Tượng hào vs tượng quẻ

Hỏi đáp, luận giải về các môn gieo quẻ: Lục nhâm, Thái Ất, Lục hào, Mai hoa ...
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem quẻ: Lục nhâm, Thái ất, Lục hào, Mai hoa... Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức Dịch lý.
Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

CUNG TỐN
8 QUẺ CUNG TỐN

1. TỐN VI PHONG

2. PHONG THIÊN TIỂU SÚC

3. PHONG HỎA GIA NHÂN

4. PHONG LÔI ÍCH

5. THIÊN LÔI VÔ VỌNG

6. HỎA LÔI PHỆ HẠP

7. SƠN LÔI DI

8. SƠN PHONG CỔ
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

1 TỐN VI PHONG
TỐN VI PHONG
BÁT THUẦN TỐN

Tốn Tự Quái
巽 序 卦
Lữ nhi vô sở dung.
旅 而 物 所 容 .
Cố thụ chi dĩ Tốn.
故 受 之 以 巽 .
Tốn giả nhập dã.
巽 者 入 也

Tốn Tự Quái
Lữ mà chẳng chốn đường vào.
Lữ mà chẳng có chốn nào dung thân.
Cho nên Tốn mới theo chân,
Tốn vào, vả lại có phần sướng vui.

Sau quẻ Lữ là quẻ Tốn, vì lẽ rằng khi cô thân, chích ảnh nơi quê người, khi lữ thứ, tha hương, mà không có chốn dung thân, thời phải từ tốn, mềm mỏng, khéo léo, mới có thể gây được cảm tình, mới chinh phục được lòng người.
Tốn có nhiều nghĩa: *Cây, *Gió, *Mệnh lệnh, *Mềm mại, *Từ tốn, *Xâm nhập, *Lọt vào v.v ...
Nơi quẻ Tốn này, ta thấy Kinh, Truyện, và các lời Bình Giải, đều đề cập đến các nghĩa trên; ngoại trừ nghĩa Tốn là Cây. Gió thổi ra muôn phương, làm cây cỏ rạp theo chiều. Mệnh lệnh truyền ra muôn phương, làm dân chúng phải hoạt động theo chiều hướng, và ý muốn của nhà vua. Vì thế Tốn vừa là Gió, vừa là Mệnh Lệnh.
Ta có thể ảnh hưởng đến người, bắt người theo ý mình, bằng những đường lối dã man, tàn bạo, nhưng ta có thể ảnh hưởng đến người, khiến người theo ý mình, bằng đường lối mềm mại, khéo léo, ngon ngọt, dỗ dành, bằng cách nói đi, nói lại một ý tưởng. Quẻ Tốn có ý dạy ta dùng cách thẩm thấu từ tốn này.
I. Thoán.
Thoán từ.
巽 . 小 亨 . 利 有 攸 往 . 利 見 大 人 .
Tốn. Tiểu hanh. Lợi hữu du vãng. Lợi kiến đại nhân.
Dịch.
Tốn là từ tốn nhẹ nhàng,
Nhỏ nhoi, nhưng vẫn có đàng hanh thông.
Làm gì cũng lợi, chẳng không,
Đại nhân gặp được, mới mong lợi nhiều.

Từ tốn mà hành sự, sẽ không thâu lượm được kết quả mạnh mẽ, nhãn tiền (Tốn. Tiểu hanh), nhưng sẽ giúp ta nên công lâu dài (Lợi hữu du vãng). Nhất là khi sự từ tốn, mềm dẻo, lại được một người giỏi giang đem áp dụng (Lợi kiến đại nhân). Nã Phá Luân cai trị nước Pháp, sau thời kỳ Cách Mạng 1789, một thời kỳ nổi tiếng là bài xích quân quyền và Đạo Giáo. Nã Phá Luân biết đó là nền móng chia rẽ, và loạn lạc trong nước, nên ông hết sức khéo léo để hàn gắn lại những sự rạn nứt, đổ vỡ ấy.
Ông chỉ trích những đạo luật Cách Mạng quá khích. Ông khen những người theo phái Cần Vương, vì đã dám chống lại một chính quyền hà hiếp, áp chế. Ông cho lập lại Công giáo ở Pháp, và ký thỏa ước với Giáo Hoàng. Nhờ cách xử trí khéo léo đó, mà ngày lễ Phục Sinh 18/4/1802, khi ông tới nhà thờ Notre Dame de Paris, Hồng Y Giáo chủ Belloy đã ra đón mừng ông, và các chuông trên nhà thờ đều được kéo vang lừng để đón chào ông, đánh dấu một sự cộng tác thành thực giữa Đạo giáo và Chính quyền.
Ngự Án giải Tốn là xâm nhập. Tốn có hai Hào Dương trên một Hào Âm. Thế là Dương thâm nhập vào Âm để đánh tan ảnh hưởng xấu của Âm, có vậy Âm Dương mới hòa hợp với nhau được.
-Trên trời thì gió lùa vào mây để đánh tan mây mù.
-Nơi con người thì cố đi sâu vào lòng người, để cố tìm hiểu mọi nỗi uẩn khúc, tà vậy, mà sửa chữa.
-Trong xã hội, thì len lỏi vào các gian đảng, vào các tệ đoan để mà hoá giải, khử trừ v.v...
Ta ghi nhận ý kiến của Ngự Án, nhưng vẫn tiếp tục giải Tốn là Từ tốn. Tóm lại:
-Từ Tốn là phương pháp để lấy lòng người.
-Tốn cũng có nghĩa là Tiểu nhân phục tòng Quân tử.
-Tốn cũng có nghĩa là thâm nhập để chinh phục lòng người dần dà, để cải hoá dần dà phong tục xã hội.

Thoán Truyện. Thoán viết.
彖 曰 . 重 巽 以 申 命 . 剛 巽 乎 中 正 而 志 行 . 柔 皆 順 乎 剛 .
是 以 小 亨 . 利 有 攸 往 .利 見 大 人 .
Trùng Tốn dĩ thân mệnh. Cương Tốn hồ trung chính nhi chí hành. Nhu giai thuận hồ cương. Thị dĩ tiểu hanh. Lợi hữu du vãng. Lợi kiến đại nhân.
Dịch.Thoán rằng:
Trên truyền mệnh lệnh, dưới theo,
Đinh ninh, trân trọng đâu người dể duôi,
Cương, nhưng theo đúng lẽ trời,
Nhu, nhưng biết thuận theo người đức cương.
Thế thời hanh vận, có đường,
Làm gì, âu cũng có phương thành toàn.
Đại nhân gặp được mới ngoan,
Đại nhân gặp được, mới mang lợi nhiều.

Trên dưới đều Tốn (Trùng Tốn). Người trên khi ra mệnh lệnh cũng lắp đi lắp lại, để mệnh lệnh thực sự thâm nhập vào dân chúng (Thân mệnh). Chữ Thân có nghĩa là lắp đi, lắp lại. Càng nhắc đi, nhắc lại bao nhiêu, thì càng minh tâm, khắc cốt bấy nhiêu. Đạo giáo đã áp dụng định luật này, khi dạy dân tụng niệm, và chính trị ngày nay đã áp dụng định luật này, để tạo nên những phản ứng có điều kiện, mà như là phản ứng tự nhiên trong dân chúng.
Trong quẻ Tốn, Nhị, Ngũ, đều là Dương cương, lại đắc trung; Sơ, Tứ đều là Âm nhu. Xét bản chất quẻ, ta thấy trên thì thuận theo nghĩa lý, dưới thì tùng phục cấp trên (Cương tốn hồ trung nhi chí hành. Nhu giai thuận hồ cương). Dùng phương cách mềm dẻo để hoán cải dân tình kết quả sẽ chậm chạp (Thị dĩ tiểu hanh), nhưng hãy cứ đường lối ấy mà thi hành, sẽ thâu hoạch được lợi ích dài lâu (Lợi hữu du vãng). Nếu gặp được người hay, người giỏi để thực thi chính sách trên, thì lại càng hay, càng tốt nữa (Lợi kiến đại nhân).
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 .隨 風 . 巽 . 君 子 以 申 命 行 事 .
Tượng viết.
Tùy phong. Tốn. Quân tử dĩ thân mệnh hành sự.
Dịch. Tượng rằng:
Tốn là gió thổi theo nhau,
Lệnh truyền thấm thía, cho sâu mới tình.
Rồi ra lại phải thi hành,
Thi hành chính sự, hoàn thành mới thôi.
Gió theo nhau là Tốn. Quân tử theo gương đó, quảng bá mệnh lệnh bằng cách nhắc đi, nhắc lại để ghi tạc vào lòng dân, như vậy mới thực thi được chính sự.
Đọc Thoán và Truyện ta thấy Dịch chủ trương dùng phương pháp Tiệm tiến và thẩm thấu để ảnh hưởng đến thiên hạ.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Hào từ giải thích thế nào là từ tốn:
-Từ tốn không phải là do dự (Hào Sơ).
-Từ tốn không phải là khúm núm (Hào Nhị)
-Từ tốn không phải là ba phải, vô lập trường (Hào 3).
-Từ tốn là khéo léo, được lòng cả trên, lẫn dưới, mà mình vẫn hay, vẫn lợi (Hào 4).
-Từ tốn nhưng vẫn theo chính lý, hoạt động vẫn có phương sách, có chủ trương, có chuẩn bị, có kiểm soát để đi đến thành công (Hào 5).
-Từ tốn thái quá sẽ trở nên hèn hạ, sẽ tai hại (Hào 6).

1. Hào Sơ lục.
初 六 . 進 退 . 利 武 人 之 貞 .
象 曰 . 進 退 . 志 疑 也 . 利 武 人 之 貞 . 志 治 也 .
Sơ Lục.
Tiến thoái. Lợi vũ nhân chi trinh.
Tượng viết:
Tiến thoái. Chí nghi dã. Lợi vũ nhân chi trinh. Chí trị dã.
Dịch.
Dùng dằng, chẳng biết tiến lui,
Võ biền, từ tốn vậy thời lại hay
Tượng rằng:
Dùng dằng, chẳng biết tiến lui,
Là vì tâm trí pha phôi, nghi nàn,
Võ biền cương trực, thời ngoan,
Là vì tâm trí vững vàng, bình an.

Sơ Lục Âm nhu, lại ở dưới hết quẻ Tốn, nên khiến ta liên tưởng đến một người nghi nan do dự. Nhưng từ tốn không phải là do dự, là tiến thoái lưỡng nan (Tiến thoái). Phải chi một người vũ biền thay vì quá hăng hái, bốp chát, sống sượng, mà biết pha một chút ít từ tốn, thời hay biết mấy (Lợi vũ nhân chi trinh).
Tóm lại từ tốn không phải là do dự, mà chính là quả quyết.
Đây Tượng giải thích rõ:
Tiến thoái là lòng nghi nan do dự.
Lợi vũ nhân chi trinh là lòng quả quyết chắc chắn. Từ tốn đây là Tiên lễ hậu binh của các nhà lãnh đạo.
Nã Phá Luân nói với Roederel: Khi lập một dự án quân sự, thì không ai nhát gan hơn tôi. Tôi thổi phồng tất cả những nguy hiểm. Nhưng khi đã quyết định, thì quên hết mọi sự, chỉ cốt làm sao thực hiện được dự án đó mà thôi.

2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 巽 在 床 下 . 用 史 巫 紛 若 . 吉 . 無 咎 .
象 曰 . 紛 若 之 吉 .得 中 也 .
Cửu nhị.
Tốn tại sàng hạ. Dụng sử vu phân nhược. Cát. Vô cữu.
Tượng viết:
Phân nhược chi cát. Đắc trung dã.
Dịch.
Tốn mà nép xuống dưới giường,
Dùng đồng, dùng cốt mấy phường lăng nhăng.
Nếu vì cầu đảo thành tâm,
Thế thời cũng tốt, chẳng lầm lỗi chi
Tượng rằng:
Lăng xăng, mà vẫn gặp lành,
Là vì tâm chính, ý thành hẳn hoi.

Cửu nhị. Từ tốn không phải là khúm núm (Tốn tại sàng hạ). Sự khúm núm chỉ có thể chấp nhận được, là khi đem tâm thành van vái thần minh, hoặc dùng các thầy bùa, thầy cúng đông đảo để nhương tai, cầu phúc (Dụng sử vu phân nhược). Sử là thầy cúng, Vu là thầy bùa. Phân nhược là nhiều, là đông.
Cái hay ở đây là vì đã đem hết lòng thành khẩn để mà cảm động được thần minh (Phân nhược chi cát. Đắc trung dã).
Ngự Án giải Hào nhị như sau: Sàng hạ nghĩa là Âm tà, Âm nấp phía dưới, nên Nhập ư sàng hạ chính là tìm tòi, suy xét kỹ càng, để tìm ra duyên do thầm kín của những chếch mác dở dang, hoạ hại bên ngoài. Khi đã tìm ra duyên do rồi sẽ dùng các thầy bùa, thầy pháp hoá giải.
Đại khái chủ trương của Ngự Án cũng giống như chủ trương của Freud: Các căn do thầm kín của hoạ hại, một khi đã tìm ra được, đã đem phơi bầy ra ánh sáng, thì nó không gây được ảnh hưởng nữa.
Wilhelm, R.G.H.Siu, Legge giải giống Ngự Án. Tôi (tác giả) chủ trương bình giải theo lối cũ, vì như vậy mới ăn khớp với toàn quẻ.

3. Hào Cửu tam.
九 三 . 頻 巽 . 吝 .
象 曰 . 頻 巽 之 吝 . 志 窮 也 .
Cửu tam.
Tần tốn. Lận.
Tượng viết:
Tần tốn chi lận. Chí cùng dã.
Dịch.
Thuận tòng lia lịa, chẳng hay.
Tượng rằng:
Thuận tòng lia lịa, chẳng hay,
Chí cùng, mới đến nỗi này mà thôi.

Cửu tam. Tần tốn là từ tốn nhiều lần, nhượng bộ nhiều lần, như vậy đáng xấu hổ. Từ tốn đâu phải là không có lập trường. Cái dở của Hào này, chính là mới đầu thì ngông nghênh tự thị, sau vì thất bại liên miên, nên lại trở nên nhũn nhặn quá cỡ như vậy, chính là cùng đường chẳng biết xử trí ra sao (Tần tốn chi lận. Chí cùng dã).

4. Hào Lục tứ.
六 四 . 悔 亡 . 田 獲 三 品 .
象 曰 . 田 獲 三 品 . 有 功 也 .
Lục tứ.
Hối vong. Điền hoạch tam phẩm.
Tượng viết:
Điền hoạch tam phẩm hữu công dã.
Dịch.
Việc gì mà phải phàn nàn,
Đi săn mà được, sẻ san ba phần.
Tượng rằng:
Đi săn mà được ba phần,
Công danh như vậy, tưng bừng còn chi.

Lục tứ là Âm Hào cư Âm vị, cho nên khéo xử, biết đường từ tốn, nhún nhường cho phải phép, vì thế nên khỏi mọi điều hối hận, phàn nàn (Hối vong), chẳng những thế mà còn nên công, nên việc nữa, chẳng khác nào người đi săn mà được cả ba phần muông chim, thế tức là hay, là lợi nhiều. Người xưa, chia muông chim săn được thành ba phần:
- 1 phần dùng để tế lễ.
- 1 phần dùng để thết đãi tân khách.
- 1 phần dùng để cung cấp cho bếp núc.
Tượng Truyện giải: Từ tốn phải phép như vậy mới nên công (Điền hoạch tam phẩm hữu công dã).

5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 貞 吉 . 悔 亡 . 無 不 利 . 無 初 有 終 .
先 庚 三 日 . 后 庚 三 日 . 吉 .
象 曰 . 九 五 之 吉 . 位 正 中 也 .
Cửu ngũ.
Trinh cát. Hối vong. Vô bất lợi. Vô sơ hữu chung.
Tiên canh tam nhật. Hậu canh tam nhật. Cát.
Tượng viết:
Cửu ngũ chi cát. Vị chính trung dã.
Dịch.
Một lòng trung chính, mới hay
Phàn nàn, hối hận, từ nay chẳng còn.
Làm gì cũng được vuông tròn,
Rồi ra, lợi ích thành toàn, xong xuôi.
Không đầu, nhưng lại có đuôi,
Thủy thời vô thủy, chung thời hữu chung.
Lo lường, tính chuyện, tính công,
Ba ngày sau trước, mới mong tốt lành.
Tượng rằng: Cửu ngũ mà hay,
Là vì trung chính, thẳng ngay một lòng.

Cửu ngũ đắc trung, đắc chính, nên là người từ tốn, mềm mỏng một cách khéo léo nhất, vì thế nên được mọi sự may mắn, lợi lộc, không có gì phải phàn nàn.(Trinh cát. Hối vong. Vô bất lợi).
Cửu ngũ trong quẻ Tốn, không chủ trương Cách mạng, xoá bỏ mọi cơ cấu tiền chế, mà chỉ cải thiện lại một tình trạng đang suy đồi, là nối tiếp công trình của tiền nhân, bổ khuyết, cải thiện, chấn chỉnh, mong làm cho công trình ấy trở nên thành toàn, vì thế nói: Vô sơ hữu chung.
Vô sơ là không có khởi điểm, vì Cửu ngũ đây không phải người khai sơn, phá thạch, tạo dựng nên một cơ đồ, nhưng hữu chung là có chung điểm, vì với sự khéo léo, nhưng bền bỉ, Cửu ngũ đây hy vọng thành toàn được công trình còn dang dở. Nhưng trước khi bắt tay vào công trình cải thiện, và sau khi đã thực hiện công trình cải thiện, càng phải thận trọng. Trước khi muốn cải thiện, phải soạn thảo chương trình kế hoạch cho hẳn hoi, sau khi đã thực hiện công trình cải thiện, phải biết kiểm điểm, theo rõi (Tiên canh tam nhật. Hậu canh tam nhật. Cát).
Vậy, mọi sự được hẳn hoi, là vì Củu ngũ xử sự đàng hoàng, đứng đắn (Cửu ngũ chi cát. Vị chính trung dã).

6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 巽 在 床 下 . 喪 其 資 斧 . 貞 凶 .
象 曰 . 巽 在 床 下 . 上 窮 也 . 喪 其 資 斧 . 正 乎 凶 也 .
Thượng Cửu.
Tốn tại sàng hạ. Táng kỳ tư phủ. Trinh hung.
Tượng viết:
Tốn tại sàng hạ. Thượng cùng dã. Táng kỳ tư phủ. Chính hồ hung dã.
Dịch.
Tốn mà nép xuống dưới giường,
Mất rìu, mất của mọi đường chẳng hay,
Thế mà chẳng đổi, chẳng thay.
Tượng rằng:
Tốn là nép xuống dưới giường,
Thế là ti tốn, cùng đường còn chi.
Cả rìu, lẫn của mất đi.
Dầu rằng trinh chính, vẫn thì là hung.

