 其 行 次 且 . 位 不 當 也 . 聞 言 不 信 . 聰 不 明 也 .
Hào Cửu Tứ. Cửu tứ.
Đồn vô phu. Kỳ hành thứ thư. Khiên dương hối vong. Văn ngôn bất tín.
Tượng viết: Kỳ hành thứ thư. Vị bất đáng dã. Văn ngôn bất tín. Thông bất minh dã.
Dịch.
Như mông mà chẳng có da,
Cho nên đi lại vật vờ, lết lê.
Nếu làm được chuyện lùa dê,
Âu là tránh được kẻ chê, người cười.
Nghe lời, nhưng chẳng tin lời.
Tượng rằng: Đi đứng lết lê,
Là vì chẳng được xứng bề vị ngôi.
Nghe lời, mà chẳng tin lời,
Khôn thời đành có, ngoan thời đành không.
Lục tứ là một hạng người do dự, khi cả đình thần muốn diệt trừ gian thần; nhưng do dự không dám xử trí ra sao, ấm ớ không có thái độ rứt khoát. Họ như một người mà mông chẳng có thịt, nên đứng ngồi chẳng yên (Kỳ hành thứ thư). Kỳ hành thứ thư là đi lại khó khăn. Giả sử, ho đóng được vai trò lùa dê thì cũng khả trợ. Theo đuôi, vì người chăn dê lùa dê đi trước, còn mình theo sau. Đàng này họ kém sáng suốt, có người giải cho nghe điều hơn, lẽ thiệt thì cũng không tin (Văn ngôn bất tín). Họ là những người không xứng ngôi, xứng vị, nên không biết xoay sở thế nào cho phải. Người khuyên hay cũng chẳng tin theo, như vậy có khôn mà chẳng có ngoan (Kỳ hành thứ thư. Vị bất đáng dã. Văn ngôn bất tín. Thông bất minh dã).
Hào Cửu tứ này làm ta liên tưởng tới Vương Bỉnh. Đời vua Tống Nhân Tông, Vương Bỉnh làm Hình Bộ Thượng Thư, vốn được tiếng là công bình, chính trực. Vương Bỉnh được triều đình giao phó cho việc tra án Quách Hoè.
Vương Bỉnh thấy vụ án động chạm đến Lưu Thái Hậu, nên sợ hãi , không dám xử công minh. Nhân lại nhận được mật chiếu và vàng bạc của Lưu Thái Hậu, nên Vương Bỉnh nhất định dấu tội cho Quách Hòe. Lúc đem Quách Hòe ra xử, thì lại xử ban đêm, không cho ai được vào chứng kiến. Quách Hòe thật thì đem dấu dưới gầm bàn, lại dùng một tử tội giả làm Quách Hòe, bắt quì trước công đường mà khảo đả, để che mắt thế gian. Hay đâu, Bao Công đi tuần tra, vào khám phá được mưu gian, liền bắt giam cả bọn và trình nội vụ lên thiên tử. Vương Bỉnh sau bị chết chém.
5. 九 五. 莧 陸 . 夬夬 .中 行 無 咎 .
象 曰 . 中 行 無 咎 . 中 未 光 也 .
Hào Cửu ngũ. Cửu ngũ.
Hiện lục. Quyết quyết. Trung hành vô cữu.
Tượng viết: Trung hành vô cữu. Trung vị quang dã.
Dịch.
Rau sam cương quyết diệt trừ,
Theo đường lối phải, chẳng lo lỗi lầm.
Tượng rằng: Theo đường phải hết lỗi lầm,
Nghĩa là chưa được thập phần quang minh.
Cửu ngũ dạy, đã diệt trừ gian thần, phải cho cương quyết, phải trảm thảo, trừ căn vì gian thần như loài rau sam, rất dễ sinh lại. Vì thế mình phải hành xử sao cho khéo, mới khỏi lỗi lầm. Cửu ngũ nơi đây cũng chưa được thập phần quang minh, vì thế phải khuyên hãy xử sao cho khéo léo (Trung hành vô cữu. Trung vị quang dã).
Tiết Cương, sau khi bắt được Trương quân Tả, Trương quân Hữu và Võ Tam Tư liền đem ra pháp trường xử chém. Trình Giảo Kim xin tha cho Võ Tam Tư. Tiết Cương nghe lời, liền sai đánh Võ Tam Tư mấy chục hèo rồi tha. Sau Võ Tam Tư tư thông với Vi Hậu, đầu độc vua Trung Tôn,và định soán ngôi nhà Đường. Tiết Cương, Tiết Cường lại một phen huy động binh đao mới bắt, và giết được Võ Tam Tư và Vi Hậu.
6. 上 六. 無 號 . 終 有 凶 .
象 曰 . 無 號 之 凶 .終 不 可 長 也 .
Hào Thượng Lục. Thượng Lục.
Vô Hào. Chung hữu hung.
Tượng viết: Vô Hào chi hung. Chung bất khả trường dã.
Dịch.
Hô Hào mà chẳng ai theo,
Cuối cùng sẽ bị những điều họa hung.
Tiểu nhân cũng lúc phải dùng,
Làm sao trường thịnh, mà mong cửu trường.
Thượng Lục chỉ những gian thần khi đã hết thời, van xin lúc ấy cũng vô ích, chẳng còn có ai thương, ai nghe. Và cuối cùng sẽ gặp hung họa (Vô Hào chi hung. Chung bất khả trường dã).
ÁP DỤNG QUẺ QUẢI VÀO THỜI ĐẠI
Trong Chính quyền, cũng như trong bất kỳ đoàn thể nào cũng có những con chiên ghẻ, những người xấu. Những người này nhiều khi có thế lực rất mạnh, rất khó trừ. Kinh Dịch khuyên ta nên trừ khử những kẻ gian ác ấy.
Vào thời Quải, tức là thời đời sống gần như là đã Thuần Dương, chỉ còn sót lại có một Âm, y như khi ta mặc một chiếc áo trắng, mà lại có một vết đen lớn ở giữa ngực, thì trông sao được, do đó ta phải tẩy sạch nó đi.
Ta có thể lấy một thí dụ điển hình ngay ở Mỹ này. Gần đây, có vụ Thượng Nghị sĩ Jack Reeves, 56 tuổi, bị kết án 99 năm tù, tại Dallas (Texas), vì cách đây 18 năm đã giết bà vợ cả là Sharon. Trước kia cảnh sát đã cho rằng bà Sharon đã tự tử bằng súng. Tháng 1/1996, ông bị kết án 18 năm tù, và ngày 4 tháng 8/1996, ông lĩnh thêm một bản án mới 99 năm tù, vì đã giết thêm bà vợ thứ tư là Emilita. Ông Reeves khai là ông không hề giết vợ và đã chống án. Nếu sự việc trên mà đúng, thì theo tôi ông đáng bị tử hình.
Thời vua Càn Long (Trung Hoa), có đại thần là Hòa Thân, chuyên môn nhận hối lộ, hắn giầu có hơn cả triều đình. Phải đợi đến đời Gia Khánh (kế Càn Long), mới diệt được Hòa Thân.
Như vậy, ta thấy từ xưa tới nay, dân đều muốn rằng những người cầm đầu phải là những người trong sạch, hoàn hảo. Còn người trên thì bao giờ cũng che đậy cái xấu, cái dở của mình. Nên muốn trừ diệt họ, phải đợi thời cơ, và tìm bằng chứng tội ác của họ.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
7 THỦY THIÊN NHU
Nhu Tự Quái
需 序 卦
Vật trĩ bất khả bất dưỡng dã
物 稚 不 可 不 養 也,
Cố thụ chi dĩ Nhu
故 受 之 以 需﹔
Nhu giả ẩm thực chi đạo dã.
需 者 飲 食 之 道 也。
Nhu Tự Quái
Mông là dốt nát, mịt mùng, thơ ngây.
Thơ ngây, nuôi dưỡng mới hay,
Cho nên kế tiếp quẻ này, là Nhu.
Nhu là ẩm thực, ấm no. . .
Nhu theo Từ nguyên, gồm hai chữ: Vũ là mưa, Chuyên là cây non. Nghĩa là cây non mới mọc, cần được mưa móc đượm nhuần, nuôi dưỡng.
Vì thế Nhu có nghĩa đầu tiên là Ăn uống. Nhu theo Tượng quẻ là mây kéo đầy trời, nhưng chưa mưa. Phải chờ một khoảng thời gian nữa mới mưa.
Nhu thành bởi Kiền (lão phụ = cha già), và Khảm (thứ nam), cũng gợi lên hình ảnh một người cha già đứng tựa cửa chờ con ở xa chưa về.
Nhu theo đức quẻ, thì là hiểm nguy (Khảm) ở trước mặt. Cho nên người quân tử phải sáng suốt (Kiền), phải biết khoan dãn, đợi thời, đừng có đâm vào vòng nguy hiểm.
Như vậy Nhu có 2 nghĩa:
1/ Tu dưỡng, ăn uống (nơi Tự Quái, Tượng, Hào 5)
2/ Chờ đợi thời cơ ( nơi Hào 1, 2, 3, 4,và 6 ).