Từ tốn quá hóa hỏng (Tốn tại sàng hạ). Phán đoán không còn được sáng suốt, rành rẽ, và sẽ mất cả của cải. (Táng kỳ tư phủ). Tư là tiền nong, Phu là búa rìu, tượng trưng cho sự phán đoán, quả quyết. Như vậy, dầu có chính trực cũng chẳng ra gì. Từ tốn thái quá, đến nỗi mất cả sự nghiệp, thì chắc là hung rồi, còn gì nữa (Tốn tại sàng hạ. Thượng cùng dã. Táng kỳ tư phủ. Chính hồ hung dã).
Tóm lại, quẻ Tốn dạy ta phải Từ tốn để được lòng người, để ban bố mệnh lệnh, để thi hành chính sự, và chủ trương rằng Từ tốn đúng mức, chính là xử sự tế nhị, khéo léo, vừa được lòng người, vừa được việc mình.
Ngự Án (Vua Khang Hy) trong khi bình giải quẻ Tốn, đã đưa ra những ý kiến hết sức đáng lưu ý. Đó là:
1. Cần đi sâu vào tâm tư, để tìm cho ra những căn do thầm kín của những ảnh hưởng xấu. Chủ trương này, làm ta liên tưởng tới phương pháp phân tâm học của Freud.
2. Cần len lỏi vào các gian đảng, và các tệ đoan xã hội, để biết cách khử trừ chúng. Chủ trương này làm ta liên tưởng đến những hoạt động của những phóng viên, của những tổ chức an ninh chìm nổi ngày nay.
3. Cần phải đi sâu vào các vấn đề, để khai thác và tìm hiểu. Nhưng nếu suy tư, và cân nhắc quá, sẽ đâm rối rít, nghi nan, không còn quyết tâm thực hiện được nữa.
Những lời bình của Ngự Án, có thể giúp ích cho ta hiểu thêm được chuyện đời, và tổ chức xã hội.
ÁP DỤNG QUẺ TỐN VÀO THỜI ĐẠI

Tốn là Gió, là Lọt vào, là Từ tốn. Nho giáo xưa sánh ảnh hưởng người quân tử, như là Gió, còn tiểu nhân như là Cỏ. Gió thổi thì cỏ phải lướt theo chiều (L. N. XII, 19)
1). Xưa, Vua Khang Hi ưa giải Tốn là Lọt vào, và ưa dùng quẻ Tốn như là cho người xâm nhập vào lòng các đảng phái, để biết lề lối làm việc của họ, và biết cách hoá giải họ.
2). Ngày nay, ta dùng phương pháp quảng cáo, tuyên truyền, nhắc đi nhắc lại trong dân chúng, để đi vào sự chú ý của họ, rất có hiệu lực, nhất là làm thương mại
3). Từ tốn để dung hòa trên dưới, rất cần trong mọi hoàn cảnh, cho các nhà chính trị, cho các cấp lãnh đạo trong chính quyền., để tránh độc tài chuyên chế áp bức dân chúng.
4). Dùng chính sách mềm dẻo, từ tốn để sửa sang lại những thói hư, tật xấu của xã hội. Sống từ tốn cho đúng cách cũng là một chuyện khó vậy.
Như vậy, ta thấy áp dụng Dịch có nhiều cách, càng rộng rãi, khéo léo, thời càng hay, càng tốt.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

2 PHONG THIÊN TIỂU SÚC
PHONG THIÊN TIỂU SÚC

Tiểu Súc Tự Quái
小 畜 序 卦
Tỉ tất hữu sở súc dã
比 必 有 所 畜 也
Cố thụ chi dĩ Tiểu Súc
故 受 之 以 小 畜

Tiểu Súc Tự Quái
Tỉ là tương hợp, tương liên.
Người đông, phải biết chế kiềm, mới hay,
Thế nên, Tiểu Súc theo ngay.

Tiểu Súc là một quẻ khó giải của Dịch Kinh. Tiểu Súc có nhiều ý nghĩa: 1) Cản trở ít. 2) Nuôi dưỡng ít. 3) Hàm súc ít 4) Ảnh hưởng ít.
Tiên nho thường cho rằng quẻ Tiểu Súc mô tả nỗi niềm của Văn Vương, khi bị giam ở ngục Dũ Lý, tưởng về cổ quốc là Tây Kỳ, thương dân tình đang bị điêu đứng, mà mình còn bị vướng trở, chưa thi thố được đại công, đại nghiệp để cứu trợ chúng dân, ví mình như áng mây, còn vương trên khung trời, chưa sa thành mưa, để chúng dân thấm nhuần ơn vũ lộ.
Phân tác Quẻ ta thấy: Tiểu Súc, trên là Tốn là quẻ Âm Nhu, dưới là Kiền, là quẻ Dương Cương, có nghĩa là Âm ngăn chặn bước đường tiến của Dương.
Xét về Hào, ta thấy một Hào Âm nằm ở Hào Lục tứ, ngạn cản đà tiến của Hào Dương. Tuy nhiên, sự ngăn cản ấy không mạnh mẽ, mà chỉ tồn tại được nhất thời. Hào Tứ cùng là tượng trưng cho một hiền thần. Hiền thần mà muốn can gián vua, thời phải khéo léo, mềm dẻo.
Phân tách tượng quẻ, ta thấy Tiểu Súc là gió thổi trên khung trời cao, như vậ tức là ảnh hưởng tới vạn vật rất ít. Lời bình luận hay nhất về quẻ Tiểu Súc là lời bình luận của Tào Thăng, tác giả tập Chu Dịch Tân Giải.
Tào thăng viết: Súc là nuôi dưỡng. Tiểu Súc là nuôi dưỡng chưa được nhiều. Quẻ này một Âm ở Hào bốn là chủ của quẻ. Quẻ trên là Tốn, từ tốn ta công nuôi dưỡng sức lực của Kiền. Đại Súc là theo đúng thiên nhiên, Tiểu Súc là cố làm hết phận sự con người.
Tận phận sự con người, tức là súc tích lực lượng để chờ thời cơ. Nói theo cá nhân, tức là tiến đức tu nghiệp, nói theo quốc gia tức là quốc kế dân sinh, giáo huấn, tích tiểu thành đại, tích từng giọt nước để thành sông biển, tích từng đồng tiền để thành cự phú, đều là Tích tiểu thành đại. Cái bí quyết của sự tiến hóa là ở đó. Làm được như vậy, sẽ chuyển yếu thành mạnh, chuyện bại thành thắng. Cứ xem quẻ Tiểu Súc là biết đường lối để phục hưng vậy.
I. Thoán.
Thoán Từ.
畜 . 亨 . 密 雲 不 雨 . 自 我 西 郊 .
Tiểu Súc. Hanh. Mật vân bất vũ. Tự ngã tây giao.
Dịch.
Tiểu Súc hanh thông, quẻ rõ rồi,
Trời Tây, mây phủ, chửa mưa rơi.
Thoán Từ nói: Mây dầy mà chưa mưa, địa khí bốc lên, nhưng thiên khí chưa ứng hợp. Mây còn tích tụ trên phía trời Tây, có nghĩa là Âm xướng, nhưng Dương chưa họa. Bởii vì cứ theo trên, dưới mà phân Âm, Dương, thì địa khí là Âm, mà thiên khí là Dương. Lấy phương hướng mà phân Âm Dương, Tây là Âm, Đông là Dương. Âm cảm mà Dương chưa ứng, thế nên quẻ gọi là Tiểu Súc.
Thoán Từ đại khái nói rằng: Dẫu tiểu nhân có thể ngăn cản bước tiến của người quân tử, nhưng khi sự cản trở ấy không mạnh, thì người quân tử vẫn tiến bước được, đó là vì người quân tử, trong thì tinh thần vững mạnh, ngoài thì có sự nhún nhường khéo léo.
Suy rộng ra, thì đó là khi thời cơ chưa thuận tiện, lòng người dưới trên chưa ứng, chưa hòa, nên chưa thể làm nên được đại công, đại sự.
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰 . 小 畜 . 柔 得 位 . 而 上 下 應 之 . 曰 小 畜 . 健 而 巽 . 剛 中 而 志 行 . 乃 亨 . 密 雲 不 雨 . 尚 往 也 . 自 我 西 郊 . 施 未 行 也 .
Tiểu Súc. Nhu đắc vị nhi thượng hạ ứng chi. Viết Tiểu Súc. Kiện nhi tốn. Cương trung nhi chi hành. Nãi hanh. Mật vân bất vũ. Thượng vãng dã. Tự ngã tây giao. Thi vị hành dã.
Dịch. Thoán rằng:
Quẻ Tiểu Súc, Hào nhu đắc vị,
Dưới lẫn trên, nhất trí ứng theo,
Nên rằng cản ít, không nhiều,
Cương cường hoạt động, có chiều hanh thông.
Bền lòng, vững chí, ra công,
Mây dầy, còn chuyển nên không mưa rào.
Trời Tây mây phủ ngất cao,
Việc làm ảnh hưởng chưa bao lăm gì.
Thoán truyện nói: Thượng vãng, nghĩa là Âm khí còn bốc lên. Thi vị hành, nghĩa là âm khí chưa thành mưa để rơi xuớng. Nếu đem áp dụng vào nhân sự thì có nghĩa là bậc thần tử muốn đem tâm xây dựng nước non, mà bậc quân phụ chưa hưởng ứng...
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 風 行 天 上 . 小 畜 . 君 子 以 懿 文 德 .
Tượng viết: Phong hành thiên thượng. Tiểu Súc. Quân tử dĩ ý văn đức.
Dịch.
Tượng rằng: Gió thổi trên trời,
Nên rằng Tiểu Súc, chưa nuôi được nhiều.
Nên rằng quân tử y chiều,
Trau dồi phong thái mỹ miều, tài hoa.
Tượng truyện nối tiếp ý Thoán Truyện mà bảo rằng; hiện nay người quân tủ chưa thể nào gây được ảnh hưởng lớn khắp nơi chúng dân, có khác nào như gió còn thoảng bay trên khắp vòm trời cao, không có ảnh hưởng trực tiếp đến vạn vật, như vậy việc đáng làm hơn hết lúc này là trau dồi tài năng, đạo đức.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 復 自 道 . 何 其 咎 . 吉 .
象 曰 . 復 自 道 . 其 義 吉 也 .
Sơ Cửu. Phục tự đạo. Hà kỳ cữu. Cát.
Tượng viết:
Phục tự đạo. Kỳ nghĩa cát dã.
Dịch.
Sơ Cửu quay về đường nẽo cũ,
Một lòng hướng thượng, lỗi chi đâu.
Tượng rằng: Đường cũ quay về,
Là hay là phải ai chê được nào?
Hào Sơ bàn rằng: Khi ngưòi quân tử bị tiểu nhân kiềm chế, không cho thi hành đại đạo, thì hãy quay về tu luyện bản thân. Y như đường lối của Mạnh Tử: Lúc đắc chí (làm quan, làm tướng), thì chung sức với dân, mà thi hành những đức Nhân, Lễ, Nghĩa. Khi chẳng đắc chí, thì ẩn dật mà tu thân hành đạo.

2. Hào Cửu Nhị.
九 二 . 牽 復 . 吉 .
象 曰 . 牽 復 在 中 . 亦 不 自 失 也 .
Cửu nhị. Khiên phục. Cát.
Tượng viết:
Khiên phục tại trung. Diệc bất tự thất dã.
Dịch.
Cửu nhị dắt nhau theo đạo lý,
Biết lam như vậy, vẫn là hay.
Tượng rằng: đạo lý quay về
Dắt nhau trở lại, chẳng hề hấn chi.
Hào Cửu nhị là trưòng hợp một người quân tử, ở gần thế lực khống chế của tiểu nhân hơn. tuy nhiên cửu nhị cương kiên, và đã quyết theo đạo lý, sẽ không e ngại sự cản trở của tiểu nhân, vần có thể tìm những người đồng tâm, đồng chí, tiến bước trên đường đạo lý.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 輿 說 輻 . 夫 妻 反 目 .
象 曰 . 夫 妻 反 目 . 不 能 正 室 也 .
Cửu tam. Dư thoát bức. Phu thê phản mục.
Tượng viết:
Phu thê phản mục. Bất năng chính thất dã.
Dịch.
Cửu tam: căm thoát trục xe,
Vợ chồng lườm nguýt, chẳng huề cùng nhau,
Tượng rằng: chồng vợ lườm nhau,
Làm sao gia đạo gót đầu êm xuôi.
Hào Cửu tam là trường hợp người quân tử vụng xử hơn, ít thức thời hơn, lại ở kề cận tiểu nhân, nên rất dề bị nó khống chế hãm hại. Nhất là người quân tử đó lại tỏ ra thất thố, sơ hở. Quân tử mà ở kề cận tiểu nhân, thời sẽ sinh đủ điều hung họa, phiền toái cho mình, có khác gì đi xe mà long bánh, ở trong gia đình, vợ chồng lườm nguýt, bất hòa với nhau đâu.

4. Hào Lục tứ.
六 四 . 有 孚 . 血 去 惕 出 . 無 咎 .
象 曰 . 有 孚 惕 出,上 合 志 也 .
Lục tứ. Hữu phu. Huyết khứ dịch xuất. Vô cữu.
Tượng viết.
Hữu phu dịch xuất. Thượng hợp chi dã.
Dịch. Lục tứ.
Nếu mình mà thành khẩn
Sẽ không lưu huyết, khỏi lo âu.
Thế thời đáng trách chi đâu.
Tượng rằng: thành khẩn, khỏi lo âu,
Bởi tại người trên cũng tâm đầu.
Hào Lục tứ. Dịch kinh đổi đề tài. Ở đây, lại đề cập đến một vị hiền thần, một lòng vì nhà, vì nước, muốn gián nghị bậc quân vương. Dịch kinh cho đó là một công trình nguy hiểm, cần phải khéo léo, và thành khẩn lắm mới khỏi bị máu rơi thịt nát. Đọc lịch sử, ta thấy biết bao nhiêu công thần chỉ vì can gián hôn quân, bạo chúa, mà phải chết oan.
- Mai Bá vì can Trụ Vương mà bị hình bào lạc,
- Hàng Sanh can Hạng Vương mà bị bỏ vào vạc dầu...

5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 有 孚 攣 如 . 富 以 其 鄰 .
象 曰 . 有 孚 攣 如 . 不 獨 富 也 .
Cửu ngũ. Hữu phu luyến như. Phú dĩ kỳ lân.
Tượng viết:
Hữu phu luyến như. Bất độc phú dã.
Dịch.
Chân thành thân thiết với hương lân,
Thế là giầu có gấp mấy lần.
Tượng rằng:
Xóm giềng, mà thực lòng thân,
Mình giầu, mà vẫn chung phần với ai.
Hào Cửu ngũ, theo Ngự Án (vua Khang Hy), chính là một vị quốc quân, biết nghe lời gián nghị. Thấy bề tôi thực tình can gián mình, thì cũng đem tình thực mà đáp ứng lại. Thế là biết lấy ý người làm ý mình, hiểu rằng mình ở cao ngôi, chính là để phục vụ dân nước, chứ không phải để riêng hưởng giầu sang.
Làm vua mà giầu cùng dân, vui cùng dân, mới được trường cửu. Làm vua mà giầu một mình, vui một mình, sẽ sớm bại vong. Đường lối của vua Văn, võ và Kiệt, trụ khác nhau ở chỗ đó.
6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 既 雨 既 處 . 尚 德 載 . 婦 貞 厲 . 月 幾 望 . 君 子 征 凶 .
象 曰 . 既 雨 既 處 . 德 積 載 也 . 君 子 征 凶 . 有 所 疑 也 .
Thượng Cửu. Ký vũ ký xử. Thượng đức tải. Phụ trinh lệ.
Nguyệt cơ vọng. Quân tử chính hung.
Tượng viết:
Ký vũ ký xử. Đức tích tải dã. Quân tử chính hung. Hữu sở nghi dã.
Dịch.
Thượng Cửu. Mưa rơi, thời nên nghỉ
Được vậy là nhờ tốn công phu.
Phụ nữ thắng rồi, còn chưa phỉ,
Rồi ra, chắc sẽ gặp nguy cơ.
Khuôn trăng sắp sửa tròn vo,
Được đà, quân tử phải lo nguy nàn.
Tượng rằng: Mưa xuống, thời ngơi,
Công phu tích tải lâu rồi mới nên.
Quá đà, quân tử nguy liền,
Là vì sẽ khiến người trên nghi ngờ.
Hào Thượng lục cho rằng khi mà can ngăn đã đạt, thì kẻ bầy tôi nên biết chiều ngưng lại mới hay. Muốn người trên ứng hợp với mình, mà người trên đã ứng hợp rồi, cũng như muốn mưa, đã mưa rồi, còn muốn gì hơn nữa? Đi quá trớn rồi, có khác gì phụ nhân đắc trí đâu? Trăng trước rằm mới là trăng đẹp, trăng quá rằm sẽ là trăng khuya, trăng khuyết, và sẽ hao mòn, mờ mịt dần với thòi gian.
ÁP DỤNG QUẺ TIỂU SÚC VÀO THỜI ĐẠI

Trên bước đường đời của chúng ta hiện nay, nhất là với người lữ thứ gặp biết bao nhiêu là cản trở, về đủ mọi phương diện: tiền tài, học vấn, nghề nghiệp, hôn nhân...
Khi bắt tay vào việc gì, nếu ta thấy bị cản trở, thì ta phải biết dừng chân lại. Phải soát xét lại tài đức mình, xem có khiếm khuyết sơ hở chỗ nào chăng, nên khiến bị người cản ngăn, phá phách. Người xưa cho rằng nếu có người chê trách mình, tì phải xét lại hành động, tác phong của chính mình chính là vì vậy. Ví dụ: khi ta ra trường, đi xin việc làm không đâu nhận, thì đừng đổ tại số xui, mà phải đi học tu nghiệp lại, vì ta xin việc không được là do khả năng nghề nghiệp của ta còn kém quá mà thôi. Hoặc hôn nhân của ta cứ lủng củng, thì ta phải xét lại ta, xem tính tình của ta có khó khăn không? cách xử sự của ta có lễ độ không? Sự đòi hỏi của ta có cao quá không?
Nếu xét thấy ta có đủ điều kiện mà vẫn bị cản trở, thì đó chỉ là những trở ngại bên ngoài, là tạm bợ nhất thời mà thôi, không nên quá bận tâm. Ta đừng bao giờ ngã lòng trước những trở ngại đó, ta cứ từ từ suy tính, từ từ giải quyết thì trước sau, ta cùng giải quyết được hết. Cái nút dù thắt khó đến đâu, nếu từ từ tháo gỡ, thì cũng tháo gỡ được.
Còn như muốn can ngăn người khác làm việc gì, thì cũng phải cẩn trọng. Can ngăn người phải biết lựa lời, lựa cơ hội, phải phân tích sự lợi hại của vẩn đề cho họ hiểu, cần nhất phải thành khẩn với họ, nếu không dễ làm mất lòng nhau.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

2 PHONG HỎA GIA NHÂN
PHONG HỎA GIA NHÂN

Gia Nhân Tự Quái
家 人 序 卦
Di giả thương dã.
夷 者 傷 也
Thương ư ngoại giả
傷 於 外者
Tất phản ư gia.
必 反 於 家
Cố thụ chi dĩ Gia Nhân.
故 受 之 以 家 人

Gia Nhân Tự Quái
Di là thương tổn, điêu linh,
Ra ngoài thương tổn, mới quanh về nhà
Gia nhân vì thế mới ra.

Quẻ Gia Nhân, nói về gia đạo. Trong quẻ này:
*Hào Thượng Cửu là cha.
*Hào Sơ Cửu là con.
*Hào Cửu ngũ là chồng.
*Hào Lục nhị là vợ.
*Hào Cửu ngũ, Cửu tam là 2 anh em.
*Hào Lục tứ, Lục nhị là 2 vợ của chúng.
Như vậy, mọi người trong gia đình đều được đề cập tới. Hào Thượng Cửu đây là một Hào Dương cương, tượng trưng rằng trong nhà quyền hành phải ở trong tay người cha.
I. Thoán.
Thoán từ.
家 人. 利 女 貞.
Gia nhân. Lợi nữ trinh.
Dịch.
Muốn cho gia đạo được hay,
Đàn bà cần phải chính ngay mới là.
Quẻ Gia Nhân, cho ta thấy định luật chi phối đời sống gia đình. Nếu chuyển những đinh luật này ra ngoài xã hội, quốc gia, và thế giới, chúng cũng có thể làm cho nước trị, thiên hạ bình.
Quẻ Gia Nhân, toát lược lại quan niệm của Đại Học, và của Nho Giáo. Tức là;
-Thân có tu, gia mới tề. Gia có tề, quốc mới trị, và thiên hạ mới bình.
-Nền tảng gia đình, chính là tình nghĩa vợ chồng. Vợ có chính đính, thủy chung, gia đình mới vững vàng, bền bỉ. Vì thế Thoán từ mới nói: Gia nhân. Lợi nữ trinh.

Thoán Truyện.
彖 曰. 家 人. 女 正 位 乎 內. 男 正 位 乎 外. 男 女 正. 天 地 之 大 義 也.
家 人 有 嚴 君 焉. 父 母 之 謂 也 . 父 父 . 子 子. 兄 兄. 弟 弟 . 夫 夫.
婦 婦. 而 家 道 正. 正 家 而 天 下 定 矣.
Thoán viết:
Gia nhân. Nữ chính vị hồ nội. Nam chính vị hồ ngoại. Nam nữ chính.
Thiên địa chi đại nghĩa dã. Gia nhân hữu nghiêm quân yên.
Phụ mẫu chi vị dã. Phụ phụ. Tử tử. Huynh huynh. Đệ đệ. Phu phu.
Phụ phụ. Nhi gia đạo chính. Chính gia nhi thiên hạ định hỹ.
Dịch. Thoán rằng:
Gia nhân, gia đạo trong đời,
Vợ trong chính đáng, chồng ngoài hẳn hoi.
Vợ chồng ngay chính hợp đôi,
Thế là đạt lẽ đất trời xưa nay.
Cần người chủ chốt cho hay,
Mẹ cha chính đáng, cơ ngơi vững vàng.
Cha con, ai nấy đường hoàng,
Anh em, chồng vợ, chững chàng, hẳn hoi.
Moị người đúng vị, đúng ngôi,
Thế là gia đạo rạch ròi, ngắn ngay.
Toàn dân gia đạo đều hay,
Rồi ra thiên hạ đắp xây hòa bình.

Trong gia đình, người vợ phải lo việc nội trợ, phải lo săn sóc, dạy dỗ con cái, trong khi người chồng có bổn phận phải đi ra ngoài, để lo sinh kế. Vì thế, trong quẻ Gia Nhân, Hào Lục nhị là người vợ, thời ở Nội quái; còn Hào Cửu ngũ là người chồng thời ở Ngoại quái.
Phân công như vậy là đúng đường lối của trời đất, vì thế Thoán Truyện viết: Gia nhân. Nữ chính vị hồ nội. Nam chính vị hồ ngoại. Nam nữ chính. Thiên địa chi đại nghĩa dã. Ở trong gia đình, cha mẹ phải có uy quyền đối với con cái. Con cái phải hiếu thuận đối với cha mẹ.
Nước thời có vua cai trị, mà gia đinh thời có cha mẹ cai trị. Gia nhân hữu nghiêm quân yên. Phụ mẫu chi vị dã. Trong gia đình, ai nấy đều biết bổn phận mình; phải biết cách ăn ở đối với người khác.
-Cha, phải ra cha.
-Con, phải ra con.
-Chồng, phải ra chồng.
-Vợ, phải ra vợ.
-Anh, phải ra anh.
-Em, phải ra em.
Có được như vậy, thì gia đạo mới chính, mà gia đạo có chính, thời thiên hạ mới an bình. Tại sao vậy?
-Vì gia đình, chính là một quốc gia thu hẹp.
-Một người con hiếu thảo, sẽ trở thành một bầy tôi trung nghĩa.
-Anh em trong nhà, biết xử sự với nhau, trên kính, dưới nhường, thời ra đến ngoài xã hội, sẽ biết tôn trọng những bậc trưởng thượng, bảo vệ những người còn ấu trĩ.
Gia đình chính là một trường học dạy nhân luân tốt nhất. Nếu mọi gia đình, đều đua nhau phát huy luân lý, đạo đức, thì làm sao nước còn loạn lạc, xã hội còn đảo điên được. Ngược lại, nếu gia đình mà suy vi, hỗn loạn, tình gia đình mà trở nên lạnh nhạt, thì xã hội tất nhiên cũng sẽ bị xáo trộn. Vì thế Thoán Truyện viết: Phụ phụ. Tử tử. Huynh huynh. Đệ đệ. Phu phu. Phụ phụ. Nhi gia đạo chính. Chính gia đạo nhi thiên hạ định hỹ.
Đại Học cũng viết: Nhất gia nhân. Nhất quốc hưng nhân. Nhất gia nhượng. Nhất quốc hưng nhượng. (Nếu trong một nhà, mà mọi người đều nhân hậu, lần ra cả nước đều có lòng nhân hậu. Nếu trong một nhà, mà mọi người đều lễ nhượng, lần ra cả nước đều ăn ở lễ nhượng) (Đại Học. IX).
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 風 自 火 出. 家 人. 君 子 以 言 有 物. 而 行 有 恆.
Tượng viết:
Phong tự Hỏa xuất. Gia Nhân. Quân tử dĩ ngôn hữu vật.
Nhi hạnh hữu hằng.
Dịch. Tượng rằng:
Gió từ trong lửa gió ra,
Gió sinh từ lửa, quẻ là Gia Nhân.
Vậy nên quân tử nói năng,
Có bằng, có chứng, nói năng rạch ròi.
Đại phàm hành xử trên đời,
Phải luôn theo đúng lẽ trời mới nên.
(Gió tự Lửa xuất là Gia Nhân. Quân tử nói lời phải cho có mấu cớ. Hành động phải cho có phép tắc bền bỉ).
Gió tự Lửa sinh. Đó là tượng trưng ảnh hưởng từ phía trong lan ra bên ngoài. Trong gia đình cũng vậy, muốn ảnh hưởng đến người, ta cần phải có sức mạnh nội tâm, giá trị nội tại. Muốn ảnh hưởng đến người khác, những lời lẽ của ta phải có một nội dung thiết thực, một giá trị thực tiễn, hợp với hoàn cảnh. Hơn nữa, lời nói của ta phải phù hợp với hành vi, với lề lối sống của ta. Nếu lời nói không đi đôi với việc làm, sẽ không có ảnh hưởng. Chu Hi tóm tắt Đại Tượng Truyện bằng mấy chữ: Thân mình có tu, thời gia đình mới trị vậy. Thật là sâu sắc và chí lý vậy.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九. 閑 有 家. 悔 亡.
象 曰. 閑 有 家. 志 未 變 也.
Sơ Cửu.
Nhàn hữu gia. Hối vong.
Tượng viết:
Nhàn hữu gia. Chí vị biến dã.
Dịch. Sơ Cửu.
Trị gia cốt biết đề phòng,
Ngăn ngừa kỹ lưỡng, sẽ không phàn nàn.
Tượng rằng: Trị gia phải biết phòng ngừa,
Từ khi tâm trí người chưa đổi rời.

Phép trị gia cốt là biết ngăn ngừa, biết đề phòng; đề phòng sao cho mọi người trong gia đình không bước vào con đường biếng lười, bê tha, tội lỗi, lăng loàn, ngang ngược
Người khôn ngoan là phải biết đề phòng. Một chủ gia đình khôn ngoan, cũng như một vị quốc quân khôn ngoan, là người biết đề phòng. Biết đề phòng sẽ tránh được nhiều tai họa. Dịch Kinh không ngớt dạy, phải Phòng nguy lự hiểm và Phòng vi đỗ tiệm.
Đọc Hào Sơ Lục quẻ Khôn, đọc Hệ Từ bình về Hào Cửu ngũ quẻ Bĩ, đọc Hào Lục tứ quẻ Đại Súc, với Hào Sơ quẻ Gia Nhân, ta thấy đều nói lên một định luật: đó là muốn ngăn cấm điều ác, muốn bế tắc điều tà, tất phải gấp lo ở lúc mới manh nha. Nếu chờ khi tà ác đã phát hiện, măng đã thành tre, lúc đó mới ra tay cấm chỉ, thời tuy có Thánh nhân dạy nó, cũng khó cho nó thành tâm, biến chất được. Cũng vì thế mà phương ngôn ta có câu: Dạy con từ thủa còn thơ; dạy vợ từ thủa bơ vơ mới về.
Có biết lo từ đầu như vậy, sẽ hết hối hận, phàn nàn về sau, vì thế Dịch Kinh mới nói: Hối vong.
Tượng Truyện giải thêm: Có gia đình thời phải biết đề phòng, từ khi ý chí con người chưa kịp biến động. Tượng viết: Nhàn hữu gia. Chí vị biến dã.

2. Hào Lục nhị.
六 二. 無 攸 遂. 在 中 饋. 貞 吉.
象 曰. 六 二 之 吉. 順 以 巽 也.
Lục nhị. Vô du toại. Tại trung quĩ. Trinh cát.
Tượng viết:
Lục nhị chi cát. Thuận dĩ tốn dã.
Dịch.
Chẳng cần thỏa ý riêng tây,
Lo bề gia chánh cho hay, tốt rồi.
Trung trinh, tốt biết mấy mươi.
Tượng rằng: Hào hai sở dĩ tốt lành,
Là vì nhu thuận, trung trinh, dịu dàng.

Hào Lục nhị đề cập đến bổn phận người đàn bà trong gia đình. Trong gia đình người đàn bà không được tự chuyên, tự quyết (Vô du toại). Chỉ cần lo săn sóc cửa nhà, lo vấn đề cơm nước, (Tại trung quĩ), thế là quí lắm rồi (Trinh cát). Lục nhị : Vô du toại. Tại trung quĩ. Trinh cát. Tượng Truyện bình thêm rằng cái hay, cái khéo của người đàn bà trong gia đình, chính là sự nhu thuận, từ tốn.
Tượng viết: Lục nhị chi cát. Thuận dĩ tốn dã.
Muốn cho người vợ trong gia đình thuận tòng, dĩ nhiên người gia chủ phải tài ba, đức độ, khiến được cho người vợ kính phục mình.

3. Hào Cửu tam.
九 三. 家 人 嗃 嗃. 悔 厲 . 吉. 婦 子 嘻 嘻 . 終 吝.
象 曰. 家 人 嗃 嗃. 未 失 也. 婦 子 嘻 嘻 . 失 家 節 也.
Cửu tam. Gia nhân hác hác. Hối lệ. Cát. Phụ tử hi hi. Chung lận.
Tượng viết:
Gia nhân hác hác. Vị thất dã. Phụ tử hi hi. Thất gia tiết dã.
Dịch.
Trong nhà nem nép sợ oai,
Quá nghiêm e cũng một hai phàn nàn.
Quá nghiêm mà vững gia cang,
Quá nghiêm mà được chững chàng cũng hay.
Vợ con hi hí tối ngày,
Phàn nàn hối hận, rồi đây có lần.
Tượng rằng:
Trong nhà nem nép sợ oai,
Cũng chưa đến nỗi là sai là lầm.
Vợ con hi hí lố lăng,
Thế là hỏng hết gia phong mất rồi.

Hào Cửu tam đặt câu hỏi: Trị gia nên nghiêm hay khoan? và cho rằng: Nên nghiêm thì hơn.
Trị gia dẫu quá nghiêm, làm cho mọi người nem nép sợ uy, tuy có hơi quá, nhưng kết quả vẫn là hay, vì gia đạo nhờ đó mà có kỷ cương nề nếp. Còn trị gia, mà nhu nhược quá, thả lỏng mặc cho ai muốn làm gì thì làm, thì lễ tiết trong gia đình sẽ suy bại hết. Vì thế Dịch mới nói: Cửu tam: Gia Nhân hác hác. Hối lệ. Cát. Phụ tử hi hi. Chung lận.
Tượng Truyện bình thêm. Tượng viết: Gia nhân hác hác vị thất dã. Phụ tử hi hi. Thất gia tiết dã. (người nhà mà nem nép, thì cũng chưa đến nỗi mất mát gì. Vợ con mà hơn hớn, thời gia phong dám mất lắm.)
Thời xưa, phép trị gia nghiêm cẩn, nên đạo đức, luân lý, nhờ đó mà được phát huy. Ngày nay, phép trị gia hời hợt, nên mọi người đều phóng túng, dễ sa đoạ.
Thật đúng như sự tiên đoán của Dịch Kinh vậy.

4. Hào Lục tứ.
六 四. 富 家. 大 吉.
象 曰. 富 家 大 吉. 順 在 位 也 .
Lục tứ. Phú gia. Đại cát.
Tượng viết:
Phú gia đại cát. Thuận tại vị dã.
Dịch.
Làm giàu gia đạo rất may.
Tượng rằng:Làm giàu gia đạo rất may,
Vợ nhà hiền thục, xứng tày vị ngôi.

Hào Lục tứ dạy thêm: Phải làm sao cho gia đình trở nên phú thịnh? Dĩ nhiên mỗi người phải có nghề, có nghiệp, phải sản xuất, đồng thời cũng phải biết dè sẻn, tiết kiệm trong sự chi dùng. Một yếu tố khác để cho gia đình trở nên giàu có là mọi người phải đồng lao, cộng tác cùng nhau.
Cũng có thể cắt nghĩa rằng: Sự phú thịnh trong gia đình, phần lớn là nhờ ở người nội trợ. Thực vậy, nếu người nội trợ biết thu vén, biết tùy nghi, biết tiêu pha, biết tiết kiệm, thì gia đình mới trở nên giầu có được.
Tượng viết: Phú gia đại cát. Thuận tại vị dã. Tượng Truyện cho rằng: Làm giầu cho gia đình, mà hay, mà tốt, chính là vì mọi người trong gia đình, đều biết phận sự mình, biết ăn ở xứng với địa vị mình. Nếu vậy sự giầu có ở đây, còn được hiểu là sự giầu có về tinh thần, sự đầm ấm hòa lạc của mọi người trong gia đình nữa.

5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 王 假 有 家 . 勿 恤 . 吉
象 曰 . 王 假 有 家 . 交 相 愛 也
Cửu ngũ. Vương cách hữu gia. Vật tuất. Cát.
Tượng viết:
Vương cách hữu gia. Giao tương ái dã.
Dịch.
Như vua đến với gia đình,
Hết còn lo lắng, tốt lành hẳn hoi.
Tượng rằng: Như vua đến với gia đình,
Dưới trên đầm ấm, tận tình thương yêu.

Người gia chủ đối với gia đình, cũng như một vì vua trong một nước. Như vậy phải ăn ở sao cho xứng đáng, phải lo sao cho tài đức xứng kỳ vị, phải ý thức được trọng trách của mình, là đem lại trật tự, hoà lạc, thái thịnh và tiến bộ cho gia đình, cũng như bảo vệ, phù trì cho những người dưới quyền mình. Nếu làm được như vậy, thì chẳng việc gì phải lo, phải sợ, vì mọi sự sẽ được tốt đẹp cả. Dịch viết: Cửu ngũ: Vương cách hữu gia. Vật tuất. Cát.
Tượng Truyện bình thêm: Vương cách hữu gia. Giao tương ái dã. Người cha trong gia đình, tuy uy nghi như một vì vua, nhưng phải làm sao gây được niềm tương thân, tương ái trong gia đình. Vậy mới thật là hoàn hảo.

6. Hào Thượng Cửu.
上 九. 有 孚 威 如. 終 吉.
象 曰. 威 如 之 吉. 反 身 之 謂 也.
Thượng Cửu. Hữu phu uy như. Chung cát.
Tượng viết:
Uy như chi cát. Phản thân chi vị dã.
Dịch:
Chững chàng, thành khẩn, uy nghi,
Rồi ra sẽ được thỏa thuê, tốt lành.
Tượng rằng: Uy nghi mà được tốt lành,
Vì mình đã có tinh thành bản thân.