Thoán Từ, Thoán Truyện, bất kỳ ở một quẻ nào cũng bàn tổng quát quẻ đó. Nhu lấy Hào Cửu ngũ làm chủ Hào
I. Thoán.
Thoán Từ.
需:有 孚,光 亨,貞 吉。 利 涉 大 川。
Nhu. Hữu phu. Quang hanh. Trinh cát. Lợi thiệp đại xuyên.
Dịch.
Nhu là khoan dãn, đợi thời cơ,
Vững tin, vận sẽ sáng sủa ra.
Trinh chính rồi ra may mắn tới.
Tuy phải vượt sông, vẫn lợi mà.
Thoán Truyện viết:
需, 須 也﹔ 險 在 前 也。剛 健 而 不 陷,其 義 不 困 窮 矣。需, 有 孚,光 亨,貞 吉。位 乎 天 位,以 正 中 也。利 涉 大 川,往 有 功 也。
Nhu. Tu dã. Hiểm tại tiền dã. Cương kiện nhi bất hãm. Kỳ nghĩa bất khốn cùng hỹ. Nhu. Hữu phu quang hanh trinh cát. Vị hồ thiên vị. Dĩ chính trung dã. Lợi thiệp đại xuyên. Vãng hữu công dã.
Dịch.
Nhu là khoan dãn, đợi thời cơ.
Trước mặt hiểm nguy, phải biết chờ.
Cương kiện, nhưng không mua chuốc hiểm,
Nên không cùng khốn, với sa cơ.
Nhu vững niềm tin, sáng sủa ra,
Chính trinh, may mắn sẽ chờ ta,
Vị ở ngôi Trời, trung chính đủ,
Dẫu phải vượt sông, vẫn lợi mà !
Vượt sông, cũng vẫn hay ho,
Việc làm sau, trước đều là thành công.
Thoán Từ & Thoán Truyện bàn về quẻ Nhu một cách tổng quát: Trong trường hợp gặp nguy hiểm, nếu mình là người tài đức, minh chính, tự tín, tự cường, lại khôn ngoan biết lựa thời, lựa thế, không mua chuốc cho mình những nguy hiểm vô ích, thì đến khi hành sự chắc sẽ được hay.
Nhu lấy Hào Cửu ngũ làm chủ chốt. Cửu ngũ Dương cương, lại cư trung, đắc thiên vị, cho nên nơi Thoán Từ, ta thấy nói đến sự thành khẩn, phu tín, trinh chính v v... Thoán Từ với câu: Lợi thiệp đại xuyên, làm ta liên tưởng đến Võ Vương đang chuẩn bị mạo hiểm vượt sông Hoàng Hà ( năm II trước Công nguyên), để đánh Trụ Vương.
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết:
象 曰: 雲 上 於 天,需﹔君 子 以 飲 食 宴 樂。
Vân thượng ư thiên. Nhu. Quân tử dĩ ẩm thực yến lạc.
Dịch.
Tượng rằng: Mây ở trên trời,
Uống ăn, quân tử thảnh thơi vui vầy.
Tượng Truyện khuyên ta rằng: Phàm làm công chuyện gì, mà mình đã làm hết sức, thời không nên nóng nẩy muốn gặt hái ngay thành quả...Trái lại, hãy nên bình tĩnh, hãy dưỡng thân, dưỡng tâm, dưỡng trí, dưỡng thần, đợi chờ ngày thành công tới. Như thế, có khác gì Khương Tử Nha, ngồi câu nơi sông Vị, chờ ngày Văn Vương tới rước về làm Thượng Phụ đâu?.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.
Sáu Hào quẻ Nhu chủ trương rằng: Dở, hay, không phải là chỗ ở xa, hay gần nguy hiểm, mà là ở chỗ biết chờ thời, hay không biết chờ thời. Gặp Hào Dương cương, thì khuyên nên nén lòng chờ đợi. Gặp Hào Âm nhu, thời dạy phải mềm dẻo để thoát nguy.
1. Hào Sơ Cửu.
初 九. 需 于 郊。 利 用 恆,無 咎。
象 曰: 需 于 郊,不 犯 難 行 也。 利 用 恆,無 咎﹔未 失 常 也。
Sơ Cửu.
Nhu vu giao. Lợi dụng hằng. Vô cữu.
Tượng viết:
Nhu vu giao. Bất phạm nạn hành dã. Lợi dụng hằng vô cữu.
Vị thất thường dã.
Dịch. Sơ Cửu:
Chờ trông ở cánh đồng,
Bền gan mọi sự sẽ nên công.
Bền bỉ chờ trông, không đáng trách,
(Trách sao được kẻ biết chờ mong).
Tượng rằng: Đợi ở ngoài đồng,
Khó khăn, trắc trở, ta không lao vào.
Bền gan, lợi ích biết bao,
An thường, thủ phận, trách sao được mình !
Gặp thời buổi hiểm nguy, ly loạn, nhưng mà mình được cái may mắn còn ở xa nguy hiểm. Tưởng nên bắt chước Khổng Minh, khi còn ở Ngọa Long Cương, giữ tròn Đạo lý, khí tiết, đừng có dại dấn thân một cách vô lý vào nguy hiểm, phong trần, để mắc họa thất cơ, lỡ vận. Thế mới là hay.
2. Hào Cửu nhị.
九 二. 需 于 沙。小 有 言,終 吉。
象 曰: 需 于 沙,衍 在 中 也。雖 小 有 言,以 終 吉 也。
Cửu nhị. Nhu vu sa. Tiểu hữu ngôn. Chung cát.
Tượng viết.
Nhu vu sa. Diễn tại trung dã. Tuy tiểu hữu ngôn. Dĩ cát trung dã.
Dịch.
Hào Cửu nhị: đợi ngoài bãi cát,
Mặc xì xào, sau rốt sẽ hay.
Tượng rằng: Trên cát chờ trông,
Ngôi trung thanh thản, thung dung đợi chờ.
Mặc người đàm tiếu, nhỏ to,
Nhưng mà chung cuộc, bao giờ cũng hay.
Mình tuy đã gần hiểm nguy, mà vẫn giữ được bình tĩnh, trung chính, kiên nhẫn. Dẫu người không hiểu mình, mà nhỏ to, đàm tiếu, thời có hại chi đâu. Thế tức là:
Anh hùng chưa được cao nhân phục,
Khuất tiết, sui nên kẻ sĩ lờn!
3. Hào Cửu tam.
九 三. 需 于 泥,致 寇 至。
象 曰: 需 于 泥,災 在 外 也。 自 我 致 寇,敬 慎 不 敗 也。
Cửu tam. Nhu vu nê. Trí khấu chí.
Tượng viết.
Nhu vu nê. Tai tại ngoại dã. Tự ngã trí khấu. Kính thận bất bại dã.
Dịch.
Hào Cửu tam: trong bùn đứng đợi,
Có khác gì mời gọi giặc đâu?
Tượng rằng: Đợi ở trong bùn,
Hiểm nguy đã thấy nấp nom phía ngoài.
Tự ta gọi giặc tới nơi,
Hết lòng thận trọng, thoát thời bại vong.
Ở gần nguy hiểm, nếu không biết tự kiềm chế, mà cứ xông xáo tiến lên, thì có khác nào chiêu tai hoạ vào mình, mời giặc cướp tới hại mình đâu. Nhược bằng biết sợ sệt, biết thận trọng, sẽ thoát hiểm.
Đọc Hào này ta liên tưởng đến Tào Tháo, lúc sắp mắc trận hỏa công nơi sông Xích Bích, mà vẫn còn ngạo nghễ, không coi đối phương ra gì, vẫn uống rượu, thưởng trăng, ca ngâm, hớn hở. Tào tháo có biết đâu rằng mấy câu thơ của mình
Đêm nay, sao sáng, trăng thanh,
Về Nam, con quạ lao mình trên không,
Lượn quanh cây lớn ba vòng,
Tìm không chỗ đậu, lại vùng bay mau . . .
ít ngày nữa sẽ ứng vào mình, một tướng thảm bại, lạc lõng nơi Hoa Dung tiểu lộ, khuất kỷ cầu sinh. . .
4. Hào Lục tứ.
六 四. 需 于 血,出 自 穴。
象 曰: 需 于 血,順 以 聽 也。
Lục tứ. Nhu vu huyết. Xuất tự huyệt.
Tượng viết.
Nhu vu huyết. Thuận dĩ thính dã.
Dịch.
Hào Lục tứ: đợi chờ trong huyết,
Dẫu lọt vào hãm huyệt vẫn ra.
Tượng rằng: Trong máu đợi chờ.
Tùy thời xử sự, có cơ thoát nàn.
Mình dẫu đã lâm vào vòng nguy hiểm, nhưng nếu biết nhu thuận, tùy thời xử sự, thì cuối cùng cũng sẽ thoát hiểm. Hào này làm ta liên tưởng tới Văn Vương, lúc bị giam nơi Dũ Lý. Trong vòng 7 năm, hằng ngày Trụ Vương sai người dò thám, bắt lỗi Văn Vương để mà trừ khử đi, nhưng vì Văn Vương khéo xử sự, nên Trụ Vương không làm gì được, cuối cùng đành phải phong tặng, và cho về nước.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五. 需 于 酒 食,貞 吉。
象曰: 酒 食 貞 吉,以 中 正 也。
Cửu ngũ. Nhu vu tửu thực. Trinh cát.