Hào Thượng Cửu bàn thêm rằng: Người chủ gia đình, muốn gây được uy tín, muốn khiến mọi người kính phục, phải là con người thành tín, có đức độ thật (Hữu phu. Uy như chi cát). Tượng Truyện bàn rằng: Muốn gây được uy tín, trước hết mình phải biết tự tu, tự luyện. Tượng viết: Uy như chi cát. Phản thân chi vị dã. Đó cũng là chủ trương của sách Đại Học: Thân tu nhi hậu gia tề.
ÁP DỤNG QUẺ GIA NHÂN VÀO THỜI ĐẠI

Đâu có củi, có lửa thì đấy có nhà (Phong Hỏa Gia Nhân). Gia Nhân dạy phải làm sao để tạo nên một gia đình hoàn hảo. Và cho rằng muốn được vậy, thì vợ phải ra vợ, chồng phải ra chồng, cha phải ra cha, con phải ra con, anh em phải ra anh em.
Gia đình theo Đông Phương, lấy chữ Hiếu làm đầu, lấy chữ Nghĩa làm trọng, và dạy mọi người trong gia đình, phải trọng nghĩa, khinh lợi. Gia đình Á Đông, là đại gia đình, gồm ông bà, cha mẹ, con cái. Xưa, đã có những gia đình Ngũ đại đồng đường, Tứ đại hay Tam đại đồng đường ( tức 5 đời, 4 đời hay 3 đời cùng ở chung với nhau).
Ngày nay, người ta coi cá nhân là trọng, chứ không coi gia đình là trọng. Và Gia đình theo Âu Mỹ là Tiểu Gia đình chỉ gồm có vợ chồng, con cái. Chứ bố mẹ không còn ở chung với con cái. Ngày nay, người ta đề cao Tự Do cá nhân, Hạnh Phúc cá nhân, nên không còn nghĩ đến việc ở chung với cha mẹ. Cha mẹ khi già, thì vào nhà Dưỡng Lão mà ở. Hoạ hoằn thì con cái mới tới thăm nom.
Còn con cái trong nhà, thì khi đã 18 tuổi thường cũng muốn ra ngoài sinh sống, không muốn ở trong vòng kiềm tỏa của cha mẹ nữa. Vả lại, vì Nam nữ binh quyền, vì người đàn bà thường cũng đi làm lụng như đàn ông, nên công việc gia đình cũng đòi chia sẻ với đàn ông, và quyền người đàn ông trong gia đình cũng bị giảm thiểu. Người ta không chịu nhường nhịn lẫn nhau, nên hơi một tí là đòi ly dị. Và số vợ chồng ly dị ở Mỹ hiện nay không phải là nhỏ.
Thanh thiếu niên đi vào con đường tình ái quá sớm, nên những chuyện phá thai xảy ra thường xuyên, và làm cho các nhà cầm quyền điên đầu luôn. Chung qui chỉ vì Nam nữ bình quyền, Cá nhân chủ nghĩa, và Tự Do quá trớn, nên gia đình Âu Mỹ hiện nay đã bị lung lay và xao xuyến.
Thực tình mà nói, so sánh quan niệm về gia đình của Đông lẫn Tây như đã nói trên, ta thấy quan niệm Á Đông hay hơn, tuy là ngặt nghèo hơn, còn gia đình Âu Mỹ thì càng ngày càng lỏng lẻo. Ta cũng không thể nói Âu Mỹ nên theo Á Châu, nhưng tìm cho ra một đường lối mới mẻ hay hơn, khác hơn cho Âu Mỹ ngày nay, thì quả thật là khó.
Tôi nghĩ dù sao, thì mổi người trong gia đình đều nên nhịn nhục lẫn nhau đôi chút. Nếu ta nhìn vào bất cứ một vấn đề gì, thì ta sẽ thấy theo đà thời gian, cái gì cũng đổi thay, biến hóa. Có vậy, mới thấy mọi sự đều biến dịch. Mong sao, mọi sự sẽ đi đến chỗ đẹp đẽ, thành toàn.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

3 PHONG LÔI ÍCH
PHONG LÔI ÍCH



Ích Tự Quái

益 序 卦

Tổn nhi bất dĩ tất ích.

損 而不 已 必 益

Cố thụ chi dĩ Ich.

故 受 之 已 益


Ích Tự Quái
Tổn mà tổn mãi, tổn lâu;
Rồi ra cũng lúc tới cầu gia tăng.
Cho nên Ích mới theo chân.


Quẻ Ích đưa ra một nguyên tắc hành chánh, chánh trị hết sức là quan trọng. Cai trị là làm ơn, làm ích cho dân Quẻ Ích trên có chữ Thủy là nước, dưới có chữ Mãnh là bát. Như vậy Ích chẳng khác nào bát nước đầy.
I. Thoán.
Thoán từ.
益 . 利 有 攸 往 . 利 涉 大 川 .
Ích. Lợi hữu du vãng. Lợi thiệp đại xuyên.
Dịch.
Ích là làm ích cho đời,
Việc gì âu cũng êm xuôi, chu toàn.
Dẫu rằng nguy hiểm, gian nan,
Sông sâu, nước cả, vượt sang khó gì.
Đối với dân như bát nước đầy, trị dân mà biết hy sinh để làm lợi cho dân, thì ích lợi biết bao. Còn có việc gì mà không thực hiện được (Lợi hữu du vãng). Còn có khó khăn gì mà chẳng giải quyết xong.

Thoán Truyện.
彖 曰 . 益 .損 上 益 下 . 民 說 無 疆 . 自 上 下 下 .其 道 大 光 .
利 有 攸 往 . 中 正 有 慶 .利 涉 大 川 . 木 道 乃 行 . 益
動 而 巽 .日 進 無 疆 . 天 施 地 生 .其 益 無 方 . 凡 益
之 道 . 與 時 偕 行 .
Thoán viết:
Ích. Tổn thượng ích hạ. Dân duyệt vô cương. Tự thượng há hạ.
Kỳ đạo đại quang. Lợi hữu du vãng. Trung chính hữu khánh.
Lợi thiệp đại xuyên. Mộc đạo nãi hành. Ích động nhi tốn.
Nhật tiến vô cương. Thiên thi địa sinh. Kỳ ích vô phương.
Phàm ích chi đạo. Dữ thời giai hành.
Dịch. Thoán rằng:
Ích là thêm dưới, bớt trên,
Nhân dân vui vẻ, phỉ nguyền đòi nơi.
Hạ mình, để phục vụ người.
Lối đường thế ấy, rạng ngời quang minh.
Rồi ra muôn sự tốt lành,
Chính trung, nên khiến dân tình an vui.
Sông sâu vẫn vượt như chơi,
Thuyền dân, gỗ nước, thảnh thơi lái lèo.
Ích là hoạt động thuận chiều,
Mỗi ngày, mỗi tiến, khinh phiêu vô cùng.
Đất trời nối kết giải đồng,
Trời sinh, đất dưỡng, ích không bến bờ.
Tùy thời, rồi lại tùy cơ,
Làm ơn, làm ích khắp cho muôn loài.
Trước tiên, Thoán định nghĩa Ích là tổn thượng, ích hạ.Như vậy tức là muốn nói lên rằng: Người trên phải hy sinh cho kẻ dưới.
Trị dân là lo làm ích cho dân:
- Lo cho dân đông,
- Lo cho dân giầu,
- Lo cho dân ấm no.
(Luận Ngữ, Tử Lộ, XIII)
Thánh hiền xưa, những lo cho dân được giầu có, vuông tròn, đầy đặn, còn mình thì nhiều no, ít đủ, đạm bạc thế nào cũng xong. Đường Huyền Tông nói: Ta gầy, nhưng thiên hạ mập, là cũng nương theo ý đó.
Nhiễm Hữu nói với Lỗ Ai Công: Nếu dân no đủ, thì vị quốc quân sao thiếu thốn được; nếu dân không no đủ, thì vị quốc quân giàu có với ai.
Nền chính trị của Nho Giáo luôn luôn đề cao những công cuộc ích quốc, lợi dân. Trị dân là lo cho dân có ăn, có mặc, tư cấp ruộng đất cho dân, dạy dân khai thác các tài nguyên của đất nước, khuyến khích bá công, để cho thương mại và công nghệ được phồn thịnh; lo cho dân có một hệ thống kiều lộ được hoàn bị; lo cho dân được an cư, lạc nghiệp, lo giáo hoá dân cho họ ngày một trở nên hoàn thiện.
Ngụy Hổ Thần đến Kiển Dương Trấn thay Vân Thiên Bưu. Vân Thiên Bưu giao hết binh phù, tướng ấn xong rồi, Ngụy Hổ Thần hỏi hết tình trong xứ, thì Vân Thiên Bưu tỏ bầy phong tục, cùng là phương lược của quân sĩ và bá tánh cho Ngụy Hổ Thần nghe. Ngụy hổ Thần lại hỏi nữa rằng: Ngài trấn chỗ này, mỗi năm thâu lợi bao nhiêu? Vân Thiên Bưu nghe hỏi, biến sắc đáp: Ngài hỏi như vậy, chẳng là quấy lắm. Vả tôi làm đại tướng, trấn giữ bờ cõi cho triều đình; lúc nào có giặc, tôi phải lo dẹp; lúc nào không có giặc, thì phải chăn dân; thủa nay không biết thâu lợi là gì. Nếu ngài muốn có lợi, sao không làm nghề thương mại, lại xuất sĩ làm gì? (Thủy Hử, 1053).Thật là một câu trả lời đích đáng. Trị dân mà biết hy sinh cho dân, thời dân sẽ vui thỏa vô cùng (Dân duyệt vô cương).
Người trên mà biết địa vị mình, hạ mình để phục vụ dân, hành xử như vậy thật là quang minh chính đại (Tự thượng há hạ. Kỳ đạo đại quang). Trong một nước, mà vua thời minh (Cửu ngũ), tôi thời hiền (Lục nhị), thảy đều theo đường trung chính mà trị dân, thì hạnh phúc cho dân biết bao nhiêu! Còn có việc gì mà chẳng làm được (Lợi hữu du vãng. trung chính hữu khánh).
Lịch sử đã cho ta thấy Minh Trị Thiên Hoàng và quần thần của ngài đã canh tân được nước Nhật, và đã nâng được nước Nhật lên hàng cường quốc thế giới. Như vậy dẫu có gian nan nguy hiểm mấy cũng lướt thắng được (Lợi thiệp đại xuyên. mộc đạo nãi hành). Vua quan mà làm lợi cho dân, thời khi gặp hoạn nạn ví như đi qua sông lớn, sẽ có dân làm gỗ, làm thuyền mà chở cho qua (Mộc đạo nãi hành).
Trình tử nói: đáng lý phải viết là: Ích đạo nãi hành, Trị dân, hành xử, hoạt động luôn luôn hợp với những định tắc của trời, đất, người (Ích. Động dĩ tốn), thì sẽ tiến mãi không có giới hạn nào cả (Nhật tiến vô cương).
Mình làm ơn, làm ích cho dân, cho đời, thì cũng theo đúng được đường lối của trời đất; vì trời đất cũng luôn luôn hoà hài, cộng tác với nhau để thi ân, bá đức, để sinh dưỡng muôn loài (Thiên thi địa sinh), chẳng kể biên cương, bờ cõi, mầu da, sắc áo (Kỳ ích vô phương).
Thánh nhân tùy theo thời thế, tùy theo những định tắc của trời đất, mà làm ơn ích cho dân, như vậy là theo được nhịp điệu vũ trụ mà làm ơn ích cho dân vậy (Phàm ích chi đạo. Dữ thời giai hành).
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 風 雷 益 . 君 子 以 見 善 則 遷 . 有過 則 改 .
Tượng viết:
Phong Lôi Ích. Quân tử dĩ kiến thiện tắc thiên. Hữu quá tắc cải.
Dịch.
Ích là gió, sấm hợp đôi,
Hiền nhân, quân tử vậy thời y theo.
Gặp lành, ra sức chắt chiu,
Lầm sai, ra sức liệu chiều sửa sang.
Thấy gió sấm có thể giúp nhau thêm mạnh (Phong Lôi Ích), người quân tử học được cách tiến đức, tu thân.
Khi thấy người khác làm điều gì hay mình bắt chước (Kiến thiện tắc thiện), khi thấy mình có điều gì dở, mình bỏ đi, (Hữu quá tắc cải); như vậy cả xã hội, nhân quần, cả lịch sử, cả vũ trụ, nhất nhất cái gì cũng làm ích lợi cho mình, như vậy sẽ tiến ích thực sự. Tiến ích về tinh thần, về nhân cách mới là hay.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Sáu Hào chỉ nói lên đại ý này là:
- Trị dân là phải quên mình vì dân (Hào 2).
- Lo lập nên đại công, đại nghiệp cho dân (Hào 1).
- Trợ cấp dân những khi dân lâm thiên tai, địa họa (Hào 3).
- Lo làm ơn, làm ích cho dân (Hào 5).
- Còn như lo làm ích cho mình thời sẽ bị dân ruồng rẫy, đả kích (Hào 6).
- Thành khẩn vì dân, vì nước (Hào 4).

1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 利 用 為 大 作 . 元 吉 . 無 咎 .
象 曰 . 元 吉 無 咎 . 下 不 厚 事 也 .
Sơ Cửu.
Lợi dụng vi đại tác. Nguyên cát. Vô cữu.
Tượng viết:
Nguyên cát vô cữu. Hạ bất hậu sự dã.
Dịch.
Thừa cơ mà lập đại công,
Chu toàn xong xả, mới mong tốt lành.
Cố sao thành tựu công trình,
Mới không chuốc lấy cho mình thị phi.
Tượng rằng: Chu toàn xong xả mới hay,
Đại công phận dưới xưa nay ít làm.
Sơ Cửu là người có tài, nhưng chưa có địa vị trong xã hội. Tuy nhiên Sơ Cửu được cấp trên Lục tứ tin dùng. Nếu vậy, nên lợi dụng cơ hội mà lập nên đại công, đại nghiệp. Có như vậy mới là thiệt hay lành, không còn ai bắt lỗi mình được nữa. Bằng nếu vẽ hổ chẳng thành, thì sẽ mang hoạ vào thân, và bị người chê cười. Cho nên phải Nguyên cát, nghĩa là phải được thành tựu trong công trình, thời mới được Vô cữu
Tượng viết: Nguyên cát. Vô cữu. Hạ bất hậu sự dã. Tượng giải thích tại sao phải làm công chuyện cho chu toàn, mới khỏi lỗi (nguyên cát. Vô cữu). Đó chính là người dưới không làm được những công việc trọng đại (Hạ bất hậu sự dã). Hậu sự tức là những công việc trọng đại.

2. Hào Lục nhị.
六 二 . 或 益 之 . 十 朋 之 龜 弗 克 違 . 永 貞 吉 . 王 用 享 于 帝 . 吉 .
象 曰 . 或 益 之 . 自 外 來 也 .
Lục nhị.
Hoặc ích chi thập bằng chi qui. Phất khắc vi. Vĩnh trinh cát.
Vương dụng hưởng vu Đế. Cát.
Tượng viết:
Hoặc ích chi. Tự ngoại lai dã.
Dịch.
Khi cần tăng ích cho người,
Bạn bè kéo đến, tận tình giúp cho.
Rùa thiêng bói chẳng ngược ta,
Sắt son, trung chính mới ra tốt lành.
Chính trung thấu đến cao xanh,
Tế trời, vua cốt tâm thành mới hay.
Tượng rằng: Có kẻ giúp ta,
Ấy là ích tự ngoài mà tới nơi

Hào Lục nhị: Trình Tử giải đại khái rằng: Lục nhị đắc trung, đắc chính, biết hư kỳ trung dĩ cầu ích, lại biết thuận tòng, như vậy thiên hạ ai mà chẳng muốn đến giúp mình. Nên nếu có thể làm ích gì cho mình được (Hoặc ích chi: hoặc hữu khả ích chi sự), thì bè bạn mọi nơi sẽ kéo về giúp mình (thập bằng chi: tắc chúng bằng trợ nhi ích chi).
Như vậy thì thần minh cũng không thể đi ngược được đường lối (qui bất khắc vi: qui phất năng vi dã). Cứ theo đúng đường lối minh chính ấy sẽ được mọi sự may mắn (Vĩnh trinh cát). Lòng thành khẩn của mình, dẫu Thượng đế cũng phải chứng giám (Vương dụng hưởng vu Đế. Cát.) như vậy làm sao mà không may, không lành được. Những người thành khẩn vì dân, vì nước như vậy có cần điều gì, thì chúng dân sẽ kéo đến giúp. Tượng viết: Hoăc ích chi tự ngoại lai dã.

3. Hào Lục tam.
六 三 . 益 之 用 凶 事 . 無 咎 . 有 孚 中 行 . 告 公 用圭 .
象 曰 . 益 用 凶 事 . 固 有 之 也 .
Lục tam.
Ích chi dụng hung sự. Vô cữu. Hữu phu trung hành. Cáo công dụng khuê.
Tượng viết:
Ích dụng hung sự. Cố hữu chi dã.
Dịch. (Dịch theo Trình tử):
Thấy dân khốn khổ giúp cho,
Hành vi như vậy, chẳng lo lỗi lầm.
Một lòng thành khẩn, chính trung,
Vương công âu sẽ cảm thông với mình.
Cùng người báo cáo công trình,
Ngọc Khuê mượn tỏ tâm tình thẳng ngay.
Tượng rằng: Dân khổ giúp cho,
Ấy là công việc từ xưa vẫn làm.

Hào Lục tam: Trình tử giải đại khái rằng: Gặp thời hung hoạ bất kỳ, mà mình không đợi lệnh vua, cứ ra tay cứu vớt dân (ích dân dụng hung sự), thời cũng chẳng có lỗi gì (vô cữu). Nếu mà mình có lòng thành khẩn (hữu phu), nếu mình theo đường ngay, lối phải mà làm (trung hành), thì vua sẽ cảm thông với mình (cáo công dụng khuê). Khuê là miếng ngọc để thông đạt lòng thành tín của mình, trong những khi tế tự, triều sính.
Chu Hi và Hồ vân Phong giải đại khái rằng: Họa hung chính ra cũng làm ích lợi cho con người (ích dụng hung sự). Người trên có thể dùng sự cảnh giới để làm chấn động mình, như vậy tức là làm ơn ích cho mình. Nếu mình cứ thành khẩn, hành xử cho phải, rồi ra cấp trên cũng thông cảm được lòng thành khẩn của mình. Các nhà bình giải sau này đều theo một trong hai cách bình giải trên.
Tượng viết: Ích. Dụng hung sự. Cố hữu chi dã. Trình tử giải đại khái rằng: Gặp những khi có hung họa, mình cần phải biết tự chuyên, tự quyết (Cố hữu chi... vị chuyên cố tự nhiệm kỳ sự dã), để mà cứu vãn dân khỏi cảnh đoạ đày. Cấp Ám xưa thấy dân Hà Nội bị đói khát, đã tự động mở kho lẫm để phân phát cho dân. Phùng Hoan đi đến huyện Triết để đòi nợ cho Mạnh Thường Quân. Đến nơi thấy dân đói khổ quá, liền đốt hết văn tự và nói Mạnh Thường Quân vì thương dân, đã tha hết nợ cho dân. Đó là trường hợp người dưới tự chuyên, tự quyết để cứu dân khi họ gặp hoạ hung.

4. Hào Lục tứ.
六 四 . 中 行 . 告 公 從 . 利 用 為 依 遷 國 .
象 曰 . 告 公 從 . 以 益 志 也 .
Lục tứ.
Trung hành. Cáo công tùng. Lợi dụng vi y thiên quốc.
Tượng viết:
Cáo công tùng. Dĩ ích chí dã.
Dịch.
Một lòng thành khẩn, chính trung,
Vương công âu sẽ hết lòng nghe ta.
Đã khi trên thuận, dưới hòa,
Rồi ra có thể thiên đô, ngại gì.
Tượng rằng:
Một lòng thành khẩn, chính trung,
Vương công âu sẽ hết lòng nghe ta.
Vì ta những lắng, cùng lo,
Lo làm lợi ích khắp cho mọi người.

Nếu những người phụ bật quân vương mà theo đường trung chính, thời những lời lẽ của họ sẽ được bậc quân vương tin theo (Trung hành. Cáo công tùng). Được vậy, sẽ giúp vua thực hiện được những việc lớn như thiên đô. Trung hành đây là một lời khuyên hoặc là một ước vọng. Thiên đô là một việc ích quốc, lợi dân.
Người xưa thiên đô để tìm một địa điểm lợi thế hơn, an toàn hơn, dễ phòng thủ hơn, hoặc gần đồng minh hơn. Đó chính là cách làm lợi cho dân. Ví dụ: Vua Bàn Canh đã thiên đô từ Hình về Bạc vì địa điểm cũ không thuận lợi. Bình Vương đã bỏ Phong Cảo về Lạc Ấp, để gần những nước chư hầu là Tấn và Trịnh hơn, ngõ hầu tránh nạn Khuyển Nhung. Hán Cao Tổ thiên đô về Tràng An, Hán Quang Võ thiên đô về Lạc Dương, vì những nơi đó hiểm trở, dễ phòng ngự v.v...
Tống Thái tổ cũng muốn thiên đô về Trường An. Tấn Vương can, Tống Thái Tổ bèn than: Không đầy 100 năm nữa, dân sẽ kiệt lực vậy, vì bốn bề thụ địch, không nương dựa vào đâu được.
Tiểu Tượng cho rằng: Lục tứ sở dĩ được quân vương nghe theo vì đã trình bầy những điều ích quốc, lợi dân. Tượng viết: Cáo công tùng. Dĩ ích chí dã.

5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 有 孚 惠 心 . 勿 問 元 吉 . 有 孚 惠 我 德 .
象 曰 . 有 孚 惠 心 . 勿 問 之 矣 . 惠 我 德 . 大 得 志 也 .
Cửu ngũ:
Hữu phu huệ tâm. Vật vấn nguyên cát. Hữu phu huệ ngã đức.
Tượng viết:
Hữu phu huệ tâm. Vật vấn chi hĩ. Huệ ngã đức. Đại đắc chí dã.
Dịch.
Thành tâm mưu ích cho người,
Chẳng cần han hỏi, hay thôi vô cùng.
Dân gian cảm đức, cảm công,
Gần xa đâu đấy, một lòng ơn ta.
Tượng rằng:
Thành tâm mưu ích cho người,
Chẳng cần han hỏi, hay thôi vô cùng.
Dân gian cảm đức, cảm công,
Thế là thỏa chí, thỏa lòng biết bao.

Hào Cửu ngũ: Nếu bậc quân vương thành khẩn một lòng vì dân, vì nước (hữu phu), lo thi ân bá đức cho dân (huệ tâm), thì khỏi cần hỏi han gì, cũng biết thế là vẹn hảo (vật vấn nguyên cát). Như vậy người dưới cũng sẽ một lòng tín thành (hữu phu), mà tri ân đức của bậc quân vương. (huệ ngã đức). Cai trị mà được dân mến, dân thương; cai trị mà làm ơn ích được như vậy, thực là thoả chí vậy. (đại đắc chí dã)
Vì thế Tượng viết: Hữu phu huệ tâm. Vật vấn chi hĩ. Huệ ngã đức. Đại đắc chí dã.

6. Hào Thượng Cửu.

上 九 . 莫 益 之 . 或 擊 之 . 立 心 勿 恆 . 凶 .
象 曰 . 莫 益 之 . 偏 辭 也 . 或 擊 之 . 自 外 來 也 .
Thượng Cửu:
Mạc ích chi. Hoặc kích chi. Lập tâm vật hằng. Hung.
Tượng viết:
Mạc ích chi. Thiên từ dã. Hoặc kích chi. Tự ngoại lai dã.
Dịch.
Chẳng ai giúp ích, đỡ đần,
Lại còn có kẻ muốn dần cho đau.
Lập tâm chẳng được bền lâu,
Lập tâm không vững, có đâu tốt lành
Tượng rằng: Chẳng ai giúp ích, đỡ đần,
Là vì lời nói có phần thiên tư.
Có người còn muốn đánh cho,
Ấy là những chuyện vạ vơ từ ngoài.

Hào Thượng Cửu: Trị dân mà không lo làm ích cho dân, mà chỉ lo vơ vét của dân, thì chắc sẽ không có ra gì, có ngày sẽ bị dân trả oán (Mạc ích chi. Hoặc kích chi).
Trị dân mà không có chương trình trường cửu, không có đường lối, không có chuẩn bị gì, chắc là sẽ chuốc lấy hoạ hung (Lập tâm vật hằng. Hung.)
Tượng viết: Mạc ích chi. Thiên từ dã. Hoặc kích chi. Tự ngoại lai dã. Ý nói không làm ơn ích cho ai, mà chỉ muốn nghiêng về mình, thủ lợi cho mình (Mạc ích chi. Thiên từ dã). Nói rằng: Có người đánh cho, tức là nói có người ngoài sẽ đánh mình. (Hoặc kích chi. Tự ngoại lai dã).
Thế tức là làm hay thì người ngoài ngàn dậm cũng hưởng ứng; làm dở thì người ngoài ngàn dậm cũng phản đối.
ÁP DỤNG QUẺ ÍCH VÀO THỜI ĐẠI

Trị dân theo đúng ý nghĩa là làm ích cho dân. Ngày nay, muốn trị dân, người ta đã chia nhà nước thành nhiều bộ: Như Lục quân, Không quân, Hải quân, Thương mại, Quốc phòng, Bộ Lại, Lao Động, Hình, Canh nông, Giáo Dục, Y tế, Ngân khố vv...
Ở Hoa Kỳ, các Bộ đều trực thuộc phủ Tổng Thống. Mỗi Bộ lo về một vấn đề, miễn sao phát triển đời sống dân về mọi mặt.
-Sức khỏe, ăn uống, có Food & Drug Administra-tion, và Departement of Agriculture.
- Giáo Dục ở Mỹ này, trường công, tư, đại học, trung học mọc lên như nấm.
- Giao thông, đường xá, cầu cống ngày nay, thật không đâu bằng hệ thống đường xá ở Mỹ.
- Vấn đề nhà ở cho dân. Ta thấy ở Mỹ này có khu sang, khu hèn. nhưng hèn mà vẫn đẹp đẽ, không bẩn thỉu.
- Mua bán các vật dụng, nhà cửa đều được trả góp dễ dàng. Mua đồ mang về nhà, nếu không ưng ý, đều có thể trả về lại dễ dàng.
Chúng ta thấy ở nước này không có việc gì mà không được lưu ý tới, Núi, Rừng, Sông, Biển đâu đâu cũng được khai thác hẳn hoi. Không đâu còn có rừng thiêng, nước độc. Canh nông thì hoàn toàn được kỹ nghệ hóa, tân tiến hóa. Không có cảnh Chồng cầy, vợ cấy, con trâu đi bừa như ở nước ta.
- Binh bị, chiến tranh, cũng hoàn toàn thay đổi hẳn. Đánh nhau bằng hỏa tiễn, phóng cách địch quân hàng mấy ngàn dặm. Người ta còn lên cung trăng, thám hiểm Hỏa Tinh, Mộc Tinh vv... Trong nhà thì có TV, tủ lạnh, Téléphone, Computer, Internet. Thật là quang cảnh hết sức thần tiên. Như vậy, mới nói: Trị dân là làm ích cho dân.
Trái lại, ở các nước nhược tiểu, trị dân là vơ vét, tham nhũng, hối lộ. Ai làm chính trị mà không tơ hào của dân thì cho là dốt, kém. Do đó mới hay xảy ra nạn tham nhũng, nạn con ông, cháu cha làm càn, làm bậy, làm hủ hóa dân tộc, làm cho dân tộc suy yếu, khó bề canh tân để tiến bằng nước người.
Nhưng còn có Nhật Bản, là đáng cho ta noi gương về cách cai trị của họ. Nước Nhật, tuy nhỏ, nhưng từ thời Minh Trị Thiên Hoàng, ngài là 1 vị vua anh quân, hết lòng lo cho nước, cho dân, do đó nước Nhật từ từ tiến lên, để từ 1 nước nhược tiểu mà đã làm cho các cường quốc kính nể. Khi ngài chết đi, đã khiến 1 số Tướng lãnh, và dân chúng vì thương xót Ngài quá độ nên đã mổ bụng tự tử theo ngài.
Mới hay trị dân là làm cho dân hay, dân tiến, tiến đến cùng cực mới là làm ích cho dân. Mong Thượng đế ban ơn cho nước Việt Nam của chúng ta một vị lãnh đạo anh minh, sáng suốt, đức độ như Minh Trị Thiên Hoàng, để cho dân Việt được sung sướng, an vui, sau những năm dài triền miên loạn lạc, chiến tranh, để cho dân Việt đoàn kết lại thành một khối, đừng có cảnh chia rẽ như bây giờ. Mong lắm thay!

Được cảm ơn bởi: susunb
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

4 THIÊN LÔI VÔ VỌNG
THIÊN LÔI VÔ VỌNG

Vô Vọng Tự Quái
無 妄 序 卦
Phục tắc bất vọng hỹ.
復 則 不 妄矣
Cố thụ chi dĩ Vô Vọng
故 受 之 以 無 妄

Vô Vọng Tự Quái
Phục rồi sẽ hết lỗi lầm đơn sai.
Rồi ra Vô Vọng tiếp ngôi.

Quẻ Vô Vọng, về phương diện Đạo Học, là một quẻ rất quan trọng trong Kinh Dịch. Thực vậy, quẻ Vô Vọng dạy về đời sống của các bậc Thánh Nhân, sống kết hợp với Trời, theo con đường chí công, chí chính của Tạo Hóa, chứ không theo con đường tà ngụy của tâm tư.
Trình tử giải Vô Vọng là: Hành động theo Thiên lý, là Chí Thành, là Thiên đạo. Trình tử còn nói thêm: Thánh nhân hoạt động theo Trời, Hiền nhân hoạt động theo người.
Lý Long Sơ nói: Con người do tinh hoa Trời Đất mà sinh, nên có Thần Trời, sự quang minh của Trời, vốn là Chân Thiện Vô Vọng. Nhưng sau khi sinh ra đời, bị dẫn dụ bởi những điều ngụy tạo của người khác, nên vọng niệm mới sinh ra. Vì vậy cho nên quẻ Vô Vọng tiếp theo sau quẻ Phục: Phục là trở về với đạo lý, nhìn thấy Thiên tâm, Thiên tính trong lòng mình. Vô Vọng là sống hồn nhiên theo đúng Thiên tính, Thiên lý, Thiên đạo. Quẻ Vô Vọng đề cập đến một trạng thái tâm thần cao siêu nhất của con người, nên những lời lẽ cũng trở nên khó hiểu.
Đọc Hào 2, 3, 5, y như thấy bàn đến:
- Phúc bất kỳ (Hào 2).
- Họa bất kỳ (Hào 3).
- Bệnh bất kỳ (Hào 5).
Nên nhiều nhà Bình Giải cho rằng: ngoài nghĩa chính yếu trên, Vô Vọng còn có nghĩa thứ hai là: Không cầu mà được, không ước mà nên, không muốn mà bị.
I. Thoán.
Thoán Từ.
無 妄:元,亨,利,貞。 其 匪 正 有 眚,不 利 有 攸 往。
Vô vọng. Nguyên, Hanh. Lợi, Trinh. Kỳ phỉ chính hữu sảnh.
Bất lợi hữu du vãng.
Dịch.
Vô Vọng là nguyên tuyền, đẹp đẽ,
Tốt lành thay, hợp lẽ chính trung.
Chính rồi, mới được hanh thông.
Nếu không chính đáng, lâm vòng tội khiên.
Tội tình vọng động triền miên,
Làm gì cũng sẽ chẳng nên việc gì.
Thoán Từ đại khái nói rằng: Con người mà đã đạt tới tình trạng Toàn chân, Toàn thiện, chí thành, chí mỹ rồi thì thực là một điều đại hạnh vậy. (Vô vọng nguyên hanh). Con đường đưa tới chí thành, chí thiện, tức là con đường công chính, nếu theo được mới hay, mới lợi (Lợi trinh). Hễ đã đi sai con đường công chính, tức đã đi vào con đường tà ngụy, như vậy tránh sao khỏi lỗi lầm (Kỳ phỉ chính hữu sảnh), như vậy thời làm sao mà hay, mà lợi được (Bất lợi hữu du vãng).

Thoán Truyện.
彖 曰 : 無 妄,剛 自 外 來,而 為 主 於 內。動 而 健,剛 中 而 應,大 亨 以 正, 天 之 命 也。其 匪 正 有 眚,不 利 有 攸 往。無 妄 之 往,何 之 矣?天 命 不 佑,行 矣 哉?
Thoán viết:
Vô Vọng. Cương tự ngoại lai nhi vi chủ ư nội. Động nhi kiện.
Cương trung nhi ứng. Đại hanh dĩ chính. Thiên chi mệnh dã.
Kỳ phỉ chính hữu sảnh. Bất lợi hữu du vãng. Vô Vọng chi vãng.
Hà chi hĩ. Thiên mệnh bất hựu. Hành hĩ tai.
Dịch.
Vô Vọng là Cương từ ngoài đến,
Tinh hoa Trời đã hiện bên trong,
Hiện ra, làm chủ cõi lòng,
Hành vi ám hợp Hóa Công từ rày,
Lòng ta, với lòng Trời ứng hợp,
Chính đáng thay, mà đẹp đẽ thay.
Thế là Thiện Mỹ từ nay.
Thế là ý muốn của Trời bấy lâu,
Chẳng chính đáng, thời âu tội lỗi.
Vọng động rồi, khỏi nói nên công.
Trời kia đã ngự cõi lòng.
Ích gì tìm kiếm lung tung tơi bời.
Làm như vậy e Trời chẳng giúp,
Không ơn Trời đi được đến đâu.
Bây giờ cái Tinh Hoa của Trời Đất đã hiện bên trong, đã làm chủ chốt cho mọi hoạt động (Cương = Dương = Tinh hoa), (Cương tự ngoại lai nhi chủ ư nội). Mình làm gì cũng thuận theo ý Trời, (Động nhi kiện). Luôn luôn đem một tấm lòng tinh thành mà đối đãi với người (Cương trung nhi ứng). Luôn luôn theo đàng công chính, đó là đã thực hiện được một công chuyện tốt đẹp nhất, đó là đã theo đúng Thiên Mệnh (Đại hanh dĩ chính. Thiên chi mệnh dã).
Nếu không công chính thời có lỗi, sao hay, sao lợi được (Kỳ phỉ chính hữu sảnh. bất lợi hữu du vãng). Đã được Chân Thiện Mỹ, là đã được Trời rồi, mà còn ước muốn nữa, còn muốn đi nữa, thì đi đâu? (Vô vọng chi vãng. Hà chi hĩ). Như vậy sao mong được Trời giúp đỡ, phù trì. Mà Trời đã không giúp, thời đi được đến đâu? (Thiên mệnh bất hựu. Hành hĩ tai).
II. Đại Tượng Truyện.
象曰 : 天 下 雷 行,物 與 無 妄 ; 先 王 以 茂 對 時,育 萬 物。
Tượng viết.
Thiên hạ lôi hành. Vật dữ Vô Vọng. Tiên vương dĩ mậu đối thời dục vạn vật.
Dịch.
Tượng rằng: Sấm động dưới Trời,
Bao nhiêu ngang trái, lôi thôi, tiêu trừ.
Muôn loài vui sống, nhởn nhơ,
Hồn nhiên, vạn hảo, đúng như ý Trời,
Thánh nhân cũng biết tùy thời,
Giúp cho muôn vật, sống đời đẹp tươi.
Đại Tượng bình: Trời dùng Sấm động dưới Trời để tiêu trừ ngang trái, cho muôn vật được sống thảnh thơi. Cho nên, Tiên vương xưa cũng cố tùy thời, làm cho muôn vật được nuôi dưỡng, được sống an vui. Trời dùng biến hóa để dần dà thực hiện toàn mỹ cho vạn vật; để dần dà phát huy tiềm năng, tiềm lực của muôn vật. Thánh nhân cũng bắt chước Trời, mà tùy thời dưỡng dục vạn vật.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 : 無 妄,往 吉。
象 曰: 無 妄 之 往,得 志 也。
Sơ Cửu. Vô vọng vãng cát.
Tượng viết:
Vô vọng chi vãng. Đắc chí dã.
Dịch.
Hồn nhiên, Thiên đạo mới hay,
Sống đời hoàn thiện, thời may đã đành.
Tượng rằng:
Hành vi theo đúng luật Trời,
Lúc nào cũng sẽ thảnh thơi, phỉ nguyền.
Hào Sơ khuyến cáo con người luôn đi vào con đường thánh thiện, như thế sẽ luôn được thảnh thơi, phỉ chí.

2. Hào Lục nhị.
六 二 : 不 耕 獲,不 菑 畬,則 利 有 攸 往。
象 曰: 不 耕 獲,未 富 也。
Lục nhị. Bất canh hoạch. Bất chi dư. Tắc lợi hữu du vãng.
Tượng viết:
Bất canh hoạch. Vị phú dã.
Dịch.
Chẳng cày, vẫn gặt, mới hay.
Chẳng cần ngả ruộng, mà nay ngấu thành.
Việc gì cũng sẽ lợi danh.
Tượng rằng:
Chẳng cày, vẫn có mùa màng.
Là Tâm chẳng có vấn vương tiền tài.
Hào Lục nhị có ý nói: Mình hãy cứ làm các công việc tốt, nhưng không có lòng mong cầu lợi lãi. Những Thánh nhân các đạo giáo cũng nói như trên. Phúc âm Mathieu viết: Hãy xem các loài chim trời, chẳng có gieo gặt, cũng chẳng thâu trữ vào kho tàng, mà Cha các ngươi nuôi nó. Các ngươi há chẳng trọng hơn loài chim sao?... Vậy các ngươi chớ lo lắng mà rằng: Chúng ta sẽ ăn gì? Uống gì? Mặc gì? Vì mọi điều đó, các dân ngoại thường tìm và cha các ngươi ở trên Trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi. Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Chúa và sự công chính của Ngài; thời Ngài sẽ trả cho các ngươi những điều ấy sau. (Matt. 6, 26 -33).
Đạo Đức Kinh viết:
Vô vi huyền diệu khôn bì,
Không làm, mà chẳng việc chi không làm.
Vô vi mà được thế gian,
Càng xoay sở lắm, đời càng rối beng. (XLVIII)

3. Hào Lục tam.
六 三 : 無 妄 之 災,或 系 之 牛,行 人 之 得,邑 人 之 災。
象 曰: 行 人 得 牛,邑 人 災 也。
Lục tam. Vô vọng chi tai. Hoặc hệ chi ngưu.
Hành nhân chi đắc. Ấp nhân chi tai.
Tượng viết:
Hành nhân đắc ngưu. Ấp nhân tai dã.
Dịch.
Chuyện đâu tai họa bất ngờ,
Trâu kia ai buộc vẩn vơ bên đường,
Bộ hành trông thấy dắt càn,
Người làng, bỗng bị họa mang vào người.
Tượng rằng:
Người đi đường bắt được trâu,
Người trong làng ấp, họa đâu mang vào.
Đa số các nhà bình giải, giải Hào Ba này như sau: Ở đời lắm tai vạ bất ngờ. Người đi đường dắt trâu mang đi, người trong ấp lại bị bắt bớ tra hỏi. (Chu Hi)
Duy Trình tử đại khái giải rằng: Đi ra Vọng, là đi theo mê lạc, đi theo Nhân dục, là điều tai hại dưới nhãn quan của các nhà Huyền học. Tam là Âm Nhu, tượng trưng cho bất trung, bất chính, nên là Vọng. Tam là ứng với Thượng Cửu, đó là tượng trưng cho dục tình, vì ứng là để tâm, để trí tới. Đã Vọng động như vậy, mà đắc âu là sẽ mất lại. Ta sẽ giải lời này rõ hơn bằng lời Thánh Kinh: Các ngươi chớ chứa của cải ở dưới đất là nơi mối, mọt nhấm nát được, nơi trộm cắp đào, khoét lấy mất được. Nhưng phải chứa của cải trên Trời, là nơi mối, mọt không nhấm nát, nơi trộm cắp không đào, khoét lấy mất được; vì của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi ở đó. (Matt, 6 , 19 - 21).