Tượng viết.
Tửu thực trinh cát. Dĩ trung chính dã.
Dịch.
Hào Cửu ngũ: đợi nơi ăn uống,
Cứ chính trinh, sẽ hưởng tốt lành.
Tượng rằng: Ăn uống, trông chờ,
Bền gan, trinh chính, rồi ra cát tường.
Chính trung, giữ vẹn lẽ thường.
Khi mình đã mài miệt học hành, một dạ tu thân, hoặc khi mình đã thi triển hết tài năng để trị dân, trị nước, mà chưa thâu lượm được những thành quả hiển nhiên, thì đừng vội sốt ruột. Hãy biết vững bụng chờ thời. Hào này làm ta nhớ mấy câu thơ của Chu Du:
Trượng phu phải lập công danh,
Công danh đã thỏa bình sinh trên đời.
Bình sinh, chí đã thỏa rồi,
Uống say, ta hát mấy lời ca ngông !
6. Hào Thượng Lục.
九 五. 需 于 酒 食,貞 吉。
象 曰: 酒 食 貞 吉,以 中 正 也。
Thượng Lục. Nhập vu huyệt. Hữu bất tốc chi khách tam nhân lai.
Kính chi trung cát.
Tượng viết.
Bất tốc chi khách lai. Kính chi chung cát. Tuy bất đáng vị. Vị đại thất dã.
Dịch.
Hào Thượng Lục: sa vào địa huyệt,
Khách ba người chẳng biết tự đâu,
Đãi đằng, kính cẩn trước sau,
Rồi ra, muôn sự một mầu an vui.
Tượng rằng: Không cầu, khách vẫn đến nơi,
Đãi đằng, kính cẩn, chuyện rồi sẽ êm.
Vị ngôi chẳng xứng, chẳng nên,
Rồi ra cũng bớt tần phiền, dở dang.
Cũng có người mắc phải hiểm nguy ghê gớm, nhưng vì có bạn bè đông đúc, hết lòng phù ủng, nên đã thoát hiểm. Đó là trường hợp Tiết Nhân Quí bị Lý Đạo Tông hãm hại, đến nỗi lâm đại nạn, may nhờ bè bạn bên ngoài như Uất Trì Cung, Từ Mậu Công, Trình Giảo Kim, hết lòng giúp đỡ, nên cuối cùng đã thoát được tai ương . . .
ÁP DỤNG QUẺ NHU VÀO THỜI ĐẠI
Gặp thời Nhu, vị nguyên thủ quốc gia phải nuôi dưỡng thiên hạ, cả về mặt tinh thần lẫn vật chất, chứ chẳng phải du ngoạn, yến ẩm, hoan lạc một mình.
Mây lơ lửng trên trời, rồi sau trước sẽ thành mưa, để nuôi dưỡng vạn vật, thì một nền hành chính đứng đắn, sau trước cũng phải đặt nặng vấn đề nuôi nấng vạn dân, vì vậy Chính Phủ phải lập các ngân khoản trợ cấp, học bổng, cho vay dài hạn, để giáo dưỡng hàng sĩ phu trong thiên hạ, và đào tạo những anh tài, những nhà bác học cho đất nước; xem xét việc trồng tỉa, khai khẩn, để nuôi dưỡng chúng dân, cung cấp quân lương đầy đủ để nuôi dưỡng binh lính, thu thập thuế má cho đầy đủ để nuôi nấng công chức của quốc gia, để mọi người đều được tự tại, thoải mái, thảnh thơi. Muốn được vậy, đâu phải công chuyện một sớm, một chiều.
Trên, ta mới bàn qua về mặt vật chất, mà một vị Nguyên thủ quốc gia, và Lưỡng viện của chính phủ phải lo cho dân. Còn về mặt tinh thần, cũng phải lo giáo hóa dân, từ lớp Mẫu giáo cho đến tuổi thành niên. Phải nâng đỡ những nhà Văn, nhà Báo, những nhà Tư tưởng, để họ có đủ khả năng về vật chất để ấn loát, mà truyền bá tư tưởng, truyền bá những cái hay, cái đẹp cho thế hệ sau này ( Mục này tôi nghĩ các quốc gia trên thế giới quả là quá khiếm khuyết),
Quẻ Nhu còn khuyên ta: Phải biết chờ đợi. Phàm công chuyện gì mà mình đã làm hết sức, thời không nên nóng nẩy muốn gặt hái ngay thành quả. . .
Trái lại, hãy nên bình tĩnh, hãy dưỡng tâm, dưỡng trí, dưỡng thần, mà đợi ngày thành công tới.
Áp dụng vào ngày nay, có nhiều người ra trường mà không sao xin được việc làm. Ta phải bình tâm, suy xét xem ta đã khiếm khuyết cái gì. Sau khi biết, ta sẽ dễ dàng sửa chữa nó, và sau ta sẽ thấy ta xin việc dễ hơn trước nhiều. Ta đừng vội nản, và cho rằng Trời chẳng thương ta, hoặc sao số ta xui quá. Ta hãy phân tích xem ta đã làm theo những giai đoạn này chưa?
1. Môn ta đang học, ta có thật thích nó không? Hay chỉ theo học vì nó có cái bề ngoài sang trọng, hoặc là học theo sở thích của cha mẹ muốn nó. Nếu không thật thích, sao ta có thể hết sức cố gắng, chuyên cần, để hiểu nó một cách tường tận được.
2. Trong thời gian học, ta nên lợi dụng thời kỳ nghỉ hè, để xin vào làm công việc, giống như môn học của ta, để ta lấy kinh nghiệm, sau này khi tốt nghiệp ra ta dễ xin việc. Nếu có thể, hàng năm ta nên tập sự cùng một chỗ hay hơn, như vậy những nhân viên có kinh nghiệm trong sở, họ sẽ chỉ dẫn kinh nghiệm của họ cho ta một cách tường tận hơn.
3. Sau khi đã áp dụng 1, 2 ở trên mà ta cũng không xin được việc, thì là vì khả năng hấp thụ sự hiểu biết của ta hơi yếu. Nhưng đừng vội thất vọng, hãy tiếp tục học những lớp huấn luyện thêm về môn đó, nếu ta còn có đủ điều kiện vật chất để tiếp tục, nếu thiếu điều kiện, ta hãy xin một công việc thấp hơn ( dù nó ít lương hơn nhiều), nhưng phải cùng giống môn học của ta, và ta vẫn phải tiếp tục học lớp huấn luyện. Ta đừng bao giờ nản chí, như vậy sự thành công chắc chắn sẽ đến với ta.
Nhu Tự Quái
需 序 卦
Vật trĩ bất khả bất dưỡng dã
物 稚 不 可 不 養 也,
Cố thụ chi dĩ Nhu
故 受 之 以 需﹔
Nhu giả ẩm thực chi đạo dã.
需 者 飲 食 之 道 也。
Nhu Tự Quái
Mông là dốt nát, mịt mùng, thơ ngây.
Thơ ngây, nuôi dưỡng mới hay,
Cho nên kế tiếp quẻ này, là Nhu.
Nhu là ẩm thực, ấm no. . .
Nhu theo Từ nguyên, gồm hai chữ: Vũ là mưa, Chuyên là cây non. Nghĩa là cây non mới mọc, cần được mưa móc đượm nhuần, nuôi dưỡng.
Vì thế Nhu có nghĩa đầu tiên là Ăn uống. Nhu theo Tượng quẻ là mây kéo đầy trời, nhưng chưa mưa. Phải chờ một khoảng thời gian nữa mới mưa.
Nhu thành bởi Kiền (lão phụ = cha già), và Khảm (thứ nam), cũng gợi lên hình ảnh một người cha già đứng tựa cửa chờ con ở xa chưa về.
Nhu theo đức quẻ, thì là hiểm nguy (Khảm) ở trước mặt. Cho nên người quân tử phải sáng suốt (Kiền), phải biết khoan dãn, đợi thời, đừng có đâm vào vòng nguy hiểm.
Như vậy Nhu có 2 nghĩa:
1/ Tu dưỡng, ăn uống (nơi Tự Quái, Tượng, Hào 5)
2/ Chờ đợi thời cơ ( nơi Hào 1, 2, 3, 4,và 6 ).
Thoán Từ, Thoán Truyện, bất kỳ ở một quẻ nào cũng bàn tổng quát quẻ đó. Nhu lấy Hào Cửu ngũ làm chủ Hào
I. Thoán.
Thoán Từ.
需:有 孚,光 亨,貞 吉。 利 涉 大 川。
Nhu. Hữu phu. Quang hanh. Trinh cát. Lợi thiệp đại xuyên.
Dịch.
Nhu là khoan dãn, đợi thời cơ,
Vững tin, vận sẽ sáng sủa ra.
Trinh chính rồi ra may mắn tới.
Tuy phải vượt sông, vẫn lợi mà.