4. Hào Cửu tứ.
九 四 : 可 貞,無 咎。
象 曰: 可 貞 無 咎,固 有 之 也。
Cửu tứ. Khả trinh. Vô cữu.
Tượng viết:
Khả trinh vô cữu. Cố hữu chi dã.
Dịch.
Nếu mà theo được đường ngay,
Theo đường đạo lý, thế này lỗi chi !
Tượng rằng:
Hay là theo được đường ngay,
Bền tâm, vững chí, chẳng thay đổi lòng.
Hào bốn khuyên 2 điều:
1) Hãy theo con đường công chính.
2) Hãy bền lòng, vững chí đến cùng.

5. Hào Cửu ngũ.
九 五 : 無 妄 之 疾,勿 藥 有 喜。
象 曰: 無 妄 之 藥,不 可 試 也。
Cửu ngũ. Vô vọng chi tật. Vật dược hữu hỷ.
Tượng viết:
Vô vọng chi dược. Bất khả thí dã.
Dịch.
Xá chi bệnh tật bất kỳ,
Chẳng cần thang thuốc; vui đi, lành rồi !
Tượng rằng:
Chưa thang thuốc, bệnh đã lui,
Chớ nên thử thách, lôi thôi làm gì.
Hào năm tiếp tục chủ trương, đã đi đúng đường Trời, đừng có sợ những bệnh tật, những biến cố ngoại lai. Cũng vì vậy, khi đức Khổng bị vây ở đất Khuông, đã nói: Nếu Trời chẳng muốn mất vẻ sáng, thì người đất Khuông làm gì nổi ta. Như vậy, nếu ta vững niềm tin, tật bệnh, tai ách bất kỳ đều qua khỏi hết, không việc gì phải sợ hãi, cầu cạnh.

6. Hào Thượng Cửu.
上 九 : 無 妄,行 有 眚,無 攸 利。
象 曰: 無 妄 之 行,窮 之 災 也。
Thượng Cửu. Vô vọng hành hữu sảnh. Vô du lợi.
Tượng viết:
Vô vọng chi hành. Cùng chi tai dã.
Dịch.
Tinh thành còn muốn đi nao?
Vấn vương tội lỗi, tốn hao công trình.
Hào sáu kết luận rất khéo léo: đã được Trời còn muốn gì nữa. Đã được Tinh thành, còn muốn gì nữa?
ÁP DỤNG QUẺ VÔ VỌNG VÀO THỜI ĐẠI

Ngày xưa, các cụ thường răn con cháu: Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ. Ý muốn nói, chúng ta ở trên đời phải làm việc thì mới có ăn, nếu lười biếng thì đói. Ngược lại quẻ Vô Vọng lại nói, xem chừng như là nghịch lý.
Không cầy, vẫn gặt mới hay.
Chẳng cần ngả ruộng, mà nay ngấu thành.
Theo tôi, thì chẳng có gì nghịch lý, mà ý quẻ chỉ muốn nói: chớ quá tham lam, đèo bòng. Ở đời có làm thì mới có ăn, nhưng không phải làm quá đáng, hoặc vơ vét quá nhiều, tích tụ của cải cho lắm, mà không còn nghĩ gì đến Đạo lý Thánh Hiền. Ta hãy nhìn xem các Chủng Viện Công Giáo, các Chùa Phật giáo, các nhà tu hành, nơi nơi, nhà nhà, họ chỉ miệt mài Đạo lý, nào đâu thấy ai suốt ngày lo làm việc để kiếm tiền. Nhưng ta có thấy ai trong đám người tu hành mà nghèo khổ? Trái lại, họ còn thừa thãi của cải, đi đến đâu cũng được mọi người sùng kính hơn người thế gian. Sự thật, các Thánh nhân chỉ muốn khuyên ta chớ đắm chìm trong việc kiếm tiền, vì nó chỉ làm cho ta khổ sở, lao đao, càng kiếm lắm, càng mất nhiều, càng khổ sở. Thiên hạ chỉ vì danh, lợi, tiền tài mà sa vào vực thẳm, không lối thoát, chi bằng cứ vừa đủ ăn, mặc, nhưng lòng thênh thang lo đạo lý tốt hơn.
Đạo Đức Kinh chương LXIV viết:
Càng làm, càng lắm tan tành.
Càng ôm, càng mất, càng dành, càng vương,
Mới hay, đường lối Thánh nhân,
Chẳng làm, nên chẳng lo lường bại vong.
Thênh thang, dạ chẳng đèo bòng,
Khỏi điều mất mát, đỡ công tần phiền.
Ngày nay, con người sống chạy theo đà văn minh vật chất, nên có nhiều nhu cầu đòi hỏi; do đó chúng ta phải vất vả, bon chen với cuộc sống hàng ngày. Vì công việc làm, vì sinh kế, vì lo lắng giải quyết những công chuyện đã hoặc sắp xẩy ra, nên đầu óc chúng ta luôn mệt mỏi, có nhiều người trọn ngày không có lấy 1 giờ là của riêng mình, để mà sống cho yên tĩnh. Chúng ta sẽ như những chiếc lá vàng bị cơn lốc đời lôi cuốn, không biết sẽ đi đến đâu, nếu chúng ta không chịu bình tâm suy nghĩ để thay đổi cách sống, cách suy tư.
Giàu nghèo Trời đã định, hoạn nạn có số phần. Thánh nhân cũng không tránh được những biến cố bất kỳ.
Ví dụ: Văn Vương bị nạn ở Dũ Lý, Khổng tử bị Thúc Tôn, Võ Thúc chê bai (LN, XIX, 24).
Cho nên, tốt hơn hết chúng ta nên sống cho thoải mái, đừng quá tham mà làm khổ xác thân, đừng quá say mê chạy theo vật chất, mà quên mất sự bồi bổ tinh thần.
Nếu, khi đã tới tuổi 60, mà ta vẫn ham danh, lợi, tiền tài, vật dục, là ta đã đi nhầm đường rồi, phải kíp thời dừng bước, mà ngả theo Chính đạo, nếu không sẽ quá muộn, lúc trăm tuổi không biết sẽ về đâu, và rất lo sợ khi Tử thần tới rước.
Theo tôi, thể xác con người chỉ là 1 thứ người máy, hoạt động, suy tư được là nhờ có Thần nhập. Vậy tại sao ta không bồi bổ cho Thần của ta bằng cách suy tư, thánh thiện, mà lại chạy theo đường vật dục, để bồi bổ cho người máy của ta vậy?
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

5 HỎA LÔI PHỆ HẠP
HỎA LÔI PHỆ HẠP

Phệ Hạp Tự Quái
噬 嗑 序 卦
Khả quan nhi hậu hữu sở hợp.
可 觀 而 后 有 所 合
Cố thụ chi dĩ Phệ Hạp.
故 受 之 以 噬 嗑
Hạp giả hợp dã.
嗑 者 合 也

Phệ Hạp Tự Quái
Ngắm trông sẽ hợp, sẽ thân,
Cho nên Phệ Hạp theo chân hình thành.
Phệ Hạp là hợp đã đành.

Phệ Hạp là nghiền nát để hợp. Nghiền nát đây là trừng trị những kẻ bất lương, những người ngang ngược, làm mất trật tự xã hội, làm cho dân tình ly tán, không hợp nhất được với nhau.
Phệ Hạp xét về tượng hình, y như cái mồm mắc vật cứng ở giữa, làm cho 2 hàm trên dưới không thể hợp nhau. Phải nghiền nát vật cứng nhiên hậu mới hợp nhau được.
Trong xã hội cũng vậy, cần phải diệt trừ nguyên do chia rẽ, nhân tình mới hòa hợp được. Vì thế cần phải dùng hình phạt. Hình phạt mà áp dụng cho trúng, đó là thương dân, vì nhờ vậy dân mới được yên ổn. (Ái bách tính, cố hình phạt trúng. Hình phạt trúng, cố thứ dân an.)
Trời dùng Sấm = Chấn = Lôi; Chớp = Ly = Hỏa, để đánh tan sự oi ả. Thánh nhân dùng hình phạt để dẹp tan mầm mống chia rẽ. Thế chính là Pháp Thiên, bắt chước Trời mà hành sự.
Phệ Hạp trên có Ly = Hỏa chỉ sự sáng suốt, dưới có Chấn = Sấm chỉ sự uy nghiêm. Sáng suốt nên không ai dấu được sự tình; uy nghiêm nên mọi người đều kiêng sợ. Đó chính là những đức tính của vị phán quan.
Quẻ Phệ Hạp tóm tắt lại cơ chế hình pháp đời xưa. Đời xưa, Lễ, Nhạc, Hình, Chính (chính trị), là 4 cách trị dân. Hình pháp cốt để giữ gìn trật tự, trừng trị những kẻ gây rối.
I. Thoán.
Thoán Từ.
噬 嗑:亨。 利 用 獄。
Phệ Hạp. Hanh. Lợi dụng ngục.
Dịch.
Cản trước, rồi ra mới hợp sau,
Ngục hình dùng đúng, lợi biết bao.
Thoán Từ trước hết giải hai chữ Phệ Hạp, là nghiền nát để hợp. Ý muốn nói nghiền nát hay trừng trị kẻ ngoan ngạnh trong xã hội, để xã hội được hoà hợp. Vì thế, Thoán Từ nói Phệ Hạp hanh.
Thoán Truyện.
彖 曰: 頤 中 有 物,曰 噬 嗑,噬 嗑 而 亨。剛 柔 分,動 而 明,雷 電 合 而 章。柔 得 中 而 上 行,雖 不 當 位,利 用 獄 也。
Thoán viết:
Di trung hữu vật. Viết Phệ Hạp. Phệ Hạp nhi hanh. Cương Nhu phân.
Động nhi minh. Lôi điện hợp nhi chương. Nhu đắc trung nhi thượng hành.
Tuy bất đáng vị. Lợi dụng ngục dã.
Dịch.
Vật cứng ngáng mồm là Phệ Hạp,
Cắn nghiền ra, rồi hợp mới hay.
Cứng, mềm, minh biện, phơi bầy,
Uy nghi, sáng suốt, ai tày phong quang.
Như sấm chớp rỡ ràng, lẫm liệt.
Tuy khoan Nhu, siêu việt ngôi trên.
Vị ngôi tuy chẳng ấm êm,
Nhưng khi gia phạt, cũng nên Nhu hòa.

Thoán Truyện nói: Phệ Hạp nhi hanh. Có trừng trị kẻ gây rối rồi, thì xã hội mới được hanh thông, an lạc.
Phệ Hạp có Ly = Nhu ở trên, Chấn = Cương ở dưới. Cương, Nhu lưỡng dụng đều đặn, phân minh. Ý nói khi áp dụng hình phạt, cũng như khi xử tội, phải áp dụng cả Cương lẫn Nhu (Cương Nhu phân).
Phệ Hạp có Chấn là Động, Ly là Minh, ý nói khi xử đoán tội tình cũng như thi hành hình phạt vừa minh, vừa uy (Động nhi minh). Minh, Uy phối hợp với nhau, sẽ như sấm chớp dẹp tan mọi chếch mác, đem hòa hợp và trị bình lại cho đất nước, vì thế nói: Lôi điện hợp nhi chương. Thoán Truyện viết tiếp: Âm Nhu đắc trung nhi thượng hành. Âm mà ở ngũ, thời đâu có đáng ngôi vị, nhưng mà đối với các công cuộc hình án, thời nó là Nhu mà cư Cương. Lòng vốn tốt, nhưng nghiêm, Cương để bảo trì luật pháp cũng là hay rồi. Thoán Truyện, vì thế viết tiếp: Tuy bất đáng vị. Lợi dụng ngục dã.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰: 雷 電 噬 嗑 ﹔先 王 以 明 罰 敕 法。
Tượng viết:
Lôi điện Phệ Hạp. Tiên vương dĩ minh phạt sắc pháp.
Dịch. Tượng rằng:
Phệ Hạp chớp lóe, sấm vang,
Tiên vương, hình phạt quyết mang răn đời,
Có răn, có phạt, hẳn hoi,
Dân gian sẽ sống theo đòi phép khuôn.
Tượng Truyện lại nhắc lại: Lôi điện là Phệ Hạp. Đó tức là uy minh lưỡng dụng. Các bậc Thánh Vương xưa thấy vậy, xác định lại hình phạt, chỉnh đốn lại luật pháp, để cho dân biết tôn trọng luật pháp.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
Các Hào nói về cách áp dụng về hình phạt. Hào 1 và 6 vì vô vị nên tượng trưng cho người thụ hình, và cho tội nhân. Các Hào 2, 3, 4, 5 là những người có chức vị, có bổn phận phải thi hành hình phạt.
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 : 履 校 滅 趾,無 咎。
象 曰: 履 校 滅 趾,不 行 也。
Sơ Cửu. Lý giáo diệt chỉ. Vô cữu.
Tượng viết:
Lý giáo diệt chỉ. Bất hành dã.
Dịch.
Tra cùm, làm mất ngón chân,
Gia hình thế ấy, có lầm lỗi chi.
Tượng rằng:
Tra cùm, làm mất ngón chân,
Hết đi, hết dám sa vòng tội khiên.
Hào Sơ tượng trưng cho người mắc khinh tội, bị phạt nhẹ, bị cùm chân, bị mất ngón chân. Thế là phạt nhẹ, để ngăn tiểu nhân đi vào con đường gian ác.

2. Hào Lục nhị.
六 二: 噬 膚 滅 鼻,無 咎。
象 曰: 噬 膚 滅 鼻,乘 剛 也。
Lục nhị. Phệ phu diệt tị. Vô cữu.
Tượng viết:
Phệ phu diệt tị. Thừa Cương dã.
Dịch.
Nghiến da, nghiến mất mũi đi,
Gia hình thế ấy, chẳng chi lỗi lầm.
Tượng rằng:
Nghiến da, nghiến mũi, mất trơn,
Gặp người quá bướng, nghiêm hơn đã đành.
Hào hai tượng trưng cho một quan chức ngôi vị xứng kỳ đức, thi hành hình phạt theo đúng lẽ phải, cho nên dễ làm cho người phục; y như cắn vào da mềm vậy. Tuy nhiên, đôi khi cũng gặp phải những kẻ ương ngạnh, ngang ngược (Thừa Cương), nên phải dùng hình phạt nặng hơn (diệt tị =cắt mũi), mới trị được họ.

3. Hào Lục tam.
六 三 : 噬 臘 肉,遇 毒 ﹔小 吝,無 咎。
象 曰: 遇 毒,位 不 當 也。
Lục tam. Phệ tích nhục ngộ độc. Tiểu lận. Vô cữu.
Tượng viết:
Ngộ độc. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Phường gian ngoan khi cần sửa phạt,
Khó như là day nát thịt khô.
Thịt khô dai ngoách, cứng đơ.
Phạt người chẳng nổi, hóa ra hại mình.
Trường hợp ấy, âu đành rắc rối,
Nhưng riêng mình, nào lỗi chi đâu.
Tượng rằng:
Phạt người mà hóa hại mình,
Là vì ngôi vị, quyền hành dở dang.

Hào Lục tam đề cập đến một vị phán quan chưa đủ uy tín, mà đã xử tội một kẻ gian ngoan, có quyền thế. Gặp trường hợp này có khác nào nhai phải miếng thịt khô, lại còn cả xương; nên nhai đã chẳng được, nhiều khi còn nhiễm độc, nhiễm hại.

4. Hào Cửu tứ.
九 四 : 噬 乾 胏,得 金 矢,利 艱 貞,吉。
象 曰: 利 艱 貞 吉,未 光 也。
Cửu tứ. Phệ can chĩ. Đắc kim thỉ. Lợi gian trinh. Cát.
Tượng viết:
Lợi gian trinh cát. Vị quang dã.
Dịch.
Thịt khô cắn nát như thường,
Thịt khô còn dính cả xương cũng nghiền.
Bắt người nộp cả vàng, tên.
Khó khăn mấy, cũng chu tuyền công phu.
Tượng rằng:
Gian nan, vất vả mới xong,
Uy danh chiếu rạng chưa cùng khắp nơi.
Cửu tứ trái lại là một vị phán quan Cương nghị. Tội nhân ngang ngạch bất trị như miếng thịt khô dính xương, cũng nghiền nát được. Chẳng những vậy, còn bắt phải nộp đủ lệ bộ án phí. Xưa nộp án phí bằng vòng vàng (kim câu), và tên bắn (Thúc thỉ= 1 bó 50 cái).

5. Hào Lục ngũ.
六 五: 噬 乾 肉,得 黃 金,貞 厲,無 咎。
象 曰: 貞 厲 無 咎,得 當 也。
Lục ngũ. Phệ can nhục. Đắc hoàng kim. Trinh lệ. Vô cữu.
Tượng viết:
Trinh lệ vô cữu. Đắc đáng dã.
Dịch.
Thịt khô nào khó cắn nghiền,
Lại còn được cả hoàng kim của người.
Tuy nhiên, chớ có dể ngươi,
Đề cao cảnh giác, vậy thời mới hay.
Tượng rằng: Chẳng có dể ngươi,
Vì ta chính vị, chính ngôi đã đành.
Hào Lục ngũ vì đắc trung nên có đủ quyền uy để xét xử, trừng phạt những vụ hình án lớn. Nói là hình án lớn, vì đây tội nhân phải xuất kim (nộp vàng, nộp kim câu làm án phí ).

6. Hào Thượng Cửu.
上 九 : 何 校 滅 耳,凶。
象 曰: 何 校 滅 耳,聰 不 明 也。
Thượng Cửu. Hà giáo diệt nhĩ. Hung.
Tượng viết:
Hà giáo diệt nhĩ. Thông bất minh dã.
Dịch.
Mang gông mà mất cả tai,
Sự tình như thế, hung tai còn gì.
Tượng rằng:
Mang gông, đến mất cả tai,
Khôn thời đã vậy, ngoan thời chẳng ngoan.
Hào Thượng Cửu ám chỉ một tội nhân, vì đã đi quá trớn, đã làm điều xằng bậy quá lớn, nên bị trọng hình, mang gông mà mất cả tai.
ÁP DỤNG QUẺ PHỆ HẠP VÀO THỜI ĐẠI

Như trên ta đã biết, quẻ Phệ Hạp nói về luật pháp đời xưa. Vậy trước khi so sánh luật pháp xưa và nay, ta hãy tìm hiểu chúng. Trước tiên ta phải hiểu rõ, là bất kỳ ở Thời đại nào cũng vậy, hình pháp đặt ra cốt để giữ gìn trật tự, trừng trị những kẻ gây rối. Lễ Ký viết: Những người dũng cảm, sức lực, thay vì dùng sức lực mình để thi hành lễ nghĩa, hoặc chiến thắng ngoại thù, mà lại dùng nó vào việc tranh dành ẩu tả, thời gọi là những kẻ gây rối. Khi hình phạt được thi hành trong nước, những kẻ gây rối sẽ bị trừng trị trước tiên. Như vậy dân mới phục lệnh, mới sống hẳn hoi, và nước nhà mới yên.
Đối với hình án, người xưa rất nghiêm minh và thận trọng. Ví dụ: Vua Đại Võ và Cao Dao đã đặt mấy nguyên tắc cho nền hình pháp như sau:
1) Phán quan phải khoan hậu.
2) Không được phạt tới con cháu.
3) Tha các tội phạm vì vô tình.
4) Nhân nhượng đối với nghi tội.
4) Lỗi án lệ, còn hơn giết oan người.
5) Phán quan phải tỏ cho dân biết đức hiếu sinh của nhà vua ( Kinh thư, Đại Vũ Mô tiếp 12 ).
Người xưa coi 5 hình phạt sau đây là nặng nhất gọi là ngũ hình:
1) Mặc = Thích chữ vào trán hay vào mặt.
2) Tị = Sẻo mũi.
3) Ngoạt = Cắt chân.
4) Cung = Hoạn đối với con trai dâm loạn, cấm cố đối với con gái dâm loạn.
5) Đại tịch = Chém đầu.
Theo Lễ ký, mỗi khi phải áp dụng ngũ hình, vị phán quan hết sức cẩn trọng:
- Phải để ý tình cha con, nghĩa vua tôi.
- Phải cân nhắc tội trạng cho hẳn hoi.
- Xét tâm tư tội nhân cho tinh tế.
- Phải dùng hết tài trí thông minh, và lòng trung ái của mình khi xét xử.
- Phải lưu ý dến mọi trường hợp.
- Khi nghi ngờ, phải hỏi ý dân. Dân mà nghi không chắc, mình sẽ tha.
- Phải khảo lại các án lệ trước. (Lễ ký, Vương chế , IV, tiết 13 ).
Mỗi khi gặp hình án quan trọng, Lục sự phải trình hồ sơ lên phủ đường. Phủ đường xét hồ sơ rồi đệ lên Đại Tư Khấu (Tổng Trưởng Tư Pháp). Đại Tư Khấu xét hồ sơ xong, đệ lên nhà vua. Nhà vua giao cho Tam Công xét lại. Tam công xét xong, đệ lên lại cho nhà vua, bấy giờ mới quyết định hình phạt.
Ngày nay, ở các nước văn minh, những người bị tội nhẹ như ẩu đả, trôm cắp v v ... thì bị xét xử nơi Tòa Tiểu hình, tội nhân sẽ bị phạt tiền, hoặc bị giam giữ ngắn hạn. Còn những tội như cướp của, giết người, gây rối trị an, lường gạt, bội tín sẽ bị coi là những trọng tội, và sẽ bị xét xử nơi Tòa Đại Hình, tùy theo tội nặng nhẹ mà bị giam giữ lâu, hay chóng, còn như giết người, tối đa sẽ có thể bị tử hình, chứ không có những hình phạt dã man như ngày xưa.
Tóm lại, ở Thời đại nào, chính quyền đặt ra luật pháp cũng chỉ cốt là bảo vệ dân. Vậy làm dân, chúng ta tốt nhất là phải tôn trọng luật pháp, và bảo vệ luật pháp.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

6 SƠN LÔI DI


SƠN LÔI DI

Di Tự Quái
頤 序 卦
Vật súc nhiên hậu khả dưỡng.
物 畜 然 後可 養
Cố thụ chi dĩ Di.
故 受 之 以 頤
Di giả dưỡng dã.
頤 者 養 也
Di Tự Quái
Một khi súc tụ, lo đàng dưỡng nuôi.
Cho nên Di mới nối đuôi.
Di là di dưỡng, muôn loài trước sau.

Di trên dưới có 2 Hào Dương, giữa 4 Hào Âm, trên là Cấn = Núi, là đứng yên. Dưới là Chấn = Sấm = là cử động, tượng trưng cho cái mồm, trên dưới có 2 hàm răng cứng, giữa là miệng, lưỡi trống hoặc mềm; lại có 2 hàm: hàm trên không cử động, hàm dưới cử động.
Trong quẻ Di có Tượng mồm miệng, Thánh nhân mới nghĩ đến vấn đề di dưỡng, chứ không nói rằng ăn uống, vì chữ di dưỡng bao quát hơn vấn đề ăn uống. Ta có thể nói: Di dưỡng tinh thần, đức hạnh, thân xác, tha nhân.
I. Thoán.
Thoán Từ.
頤 : 貞 吉 . 觀 頤 . 自 求 口 實 .
Di: Trinh cát. Quan Di. Tự cầu khẩu thật.
Dịch.
Hay thay công cuộc dưỡng nuôi.
Hãy xem lề lối người đời kiếm ăn.
Di là dưỡng: dưỡng kỷ, dưỡng nhân, nhưng phải cho hợp lý, hợp nghĩa mới hay. Vì thế mới nói Di. Trinh cát. Di có 2 phương diện. Trình tử cho đó là: Dưỡng kỷ và Dưỡng thân. Chu Hi cho là Dưỡng đức và Dưỡng thân.
Chu Hi giải 2 chữ: Quan Di là xem mình chú ý di dưỡng cái gì nơi con người, Tự cầu khẩu thực = Cách thế sinh nhai.
Thoán Truyện.
彖 曰 : 頤. 貞 吉 . 養 正 則 吉 也 . 觀 頤 . 觀 其 所 養 也 . 自 求 口 實 . 觀 其 自 鄱 也 . 天 地 養 萬 物 . 聖 人 養 賢 . 以 及 萬 民 . 頤 之 時 義 大矣 哉 .
Thoán viết:
Di. Trinh cát. Dưỡng chính tắc cát dã. Quan Di. Quan kỳ sở dưỡng dã. Tự cầu khẩu thực. Quan kỳ tự dưỡng dã. Thiên địa dưỡng vạn vật. Thánh nhân dưỡng hiền. Dĩ cập vạn dân. Di chi thời đại hỹ tai.
Dịch.
Dưỡng sinh, mà tốt, mà hay.
Tốt, vì hợp lẽ chính ngay đất Trời,
Xem nuôi, xem dưỡng những ai.
Lại xem cung cách sinh nhai mỗi người.
Đất trời nuôi dưỡng muôn loài
Thánh nhân dưỡng dục hiền tài, vì dân.
Dưỡng sinh, nghĩa rất cao thâm,
Tùy thời dưỡng dục, mười phân vẹn mười.
Trời đất sinh vạn vật, tức phải lo nuôi dưỡng vạn vật. Thảo mộc, cỏ hoa, ngũ cốc, nước nôi, không khí tràn đầy mặt đất, chẳng phải để dưỡng nuôi vạn vật là gì?
Thánh nhân cai trị thiên hạ, cũng phải lo nuôi dưỡng thiên hạ. Trị dân mà để dân đói, dân khổ, thời trị dân làm gì? Tuy nhiên, thiên hạ thời bao la, sức một người không sao gánh vác xuể, vì vậy Thánh nhân có bổn phận chiêu hiền, đãi sĩ, tìm những người hay, người giỏi về cộng tác với mình, cho họ bổng lộc, để họ cùng mình thi ân trạch xuống bá tánh, nuôi dưỡng bá tánh, như vậy mới là biết trị dân (Thiên địa dưỡng vạn vật. Thánh nhân dưỡng hiền dĩ cập vạn dân). Hiểu nghĩa chữ Di, biết tùy thời dưỡng kỷ, dưỡng nhân, thật là cao đẹp vậy. (Di chi thời đại hĩ tai).

II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 : 山 下 有 雷 . 頤 . 君 子 以 慎 言 語 . 節 飲 食 .
Tượng viết:
Sơn hạ hữu lôi. Di. Quân tử dĩ thận ngôn ngữ. Tiết ẩm thực.
Dịch. Tượng rằng:
Ven non Sấm động là Di,
Hiền nhân ăn nói, hai bề vẹn hai,
Nói thời cẩn thận từng lời.
Ăn thời chừng mực, hẳn hoi, đường hoàng.
Đại Tượng nhân Tượng quẻ Di là mồm mép, khuyên ta nên: 1)- Thận trọng trong khi ăn nói. 2)- Tiết độ trong khi ăn uống. Đó là 2 bài học rất chí lý.
Thơ Bạch Khuê, trong Đại Nhã kinh Thi có 4 câu được Tạ Quang Phát dịch như sau:
Ngọc Bạch Khuê bị chầy, bị mẻ,
Mài láng trơn, có thể thành công.
Lời sai lầm, chót nói xong,
Chẳng làm gì được, răn lòng khắc ghi.
Ông Nam Dung thích đọc thơ này, và cố theo đó giữ gìn lời ăn, tiếng nói, nên Đức Khổng đã đem cháu gái gả cho (LN, XI, 5). Khi Đức Khổng vào thăm miếu của tổ tiên nhà Châu là Hậu Tắc, ngài thấy trước thềm bên phải, có một người vàng, miệng niêm phong 3 đợt, sau lưng có khắc những lời đại loại như sau:
Đây là Tượng một người xưa.
Lời ăn, tiếng nói, đắn đo giữ gìn.
Gương xưa, ta cũng nên xem,
Nói năng cẩn trọng, hãy nên lo lường.
(Khổng tử gia ngữ, chương Tắc miếu)
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 : 舍 爾 靈 龜 . 觀 我 朵 頤 . 凶 .
象 曰 : 觀 我 朵 頤 . 亦 不 足 貴 也 .
Sơ Cửu. Xả nhĩ linh qui. Quan ngã đóa Di. Hung.
Tượng viết:
Quan ngã đóa Di. Diệc bất túc quí dã.
Dịch.
Xấu thay người bỏ rùa linh (thần trong ta).
Trề môi, há miệng, mà rình xem ta.
Tượng rằng: Trề miệng nhìn ta (thèm ăn),
Thời đâu còn đáng gọi là thanh tao.
Hào Sơ có thể giải 3 cách:
1) Đường đường tu mi, nam tử mà không tin vào tài trí mình, có thể tự lực, cánh sinh mà phải bám vào người để cầu thực, thì chẳng ra gì (Hào tứ). Vì thế Tứ mới chê Sơ: Người có rùa linh = Có trí huệ, mà trề môi, há miệng, thèm thuồng đứng nhìn ta, thời đâu có hay.
2) Mê dục tình, mà táng khí tiết, thời đâu có hay.
3) Mình có nguồn đạo đức, có tàn lửa Thiên Chân bên mình, tại sao cứ chạy đi tìm những điều giả tạo bên ngoài, thế là đóng cửa đi ăn mày, thế là Thần lửa mà phải đi xin lửa. Những người như vậy, làm sao mà đáng quí được.

2. Hào Lục nhị.
六 二 : 顛 頤 . 拂 經 . 于 丘 頤 . 征凶 .
象 曰 : 六 二 征 凶 . 行 失 類 也 .
Lục nhị. Điên Di. Phất kinh vu khưu Di. Chinh hung.
Tượng viết:
Lục nhị chinh hung. Hành thất loại dã.
Dịch.
Trên quay xuống dưới xin ăn,
Thế là trái với lẽ hằng thế gian,
Nhược bằng cầu cạnh người sang,
Người trên xa lạ, bắc quàng hay chi.
Tượng rằng: Cố vươn, cố với, hay gì,
Đôi bên đâu có tông chi, họ hàng.
Hào hai đề cập đến một hạng người không có óc tự tin, óc độc lập, không biết tự lực cánh sinh, mà những mong dựa vào người dưới, hoặc người trên để kiếm ăn.
Đáng lý mình nuôi người dưới mới phải, nay lại cầu người dưới nuôi mình (Cầu Sơ Hào), thế là đảo lộn nghĩa lý (Điên Di), thế là nghịch với lẽ thường (Phất kinh). Ngoài ra trông vào những người trên không có liên lạc gì với mình (Thượng lục) để cầu thực, thì làm sao mà hay, mà toại nguyện được (Vu khưu Di. Vãng hung). Cái không hay là đã dựa vào những người không đồng chí hướng với mình (Thất loại dã). (Hào Lục nhị Âm; Hào Sơ, Hào Thượng đều Dương, thế là thất loại).

3. Hào Lục tam.
六 三 : 拂 頤 . 貞 凶 . 十 年 勿 用 . 無 攸 利 .
象 曰 : 十 年 勿 用 . 道 大 悖 也 .
Lục tam. Phất Di. Trinh hung. Thập niên vật dụng. Vô du lợi.
Tượng viết:
Thập niên vật dụng. Đạo đại bội dã.
Dịch.
Mưu sinh trái với đạo thường,
Mưu sinh mà đến bất lương, hay gì.
Cuối cùng sẽ chẳng ra chi,
Mưu toan dẫu lắm, chung kỳ cũng toi.
Tượngrằng: Chung cuộc cũng toi,
Là vì trái với đạo Trời quá đa.
Hào Ba đề cập đến một hạng người đi sai đường lối của Di. Phàm con người ta, phải lo di dưỡng tinh thần hơn là thể chất. Phải có những phương thế mưu sinh chính đáng, hẳn hoi, mới là đúng đạo lý của Di. Nếu phóng túng dục tình, chỉ lo thỏa mãn khẩu phúc, chỉ chìm đắm trong thanh sắc, lại có những đường lối sinh nhai bất chính, thì làm sao mà có một chung cuộc hay ho được (Lục tam. Phất Di. Trinh hung. Thập niên vật dụng. Vô du lợi).

4. Hào Lục tứ.
六 四 . 顛 頤 吉 . 虎 視 眈 眈 . 其 欲 逐 逐 . 無 咎 .
象 曰 . 顛 頤 之 吉 . 上 施 光 也 .
Lục tứ. Điên Di cát. Hổ thị đam đam. Kỳ dục trục trục. Vô cữu.
Tượng viết:
Điên Di chi cát. Thượng thi quang dã.
Dịch.
Hạ mình cầu cạnh với người,
Cầu hiền chỉ giáo, hay thời đã hay,
Đăm đăm, chăm chú bấy chầy,
Như hùm rình rập, khôn khuây tấc lòng.
Luôn luôn, những ngóng, cùng trông,
Trông người phụ bật, ai hòng cười chê.
Tượng rằng:
Hạ mình cầu cạnh, là hay,
Vì mình muốn sáng soi người gần xa.
Lục tứ là người có trách nhiệm dưỡng nuôi dân chúng, tuy mình vô tài (Âm nhu), nhưng biết khuất kỷ, cầu hiền (Hào Sơ Cửu); lòng lại đăm đăm, bo thiết, (Hổ thị đăm đăm), lòng bao giờ cũng canh cánh (Kỳ dục trục trục), muốn dụng hiền cho hay, dưỡng dân cho phải, thì dẫu mình làm một điều ngược với lẽ Trời, là nương vào tài đức của người hơn là trông vào thực lực của mình, cũng chẳng có lỗi gì (Điên Di chi cát). Hơn thế nữa, đó là cách trị dân quang minh vậy (Thượng thi quang dã).

5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 拂 經 . 居 貞吉 . 不 可 涉 大 川 .
象 曰 . 居 貞 之 吉 . 順 以 從 上 也 .
Lục ngũ. Phất kinh. Cư trinh cát. Bất khả thiệp đại xuyên.
Tượng viết:
Cư trinh chi cát. Thuận dĩ tòng thượng dã.
Dịch.
Hạ mình, chịu nhún nhờ người,
Thế là trái với lẽ đời xưa nay.
Bền lòng, vững chí, thì hay,
Nhưng tài sức ấy, khó ngày băng sông.
Tượng rằng:
Bền lòng, vững chí, hay thay,
Là vì theo được người hay trên mình.
Ở vào bậc quốc quân, mà cảm thấy mình còn tài thô, trí thiển, lại biết hạ mình để nhờ hiền tài (Thượng Cửu), chỉ vẽ cho mình biết cách trị dân cho hay, cho khéo, tuy là trái với thông lệ (Phất kinh), tuy là không mấy sĩ diện cho mình, nhưng thật ra là điều rất tốt cho thiên hạ, nhất là khi mình lại thật tâm dùng người hiền đức, nghe lời người hiền đức (Thuận dĩ tòng thượng dã).