Thoán Truyện viết:
需, 須 也﹔ 險 在 前 也。剛 健 而 不 陷,其 義 不 困 窮 矣。需, 有 孚,光 亨,貞 吉。位 乎 天 位,以 正 中 也。利 涉 大 川,往 有 功 也。
Nhu. Tu dã. Hiểm tại tiền dã. Cương kiện nhi bất hãm. Kỳ nghĩa bất khốn cùng hỹ. Nhu. Hữu phu quang hanh trinh cát. Vị hồ thiên vị. Dĩ chính trung dã. Lợi thiệp đại xuyên. Vãng hữu công dã.
Dịch.
Nhu là khoan dãn, đợi thời cơ.
Trước mặt hiểm nguy, phải biết chờ.
Cương kiện, nhưng không mua chuốc hiểm,
Nên không cùng khốn, với sa cơ.
Nhu vững niềm tin, sáng sủa ra,
Chính trinh, may mắn sẽ chờ ta,
Vị ở ngôi Trời, trung chính đủ,
Dẫu phải vượt sông, vẫn lợi mà !
Vượt sông, cũng vẫn hay ho,
Việc làm sau, trước đều là thành công.
Thoán Từ & Thoán Truyện bàn về quẻ Nhu một cách tổng quát: Trong trường hợp gặp nguy hiểm, nếu mình là người tài đức, minh chính, tự tín, tự cường, lại khôn ngoan biết lựa thời, lựa thế, không mua chuốc cho mình những nguy hiểm vô ích, thì đến khi hành sự chắc sẽ được hay.
Nhu lấy Hào Cửu ngũ làm chủ chốt. Cửu ngũ Dương cương, lại cư trung, đắc thiên vị, cho nên nơi Thoán Từ, ta thấy nói đến sự thành khẩn, phu tín, trinh chính v v... Thoán Từ với câu: Lợi thiệp đại xuyên, làm ta liên tưởng đến Võ Vương đang chuẩn bị mạo hiểm vượt sông Hoàng Hà ( năm II trước Công nguyên), để đánh Trụ Vương.
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết:
象 曰: 雲 上 於 天,需﹔君 子 以 飲 食 宴 樂。
Vân thượng ư thiên. Nhu. Quân tử dĩ ẩm thực yến lạc.
Dịch.
Tượng rằng: Mây ở trên trời,
Uống ăn, quân tử thảnh thơi vui vầy.
Tượng Truyện khuyên ta rằng: Phàm làm công chuyện gì, mà mình đã làm hết sức, thời không nên nóng nẩy muốn gặt hái ngay thành quả...Trái lại, hãy nên bình tĩnh, hãy dưỡng thân, dưỡng tâm, dưỡng trí, dưỡng thần, đợi chờ ngày thành công tới. Như thế, có khác gì Khương Tử Nha, ngồi câu nơi sông Vị, chờ ngày Văn Vương tới rước về làm Thượng Phụ đâu?.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.
Sáu Hào quẻ Nhu chủ trương rằng: Dở, hay, không phải là chỗ ở xa, hay gần nguy hiểm, mà là ở chỗ biết chờ thời, hay không biết chờ thời. Gặp Hào Dương cương, thì khuyên nên nén lòng chờ đợi. Gặp Hào Âm nhu, thời dạy phải mềm dẻo để thoát nguy.
1. Hào Sơ Cửu.
初 九. 需 于 郊。 利 用 恆,無 咎。
象 曰: 需 于 郊,不 犯 難 行 也。 利 用 恆,無 咎﹔未 失 常 也。
Sơ Cửu.
Nhu vu giao. Lợi dụng hằng. Vô cữu.
Tượng viết:
Nhu vu giao. Bất phạm nạn hành dã. Lợi dụng hằng vô cữu.
Vị thất thường dã.
Dịch. Sơ Cửu:
Chờ trông ở cánh đồng,
Bền gan mọi sự sẽ nên công.
Bền bỉ chờ trông, không đáng trách,
(Trách sao được kẻ biết chờ mong).
Tượng rằng: Đợi ở ngoài đồng,
Khó khăn, trắc trở, ta không lao vào.
Bền gan, lợi ích biết bao,
An thường, thủ phận, trách sao được mình !
Gặp thời buổi hiểm nguy, ly loạn, nhưng mà mình được cái may mắn còn ở xa nguy hiểm. Tưởng nên bắt chước Khổng Minh, khi còn ở Ngọa Long Cương, giữ tròn Đạo lý, khí tiết, đừng có dại dấn thân một cách vô lý vào nguy hiểm, phong trần, để mắc họa thất cơ, lỡ vận. Thế mới là hay.
2. Hào Cửu nhị.
九 二. 需 于 沙。小 有 言,終 吉。
象 曰: 需 于 沙,衍 在 中 也。雖 小 有 言,以 終 吉 也。
Cửu nhị. Nhu vu sa. Tiểu hữu ngôn. Chung cát.
Tượng viết.
Nhu vu sa. Diễn tại trung dã. Tuy tiểu hữu ngôn. Dĩ cát trung dã.
Dịch.
Hào Cửu nhị: đợi ngoài bãi cát,
Mặc xì xào, sau rốt sẽ hay.
Tượng rằng: Trên cát chờ trông,
Ngôi trung thanh thản, thung dung đợi chờ.
Mặc người đàm tiếu, nhỏ to,
Nhưng mà chung cuộc, bao giờ cũng hay.
Mình tuy đã gần hiểm nguy, mà vẫn giữ được bình tĩnh, trung chính, kiên nhẫn. Dẫu người không hiểu mình, mà nhỏ to, đàm tiếu, thời có hại chi đâu. Thế tức là:
Anh hùng chưa được cao nhân phục,
Khuất tiết, sui nên kẻ sĩ lờn!
3. Hào Cửu tam.
九 三. 需 于 泥,致 寇 至。
象 曰: 需 于 泥,災 在 外 也。 自 我 致 寇,敬 慎 不 敗 也。
Cửu tam. Nhu vu nê. Trí khấu chí.
Tượng viết.
Nhu vu nê. Tai tại ngoại dã. Tự ngã trí khấu. Kính thận bất bại dã.
Dịch.
Hào Cửu tam: trong bùn đứng đợi,
Có khác gì mời gọi giặc đâu?
Tượng rằng: Đợi ở trong bùn,
Hiểm nguy đã thấy nấp nom phía ngoài.
Tự ta gọi giặc tới nơi,
Hết lòng thận trọng, thoát thời bại vong.
Ở gần nguy hiểm, nếu không biết tự kiềm chế, mà cứ xông xáo tiến lên, thì có khác nào chiêu tai hoạ vào mình, mời giặc cướp tới hại mình đâu. Nhược bằng biết sợ sệt, biết thận trọng, sẽ thoát hiểm.
Đọc Hào này ta liên tưởng đến Tào Tháo, lúc sắp mắc trận hỏa công nơi sông Xích Bích, mà vẫn còn ngạo nghễ, không coi đối phương ra gì, vẫn uống rượu, thưởng trăng, ca ngâm, hớn hở. Tào tháo có biết đâu rằng mấy câu thơ của mình
Đêm nay, sao sáng, trăng thanh,
Về Nam, con quạ lao mình trên không,
Lượn quanh cây lớn ba vòng,
Tìm không chỗ đậu, lại vùng bay mau . . .
ít ngày nữa sẽ ứng vào mình, một tướng thảm bại, lạc lõng nơi Hoa Dung tiểu lộ, khuất kỷ cầu sinh. . .
4. Hào Lục tứ.
六 四. 需 于 血,出 自 穴。
象 曰: 需 于 血,順 以 聽 也。
Lục tứ. Nhu vu huyết. Xuất tự huyệt.
Tượng viết.
Nhu vu huyết. Thuận dĩ thính dã.
Dịch.
Hào Lục tứ: đợi chờ trong huyết,
Dẫu lọt vào hãm huyệt vẫn ra.
Tượng rằng: Trong máu đợi chờ.
Tùy thời xử sự, có cơ thoát nàn.
Mình dẫu đã lâm vào vòng nguy hiểm, nhưng nếu biết nhu thuận, tùy thời xử sự, thì cuối cùng cũng sẽ thoát hiểm. Hào này làm ta liên tưởng tới Văn Vương, lúc bị giam nơi Dũ Lý. Trong vòng 7 năm, hằng ngày Trụ Vương sai người dò thám, bắt lỗi Văn Vương để mà trừ khử đi, nhưng vì Văn Vương khéo xử sự, nên Trụ Vương không làm gì được, cuối cùng đành phải phong tặng, và cho về nước.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五. 需 于 酒 食,貞 吉。
象曰: 酒 食 貞 吉,以 中 正 也。
Cửu ngũ. Nhu vu tửu thực. Trinh cát.
Tượng viết.
Tửu thực trinh cát. Dĩ trung chính dã.
Dịch.
Hào Cửu ngũ: đợi nơi ăn uống,
Cứ chính trinh, sẽ hưởng tốt lành.
Tượng rằng: Ăn uống, trông chờ,
Bền gan, trinh chính, rồi ra cát tường.
Chính trung, giữ vẹn lẽ thường.