6. Hào Thượng Cửu.
上 九 : 由 頤 . 厲 吉 . 利 涉 大 川 .
象 曰 : 由 頤 厲 吉 . 大 有 慶 也 .
Thượng Cửu. Do Di. Lệ cát. Lợi thiệp đại xuyên.
Tượng viết:
Do Di lệ cát. Đại hữu khánh dã.
Dịch.
Đứng ra dưỡng dục muôn người,
Những lo, cùng lắng, hay thời đành hay.
Dẫu băng sông lớn, băng ngay.
Khó khăn dẫu mấy, có ngày thành công.
Tượng rằng:
Đứng ra dưỡng dục mọi người,
Những lo, cùng lắng, hay thời đành hay.
Thấm nhuần ân trạch, đó đây,
Xa gần, chung hưởng những ngày hân hoan.
Hào Thượng Cửu ám chỉ một bậc hiền tài như: Y Doãn, Phó Duyệt, Chu Công, Tử Nha, Khổng Minh đã vì Quân Vương mà gánh vác việc nước, tận tụy một lòng vì nước, vì dân. lo cho dân no ấm (Do Di), thì phúc khánh cho quốc gia biết là mấy mươi (Cát đại hữu khánh dã).
ÁP DỤNG QUẺ DI VÀO THỜI ĐẠI

Trong Kinh Dịch, Di là cái mồm, nên bàn về Quẻ Di là bàn về di dưỡng. Di dưỡng là một định luật phổ quát:
*Trời đất di dưỡng vạn vật.
*Thánh nhân dưỡng hiền, và qua trung gian các hiền tài, dưỡng vạn dân.
*Con người sinh ra đời chẳng những phải biết lo cho thể xác mình, mà còn phải biết lo cho tinh thần mình nữa:
I. Lo cho thể xác.
1. Dưỡng sinh = động tác, nghỉ ngơi đúng chừng mực. Thật vậy, sống ở thời đại văn minh vật chất này, con người sống như một cái máy. Để kiếm cho được thật nhiều tiền, họ làm việc bất kể thời gian, giờ giấc. Có người vì phải làm công việc quá độ, cơ thể không chịu đựng được, nên sinh ra đủ mọi thứ bệnh.
2. Dưỡng hình: Ăn uống, phải thời, đúng lúc. Cũng như trên, vì mải lo kiếm tiền, nên sự ăn uống thì bạ đâu ăn đó, không có điều độ, không hợp vệ sinh, nên lúc chưa già mà cơ thể đã nhiễm đủ mọi thứ bệnh, mọi thứ ung thư.
3. Dưỡng đức: Thứ nhất là ta phải kiểm soát lời ăn, tiếng nói. Các cụ xưa dạy con cháu thường nói: Bệnh tòng khẩu nhập. Họa tòng khẩu xuất nghĩa là bệnh từ mồm vào, họa từ mồm ra. Bệnh tật phần lớn là do ăn uống, tai ương là do mồm sinh. Ta vì ăn nói xô bồ, chê bai, khinh khi mọi người, nên bị mọi người thù oán. Nên ta cần phải biết giữ mồm, giữ miệng. Cho nên, Esope xưa mới nói: Xấu nhất là cái lưỡi, tốt nhất cũng là cái lưỡi.
II. Di dưỡng Tinh thần:
Nếu xác ta cần được nuôi, thì tinh thần ta cũng cần được dưỡng như vậy. Ta sống không phải nguyên vì cơm, gạo, bánh mì. Mà ta cần phải đọc thêm nhiều sách vở. Có như vậy ta mới là con người toàn diện. Ngày nay, nước Hoa Kỳ cho ta nhiều cơ hội được đọc sách của bất kỳ Đạo Giáo nào, và cũng không ai bắt ta phải tin gì, hoặc theo đạo nào. Đọc sách không cần đọc nhiều. Cần nghiền ngẫm quyển sách nào mà ta cho rằng đắc ý nhất. Và ta nên nhớ, Thánh Hiền sau trước, không phân Đạo Giáo, đều nói một thứ Chân Lý, đều bàn về Bản thể con người, về Đạo thể vô biên tế mà thôi.
III. Dưỡng nhân: Lo lắng, nuôi dưỡng muôn dân.
Người làm Chính trị tuy không trực tiếp nuôi dân, nhưng thật ra vẫn gián tiếp nuôi dân. Thực vậy, họ đã lập ra pháp luật để mang an bình, trật tự lại cho mọi người. Nếu không có an bình, trật tự thì làm sao ta giữ nổi miếng ăn.
Hiện nay, ở Mỹ chính phủ đã lo thực phẩm cho dân quá đầy đủ, chẳng những thực phẩm do trong nước sản xuất, mà còn nhập cảng đủ thứ, từ nơi xứ người, nên người dân không bị thiếu thốn về thực phẩm, hay thua sút dân tộc khác. Nhưng nếu con người sinh ra mà chỉ để ý đến thân xác, hoặc ăn uống mà thôi, thì thật quá tầm thường.
Theo thiển ý của tôi, Vấn đề di dưỡng phải dung hòa đủ mọi mặt như trên đã nói, thì mới là quân bằng sự đòi hỏi về đời sống của con người. Tức là: Di dưỡng là: Dưỡng sinh, dưỡng đức, dưỡng hình, dưỡng nhân.

Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

8 SƠN PHONG CỔ
SƠN PHONG CỔ


Cổ Tự Quái
蠱 序 卦
Dĩ hỷ tùy nhân giả tất hữu sự.
以 喜 隨 人 者 必 有 事
Cố thụ chi dĩ Cổ.
故 受 之 以 蠱
Cổ giả sự dã.
蠱 者 事 也

Cổ Tự Quái
...Vui theo người, ắt có nhiều sự sinh,
Cho nên quẻ Cổ tiếp thành,
Cổ là công chuyện thi hành trước sau.

Cổ là thối nát. Chữ Cổ gồm chữ Mãnh là đĩa, trên có 3 chữ Trùng là sâu, gợi lên ý nghĩa, thức ăn để lâu đã bị hư hại, dòi bọ.
-Cổ có nghĩa là lầm lạc, quẻ Cổ trên có quẻ Cấn là con trai nhỏ, dưới có quẻ Tốn là con gái lớn: con gái lớn dùng nữ sắc làm mê hoặc người con trai nhỏ.
-Cổ là đình đốn, hoại loạn. Quẻ Cổ, trên là Cấn là đình chỉ, đình đốn, dưới là Tốn= Nhu thuận. Trên ù lì, đình đốn, dưới nhắm mắt thuận theo, sẽ sinh ra hoại loạn
Hơn nữa, ở nơi quẻ Cổ, Âm Dương bất tương giao, tôn ti bất tương tiếp. Quẻ Cấn là Dương ở trên quẻ Đoài là Âm, nên Âm Dương bất giao; ở nơi quẻ Cấn và quẻ Đoài, hào Dương ở trên, hào Âm ở dưới, thế lại là Âm Dương bất giao, nên sinh cổ hoại.
Tự Quái nói vui theo người sẽ có chuyện. Mới hay, mỗi khi ta để cho người lôi kéo ta, mê hoặc ta mà không chịu suy nghĩ, không chịu tự lo, tự liệu cho mình, âu sẽ có lắm chuyện lôi thôi
I. Thoán.
Thoán Từ.
蠱:元 亨,利 涉 大 川。 先 甲 三 日,后 甲 三 日。
Cổ. Nguyên hanh. Lợi thiệp đại xuyên.
Tiên Giáp tam nhật. Hậu Giáp tam nhật.
Dịch.
Cổ đổ nát, nay ta dựng lại,
Thế mới hay, mới lợi làm sao,
Qua sông, nào quản chi nào?
Ba ngày trước Giáp, lại sau ba ngày.

Thoán Truyện. Thoán viết.
彖 曰. 蠱,剛 上 而 柔 下,巽 而 止,蠱。 蠱,元 亨,而 天 下 治 也。利 涉 大 川,往 有 事 也。 先 甲 三 日,后 甲 三 日,終 則 有 始,天 行 也。
Cổ. Cương thượng nhi Nhu hạ. Tốn nhi chỉ. Cổ. Cổ nguyên hanh. Nhi thiên hạ trị dã. Lợi thiệp đại xuyên. Vãng hữu sự dã. Tiên Giáp tam nhật. Hậu Giáp tam nhật. Chung tắc hữu thủy. Thiên hành dã.
Dịch. Thoán rằng:
Cổ, cứng trên mà mềm ở dưới,
Dưới vâng theo, trên lại ù lì.
Cơ đồ đổ nát, còn chi.
Nay gây dựng lại, còn gì hay hơn.
Rồi lại thấy giang sơn bình trị,
Dẫu vượt sông, quyết chí ra tay,
Ra công sau trước ba ngày,
Trước lo, sau liệu cho hay, mới hào.
Đầu với cuối, việc nào chẳng có,
Rõ luật trời, đâu khó thành công.

Cổ cũng có nghĩa là gây dựng lại đổ nát, người xưa gọi thế là Trì cổ. Cho nên, khi gặp hoại loạn phải ra tay chấn chỉnh cơ đồ, phải sửa sang lại mọi chếch mác, dở dang, chấn hưng lại mọi câu chuyện đình đốn, như vậy sẽ đi đến hanh thông. Muốn ra tay sang sửa mối giường, phải biết lướt thắng gian truân, xông pha nguy hiểm. Hơn nữa, phải nghiên cứu hiện tình cho kỹ lưỡng, để tìm cho ra duyên do đổ nát. Đó là ý nghĩa câu Tiên Giáp tam nhật = phải biết nhìn về quá vãng (Ba ngày trước ngày Giáp, là ngày Tân, ý nói muốn canh tân, phải thấu triệt duyên do sự hủ bạị). Đàng khác phải tìm, phải hoạch định cho rõ ràng kế hoạch chấn hưng; lại phải đinh ninh, gắn bó, lo lường để tránh mọi sơ hở. Đó là ý nghĩa câu Hậu Giáp tam nhật = phải biết nhìn về tương lai để xếp đặt kế hoạch. (Ba ngày sau Giáp tức là ngày Đinh, ý nói phải đinh ninh, cẩn trọng). Hoàn cảnh đổ nát, nhưng nếu gặp người tài đức ra tay gây dựng lại cơ đồ, thì chẳng có gì mà phải lo, thế nào cũng đi tới hanh thông.
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết.
象 曰. 山 下 有 風,蠱﹔ 君 子 以 振 民 育 德。
Sơn hạ hữu phong. Cổ. Quân tử dĩ chấn dân dục đức.
Dịch.
Cổ là gió thổi ven non,
Hiền nhân cổ xúy, dân con hào hùng.
Gió thổi gặp núi, nên quẩn lại làm hại cây cối. Ở đời tính quẩn sẽ sinh đổ nát. Muốn chấn hưng cơ đồ, trước hết phải cổ súy nhân tâm, chấn hưng đạo đức. Nếu toàn dân đã thức tỉnh, đã trở nên hăng say, tha thiết, đã thực tâm muốn quật khởi xây dựng, thì làm việc gì mà chẳng nên công.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Sáu Hào mượn gia sự, mà nói đến sự gây dựng lại cơ đồ đã đổ nát. Khưu Kiến An cho rằng : sáu Hào đều nói đến gia sự. Hào thượng là cha, Hào ngũ là mẹ, bốn Hào dưới đều là con. Còn như lấy quốc sự mà nói, thì hào ngũ là quân vương, hào thượng là bất sự chi thần, bốn Hào dưới là dụng sự chi thần.
1. Hào Sơ lục.
初 六. 幹 父 之 蠱,有 子,考 無 咎,厲 終 吉。
象 曰: 幹 父 之 蠱,意 承 考 也。
Sơ Lục.
Cán phụ chi cổ. Hữu tử khảo. Vô cữu. Lệ. Chung cát.
Tượng viết.
Cán phụ chi cổ. Ý thừa khảo dã.
Dịch.
Ra tay dựng lại cơ đồ,
Cha làm đổ nát, con lo gây dừng.
Nhờ con, cha khỏi lỗi lầm,
Biết lo, biết liệu, cuối cùng sẽ hay.
Tượng rằng:
Cha phá hỏng, con xây dựng lại,
Thế chính là con nối chí cha.
Hào Sơ đại khái nói rằng: nếu cha làm lỗi, làm hỏng, mà con gây dựng lại cơ đồ, thế là người cha chẳng có lỗi, vì đã có con nối được chí cha.

2. Hào Cửu nhị.
九 二. 幹 母 之 蠱,不 可 貞。
象 曰: 幹 母 之 蠱,得 中 道 也。

Cửu nhị. Cán mẫu chi cổ. Bất khả trinh.
Tượng viết.
Cán mẫu chi cổ. Đắc trung đạo dã.
Dịch. Cửu nhị,
Mẹ làm nát, con gây dựng lại,
Đừng phũ phàng, vừa phải mới hay.

Hào Hai đề cập đến một quan điểm cho rằng sửa sai, nhưng cũng có khi phải mềm dẻo, khéo léo, tùy thời, tùy cơ, tùy nhân, tùy sự, mà xử trí mới hoàn toàn tốt đẹp. Ví dụ: mẹ đã làm hư cơ đồ, con cũng đừng cứng rắn quá, làm đau lòng mẹ. Chữ Bất khả trinh nơi đây, phải hiểu là đừng nên cố chấp quá, hoặc cứng rắn quá.

3. Hào Cửu tam.
九 三. 幹 父 之 蠱,小 有 晦,無 大 咎。
象 曰: 幹 父 之 蠱,終 無 咎 也。
Cửu tam. Cán phụ chi cổ. Tiểu hữu hối. Vô đại cữu.
Tượng viết.
Cán phụ chi cổ. Chung vô cữu dã.
Dịch.
Hào Cửu tam, vì cha sửa tệ,
Tránh sao điều nhỏ bé lầm sai,
Ăn năn vặt vãnh thế thôi,
Nhưng mà lỗi lớn, có đời nào đâu.
Tượng rằng: Sửa tệ cho cha,
Cuối cùng chẳng đến nỗi ra lỗi lầm.

Hào Cửu tam đề cập đến một người con gây dựng lại cơ đồ, mà người cha đã làm hư hại, hay một người muốn gây dựng lại cơ đồ, mà người đi trước đã làm hư hại. Hào Cửu tam ở đây, vì quá Cương, nên đã tỏ ra quá cứng rắn, nên đã gây ra những bất hòa, những phiền toái nhỏ. Nhưng dầu đã có một vài sự đáng tiếc nhỏ xẩy ra, đương sự cũng không bị những điều chê trách lớn. Vì thế nói: Tiểu hữu hối. Vô đại cữu.

4. Hào Lục tứ.
六 四. 裕 父 之 蠱,往 見 吝。
象 曰: 裕 父 之 蠱,往 未 得 也
Lục tứ. Dụ phụ chi cổ. Vãng kiến lận.
Tượng viết:
Dụ phụ chi cổ. Vãng vị đắc dã.
Dịch.
Sửa tệ cha, nếu mà do dự,
Thời làm gì, cũng cứ bị chê.
Tượng rằng:
Sửa tệ cha, nếu mà do dự,
Dẫu làm gì, cũng cứ dở dang.
Hào Lục tứ ám chỉ một người Nhu nhược, do dự không dám sửa những lỗi lầm của người xưa để lại; nếu cứ chần chừ, để mặc cho dòng đời trôi chẩy như vậy, sẽ chuốc lấy sự xấu (Dụ= chần chờ, do dự).

5. Hào Lục ngũ.
六 五. 幹 父 之 蠱,用 譽。
象 曰: 幹 父 之 蠱 ﹔承 以 德 也。
Lục ngũ. Cán phụ chi cổ. Dụng dự.
Tượng viết.
Cán phụ dụng dự. Thừa dĩ đức dã.
Dịch.
Lục ngũ: Nếu vì cha sửa tệ,
Biết dùng người, âu sẽ nổi danh.
Tượng rằng: Sửa tệ cho cha,
Dùng người khéo léo, gần xa khen mình,
Dùng người phụ bật cho minh,
Ta hay, người sẽ tâm thành giúp ta.
Hào Lục ngũ tuy là Âm Nhu chi tài, một mình không đủ sức sửa sai, sửa tệ của người xưa lưu lại, nhưng vì biết dùng hiền tài phụ bật (Hào Cửu nhị ), nên cũng chấn chỉnh được cơ đồ, như vậy cũng đáng khen, đáng trọng.

6. Hào Thượng Cửu.
上 九. 不 事 王 侯,高 尚 其 事。
象 曰: 不 事 王 侯,志 可 則 也。
Thượng Cửu. Bất sự vương hầu. Cao thượng kỳ sự.
Tượng viết.
Bất sự vương hầu. Chí khả tắc dã.
Dịch.
Hết còn thù phụng quân vương,
Việc làm cao thượng, dễ thường mấy ai.
Tượng rằng: Chẳng giúp quân vương,
Chí cao cả ấy, treo gương cho đời.
Ở trên đời, có những người không dấn thân vào vòng Cương toả, lợi danh, sống cao khiết bên lề trần tục, một lòng tu đạo lập thân, mong đạt tới tinh hoa nhân loại. Những bậc ẩn giả này, tuy không vương tục lụy, trần cấu đương thời, nhưng thật đã làm gương cho vạn thế.

ÁP DỤNG QUẺ CỔ VÀO THỜI ĐẠI
Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách, đó là điều mà quẻ Cổ này muốn nói. Chúng ta, những người Việt ly hương, tuy nay đời sống đã ổn định vững vàng, nhưng hỏi có mấy ai là có thể quên Quê hương, Tổ quốc ? Tôi nghĩ chẳng có ai có thể quên được, dù là những người, vừa mới lọt lòng mẹ đã ở nơi đất khách quê người này rồi, tuy lúc còn nhỏ, họ chưa có ý niệm gì về quốc gia dân tộc, nhưng khi đã trưởng thành, thì tự nhiên trong đầu óc họ sẽ có ý niệm về gốc gác của mình, và lòng yêu quê hương sẽ nẩy nở trong lòng họ, vì quê hương là đất mẹ, là cha mẹ họ. Nếu có kẻ nào quên được quê hương, thì kẻ đó thuộc về loại vong bản, ta không cần nói đến họ làm chi.
Bà mẹ đang sống cảnh khó khăn, lo lắng, bệnh hoạn, thì đứa con yêu mẹ, tuy sống xa mẹ nó, nhưng nó có yên tâm được không? Chắc chắn là không rồi.
Vậy chúng ta, những người dân của một nước, mà nước đó hiện nay đang vùng vẫy để ra khỏi những gì gọi là hủ hóa, tệ đoan của xã hội, để vươn lên cho kịp đà tiến hoá của nhân loaị. Chúng ta hãy gạt bỏ những gì gọi là thành kiến, là thù oán cá nhân, hãy thành khẩn bắt tay với chính quyền trong nước, hãy mang những ý kiến xây dựng của mình, những tài năng của mình- nếu có- để chung lo vá lại mảnh dư đồ đã rách.
Đọc tới đây, chắc nhiều vị đã nghĩ rằng tôi đã nói chuyện viển vông, nói chung lo, nhưng chung lo bằng cách nào? Chưa ngồi gần đã vạch lỗi nhau, để bôi nhọ nhau, để chửi bới nhau, như vậy hỏi sao mà hợp tác được với nhau?
Nhưng theo tôi, mọi sự trên đời không có gì là khó đến nỗi không giải quyết nổi, những khó khăn như những nút thắt, nếu ta từ từ gỡ, thì chặt cách mấy cũng gỡ được.
Chúng ta đừng quá bi quan, cũng đừng quá tự phụ, hãy xét mình trước, rồi hãy bắt lỗi người sau. Nếu chúng ta có lòng thành khẩn muốn góp ý kiến, góp tài năng, góp tâm tư một cách vô vị lợi, một cách xây dựng, chúng ta cứ thành khẩn trình bầy ý kiến của chúng ta, sau khi đã suy nghĩ kỹ càng đó là những ý kiến đứng đắn, vô tư, những ý kiến xây dựng, nó có thể mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia, dân tộc, mà người góp ý kiến này, chỉ vì lòng yêu nước chứ không cầu mong công danh, lợi lộc gì hết. Nhưng muốn đi tới giai đoạn trên, trước hết chúng ta phải có khối óc vô tư, không tư vị bên nào, để lối nhìn của mình không bị lệch lạc, tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ thành công. Và đây là bài thơ, lấy ý của Hào Thượng Cửu quẻ Cổ này, nói lên kết quả đời sống của người có lòng yêu quê hương một cách thành khẩn, vô vị lợi trên.
Chẳng cần thù phụng đấng quân vương,
Vượt trổi chúng nhân, sống phi thường,
Đời sống thanh cao, tâm linh sảng,
Lưu lại muôn đời, một tấm gương.
Còn chính quyền nơi đất mẹ, muốn chấn chỉnh lại cơ đồ, trước hết phải cổ súy nhân tâm, chấn hưng đạo đức, thu nạp nhân tài, nghiên cứu và ứng dụng những ý kiến hay, hai bên kết hợp thật lòng với nhau, làm sao không đi tới đích được. Ta mượn bài thơ sau để vẽ lên sự thành công đó:
Ra tay gây dựng lại cơ đồ.
Khéo dụng nhân tài mới khỏi hư.
Nếu biết dụng người, sang sửa tệ,
Rồi ra tăm tiếng sẽ lan xa.
Được cảm ơn bởi: susunb
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

Hình ảnh
Đầu trang

Trả lời bài viết