Khi mình đã mài miệt học hành, một dạ tu thân, hoặc khi mình đã thi triển hết tài năng để trị dân, trị nước, mà chưa thâu lượm được những thành quả hiển nhiên, thì đừng vội sốt ruột. Hãy biết vững bụng chờ thời. Hào này làm ta nhớ mấy câu thơ của Chu Du:
Trượng phu phải lập công danh,
Công danh đã thỏa bình sinh trên đời.
Bình sinh, chí đã thỏa rồi,
Uống say, ta hát mấy lời ca ngông !
6. Hào Thượng Lục.
九 五. 需 于 酒 食,貞 吉。
象 曰: 酒 食 貞 吉,以 中 正 也。
Thượng Lục. Nhập vu huyệt. Hữu bất tốc chi khách tam nhân lai.
Kính chi trung cát.
Tượng viết.
Bất tốc chi khách lai. Kính chi chung cát. Tuy bất đáng vị. Vị đại thất dã.
Dịch.
Hào Thượng Lục: sa vào địa huyệt,
Khách ba người chẳng biết tự đâu,
Đãi đằng, kính cẩn trước sau,
Rồi ra, muôn sự một mầu an vui.
Tượng rằng: Không cầu, khách vẫn đến nơi,
Đãi đằng, kính cẩn, chuyện rồi sẽ êm.
Vị ngôi chẳng xứng, chẳng nên,
Rồi ra cũng bớt tần phiền, dở dang.
Cũng có người mắc phải hiểm nguy ghê gớm, nhưng vì có bạn bè đông đúc, hết lòng phù ủng, nên đã thoát hiểm. Đó là trường hợp Tiết Nhân Quí bị Lý Đạo Tông hãm hại, đến nỗi lâm đại nạn, may nhờ bè bạn bên ngoài như Uất Trì Cung, Từ Mậu Công, Trình Giảo Kim, hết lòng giúp đỡ, nên cuối cùng đã thoát được tai ương . . .
ÁP DỤNG QUẺ NHU VÀO THỜI ĐẠI
Gặp thời Nhu, vị nguyên thủ quốc gia phải nuôi dưỡng thiên hạ, cả về mặt tinh thần lẫn vật chất, chứ chẳng phải du ngoạn, yến ẩm, hoan lạc một mình.
Mây lơ lửng trên trời, rồi sau trước sẽ thành mưa, để nuôi dưỡng vạn vật, thì một nền hành chính đứng đắn, sau trước cũng phải đặt nặng vấn đề nuôi nấng vạn dân, vì vậy Chính Phủ phải lập các ngân khoản trợ cấp, học bổng, cho vay dài hạn, để giáo dưỡng hàng sĩ phu trong thiên hạ, và đào tạo những anh tài, những nhà bác học cho đất nước; xem xét việc trồng tỉa, khai khẩn, để nuôi dưỡng chúng dân, cung cấp quân lương đầy đủ để nuôi dưỡng binh lính, thu thập thuế má cho đầy đủ để nuôi nấng công chức của quốc gia, để mọi người đều được tự tại, thoải mái, thảnh thơi. Muốn được vậy, đâu phải công chuyện một sớm, một chiều.
Trên, ta mới bàn qua về mặt vật chất, mà một vị Nguyên thủ quốc gia, và Lưỡng viện của chính phủ phải lo cho dân. Còn về mặt tinh thần, cũng phải lo giáo hóa dân, từ lớp Mẫu giáo cho đến tuổi thành niên. Phải nâng đỡ những nhà Văn, nhà Báo, những nhà Tư tưởng, để họ có đủ khả năng về vật chất để ấn loát, mà truyền bá tư tưởng, truyền bá những cái hay, cái đẹp cho thế hệ sau này ( Mục này tôi nghĩ các quốc gia trên thế giới quả là quá khiếm khuyết),
Quẻ Nhu còn khuyên ta: Phải biết chờ đợi. Phàm công chuyện gì mà mình đã làm hết sức, thời không nên nóng nẩy muốn gặt hái ngay thành quả. . .
Trái lại, hãy nên bình tĩnh, hãy dưỡng tâm, dưỡng trí, dưỡng thần, mà đợi ngày thành công tới.
Áp dụng vào ngày nay, có nhiều người ra trường mà không sao xin được việc làm. Ta phải bình tâm, suy xét xem ta đã khiếm khuyết cái gì. Sau khi biết, ta sẽ dễ dàng sửa chữa nó, và sau ta sẽ thấy ta xin việc dễ hơn trước nhiều. Ta đừng vội nản, và cho rằng Trời chẳng thương ta, hoặc sao số ta xui quá. Ta hãy phân tích xem ta đã làm theo những giai đoạn này chưa?
1. Môn ta đang học, ta có thật thích nó không? Hay chỉ theo học vì nó có cái bề ngoài sang trọng, hoặc là học theo sở thích của cha mẹ muốn nó. Nếu không thật thích, sao ta có thể hết sức cố gắng, chuyên cần, để hiểu nó một cách tường tận được.
2. Trong thời gian học, ta nên lợi dụng thời kỳ nghỉ hè, để xin vào làm công việc, giống như môn học của ta, để ta lấy kinh nghiệm, sau này khi tốt nghiệp ra ta dễ xin việc. Nếu có thể, hàng năm ta nên tập sự cùng một chỗ hay hơn, như vậy những nhân viên có kinh nghiệm trong sở, họ sẽ chỉ dẫn kinh nghiệm của họ cho ta một cách tường tận hơn.
3. Sau khi đã áp dụng 1, 2 ở trên mà ta cũng không xin được việc, thì là vì khả năng hấp thụ sự hiểu biết của ta hơi yếu. Nhưng đừng vội thất vọng, hãy tiếp tục học những lớp huấn luyện thêm về môn đó, nếu ta còn có đủ điều kiện vật chất để tiếp tục, nếu thiếu điều kiện, ta hãy xin một công việc thấp hơn ( dù nó ít lương hơn nhiều), nhưng phải cùng giống môn học của ta, và ta vẫn phải tiếp tục học lớp huấn luyện. Ta đừng bao giờ nản chí, như vậy sự thành công chắc chắn sẽ đến với ta.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
8 THỦY ĐỊA TỈ
Tỉ Tự Quái
比 序 卦
Sư giả chúng dã
師 者 眾 也
Chúng tất hữu sở Tỉ.
眾 必 有 所 比
Cố thụ chi dĩ Tỉ.
故 受 之 以 比
Tỉ giả Tỉ dã.
比 者 比 也
Tỉ Tự Quái
Sư là quần chúng đua chen xa gần
Người đông, cần phải hợp quần.
Cho nên quẻ Tỉ theo chân tiếp liền,
Tỉ là tương hợp, tương liên.
Xưa nay, thường cắt nghĩa Tỉ là: Thân tỉ, Thân phụ (thân cận, phụ giúp), nhưng những chữ này xưa này không còn âm hưởng đến ta nữa; cần phải dùng những danhtừ mới như tương liên, hợp quần, quy dân tụ chúng, mới nói lên được hêt ý nghĩa.
Hào Cửu ngũ ở đây là một vị lãnh đạo anh minh, thống xuất toàn dân thiên hạ.
Quẻ Tỉ đề cập đến sự hợp quần, tương liên, tương trợ, lập nhà, lập nước. Phàm con người sinh ra đều có khuynh hướng hợp quần, sống cùng nhau, chung lưng góp sức, đỡ đần nhau, để xây dựng cuộc đời, chống lại mọi nguy nan hiểm họa, để mưu cầu hạnh phúc. Vì vậy chữ Tỉ là hai chữ Nhân lộn trái lại.
I. Thoán.
Thoán từ
比 . 吉 . 原 筮 元 永 貞 . 無 咎 . 不 寧 方 來 . 後 夫 凶 .
Tỉ. Cát. Nguyên phệ nguyên vĩnh trinh. Vô cữu. Bất ninh phương lai. Hậu phu hung.
Dịch.
Tỉ là quần tụ mới hay,
Suy đi nghĩ lại xem nay thế nào?
Cầm đầu, được đấng anh hào,
Sắt son, chính trực trách sao bây giờ?
Xa, gần nô nức theo hùa,
Kẻ nào lấp lửng, chần chờ, ra chi.
Quẻ Tỉ lấy đề tài chính là quy dân, tụ chúng để dựng nước, lập nhà. Quy dân tụ chúng, mà thựC thi được 3 chữ: Nguyên, Vĩnh, Trinh mới là hay.
- Nguyên là vị quân vương có đức độ, tài ba.
- Vĩnh là mưu đồ được những công trình trường cửu.
- Trinh là thực thi được chính đạo.
Người dưới thấy người trên thực thi được ba điều ấy, sẽ quy tụ về. Những ai sống lẻ loi, sẽ tự nhiên chiêu tai họa cho mình.
Thoán Truyện. Thoán viết:
比 . 吉 也 . 比 . 輔 也 . 下 順 從 也 . 原 筮 元 永 貞 無 咎 . 以 剛 中 也 . 不 寧 方 來 . 上 下 應 也 . 後 夫 凶 . 其 道 窮 也 .
Tỉ. Cát dã. Tỉ phụ dã. Hạ thuận tòng dã.
Nguyên phệ nguyên vĩnh trinh vô cữu. Dĩ cương trung dã. Bất ninh phưong lai. Thượng hạ ứng dã. Kỳ đạo cùng dã.
Dịch:
Thoán rằng: Hiệp nhất mới hay,
Tưong liên, tương trợ, xưa nay lẽ thường,
Dưới thời trung thuận, mới đang,
Người trên thời phải đàng hoàng, thanh cao,
Bền gan, chính trực, mới hào,
Hỏi lòng được thế, ai nào trách chi.
Quang minh, chính trực, uy nghi,
Ở ngôi trung chính, ai bì được đâu.
Gần, xa, quy tụ trước sau,
Duới trên ứng đối, gót đầu tương thân.
Lần khân, chẳng muốn hợp quần,
Những người như thế dần dần bại vong.
Người ta không thể tự mưu lấy an ninh, nên muốn hợp quần, chung lưng, đấu sức để bảo vệ lẫn nhau. Cho nên lúc hiểm nghèo, bất an thì vội vàng liên đới, hợp quần. Nếu sống riêng rẽ, lừng chừng, không chịu đoàn kết với nhau, ắt sẽ gặp họa hung.
Kiến An Khâu Thị bình rằng:
Tiên vương xưa chia dân thành từng chòm xóm năm mười nhà; canh tác trong cùng mộ cánh đồng, uống nước trong cùng một giếng nước, ra vào bè bạn với nhau, giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống thường nhật, phù trì nhau những lúc tật nguyền, thế cho nên được yên vui. Còn như để dân tan đàn, sẻ nghé, mỗi người bạt lạc một ngã, thì hung họa biết chừng nào.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 地 上 有 水 . 比 . 先 王 以 建 萬 國 . 親 諸 侯 .
Tượng viết:
Địa thương hữu thủy. Tỉ. Tiên vương dĩ khuyến vạn quốc, thân chư hầu.
Dịch. Tượng rằng:
Nước trên mặt đất mênh mang,
Tiên vương lập quốc, an bang theo đời.
Thân tình gieo rắc khắp nơi,
Chư hầu coi thể như người tình thân.
Tượng Truyện cho rằng xưa kia vua chúa trông thấy cảnh tượng đất, nưóc quấn quít lấy nhau, không hề rời nhau, xa nhau, bèn áp dụng ý niệm đó vào công việc tổ chức chính trị, xã hội, chia đất đai thành nhiều nước nhỏ, ủy nhiệm cho chư hầu cai trị, còn nhà vua thì cầm cân, nẩy mực ở trên, coi chư hầu như tay chân, coi dân chúng như mình mẩy, lúc nào cũng lo lắng, thương yêu dân. Thế là chia dân nước mình thành từng quốc gia, từng khu vực nhỏ, để dễ bề chăm sóc. Thật là chí tình vậy.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.
Các Hào bàn về những nguyên tắc chi phối sự hợp quần, tương thân, tương trợ:
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 有 孚 比 之 . 無 咎 . 有 孚 盈 缶 . 終 來 有 他 . 吉 .
象 曰 . 比 之 初 六 . 有 他 吉 也 .
Sơ Lục. Hữu phu tỉ chi. Vô cữu. Hũu phu doanh phẫu.
Chung lai hữu tha cát.
Tượng viết:
Tỉ chi sơ lục. Hữu tha cát dã.
Dịch.
Thành tâm tụ chúng mới hay,
Tâm thành như bát nước đầy tốt sao,
Rồi ra tốt tự ngoài vào,
Tượng rằng:
Thành tâm, tụ chúng tự ban đầu,
Tốt đẹp rồi ra sẽ đến sau.
Hào Sơ cho rằng muốn quy dân, tụ chúng, cần phải có lòng thành khẩn, trung thực. Đó là đều kiện tiên quyết. Nếu mà mình xử sự với mọi người như bát nước đầy, thì mọi sự tốt đẹp sẽ do đó sinh ra.
2. Hào Lục Nhị.
六 二 . 比 之 自 內 . 貞 吉 .
象 曰 . 比 之 自 內 . 不 自 失也 .
Lục nhị. Tỉ chi tự nội. Trinh cát.
Tượng viết:
Tỉ chi tự nội. Bất tự thất dã.
Dịch:
Đáp lời triệu thỉnh với tâm thành,
Chính đáng rồi ra sẽ tốt lành.
Tượng rằng:
Đáp lời triệu thỉnh với tâm thành,
Sẽ giữ chu toàn được tiết danh.
Hào Lục nhị. Nếu gặp được vị quốc quân cao minh tài đức, thì dĩ nhiên mình nên hưởng ứng, nên cộng tác. Nhưng hưởng ứng, cộng tác không phải là ca6`u cạnh, là tự hạ phẩm giá mình; ăn có mời, làm có khiến mới hay. Phải như Y Doãn, Khổng Minh, chờ cho có sự triệu thỉnh chân thành, rồi mới hưởng ứng.
3. Hào Lục tam.
六 三 . 比 之 匪 人 .
象 曰 . 比 之 匪 人 . 不 亦 傷 乎 .
Lục Tam. Tỉ chi phi nhân
Tượng viết:
Tỉ chi phi nhân. Bất diệc thương hồ.
Dịch.
Kết liên với kẻ chẳng hay.
Tượng rằng:
Kết liên với kẻ chẳng hay,
Kết liên như thế, thương thay cho người.
Hào Lục tam cho rằng: Khi hợp quần hay kết liên, ca6`n phải liên kết với người hay, người tốt mới có lợi, có ích. Nhược bằng liên kết với phường vô lại, lưu manh, thì chỉ có tổ họa hại mà thôi. Thật vậy, hợp quần, liên kết với những hạng vô luân, vô lại, nhỏ thì thành côn quãng, du đãng, lớn thì thành cướp, thành giặc, còn gì đáng sợ hơn.
4. Hào Lục Tứ
六 四 . 外 比 之 . 貞 吉 .
象 曰 . 外 比 於 賢 . 以 從 上 也 .
Lục tứ. Ngoại tỉ chi. Trinh cát
Tượng viết:
Ngoại tỉ ư hiền. Dĩ tòng thượng dã.
Dịch.
Kết liên với bậc hiền minh,
Thế thời chính đáng, tốt lành biết bao.
Tượng rằng:
Bên ngoài, liên kết hiền minh,
Tức là theo bậc trên mình đó thôi.
Hào Lục tứ cho rằng: Đã ở ngôi vị cậ thần, mà biết quên những lợi lộc, những tư tình nhỏ nhen, để hoàn toàn phục vụ minh chúa, thì còn gì hay hơn nữa. Đó là hiền thần mà gặp minh quân, chung lưng, góp sức mà xây dựng quốc gia.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 顯 比 . 王 用 三 驅 . 失 前 禽 . 邑 人 不 誡 . 吉 .
象 曰 . 顯 比 之 吉 . 位 正 中 也 . 舍 逆 取 順 . 失 前 禽 也 .
邑 人 不 誡 . 上 使 中 也 .
Cửu ngũ. Hiền tỉ. Vương dụng tam khu. Thất tiền cầm.
Ấp nhân bất giới. Cát.
Tượng viết:
Hiền tỉ chi cát. Vị chính trung dã.Xả ngịch thủ thuận.
Thất tiền cầm dã. Ấp nhân bất giới. Thượng sử trung dã.
Dịch.
Tụ chúng, quy dân, phép rõ ràng.
Vua vây ba mặt, bắt chim muông,
Phía trước chim bay, đành bỏ mất.
Dân không thắc mắc, mới là ngoan.
Tượng rằng:
Chiêu dân, phép đã rõ ràng,
Là nhờ trung chính, đành hoàng, mới hay.
Chẳng ưng, ta chẳng ép người,
Người nào ưng chịu, ta vời về ta,
Chim bay trước mặt bỏ qua,
Người không thuần phục, vét vơ làm gì.
Dân không thắc mắc điều chi,
Vì ta trung chính, không vì, không thiên.
Hào Cửu Ngũ là một vị minh quân, minh chính, lỗi lạc như Bắc Thần, để muôn sao hướng về. Vị minh quân đó lấy tài sức, chính nghĩa của mình làm chiêu bài để quy tụ dân, chứ không dùng sự khủng bố áp bức, ai muốn theo thì theo, không cưỡng ép.
Thế tức là:
Tiễn đưa người muốn ruỗi rong,
Sẵn sàng đón rước kẻ mong về minh.
Người có đức, tâm thành khen ngợi,
Người vô năng, cảm nỗi xót thương.
Dĩ nhiên hiền đức tu phương,
Mến ta, họ sẽ tìm đường về ta.
(Trung Dung Cửu Kinh)
Người xưa gọi thế là: Lai giả bất cự, khứ giả bất truy. (Tới không ngăn, đi không bắt).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 比 之 無 首 . 凶 .
象 曰 . 比 之 無 首 . 無 所 終 也 .
Thượng lục. Tỉ chi vô thủ. Hung.
Tượng viết:
Tỉ chi vô thủ. Vô sở chung dã.
Dịch:
Tụ dân chẳng có mối manh,
Không manh, không mối, tốt lành làm sao.
Tượng rằng:
Tụ dân, mà hỏng từ đầu
Lúc đầu đà hỏng, thời sau còn gì?
Hào Thượng Lục kết thúc vấn đề quy dân, tụ chúng bằng một nhận xét tinh tế: nếu quy dân, tụ chúng lúc ban đầu thiếu chính nghĩa, không ra gì, thì chung cuộc cũng chẳng ra chi.
ÁP DỤNG QUẺ TỈ VÀO THỜI ĐẠI
Quẻ Tỉ áp dụng một định luật tự nhiên vào đời sống xã hội: đó là định luật vạn vật hấp dẫn. Định luật vô hình ấy được thể hiện nơi đất và nước. Đất và nước bao giờ cũng tương thân, tương trợ. Suy ra con người phải tương thân, tương trợ, phải thành khẩn để chung lưng, góp sức cùng nhau, mới có thể xây dựng cho mình một tương lai hạnh phúc và lý tưởng.
Để trình bầy lại những nguyên tắc chi phối sự quy dân, tụ chúng theo từ ngữ hiện thời, chúng ta có thể nói như sau:
1. Người được ủy nhiệm có sứ mệnh tổ chức chính trị, hành chánh trong nước phải là người tài ba lỗi lạc, chứ không phải là những hạng chính trị gian ngoan, giảo quyệt.
a) Làm rồi, xin lỗi, rồi giải thích
b) Làm rồi chối, rồi đổ lỗi cho người.
c) Chia rẽ để mà trị (Tức là gây rối loạn trong hàng ngũ ngưòi, trong dân nước người, để đứng ngoài thủ lợi).
2. Quy dân, tụ chúng, dựng nước, dựng nhà, tổ chức xã hội phải có mục đích cao đại lâu dài, đó là đem lại tự do, hạnh phúc cho dận chúng, và giúp cho mọi người có điều kiện thuận tiện để thực hiện nhân vị, nhân cách mình. Quẻ Tỉ có mục đích đề cao tình tương thân, tương trợ giữa vua tôi, sự đoàn két nhất trí giữa các phần tử nắm chánh quyền để phục vụ chúng dân, sự thành khẩn trong khi giao tiếp, đối đãi, và sự đồng tâm, nhất trí của mọi người trong thiên hạ, để tiến tới thái bình thịnh trị, tiến tới lý tưởng.
Thánh nhân xưa đã có ý niệm: bốn bể là một nhà, muôn nước là một nhà. Nếu sau này mọi người đều chủ trương tương thân tương ái, đoàn kết, trọng nhân, trọng nghĩa, coi biên cương bờ cõi quốc gia nhỏ hẹp như là một cách tổ chức để mọi người được săn sóc một các chu đáo hơn, cẩn thận hơn, nếu mọi người sau này thực tình lấy đạo nghĩa mà đối xử vói nhau, thực tình đoàn kết với nhau, thì chiến tranh sẽ hết và một thời đại thân ái, hoà mục sẽ có trên hoàn võ này.
Tỉ Tự Quái
比 序 卦
Sư giả chúng dã
師 者 眾 也
Chúng tất hữu sở Tỉ.
眾 必 有 所 比
Cố thụ chi dĩ Tỉ.
故 受 之 以 比
Tỉ giả Tỉ dã.
比 者 比 也
Tỉ Tự Quái
Sư là quần chúng đua chen xa gần
Người đông, cần phải hợp quần.
Cho nên quẻ Tỉ theo chân tiếp liền,
Tỉ là tương hợp, tương liên.
Xưa nay, thường cắt nghĩa Tỉ là: Thân tỉ, Thân phụ (thân cận, phụ giúp), nhưng những chữ này xưa này không còn âm hưởng đến ta nữa; cần phải dùng những danhtừ mới như tương liên, hợp quần, quy dân tụ chúng, mới nói lên được hêt ý nghĩa.
Hào Cửu ngũ ở đây là một vị lãnh đạo anh minh, thống xuất toàn dân thiên hạ.
Quẻ Tỉ đề cập đến sự hợp quần, tương liên, tương trợ, lập nhà, lập nước. Phàm con người sinh ra đều có khuynh hướng hợp quần, sống cùng nhau, chung lưng góp sức, đỡ đần nhau, để xây dựng cuộc đời, chống lại mọi nguy nan hiểm họa, để mưu cầu hạnh phúc. Vì vậy chữ Tỉ là hai chữ Nhân lộn trái lại.
I. Thoán.
Thoán từ
比 . 吉 . 原 筮 元 永 貞 . 無 咎 . 不 寧 方 來 . 後 夫 凶 .
Tỉ. Cát. Nguyên phệ nguyên vĩnh trinh. Vô cữu. Bất ninh phương lai. Hậu phu hung.
Dịch.
Tỉ là quần tụ mới hay,
Suy đi nghĩ lại xem nay thế nào?
Cầm đầu, được đấng anh hào,
Sắt son, chính trực trách sao bây giờ?
Xa, gần nô nức theo hùa,
Kẻ nào lấp lửng, chần chờ, ra chi.
Quẻ Tỉ lấy đề tài chính là quy dân, tụ chúng để dựng nước, lập nhà. Quy dân tụ chúng, mà thựC thi được 3 chữ: Nguyên, Vĩnh, Trinh mới là hay.
- Nguyên là vị quân vương có đức độ, tài ba.
- Vĩnh là mưu đồ được những công trình trường cửu.
- Trinh là thực thi được chính đạo.
Người dưới thấy người trên thực thi được ba điều ấy, sẽ quy tụ về. Những ai sống lẻ loi, sẽ tự nhiên chiêu tai họa cho mình.
Thoán Truyện. Thoán viết:
比 . 吉 也 . 比 . 輔 也 . 下 順 從 也 . 原 筮 元 永 貞 無 咎 . 以 剛 中 也 . 不 寧 方 來 . 上 下 應 也 . 後 夫 凶 . 其 道 窮 也 .
Tỉ. Cát dã. Tỉ phụ dã. Hạ thuận tòng dã.
Nguyên phệ nguyên vĩnh trinh vô cữu. Dĩ cương trung dã. Bất ninh phưong lai. Thượng hạ ứng dã. Kỳ đạo cùng dã.
Dịch:
Thoán rằng: Hiệp nhất mới hay,
Tưong liên, tương trợ, xưa nay lẽ thường,
Dưới thời trung thuận, mới đang,
Người trên thời phải đàng hoàng, thanh cao,
Bền gan, chính trực, mới hào,
Hỏi lòng được thế, ai nào trách chi.
Quang minh, chính trực, uy nghi,
Ở ngôi trung chính, ai bì được đâu.
Gần, xa, quy tụ trước sau,
Duới trên ứng đối, gót đầu tương thân.
Lần khân, chẳng muốn hợp quần,
Những người như thế dần dần bại vong.
Người ta không thể tự mưu lấy an ninh, nên muốn hợp quần, chung lưng, đấu sức để bảo vệ lẫn nhau. Cho nên lúc hiểm nghèo, bất an thì vội vàng liên đới, hợp quần. Nếu sống riêng rẽ, lừng chừng, không chịu đoàn kết với nhau, ắt sẽ gặp họa hung.
Kiến An Khâu Thị bình rằng:
Tiên vương xưa chia dân thành từng chòm xóm năm mười nhà; canh tác trong cùng mộ cánh đồng, uống nước trong cùng một giếng nước, ra vào bè bạn với nhau, giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống thường nhật, phù trì nhau những lúc tật nguyền, thế cho nên được yên vui. Còn như để dân tan đàn, sẻ nghé, mỗi người bạt lạc một ngã, thì hung họa biết chừng nào.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 地 上 有 水 . 比 . 先 王 以 建 萬 國 . 親 諸 侯 .
Tượng viết:
Địa thương hữu thủy. Tỉ. Tiên vương dĩ khuyến vạn quốc, thân chư hầu.
Dịch. Tượng rằng:
Nước trên mặt đất mênh mang,
Tiên vương lập quốc, an bang theo đời.
Thân tình gieo rắc khắp nơi,
Chư hầu coi thể như người tình thân.
Tượng Truyện cho rằng xưa kia vua chúa trông thấy cảnh tượng đất, nưóc quấn quít lấy nhau, không hề rời nhau, xa nhau, bèn áp dụng ý niệm đó vào công việc tổ chức chính trị, xã hội, chia đất đai thành nhiều nước nhỏ, ủy nhiệm cho chư hầu cai trị, còn nhà vua thì cầm cân, nẩy mực ở trên, coi chư hầu như tay chân, coi dân chúng như mình mẩy, lúc nào cũng lo lắng, thương yêu dân. Thế là chia dân nước mình thành từng quốc gia, từng khu vực nhỏ, để dễ bề chăm sóc. Thật là chí tình vậy.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.
Các Hào bàn về những nguyên tắc chi phối sự hợp quần, tương thân, tương trợ:
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 有 孚 比 之 . 無 咎 . 有 孚 盈 缶 . 終 來 有 他 . 吉 .
象 曰 . 比 之 初 六 . 有 他 吉 也 .
Sơ Lục. Hữu phu tỉ chi. Vô cữu. Hũu phu doanh phẫu.
Chung lai hữu tha cát.
Tượng viết:
Tỉ chi sơ lục. Hữu tha cát dã.
Dịch.
Thành tâm tụ chúng mới hay,
Tâm thành như bát nước đầy tốt sao,
Rồi ra tốt tự ngoài vào,
Tượng rằng:
Thành tâm, tụ chúng tự ban đầu,
Tốt đẹp rồi ra sẽ đến sau.
Hào Sơ cho rằng muốn quy dân, tụ chúng, cần phải có lòng thành khẩn, trung thực. Đó là đều kiện tiên quyết. Nếu mà mình xử sự với mọi người như bát nước đầy, thì mọi sự tốt đẹp sẽ do đó sinh ra.
2. Hào Lục Nhị.
六 二 . 比 之 自 內 . 貞 吉 .
象 曰 . 比 之 自 內 . 不 自 失也 .
Lục nhị. Tỉ chi tự nội. Trinh cát.
Tượng viết:
Tỉ chi tự nội. Bất tự thất dã.
Dịch:
Đáp lời triệu thỉnh với tâm thành,
Chính đáng rồi ra sẽ tốt lành.
Tượng rằng:
Đáp lời triệu thỉnh với tâm thành,
Sẽ giữ chu toàn được tiết danh.
Hào Lục nhị. Nếu gặp được vị quốc quân cao minh tài đức, thì dĩ nhiên mình nên hưởng ứng, nên cộng tác. Nhưng hưởng ứng, cộng tác không phải là ca6`u cạnh, là tự hạ phẩm giá mình; ăn có mời, làm có khiến mới hay. Phải như Y Doãn, Khổng Minh, chờ cho có sự triệu thỉnh chân thành, rồi mới hưởng ứng.
3. Hào Lục tam.
六 三 . 比 之 匪 人 .
象 曰 . 比 之 匪 人 . 不 亦 傷 乎 .
Lục Tam. Tỉ chi phi nhân
Tượng viết:
Tỉ chi phi nhân. Bất diệc thương hồ.
Dịch.
Kết liên với kẻ chẳng hay.
Tượng rằng:
Kết liên với kẻ chẳng hay,
Kết liên như thế, thương thay cho người.
Hào Lục tam cho rằng: Khi hợp quần hay kết liên, ca6`n phải liên kết với người hay, người tốt mới có lợi, có ích. Nhược bằng liên kết với phường vô lại, lưu manh, thì chỉ có tổ họa hại mà thôi. Thật vậy, hợp quần, liên kết với những hạng vô luân, vô lại, nhỏ thì thành côn quãng, du đãng, lớn thì thành cướp, thành giặc, còn gì đáng sợ hơn.
4. Hào Lục Tứ
六 四 . 外 比 之 . 貞 吉 .
象 曰 . 外 比 於 賢 . 以 從 上 也 .
Lục tứ. Ngoại tỉ chi. Trinh cát
Tượng viết:
Ngoại tỉ ư hiền. Dĩ tòng thượng dã.
Dịch.
Kết liên với bậc hiền minh,
Thế thời chính đáng, tốt lành biết bao.
Tượng rằng:
Bên ngoài, liên kết hiền minh,
Tức là theo bậc trên mình đó thôi.
Hào Lục tứ cho rằng: Đã ở ngôi vị cậ thần, mà biết quên những lợi lộc, những tư tình nhỏ nhen, để hoàn toàn phục vụ minh chúa, thì còn gì hay hơn nữa. Đó là hiền thần mà gặp minh quân, chung lưng, góp sức mà xây dựng quốc gia.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 顯 比 . 王 用 三 驅 . 失 前 禽 . 邑 人 不 誡 . 吉 .
象 曰 . 顯 比 之 吉 . 位 正 中 也 . 舍 逆 取 順 . 失 前 禽 也 .
邑 人 不 誡 . 上 使 中 也 .
Cửu ngũ. Hiền tỉ. Vương dụng tam khu. Thất tiền cầm.
Ấp nhân bất giới. Cát.
Tượng viết:
Hiền tỉ chi cát. Vị chính trung dã.Xả ngịch thủ thuận.
Thất tiền cầm dã. Ấp nhân bất giới. Thượng sử trung dã.
Dịch.
Tụ chúng, quy dân, phép rõ ràng.
Vua vây ba mặt, bắt chim muông,
Phía trước chim bay, đành bỏ mất.
Dân không thắc mắc, mới là ngoan.
Tượng rằng:
Chiêu dân, phép đã rõ ràng,
Là nhờ trung chính, đành hoàng, mới hay.
Chẳng ưng, ta chẳng ép người,
Người nào ưng chịu, ta vời về ta,
Chim bay trước mặt bỏ qua,
Người không thuần phục, vét vơ làm gì.
Dân không thắc mắc điều chi,
Vì ta trung chính, không vì, không thiên.
Hào Cửu Ngũ là một vị minh quân, minh chính, lỗi lạc như Bắc Thần, để muôn sao hướng về. Vị minh quân đó lấy tài sức, chính nghĩa của mình làm chiêu bài để quy tụ dân, chứ không dùng sự khủng bố áp bức, ai muốn theo thì theo, không cưỡng ép.
Thế tức là:
Tiễn đưa người muốn ruỗi rong,
Sẵn sàng đón rước kẻ mong về minh.
Người có đức, tâm thành khen ngợi,
Người vô năng, cảm nỗi xót thương.
Dĩ nhiên hiền đức tu phương,
Mến ta, họ sẽ tìm đường về ta.
(Trung Dung Cửu Kinh)
Người xưa gọi thế là: Lai giả bất cự, khứ giả bất truy. (Tới không ngăn, đi không bắt).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 比 之 無 首 . 凶 .
象 曰 . 比 之 無 首 . 無 所 終 也 .
Thượng lục. Tỉ chi vô thủ. Hung.
Tượng viết:
Tỉ chi vô thủ. Vô sở chung dã.
Dịch:
Tụ dân chẳng có mối manh,
Không manh, không mối, tốt lành làm sao.
Tượng rằng:
Tụ dân, mà hỏng từ đầu
Lúc đầu đà hỏng, thời sau còn gì?
Hào Thượng Lục kết thúc vấn đề quy dân, tụ chúng bằng một nhận xét tinh tế: nếu quy dân, tụ chúng lúc ban đầu thiếu chính nghĩa, không ra gì, thì chung cuộc cũng chẳng ra chi.
ÁP DỤNG QUẺ TỈ VÀO THỜI ĐẠI
Quẻ Tỉ áp dụng một định luật tự nhiên vào đời sống xã hội: đó là định luật vạn vật hấp dẫn. Định luật vô hình ấy được thể hiện nơi đất và nước. Đất và nước bao giờ cũng tương thân, tương trợ. Suy ra con người phải tương thân, tương trợ, phải thành khẩn để chung lưng, góp sức cùng nhau, mới có thể xây dựng cho mình một tương lai hạnh phúc và lý tưởng.
Để trình bầy lại những nguyên tắc chi phối sự quy dân, tụ chúng theo từ ngữ hiện thời, chúng ta có thể nói như sau:
1. Người được ủy nhiệm có sứ mệnh tổ chức chính trị, hành chánh trong nước phải là người tài ba lỗi lạc, chứ không phải là những hạng chính trị gian ngoan, giảo quyệt.
a) Làm rồi, xin lỗi, rồi giải thích
b) Làm rồi chối, rồi đổ lỗi cho người.
c) Chia rẽ để mà trị (Tức là gây rối loạn trong hàng ngũ ngưòi, trong dân nước người, để đứng ngoài thủ lợi).
2. Quy dân, tụ chúng, dựng nước, dựng nhà, tổ chức xã hội phải có mục đích cao đại lâu dài, đó là đem lại tự do, hạnh phúc cho dận chúng, và giúp cho mọi người có điều kiện thuận tiện để thực hiện nhân vị, nhân cách mình. Quẻ Tỉ có mục đích đề cao tình tương thân, tương trợ giữa vua tôi, sự đoàn két nhất trí giữa các phần tử nắm chánh quyền để phục vụ chúng dân, sự thành khẩn trong khi giao tiếp, đối đãi, và sự đồng tâm, nhất trí của mọi người trong thiên hạ, để tiến tới thái bình thịnh trị, tiến tới lý tưởng.
Thánh nhân xưa đã có ý niệm: bốn bể là một nhà, muôn nước là một nhà. Nếu sau này mọi người đều chủ trương tương thân tương ái, đoàn kết, trọng nhân, trọng nghĩa, coi biên cương bờ cõi quốc gia nhỏ hẹp như là một cách tổ chức để mọi người được săn sóc một các chu đáo hơn, cẩn thận hơn, nếu mọi người sau này thực tình lấy đạo nghĩa mà đối xử vói nhau, thực tình đoàn kết với nhau, thì chiến tranh sẽ hết và một thời đại thân ái, hoà mục sẽ có trên hoàn võ này.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ: