Tượng hào vs tượng quẻ
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem quẻ: Lục nhâm, Thái ất, Lục hào, Mai hoa... Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức Dịch lý.
Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
Đây là chuyên mục dành cho việc xem quẻ: Lục nhâm, Thái ất, Lục hào, Mai hoa... Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức Dịch lý.
Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
8 quẻ cung chấn
CUNG CHẤN
1. CHẤN VI LÔI
2. LÔI ĐỊA DƯ
3. LÔI THỦY GIẢI
4. LÔI PHONG HẰNG
5. ĐỊA PHONG THĂNG
6. THỦY PHONG TỈNH
7. TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ
8. TRẠCH LÔI TÙY
CUNG CHẤN
1. CHẤN VI LÔI
2. LÔI ĐỊA DƯ
3. LÔI THỦY GIẢI
4. LÔI PHONG HẰNG
5. ĐỊA PHONG THĂNG
6. THỦY PHONG TỈNH
7. TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ
8. TRẠCH LÔI TÙY
Được cảm ơn bởi: Mr.Hoang
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
1 CHẤN VI LÔI
CHẤN VI LÔI
BÁT THUẦN CHẤN
Chấn Tự Quái
震 序 卦
Chủ khí giả mạc nhược trưởng tử.
主 器 者 莫 若 長 子
Cố thụ chi dĩ Chấn.
故 受 之 以 震
Chấn giả động dã.
震 者 動 也.
Chấn Tự Quái
Giữ gìn chủ khí, duy người trưởng nam.
Cho nên Chấn tiếp mối giường,
Chấn là chấn động, cương cường vần xoay.
Chấn có nhiều nghĩa: Chấn là sấm, oai trời, trưởng nam, Đông cung Thái tử, là chấn động, phấn động, kinh sợ. Tất cả nghĩa này, đều được dùng trong quẻ Chấn.
Quẻ Chấn tiếp theo quẻ Đỉnh do một sự liên tưởng. Đỉnh là một dụng cu khi tế tự. Chấn là trưởng nam, có thể thay mặt cha tế tự. Vì thế sau quẻ Đỉnh là quẻ Chấn.
I. Thoán.
Thoán từ.
震 . 亨 . 震 來 . 笑 言 啞 啞 . 震 驚 百 里 . 不 喪 匕 鬯 .
Chấn. Hanh. Chấn lai khích khích. Tiếu ngôn hách hách.
Chấn kinh bách lý. Bất táng chủy sưởng.
Dịch.
Chấn là chấn động lôi đình,
Làm cho vạn vật phỉ tình hanh xương.
Sấm vang sợ hãi, lo lường,
Rồi ra khúc khích, rộn ràng cười vui.
Sấm vang, trăm dặm sợ oai,
Vẫn thường bình tĩnh, chẳng rơi chén thìa.
Sấm trời cốt là để kích thích vạn vật, cho nên theo Trung Hoa, thì ngày xuân phân thường có sấm, để đánh thức côn trùng tỉnh giấc đông miên, để giáo đầu cho ngày Xuân mới tưng bừng trong hoa lá. Vì thế nói: Chấn hanh. Đối với con người, thì những sự kinh mang, chấn động trên đời đều có mục đích thức tỉnh con người biết đề phòng, úy cụ, biết trở lại đường ngay, nẻo chính. Biết sợ oai trời, biết hồi tâm, thuận phục những định luật của đất trời, sẽ đem lại hạnh phúc cho con người. Vì thế Thoán nói: Chấn lai khích khích. Tiếu ngôn hách hách. Đại khái rằng có biết úy cụ, đề phòng, thời sau mới được hanh thông hoan lạc. Thánh Kinh Công giáo cũng viết: Kính sợ Trời là khởi điểm của sự khôn ngoan (Ps. 110, 10.)
Nhưng sợ để biết đề phòng, để biết tu tỉnh, chứ không phải sợ để tiêu hồn, lạc phách. Cho nên Thoán lại dạy tiếp: Cần phải bình tĩnh. Những người bình tĩnh khi gặp biến cố, mới đáng mặt trị dân. Ví dụ như: Khi tiếng sấm lớn, vang động, kinh chuyển đến 100 dặm, mà mình vẫn trấn tĩnh được tinh thần, vẫn tiếp tục hành lễ, không bị kinh tâm, đến nỗi đánh rơi mất đồ tế khí (Chấn kinh bách lý. Bất táng chủy sưởng).
Thoán Truyện.
彖 曰 . 震 . 亨 . 震 來 虩 虩 . 恐 致 福 也 .笑 言 啞 啞 . 後 有 則 也 . 震 驚 百 里 . 驚 遠 而 懼 邇 也 . 出 可 以 守 宗 廟 社 稷 . 以 為 祭 主 也 .
Chấn hanh. Chấn lai khích khích. Khủng trí phúc dã. Tiếu ngôn hách hách. Hậu hữu tắc dã. Chấn kinh bách lý. Kinh viễn nhi cụ nhĩ dã. Bất táng chủy sưởng. Xuất khả dĩ thủ tông miếu xã tắc dĩ vi tế chủ dã.
Dịch. Thoán rằng:
Chấn là chấn động lôi đình,
Khai thông tắc uất, phỉ tình hanh xương.
Sấm vang, sợ hãi, lo lường,
Biết lo, phúc mới có đường sinh sôi.
Rộn ràng, khúc khích, nói cười,
Rồi ra phép tắc, cơ ngơi đàng hoàng.
Lôi đình, trăm dặm kinh mang,
Xa kinh, gần sợ, bàng hoàng đôi nơi.
Ung dung, thìa chén chẳng rơi.
Miếu tông, xã tắc âu tài đảm đang.
Đáng tài gìn giữ miếu đường,
Đáng ngôi chủ tể, chững chàng, uy nghi.
Thoán Truyện bình rằng: Trời làm sấm động ra oai, là cốt để cho con người biết khủng cụ, tu tỉnh, sau mới được hạnh phúc (Chấn hanh khủng trí phúc dã). Con người sau sẽ cười vui, vì hành động đúng theo qui tắc, định luật của trời đất (Tiếu ngôn hách hách. Hậu hữu tắc dã). Câu này thoạt xem ngỡ tầm thường, nhưng thực ra hàm chứa một ý nghĩa hết sức sâu xa, có hiệu quả vô cùng trọng đại. Thật vậy, vũ trụ này được chi phối bằng những định luật nhất định. Có tìm ra được những định luật thiên nhiên, có theo đúng được những định luật thiên nhiên, nhiên hậu mới giải quyết được mọi căn do làm phiền sầu, khổ não con người, mới đem lại được cho con người một đời sống thực sự. Tiếp đến Thoán Truyện bình rằng: Gặp lúc kinh mang, mọi người đều hoảng hốt, riêng Đông cung Thái tử hành lễ thay vua, nếu vẫn giữ được bình tĩnh, thời đáng mặt giữ gìn tôn miếu, xã tắc (Chấn kinh bách lý. Kinh viễn nhi cụ nhĩ dã. Bất táng chủy sưởng. Xuất khả dĩ thủ tông miếu xã tắc dĩ vi tế chủ dã). Người lãnh đạo cần phải bình tĩnh, mới giải quyết công việc quốc gia được.
Một hôm, vua Đại Võ qua sông Giang, bị con rồng vàng đội thuyền lên, cả thuyền đều sợ. Nhà vua không thay đổi thần sắc, nói: Ta chịu mệnh Trời, một niềm tận tụy vì dân, sống chết của ta là do ý Trời, rồng này làm gì được ta. Thoát thôi, rồng cúi đầu, cúp đuôi lặn đi mất. (Wieger, Textes Historiques, tome 1, pp.38- 40)
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 洊 雷 . 震 . 君 子 以 恐 懼 修 省 .
Tượng viết:
Tấn Lôi. Chấn. Quân tử dĩ khủng cụ tu tỉnh.
Dịch. Tượng rằng:
Chấn là sấm động liên hồi,
Lo lường quân tử chau dồi tấm thân.
Người quân tử phải biết sợ oai trời, mỗi khi thấy sấm động, sét vang, phải biết sợ hãi và tu tỉnh. Tứ thư, Ngũ kinh chuyên dạy người:
1. Kính sợ trời.
2. Tu tỉnh.
Đức Khổng cũng đã làm gương sự úy cụ oai trời. Khi có sấm dậy, gió to thì mặt ngài biến sắc (Tấn lôi. Phong liệt. Tất biến (Hương đảng X, câu 16). Kính sợ là cốt để tu sửa tâm hồn, tâm hồn được tu sửa sẽ trở nên quang minh chính đại.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
Sáu Hào bàn về ý nghĩa của sự kinh cụ, và thái độ nên có, khi gặp trường hợp kinh mang. Đại khái:
1. Sự kinh cụ có mục đích chuyển hóa con người (Hào Sơ).
2. Lúc gặp kinh mang, phải biết thủ thân vi đại (Hào nhị).
3. Lúc gặp kinh mang, nên lo cải tà qui chánh (Hào tam)
4 . Lúc gặp kinh mang, phải chấn tĩnh tinh thần, chứ đừng để tiêu ma hào khí (Hào 4).
5. Gặp lúc kinh mang, phải hành xử cho phải, cho khéo (Hào 5).
6. Lâm nguy, phải biết đề phòng, phải biết cải thiện đường lối (Hào 6)
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 震 來 虩 虩. 後 笑 言 啞 啞 . 吉 .
象 曰 . 震 來 虩 虩. 恐 致 福 也 . 笑 言 啞 啞 . 後 有 則 也 .
Sơ Cửu.
Chấn lai khích khích. Hậu tiếu ngôn hách hách. Cát.
Tượng viết:
Chấn lai khích khích. Khủng trí phúc dã.
Tiếu ngôn hách hách. Hậu hữu tắc dã.
Dịch. Sơ Cửu.
Sấm vang, sợ hãi, lo lường,
Rồi ra khúc khích, rộn ràng cười vui.
Khúc kha, khúc khích, nói cười,
Rồi ra, mọi sự xong xuôi, tốt lành.
Tượng rằng:
Sấm vang, sợ hãi, lo lường,
Biết lo, phúc mới có đường sinh sôi.
Rộn ràng, khúc khích, nói cười.
Rồi ra, phép tắc, cơ ngơi đàng hoàng.
Hào Sơ này hoàn toàn nhắc lại lời của Thoán từ. Để nhấn mạnh lại một lần nữa ý nghiã của sự sợ hãi:
1. Có biết sợ hãi, mới biết đề phòng, mới biết ăn ở cho phải đạo
2. Ăn ở phải đạo, xử sự hợp lý sẽ được hạnh phúc.
3. Như vậy, sự sợ hãi, sự kinh mang trên đời là cái hay, chứ không phải cái dở. Con người, nếu cứ sống mãi trong hoan lạc, sẽ trở nên ù lì, ủy mị, cho nên thỉnh thoảng cũng phải cho họ kinh mang, như vậy họ mới biết lo lắng đề phòng, mới biết phấn tâm cầu tiến.
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 震 來 厲 . 億 喪 貝 . 躋 于 九 陵 . 勿 逐 . 七 日 得 .
象 曰 . 震 來 厲 . 乘 剛 也 .
Lục nhị.
Chấn lai lệ. Ức táng bối. Tê vu cửu lăng. Vật trục. Thất nhật đắc.
Tượng viết:
Chấn lai lệ. Thừa cương dã.
Dịch.
Sấm vang nguy hiểm mấy mươi,
Bao đồ tế nhuyễn, đi đời nhà ma.
Gò cao trốn chạy cho xa,
Chẳng tìm của mất, rồi ra cũng về.
Bảy ngày, của lại được y.
Tượng rằng:
Sấm vang, nguy hiểm mấy mươi.
Nguy vì đã cưỡi lên người Dương cương.
Hào Lục nhị đặt câu hỏi: Gặp lúc kinh mang, nên giữ của hay nên giữ mạng sống? Trả lời: tất nhiên sẽ phải bỏ của cải (Ức táng bối), để mà cao chạy xa bay (Tê vu cửu lăng), thủ thân vi đại. Người mà còn, thì của cũng sẽ còn, vì người làm ra của, chứ của chẳng làm ra người.(Vật trục. Thất nhật đắc).
Tượng viết: Chấn lai lệ. Thừa cương dã. Theo Tượng Truyện, thì sự kinh mang xẩy ra thường là vì mình vô tài, mà lại ăn trên, ngồi chốc người có tài. Theo Dịch, thì Thừa cương chẳng có bao giờ hay. Xin xem các quẻ, các Hào sau đây để so sánh: Truân Lục nhị, Dự Lục ngũ, Phệ hạp Lục nhị, Khốn Lục tam.
3. Hào Lục tam.
六 三 . 震 蘇 蘇 . 震 行 無 眚 .
象 曰 . 震 蘇 蘇 . 位 不 當 也 .
Lục tam.
Chấn tô tô. Chấn hành vô sảnh.
Tượng viết:
Chấn tô tô. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Sấm vang, ngơ ngác, ngác ngơ,
Sợ run, bỏ ác quay ra làm lành.
Làm lành, tai hại hết sinh.
Tượng rằng:
Sấm vang, ngơ ngác, ngác ngơ,
Bởi vì ngôi vị đang là dở dang.
Hào Lục tam mô tả hạng người gặp nguy cơ, thời thất thần, hốt hoa hốt hoảng (Chấn tô tô). Thất thần, hốt hoảng dĩ nhiên là không hay. Nhưng nếu biết nhân dịp này mà cải tà qui chính, thì chẳng có gì đáng trách (Chấn hành vô sảnh). Tượng viết: Chấn tô tô vị bất đáng dã. Không có tài đức xứng ngôi vị, gặp lúc kinh mang, sẽ hốt hoảng không biết lui tới ra sao.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 震 遂 泥 .
象 曰 . 震 遂 泥 . 未 光 也 .
Cửu tứ.
Chấn toại nê.
Tượng viết:
Chấn toại nê. Vị quang dã.
Dịch.
Chấn không động, lại đắm chìm,
Tượng rằng:
Chấn không động, lại đắm chìm,
Chưa thông sáng đủ, cho nên sa lầy.
Hào Cửu tứ. Có những người gặp lúc kinh mang, muốn phấn động để làm chủ tình thế, nhưng vì tinh thần chưa đủ mạnh, nên không sao thoát khỏi thế kẹt, y như người chìm đắm giữa gian nguy, chưa có kế thoát thân. Tượng Truyện bình rằng: Bê bết, mắc kẹt, là vì chưa đủ sáng suốt (Chấn toại nê. Vị quang dã).
5. Hào Lục ngũ:
六 五 . 震 往 來 厲 . 億 無 喪 . 有 事 .
象 曰 . 震 往 來 厲 . 危 行 也 . 其 事 在 中 . 大 無 喪 也 .
Lục ngũ.
Chấn vãng lai lệ. Ức vô táng hữu sự.
Tượng viết:
Chấn vãng lai lệ. Nguy hành dã. Kỳ hung vô cữu. Úy lân giới dã.
Dịch.
Sấm vang, đi lại hiểm nghèo,
Nhưng không mất mát, vẫn điều nên công.
Tượng rằng:
Sấm vang, đi lại hiểm nghèo,
Nghĩa là đi đứng cheo leo, nguy nàn.
Chữ trung, ghi tạc tâm xoang,
Sẽ không mất mát, chu toàn trước sau.
Hào Lục ngũ. Gặp lúc kinh mang, tiến lui đều nguy hiểm, nếu biết xử sự cho hay, cho khéo, thời cũng chẳng mất mát gì, mà còn có thể nên công. Tượng viết: Chấn vãng lai lệ. Nguy hành dã. Kỳ sự tại trung. Đại vô táng dã. Lục ngũ tuy gặp nguy, nhưng vì đắc trung, tức là biết xử cho hay, cho phải, cho nên chẳng mất mát, thiệt hại gì.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 震 索 索 . 視 矍 矍 . 征 凶 . 震 不 于 其 躬 .
于 其 鄰 . 無 咎 . 婚 媾 有 言 .
象 曰 . 震 索 索 . 未 得 中 也 . 雖 凶 無 咎 . 畏 鄰 戒 也 .
Thượng Lục.
Chấn tác tác. Thị quắc quắc. Chinh hung. Chấn bất vu kỳ cung. Vu kỳ lân. Vô cữu. Hôn cấu hữu ngôn.
Tượng viết:
Chấn tác tác. Trung vị đắc dã. Tuy hung vô cữu. Úy lân giới dã.
Dịch.
Sấm vang từng trận ầm ầm,
Nhớn nha nhớn nhác, thất thần nhìn quanh.
Ra đi, âu sẽ chẳng lành,
Mình đâu bị sấm, sấm hành lân bang.
Phòng xa, âu sẽ chu toàn,
Mặc lời đàm tiếu, họ hàng nhỏ to.
Tượng rằng: Sấm động ầm ầm,
Sợ vì xử sự chưa nhằm, chưa hay,
Tuy rằng: Chẳng được mắn may,
Nhưng mà cũng chẳng đơn sai, lỗi lầm.
Gương người, nên lấy làm răn.
Hào Thượng Lục. Gặp lúc kinh mang đến cực độ, tinh thần có thể bị thất tán, dung mạo có thể bị phờ phạc, lúc ấy làm gì cũng dở (Chấn tác tác. Thị quắc quắc. Chinh hung). Hay hơn hết là phải biết liệu lý, khi họa chưa cập thân, thấy người mắc nạn, phải lấy đó làm bài học, sửa sang lề lối cho kịp thời, tránh họa hoạn cho đúng lúc, mới là biết xử, còn chuyện người ta phê bình chỉ trích, chẳng nên quan tâm (Chấn bất vu kỳ cung. Vu kỳ lân. Vô cữu. Hôn cấu hữu ngôn).
Tượng viết: Chấn tác tác. Trung vị đắc dã. Tuy hung vô cữu. Úy lân giới dã. Lúc gặp kinh mang, mà mất tinh thần, thời dĩ nhiên là chưa có một thái độ lý tưởng. Nhưng nếu biết trông gương người mà tự răn, tự nhủ, thì cũng chẳng có gì là đáng trách.
ÁP DỤNG QUẺ CHẤN VÀO THỜI ĐẠI
Phải biết kính sợ trời. Mỗi lần nghe thấy sấm sét, thì là Trời muốn thức tỉnh vạn vật nói chung, và loài người nói riêng, để họ phải tự xét mình mà sửa đổi những lỗi lầm đang mắc.
Nói gần hơn, là dạy ta phải biết kính trọng cha mẹ, và phải biết nghe lời cha mẹ. Trên đời này, chỉ có tình của cha mẹ đối với con cái là chân thật hơn cả. Vợ, chồng, anh, em, con, cháu, bè bạn, kẻ ăn người ở trong nhà, đều có thể phản ta, lừa gạt ta; chỉ có cha mẹ ta là không bao giờ lừa gạt ta, hại ta. Khi ta lầm lỗi, cha mẹ trách mắng ta, đó là chỉ muốn cho ta hay, và khi đó cha mẹ rất đau lòng vì những lỗi lầm của ta. Cha mẹ phải vất vả, bôn ba trong cuộc sống, phần lớn là lo cho con có một đời sống đầy đủ và vững chắc hơn. Nhưng phận làm con đã lo được gì cho cha mẹ? Chẳng những thế có nhiều người con đã chẳng kể gì những lời khuyên răn của cha mẹ, mà còn coi những lời dạy bảo đó là lỗi thời, lạc hậu, mà chỉ nghe những lời của bè bạn xấu xúi bẩy, để rồi đưa cuộc đời mình vào chỗ không lối thoát.
Tóm lại, như khi Trời nổi sấm là có ý cảnh tỉnh ta. Vậy khi cha mẹ dạy bảo ta, là cảnh tỉnh ta, do đó có la mắng ta, thì ta đừng cãi lại, làm cho cha mẹ đau lòng. Có đôi lúc lời răn dạy đó cũng nóng nẩy, vội vã, nhưng dù sao cũng phát ra tự lòng thương con, sợ con bị nguy hại, nên phải cản ngăn con đó thôi. Vậy bổn phận làm con, mỗi khi bị cha mẹ rầy la, phải bình tâm xem lời răn dạy đó có đúng không? Bậc cha mẹ là những người từng trải hơn ta, lẽ dĩ nhiên có kinh nghiệm trong cuộc sống hơn ta, nên những lời dạy dỗ đó không nhiều thì ít cũng có lợi ích cho ta. Vì vậy, ta phải kịp thời sửa đổi những lỗi lầm của ta nếu có, để cho cha mẹ vui lòng, và để ta khỏi hối hận, phàn nàn về sau.
CHẤN VI LÔI
BÁT THUẦN CHẤN
Chấn Tự Quái
震 序 卦
Chủ khí giả mạc nhược trưởng tử.
主 器 者 莫 若 長 子
Cố thụ chi dĩ Chấn.
故 受 之 以 震
Chấn giả động dã.
震 者 動 也.
Chấn Tự Quái
Giữ gìn chủ khí, duy người trưởng nam.
Cho nên Chấn tiếp mối giường,
Chấn là chấn động, cương cường vần xoay.
Chấn có nhiều nghĩa: Chấn là sấm, oai trời, trưởng nam, Đông cung Thái tử, là chấn động, phấn động, kinh sợ. Tất cả nghĩa này, đều được dùng trong quẻ Chấn.
Quẻ Chấn tiếp theo quẻ Đỉnh do một sự liên tưởng. Đỉnh là một dụng cu khi tế tự. Chấn là trưởng nam, có thể thay mặt cha tế tự. Vì thế sau quẻ Đỉnh là quẻ Chấn.
I. Thoán.
Thoán từ.
震 . 亨 . 震 來 . 笑 言 啞 啞 . 震 驚 百 里 . 不 喪 匕 鬯 .
Chấn. Hanh. Chấn lai khích khích. Tiếu ngôn hách hách.
Chấn kinh bách lý. Bất táng chủy sưởng.
Dịch.
Chấn là chấn động lôi đình,
Làm cho vạn vật phỉ tình hanh xương.
Sấm vang sợ hãi, lo lường,
Rồi ra khúc khích, rộn ràng cười vui.
Sấm vang, trăm dặm sợ oai,
Vẫn thường bình tĩnh, chẳng rơi chén thìa.
Sấm trời cốt là để kích thích vạn vật, cho nên theo Trung Hoa, thì ngày xuân phân thường có sấm, để đánh thức côn trùng tỉnh giấc đông miên, để giáo đầu cho ngày Xuân mới tưng bừng trong hoa lá. Vì thế nói: Chấn hanh. Đối với con người, thì những sự kinh mang, chấn động trên đời đều có mục đích thức tỉnh con người biết đề phòng, úy cụ, biết trở lại đường ngay, nẻo chính. Biết sợ oai trời, biết hồi tâm, thuận phục những định luật của đất trời, sẽ đem lại hạnh phúc cho con người. Vì thế Thoán nói: Chấn lai khích khích. Tiếu ngôn hách hách. Đại khái rằng có biết úy cụ, đề phòng, thời sau mới được hanh thông hoan lạc. Thánh Kinh Công giáo cũng viết: Kính sợ Trời là khởi điểm của sự khôn ngoan (Ps. 110, 10.)
Nhưng sợ để biết đề phòng, để biết tu tỉnh, chứ không phải sợ để tiêu hồn, lạc phách. Cho nên Thoán lại dạy tiếp: Cần phải bình tĩnh. Những người bình tĩnh khi gặp biến cố, mới đáng mặt trị dân. Ví dụ như: Khi tiếng sấm lớn, vang động, kinh chuyển đến 100 dặm, mà mình vẫn trấn tĩnh được tinh thần, vẫn tiếp tục hành lễ, không bị kinh tâm, đến nỗi đánh rơi mất đồ tế khí (Chấn kinh bách lý. Bất táng chủy sưởng).
Thoán Truyện.
彖 曰 . 震 . 亨 . 震 來 虩 虩 . 恐 致 福 也 .笑 言 啞 啞 . 後 有 則 也 . 震 驚 百 里 . 驚 遠 而 懼 邇 也 . 出 可 以 守 宗 廟 社 稷 . 以 為 祭 主 也 .
Chấn hanh. Chấn lai khích khích. Khủng trí phúc dã. Tiếu ngôn hách hách. Hậu hữu tắc dã. Chấn kinh bách lý. Kinh viễn nhi cụ nhĩ dã. Bất táng chủy sưởng. Xuất khả dĩ thủ tông miếu xã tắc dĩ vi tế chủ dã.
Dịch. Thoán rằng:
Chấn là chấn động lôi đình,
Khai thông tắc uất, phỉ tình hanh xương.
Sấm vang, sợ hãi, lo lường,
Biết lo, phúc mới có đường sinh sôi.
Rộn ràng, khúc khích, nói cười,
Rồi ra phép tắc, cơ ngơi đàng hoàng.
Lôi đình, trăm dặm kinh mang,
Xa kinh, gần sợ, bàng hoàng đôi nơi.
Ung dung, thìa chén chẳng rơi.
Miếu tông, xã tắc âu tài đảm đang.
Đáng tài gìn giữ miếu đường,
Đáng ngôi chủ tể, chững chàng, uy nghi.
Thoán Truyện bình rằng: Trời làm sấm động ra oai, là cốt để cho con người biết khủng cụ, tu tỉnh, sau mới được hạnh phúc (Chấn hanh khủng trí phúc dã). Con người sau sẽ cười vui, vì hành động đúng theo qui tắc, định luật của trời đất (Tiếu ngôn hách hách. Hậu hữu tắc dã). Câu này thoạt xem ngỡ tầm thường, nhưng thực ra hàm chứa một ý nghĩa hết sức sâu xa, có hiệu quả vô cùng trọng đại. Thật vậy, vũ trụ này được chi phối bằng những định luật nhất định. Có tìm ra được những định luật thiên nhiên, có theo đúng được những định luật thiên nhiên, nhiên hậu mới giải quyết được mọi căn do làm phiền sầu, khổ não con người, mới đem lại được cho con người một đời sống thực sự. Tiếp đến Thoán Truyện bình rằng: Gặp lúc kinh mang, mọi người đều hoảng hốt, riêng Đông cung Thái tử hành lễ thay vua, nếu vẫn giữ được bình tĩnh, thời đáng mặt giữ gìn tôn miếu, xã tắc (Chấn kinh bách lý. Kinh viễn nhi cụ nhĩ dã. Bất táng chủy sưởng. Xuất khả dĩ thủ tông miếu xã tắc dĩ vi tế chủ dã). Người lãnh đạo cần phải bình tĩnh, mới giải quyết công việc quốc gia được.
Một hôm, vua Đại Võ qua sông Giang, bị con rồng vàng đội thuyền lên, cả thuyền đều sợ. Nhà vua không thay đổi thần sắc, nói: Ta chịu mệnh Trời, một niềm tận tụy vì dân, sống chết của ta là do ý Trời, rồng này làm gì được ta. Thoát thôi, rồng cúi đầu, cúp đuôi lặn đi mất. (Wieger, Textes Historiques, tome 1, pp.38- 40)
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 洊 雷 . 震 . 君 子 以 恐 懼 修 省 .
Tượng viết:
Tấn Lôi. Chấn. Quân tử dĩ khủng cụ tu tỉnh.
Dịch. Tượng rằng:
Chấn là sấm động liên hồi,
Lo lường quân tử chau dồi tấm thân.
Người quân tử phải biết sợ oai trời, mỗi khi thấy sấm động, sét vang, phải biết sợ hãi và tu tỉnh. Tứ thư, Ngũ kinh chuyên dạy người:
1. Kính sợ trời.
2. Tu tỉnh.
Đức Khổng cũng đã làm gương sự úy cụ oai trời. Khi có sấm dậy, gió to thì mặt ngài biến sắc (Tấn lôi. Phong liệt. Tất biến (Hương đảng X, câu 16). Kính sợ là cốt để tu sửa tâm hồn, tâm hồn được tu sửa sẽ trở nên quang minh chính đại.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
Sáu Hào bàn về ý nghĩa của sự kinh cụ, và thái độ nên có, khi gặp trường hợp kinh mang. Đại khái:
1. Sự kinh cụ có mục đích chuyển hóa con người (Hào Sơ).
2. Lúc gặp kinh mang, phải biết thủ thân vi đại (Hào nhị).
3. Lúc gặp kinh mang, nên lo cải tà qui chánh (Hào tam)
4 . Lúc gặp kinh mang, phải chấn tĩnh tinh thần, chứ đừng để tiêu ma hào khí (Hào 4).
5. Gặp lúc kinh mang, phải hành xử cho phải, cho khéo (Hào 5).
6. Lâm nguy, phải biết đề phòng, phải biết cải thiện đường lối (Hào 6)
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 震 來 虩 虩. 後 笑 言 啞 啞 . 吉 .
象 曰 . 震 來 虩 虩. 恐 致 福 也 . 笑 言 啞 啞 . 後 有 則 也 .
Sơ Cửu.
Chấn lai khích khích. Hậu tiếu ngôn hách hách. Cát.
Tượng viết:
Chấn lai khích khích. Khủng trí phúc dã.
Tiếu ngôn hách hách. Hậu hữu tắc dã.
Dịch. Sơ Cửu.
Sấm vang, sợ hãi, lo lường,
Rồi ra khúc khích, rộn ràng cười vui.
Khúc kha, khúc khích, nói cười,
Rồi ra, mọi sự xong xuôi, tốt lành.
Tượng rằng:
Sấm vang, sợ hãi, lo lường,
Biết lo, phúc mới có đường sinh sôi.
Rộn ràng, khúc khích, nói cười.
Rồi ra, phép tắc, cơ ngơi đàng hoàng.
Hào Sơ này hoàn toàn nhắc lại lời của Thoán từ. Để nhấn mạnh lại một lần nữa ý nghiã của sự sợ hãi:
1. Có biết sợ hãi, mới biết đề phòng, mới biết ăn ở cho phải đạo
2. Ăn ở phải đạo, xử sự hợp lý sẽ được hạnh phúc.
3. Như vậy, sự sợ hãi, sự kinh mang trên đời là cái hay, chứ không phải cái dở. Con người, nếu cứ sống mãi trong hoan lạc, sẽ trở nên ù lì, ủy mị, cho nên thỉnh thoảng cũng phải cho họ kinh mang, như vậy họ mới biết lo lắng đề phòng, mới biết phấn tâm cầu tiến.
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 震 來 厲 . 億 喪 貝 . 躋 于 九 陵 . 勿 逐 . 七 日 得 .
象 曰 . 震 來 厲 . 乘 剛 也 .
Lục nhị.
Chấn lai lệ. Ức táng bối. Tê vu cửu lăng. Vật trục. Thất nhật đắc.
Tượng viết:
Chấn lai lệ. Thừa cương dã.
Dịch.
Sấm vang nguy hiểm mấy mươi,
Bao đồ tế nhuyễn, đi đời nhà ma.
Gò cao trốn chạy cho xa,
Chẳng tìm của mất, rồi ra cũng về.
Bảy ngày, của lại được y.
Tượng rằng:
Sấm vang, nguy hiểm mấy mươi.
Nguy vì đã cưỡi lên người Dương cương.
Hào Lục nhị đặt câu hỏi: Gặp lúc kinh mang, nên giữ của hay nên giữ mạng sống? Trả lời: tất nhiên sẽ phải bỏ của cải (Ức táng bối), để mà cao chạy xa bay (Tê vu cửu lăng), thủ thân vi đại. Người mà còn, thì của cũng sẽ còn, vì người làm ra của, chứ của chẳng làm ra người.(Vật trục. Thất nhật đắc).
Tượng viết: Chấn lai lệ. Thừa cương dã. Theo Tượng Truyện, thì sự kinh mang xẩy ra thường là vì mình vô tài, mà lại ăn trên, ngồi chốc người có tài. Theo Dịch, thì Thừa cương chẳng có bao giờ hay. Xin xem các quẻ, các Hào sau đây để so sánh: Truân Lục nhị, Dự Lục ngũ, Phệ hạp Lục nhị, Khốn Lục tam.
3. Hào Lục tam.
六 三 . 震 蘇 蘇 . 震 行 無 眚 .
象 曰 . 震 蘇 蘇 . 位 不 當 也 .
Lục tam.
Chấn tô tô. Chấn hành vô sảnh.
Tượng viết:
Chấn tô tô. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Sấm vang, ngơ ngác, ngác ngơ,
Sợ run, bỏ ác quay ra làm lành.
Làm lành, tai hại hết sinh.
Tượng rằng:
Sấm vang, ngơ ngác, ngác ngơ,
Bởi vì ngôi vị đang là dở dang.
Hào Lục tam mô tả hạng người gặp nguy cơ, thời thất thần, hốt hoa hốt hoảng (Chấn tô tô). Thất thần, hốt hoảng dĩ nhiên là không hay. Nhưng nếu biết nhân dịp này mà cải tà qui chính, thì chẳng có gì đáng trách (Chấn hành vô sảnh). Tượng viết: Chấn tô tô vị bất đáng dã. Không có tài đức xứng ngôi vị, gặp lúc kinh mang, sẽ hốt hoảng không biết lui tới ra sao.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 震 遂 泥 .
象 曰 . 震 遂 泥 . 未 光 也 .
Cửu tứ.
Chấn toại nê.
Tượng viết:
Chấn toại nê. Vị quang dã.
Dịch.
Chấn không động, lại đắm chìm,
Tượng rằng:
Chấn không động, lại đắm chìm,
Chưa thông sáng đủ, cho nên sa lầy.
Hào Cửu tứ. Có những người gặp lúc kinh mang, muốn phấn động để làm chủ tình thế, nhưng vì tinh thần chưa đủ mạnh, nên không sao thoát khỏi thế kẹt, y như người chìm đắm giữa gian nguy, chưa có kế thoát thân. Tượng Truyện bình rằng: Bê bết, mắc kẹt, là vì chưa đủ sáng suốt (Chấn toại nê. Vị quang dã).
5. Hào Lục ngũ:
六 五 . 震 往 來 厲 . 億 無 喪 . 有 事 .
象 曰 . 震 往 來 厲 . 危 行 也 . 其 事 在 中 . 大 無 喪 也 .
Lục ngũ.
Chấn vãng lai lệ. Ức vô táng hữu sự.
Tượng viết:
Chấn vãng lai lệ. Nguy hành dã. Kỳ hung vô cữu. Úy lân giới dã.
Dịch.
Sấm vang, đi lại hiểm nghèo,
Nhưng không mất mát, vẫn điều nên công.
Tượng rằng:
Sấm vang, đi lại hiểm nghèo,
Nghĩa là đi đứng cheo leo, nguy nàn.
Chữ trung, ghi tạc tâm xoang,
Sẽ không mất mát, chu toàn trước sau.
Hào Lục ngũ. Gặp lúc kinh mang, tiến lui đều nguy hiểm, nếu biết xử sự cho hay, cho khéo, thời cũng chẳng mất mát gì, mà còn có thể nên công. Tượng viết: Chấn vãng lai lệ. Nguy hành dã. Kỳ sự tại trung. Đại vô táng dã. Lục ngũ tuy gặp nguy, nhưng vì đắc trung, tức là biết xử cho hay, cho phải, cho nên chẳng mất mát, thiệt hại gì.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 震 索 索 . 視 矍 矍 . 征 凶 . 震 不 于 其 躬 .
于 其 鄰 . 無 咎 . 婚 媾 有 言 .
象 曰 . 震 索 索 . 未 得 中 也 . 雖 凶 無 咎 . 畏 鄰 戒 也 .
Thượng Lục.
Chấn tác tác. Thị quắc quắc. Chinh hung. Chấn bất vu kỳ cung. Vu kỳ lân. Vô cữu. Hôn cấu hữu ngôn.
Tượng viết:
Chấn tác tác. Trung vị đắc dã. Tuy hung vô cữu. Úy lân giới dã.
Dịch.
Sấm vang từng trận ầm ầm,
Nhớn nha nhớn nhác, thất thần nhìn quanh.
Ra đi, âu sẽ chẳng lành,
Mình đâu bị sấm, sấm hành lân bang.
Phòng xa, âu sẽ chu toàn,
Mặc lời đàm tiếu, họ hàng nhỏ to.
Tượng rằng: Sấm động ầm ầm,
Sợ vì xử sự chưa nhằm, chưa hay,
Tuy rằng: Chẳng được mắn may,
Nhưng mà cũng chẳng đơn sai, lỗi lầm.
Gương người, nên lấy làm răn.
Hào Thượng Lục. Gặp lúc kinh mang đến cực độ, tinh thần có thể bị thất tán, dung mạo có thể bị phờ phạc, lúc ấy làm gì cũng dở (Chấn tác tác. Thị quắc quắc. Chinh hung). Hay hơn hết là phải biết liệu lý, khi họa chưa cập thân, thấy người mắc nạn, phải lấy đó làm bài học, sửa sang lề lối cho kịp thời, tránh họa hoạn cho đúng lúc, mới là biết xử, còn chuyện người ta phê bình chỉ trích, chẳng nên quan tâm (Chấn bất vu kỳ cung. Vu kỳ lân. Vô cữu. Hôn cấu hữu ngôn).
Tượng viết: Chấn tác tác. Trung vị đắc dã. Tuy hung vô cữu. Úy lân giới dã. Lúc gặp kinh mang, mà mất tinh thần, thời dĩ nhiên là chưa có một thái độ lý tưởng. Nhưng nếu biết trông gương người mà tự răn, tự nhủ, thì cũng chẳng có gì là đáng trách.
ÁP DỤNG QUẺ CHẤN VÀO THỜI ĐẠI
Phải biết kính sợ trời. Mỗi lần nghe thấy sấm sét, thì là Trời muốn thức tỉnh vạn vật nói chung, và loài người nói riêng, để họ phải tự xét mình mà sửa đổi những lỗi lầm đang mắc.
Nói gần hơn, là dạy ta phải biết kính trọng cha mẹ, và phải biết nghe lời cha mẹ. Trên đời này, chỉ có tình của cha mẹ đối với con cái là chân thật hơn cả. Vợ, chồng, anh, em, con, cháu, bè bạn, kẻ ăn người ở trong nhà, đều có thể phản ta, lừa gạt ta; chỉ có cha mẹ ta là không bao giờ lừa gạt ta, hại ta. Khi ta lầm lỗi, cha mẹ trách mắng ta, đó là chỉ muốn cho ta hay, và khi đó cha mẹ rất đau lòng vì những lỗi lầm của ta. Cha mẹ phải vất vả, bôn ba trong cuộc sống, phần lớn là lo cho con có một đời sống đầy đủ và vững chắc hơn. Nhưng phận làm con đã lo được gì cho cha mẹ? Chẳng những thế có nhiều người con đã chẳng kể gì những lời khuyên răn của cha mẹ, mà còn coi những lời dạy bảo đó là lỗi thời, lạc hậu, mà chỉ nghe những lời của bè bạn xấu xúi bẩy, để rồi đưa cuộc đời mình vào chỗ không lối thoát.
Tóm lại, như khi Trời nổi sấm là có ý cảnh tỉnh ta. Vậy khi cha mẹ dạy bảo ta, là cảnh tỉnh ta, do đó có la mắng ta, thì ta đừng cãi lại, làm cho cha mẹ đau lòng. Có đôi lúc lời răn dạy đó cũng nóng nẩy, vội vã, nhưng dù sao cũng phát ra tự lòng thương con, sợ con bị nguy hại, nên phải cản ngăn con đó thôi. Vậy bổn phận làm con, mỗi khi bị cha mẹ rầy la, phải bình tâm xem lời răn dạy đó có đúng không? Bậc cha mẹ là những người từng trải hơn ta, lẽ dĩ nhiên có kinh nghiệm trong cuộc sống hơn ta, nên những lời dạy dỗ đó không nhiều thì ít cũng có lợi ích cho ta. Vì vậy, ta phải kịp thời sửa đổi những lỗi lầm của ta nếu có, để cho cha mẹ vui lòng, và để ta khỏi hối hận, phàn nàn về sau.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
2 LÔI ĐỊA DỰ
LÔI ĐỊA DỰ
Dự Tự Quái
豫 序 卦
Hữu đại nhi năng Khiêm.
有 大 而 能 謙.
Tất Dự.
必 豫
Cố thụ chi dĩ Dự.
故 受 之 以 豫
Dự Tự Quái
Có, mà khiêm tốn, mới nhiều hân hoan.
Cho nên quẻ Dự tiếp luôn.
Quẻ Dự bao quát nhiều vấn đề:
1-Tự Quái đề cập đến sự hòa lạc của dân nước, khi đã đạt tới phong doanh, thái thịnh.
2- Ca tụng công lao của vị trọng thần làm cho dân được thái hòa, an lạc.
3- Hướng ta về công chuyện khảo cứu nhạc lý để áp dụng vào chính trị, dạy người cầm quyền biết cách xử sự, hoạt động đúng theo luật Trời, theo đúng ý dân, để dân được vui thỏa, dạy cho ta biết ý nghĩa sâu xa của chính trị, là đưa dân lên đến tinh hoa, là chau chuốt tâm hồn dân con trở nên thanh lịch, để cùng nhau tấu lên một khúc nhạc thái hòa.
Theo quái đức, ta thấy Dự trên là Lôi, là Động, dưới là Khôn là Thuận. Người xưa đọc thành Thuận dĩ động. Do đó, phát sinh ra hai nguyên tắc chính:
a) Người cầm quyền bất kỳ làm gì, cũng phải thuận tình, thuận lý, như thế mới làm cho dân được vui thuận.
b) Phải làm sao cho dân tự nguyện đóng góp vào công cuộc kiến thiết quốc gia.
Theo quái tượng, Dự trên có Lôi là Sấm, dưới có Khôn là Đất, như Sấm đầu xuân, kích thích lòng muôn vật để cho sinh khí rạt rào, sống một cuộc sống mới, đẹp như ánh xuân. Thánh Vương cai trị cũng muốn làm rung động lòng người, làm sinh khí rào rạt trong tâm hồn mọi người. Vì thế nên chế ra vũ, nhạc, để hướng nghệ thuật cai trị lên tới tuyệt luân, tuyệt đỉnh. Nhạc chính là sự hỗn hợp của trời đất, sự đồng điệu của Âm Dương, và sự vui chung của quân thần, phụ tử và dân chúng nơi nơi.
Chữ Nhạc đây không phải là ca nhạc không, mà gồm cả ca nhạc và nhạc vũ. Nhạc ký viết: Chuông, trống, sáo, khánh, vũ thược, can, qua là những nhạc khí. Co, ruỗi, ưỡn, khom, chụm, tỏa, nhanh, chậm, là nhạc văn.
Nói cách khác, nhạc gồm: Thi, ca, nhạc, vũ. Nhạc là sự phối hợp của thanh âm, mầu sắc, tiết tấu, chuyển động để mà kích thích, di dưỡng tâm thần con người.
-Thời cổ Trung Hoa: Về Nhạc khí, người ta dùng 8 nguyên liệu mà chế ra:
1) Cách = Da súc vật như trâu, bò v v...làm trống.
2) Bầu = Quả bầu để khô làm Sênh, Hoàng, Vu.
3) Trúc, gồm những loại Quản, Sáo như: Trì, Địch, Thược, Tiêu, Quản.
4) Mộc = Gỗ, gồm các loại: Chúc, Ngữ.
5) Ti = Sợi tơ, gồm các loại đàn: Cầm, Sắt, Không hầu, Tỳ bà, Trúc.
5) Thổ = Đất, gồm các loại: Huân, Phữu.
6) Kim = Kim khí, gồm các loại Chuông, Trống, Não bạt.
7) Thạch = Đá, gồm các loại Khánh: Ngọc, Thạch, Đại, Biên, Sanh, Tụng.
Về Vũ khí, có Mao, Vũ, Can, Thích, Múa Văn dùng Mao. Múa Võ dùng Can, Thích.
Như vậy, trong trời đất bất kỳ thứ gì nếu được tinh luyện, chế hoá cũng có thể trở nên thanh kỳ, và góp phần vào khúc đại hòa tấu của vũ trụ.
I. Thoán.
Thoán Từ
豫:利 建 侯 行 師。
Dự. Lợi kiến hầu hành sư.
Dịch.
Dự là hứng chí, hứng tâm.
Lập hầu cũng tốt, ra quân cũng lời.
Thoán Truyện.
豫,剛 應 而 志 行,順 以 動,豫。豫,順 以 動,故 天 地 如 之,而 況 建 侯 行 師 乎?天 地 以 順 動,故 日 月 不 過,而 四 時 不 忒﹔ 聖 人 以 順 動,則 刑 罰 清 而 民 服。豫 之 時 義 大 矣 哉!
Thoán viết: Dự. Cương ứng nhi chí hành. Thuận dĩ động. Dự. Dự thuận dĩ động. Cố thiên địa như chi. Nhi huống kiến hầu hành sư hồ. Thiên địa dĩ thuận động. Cố nhật nguyệt bất quá. Nhi tứ thời bất thắc. Thánh nhân dĩ thuận động. Tắc hình phạt thanh nhi dân phục. Dự chi thời nghĩa đại hĩ tai.
Dịch.
Dự là hứng chí, hứng tâm,
Cương, Nhu ứng hợp, muôn lòng hòa vui.
Thuận tình, hành động êm xuôi,
Thuận tình hành động, đất trời cũng ưa.
Đất trời còn chẳng phôi pha,
Thời chi dựng nước, với là ra quân.
Đất trời thuận lý xoay vần,
Cho nên nhật nguyệt, hai vầng vững y.
Tứ thời cũng chẳng sai đi,
Thánh nhân hành động, hợp nghì mới nên.
Thuận theo đạo lý, một niềm.
Chẳng cần ráo riết, dưới trên phục tòng.
Dân vui, dân phục thong dong.
Làm dân thuận phục, nên công cao vời.
Thoán cho rằng: Người trên mỗi khi thi hành phận sự phải thuận lý, thuận thiên, thuận thời, thuận nhân tâm, và thuận cảnh (Thuận dĩ động). Hơn nữa, muốn cho dân thi hành công tác gì cũng phải làm sao cho họ vui thuận mà làm, chứ không phải miễn cưỡng mà làm(Thuận dĩ động).
Người trên muốn dân phục, phải có một đời sống thanh cao, đạo đức, một dạ vì dân, vì nước, xót thương lê thứ, tránh mọi sự hà khắc, nhũng nhiễu dân, mà chỉ muốn dân giàu có, vui sướng, an hòa. Được vậy, dân sẽ phục. Dịch nói vắn tắt: Thiên địa dĩ thuận động... dân phục. Thánh nhân cho rằng: khi dân đã có đủ ăn, đủ mặc , mà nghĩ đến sự giáo hóa, sự tinh luyện tâm thần dân, để đem lạc thú, hạnh phúc cho dân, thì cao siêu biết bao( Dự chi thời nghĩa đại hỹ tai).
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 雷 出 地 奮,豫。 先 王 以 作 樂 崇 德,殷 荐 之 上 帝,以 配 祖 考。
Tượng viết: Lôi xuất địa phấn. Dự. Tiên vương dĩ tác nhạc sùng đức. Ân hiến chi Thượng Đế. Dĩ phối tổ khảo.
Dịch. Tượng rằng:
Dự là đất chuyển, sấm rung,
Tiên vương tác nhạc, tôn sùng đức cao.
Ơn trời, tấu khúc tiêu tao,
Tình thâm tổ khảo, gửi vào nhã ca.
Tượng cho rằng: Trị dân là phải biết cổ võ lòng dân, kích động lòng dân theo chính nghĩa, chính đạo, biết sống một đời sống linh hoạt, vui tượi, dào dạt sinh khí như vạn vật đầu xuân, nhờ sấm động mà bừng tỉnh giấc đông miên.
Trời lấy sấm động, làm rung lòng đất, và rung lòng vạn vật, đem sinh khí lại cho muôn vật, thì Thánh nhân cũng chế nhạc để ca tụng đạo đức, làm rung động lòng thần minh, tiên tổ và lòng muôn dân, để sinh khí rạt rào khắp vũ trụ, hòa khí lan tỏa khắp muôn phương.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六. 鳴 豫,凶。
象 曰: 初 六 鳴 豫,志 窮 凶 也。
Sơ Lục. Minh Dự. Hung.
Dịch.
Vui mà để lộ ra ngoài,
Khoe vui, khoe sướng với đời hay chi.
Tượng rằng:
Hào Sơ vui lộ ra ngoài,
Vênh vang tự đắc với đời hay chi?
Hào Sơ cho rằng: mới vui, mới sướng, mà đã cuống cuồng, không tự chủ được, toe toét, huyênh hoang, thì thế nào cũng hỏng, vì thế nào cũng nghĩ đến hưởng thụ, cho nên sa đọa.
2. Hào Lục nhị.
六 二. 介 于 石,不 終 日,貞 吉。
象曰: 不 終 日,貞 吉﹔ 以 中 正 也。
Lục nhị. Giới vu thạch. Bất chung nhật. Trinh cát.
Tượng viết:
Bất chung nhật trinh cát. Dĩ trung chính dã.
Dịch.
Vững vàng như đá, há đâu thay,
Chẳng cần suy tính đến trọn ngày,
Cương kiên, thiết thạch thêm sung mãn,
Minh mẫn, Cương kiên, thế mới hay.
Tượng rằng: Chẳng cứ cả ngày,
Chính trung nên tốt, nên hay lâu dài.
Hào hai dạy rằng: Khi đã được thoải mái, không được buông thả tâm thần, phải biết trì chí luyện tâm, theo đường đạo lý, lòng dạ sắt son, không để cho dục tình lôi cuốn, đã định làm điều hay, phải làm cho ngay, cho gấp. Tức là trong hoàn cảnh sung mãn, mà vẫn giữ được chính lý, chính đạo, vẫn Cương kiên, thiết thạch, không ủy mị, kiêu sa. Như vậy mới là hay.
3. Hào Lục tam.
六 三. 盱 豫,悔。 遲 有 悔。
象 曰: 盱 豫 有 悔,位 不 當 也。
Lục tam. Hu dự hối. Trì hữu hối.
Tượng viết:
Hu Dự hữu hối. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Hay chi ngửa mặt, cầu vui,
Ỷ thần, ỷ thế của người hay chi.
Hào ba cho rằng: những kẻ vô tài, vô đức, bất trung, bất chính dựa vào địa vị, cậy quyền, cậy thế người mà dương dương tự đắc, vênh váo, hân hoan, thì cái vui ấy có ra gì. Biết mình sống trong những thú vui giả tạo, trong dật lạc sa đọa, mà lần lữa sống đoạn tháng, qua ngày, không chịu thay đổi nếp sống, như vậy hỏi có ra chi?
4. Hào Cửu tứ.
九 四. 由 豫,大 有 得。勿 疑。 朋 盍 簪。
象 曰: 由 豫,大 有 得 ﹔ 志 大 行 也。
Cửu tứ. Do Dự. Đại hữu đắc. Vật nghi. Bằng hạp trâm.
Tượng viết:
Do Dự đại hữu đắc. Chí đại hành dã.
Dịch.
Do mình thiên hạ được vui,
Khá đem chí lớn, giúp đời, giúp dân.
Đừng nghi chẳng có tay chân,
Bạn bè như tóc, theo trâm hội về.
Tượng rằng:
Nhờ ta thiên hạ được vui,
Càng cao trí cả, vì đời thi vi.
Hào tứ chủ trương như Thoán Từ rằng: nếu mình là trọng thần, mà ngày đêm lo đem lại an vui cho quốc dân, thì thực là một điều đại hạnh, đại bảo, còn gì mà phải nghi nan, phải sợ sệt. Chúng dân sẽ theo về mình, như tóc theo trâm, đó là trường hợp Chu Công, Y Doãn, Phó Duyệt, Đại Vũ, những bậc đại nhân như vậy, sẽ vì sự an lạc cho dân, mà lập những đại công, đại nghiệp, như ta thấy: Vũ trị Hồng Thủy, Y Doãn phạt Kiệt, Chu Công đông chinh.
5. Hào Lục ngũ.
六 五. 貞 疾,恆 不 死。
象 曰: 六 五 貞 疾,乘 剛 也。 恆 不 死,中 未 亡 也。
Lục ngũ. Trinh tật. Hằng bất tử.
Tượng viết:
Lục ngũ trinh tật. Thừa Cương dã. Hằng bất tử. Trung vị vong dã.
Dịch:
Lục ngũ giống như người có tật,
Ốm lắt leo, mà chẳng chết cho.
Tượng rằng: Lục ngũ ốm lâu,
Vì là đã cưỡi lên đầu Dương Cương,
Dằng dai, vẫn sống vất vương,
Dằng dai, vì vẫn thời thường ngôi trung.
Hào ngũ cho rằng: khi nước đã thái bình, mà vua chuyên hưởng lạc, thì có khác nào một người mắc bệnh kinh niên, nan trị, sống lay, sống lắt đâu. Lúc ấy, còn hay mất, sống hay chết, không còn do vua quyết định. Quyền thần mà trung, thì ngôi vua còn, quyền thần mà phản, thì ngôi vua mất.
6. Hào Thượng Lục.
上 六. 冥 豫,成 有 渝,無 咎。
象 曰:冥 豫 在 上,何 可 長 也。
Thượng Lục. Minh Dự. Thành. Hữu du. Vô cữu.
Tượng viết:
Minh Dự tại thượng. Hà khả trường dã.
Dịch.
Vùi đầu mê hưởng cuộc vui,
Nếu như biết sửa, vậy thời lỗi chi.
Tượng rằng: Mê mải cuộc vui.
Chênh vênh, ngất ngưởng, lâu dài làm sao?
Hào Thượng cho rằng: Một con người đang say đắm trong hoan lạc, mà biết hồi đầu, tu chính, trở về với đạo lý, sống một cuộc đời thanh cao, thì có gì đáng trách đâu. Nhược bằng cứ vùi đầu trong hoan lạc. thì làm sao mà trường cửu được?
ÁP DỤNG QUẺ DỰ VÀO THỜI ĐẠI
Trong Kinh dịch, thì quẻ Lý nói về Lễ, quẻ Dự nói về nhạc. Ta nên biết, Nhạc hết sức quan trọng đối với vua chúa xưa, vì nó kích động và thanh lịch hóa tâm thần, nên các trường đều phải học nhạc. Mỗi triều đại, lại có một khúc nhạc tiêu biểu cho chí hướng, hoài bão và công trình của triều đại.
1.) Thời Hoàng Đế, có nhạc khúc Hàm Trì, ý muốn nói vua đã làm cho đạo đức phát huy, phát triển được khắp nơi.
2.) Nghiêu có nhạc Đại Chương, ý nói lên lòng mong muốn cho nhân nghĩa đại hành, phát độ chương minh.
3.) Đế Khốc có nhạc Lục Anh. Chuyên Húc có nhạc Ngũ Hành.
4.) Thuấn có nhạc Tiêu thiều. Thiều là kế tục, ý nói vua Thuấn muốn tiếp tục con đường của vua Nghiêu.
5.) Đại Võ có nhạc Đại Hạ, ý nói vua Đại Võ nối tiếp về đường lối của hai vua Nghiêu, Thuấn, muốn cho thiên hạ được thái bình.
6.) Nhà Ân có nhạc Đại Hội, ý nói nhà Ân sẽ cố phục hưng, bảo hộ nền đạo đức của các Thánh Vương xưa.
7.) Nhà Chu có nhạc Đại Chước, cũng gọi là Đại Vũ, ý nói sẽ châm chước để luôn theo đường lối của hai vua Văn, Võ. Thế mới hiểu rằng: Người xưa mượn lời thơ, để nói lên chí hướng và hoài bão của mình, rồi phổ vào ca, nhạc, vũ, để lời thơ trở nên bất diệt, hoài bão mình trở nên quảng thi, quảng diễn, nhờ đó ảnh hưởng sâu xa đến quần chúng. Người xưa cho rằng: xét Thanh thì biết Âm, xét Âm thì biết Nhạc, xét Nhạc thì biết cách trị dân, trị nước.
Nay, trở về với dân tộc ta, ta sẽ nhận thấy tinh thần, ý chí của dân tộc đều có thể nhận thấy trong lời nhạc, ý thơ..
Hồi tiền chiến ( trước năm 1939), dân tộc ta còn sống trong vòng nô lệ của Thực Dân Pháp, lòng người dân, một phần ngơ ngác như con nai vàng lạc trong rừng hoang, một phần tìm được lối đi, nhưng không hẹn ngày trở lại, để vợ con mong mỏi ngày đêm. Tình trạng này, được nhạc sĩ Lưu Trọng Lư diễn tả trong tập thơ Tiếng Thu của ông, và năm 1939 đã phổ thành nhạc, và đã nổi tiếng một thời.
Em không nghe mùa thu,
Dưới trăng mờ thổn thức.
Em không nghe rạo rực,
Hình ảnh kẻ chinh phu,
Trong lòng người cô phụ.
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào sạc.
Con nai vàng ngơ ngác,
Đạp trên lá vàng khô.
Cuối năm 1945, sau khi Việt Minh cướp chính quyền, lòng dân vùng dậy, khí thế hăng say, được thể hiện trong bài Anh hùng ca của nhạc sĩ Phạm Duy:
Ngày bao hùng binh tiến lên,
Bờ cõi vang lừng câu Quyết chiến. . .
Tóm lại, ta có thể nói: Thơ & Nhạc là linh hồn dân tộc vậy. Ngày nay, ta thấy Thơ & Nhạc đi vào chỗ ủy mị. Thật là không nên vậy!
LÔI ĐỊA DỰ
Dự Tự Quái
豫 序 卦
Hữu đại nhi năng Khiêm.
有 大 而 能 謙.
Tất Dự.
必 豫
Cố thụ chi dĩ Dự.
故 受 之 以 豫
Dự Tự Quái
Có, mà khiêm tốn, mới nhiều hân hoan.
Cho nên quẻ Dự tiếp luôn.
Quẻ Dự bao quát nhiều vấn đề:
1-Tự Quái đề cập đến sự hòa lạc của dân nước, khi đã đạt tới phong doanh, thái thịnh.
2- Ca tụng công lao của vị trọng thần làm cho dân được thái hòa, an lạc.
3- Hướng ta về công chuyện khảo cứu nhạc lý để áp dụng vào chính trị, dạy người cầm quyền biết cách xử sự, hoạt động đúng theo luật Trời, theo đúng ý dân, để dân được vui thỏa, dạy cho ta biết ý nghĩa sâu xa của chính trị, là đưa dân lên đến tinh hoa, là chau chuốt tâm hồn dân con trở nên thanh lịch, để cùng nhau tấu lên một khúc nhạc thái hòa.
Theo quái đức, ta thấy Dự trên là Lôi, là Động, dưới là Khôn là Thuận. Người xưa đọc thành Thuận dĩ động. Do đó, phát sinh ra hai nguyên tắc chính:
a) Người cầm quyền bất kỳ làm gì, cũng phải thuận tình, thuận lý, như thế mới làm cho dân được vui thuận.
b) Phải làm sao cho dân tự nguyện đóng góp vào công cuộc kiến thiết quốc gia.
Theo quái tượng, Dự trên có Lôi là Sấm, dưới có Khôn là Đất, như Sấm đầu xuân, kích thích lòng muôn vật để cho sinh khí rạt rào, sống một cuộc sống mới, đẹp như ánh xuân. Thánh Vương cai trị cũng muốn làm rung động lòng người, làm sinh khí rào rạt trong tâm hồn mọi người. Vì thế nên chế ra vũ, nhạc, để hướng nghệ thuật cai trị lên tới tuyệt luân, tuyệt đỉnh. Nhạc chính là sự hỗn hợp của trời đất, sự đồng điệu của Âm Dương, và sự vui chung của quân thần, phụ tử và dân chúng nơi nơi.
Chữ Nhạc đây không phải là ca nhạc không, mà gồm cả ca nhạc và nhạc vũ. Nhạc ký viết: Chuông, trống, sáo, khánh, vũ thược, can, qua là những nhạc khí. Co, ruỗi, ưỡn, khom, chụm, tỏa, nhanh, chậm, là nhạc văn.
Nói cách khác, nhạc gồm: Thi, ca, nhạc, vũ. Nhạc là sự phối hợp của thanh âm, mầu sắc, tiết tấu, chuyển động để mà kích thích, di dưỡng tâm thần con người.
-Thời cổ Trung Hoa: Về Nhạc khí, người ta dùng 8 nguyên liệu mà chế ra:
1) Cách = Da súc vật như trâu, bò v v...làm trống.
2) Bầu = Quả bầu để khô làm Sênh, Hoàng, Vu.
3) Trúc, gồm những loại Quản, Sáo như: Trì, Địch, Thược, Tiêu, Quản.
4) Mộc = Gỗ, gồm các loại: Chúc, Ngữ.
5) Ti = Sợi tơ, gồm các loại đàn: Cầm, Sắt, Không hầu, Tỳ bà, Trúc.
5) Thổ = Đất, gồm các loại: Huân, Phữu.
6) Kim = Kim khí, gồm các loại Chuông, Trống, Não bạt.
7) Thạch = Đá, gồm các loại Khánh: Ngọc, Thạch, Đại, Biên, Sanh, Tụng.
Về Vũ khí, có Mao, Vũ, Can, Thích, Múa Văn dùng Mao. Múa Võ dùng Can, Thích.
Như vậy, trong trời đất bất kỳ thứ gì nếu được tinh luyện, chế hoá cũng có thể trở nên thanh kỳ, và góp phần vào khúc đại hòa tấu của vũ trụ.
I. Thoán.
Thoán Từ
豫:利 建 侯 行 師。
Dự. Lợi kiến hầu hành sư.
Dịch.
Dự là hứng chí, hứng tâm.
Lập hầu cũng tốt, ra quân cũng lời.
Thoán Truyện.
豫,剛 應 而 志 行,順 以 動,豫。豫,順 以 動,故 天 地 如 之,而 況 建 侯 行 師 乎?天 地 以 順 動,故 日 月 不 過,而 四 時 不 忒﹔ 聖 人 以 順 動,則 刑 罰 清 而 民 服。豫 之 時 義 大 矣 哉!
Thoán viết: Dự. Cương ứng nhi chí hành. Thuận dĩ động. Dự. Dự thuận dĩ động. Cố thiên địa như chi. Nhi huống kiến hầu hành sư hồ. Thiên địa dĩ thuận động. Cố nhật nguyệt bất quá. Nhi tứ thời bất thắc. Thánh nhân dĩ thuận động. Tắc hình phạt thanh nhi dân phục. Dự chi thời nghĩa đại hĩ tai.
Dịch.
Dự là hứng chí, hứng tâm,
Cương, Nhu ứng hợp, muôn lòng hòa vui.
Thuận tình, hành động êm xuôi,
Thuận tình hành động, đất trời cũng ưa.
Đất trời còn chẳng phôi pha,
Thời chi dựng nước, với là ra quân.
Đất trời thuận lý xoay vần,
Cho nên nhật nguyệt, hai vầng vững y.
Tứ thời cũng chẳng sai đi,
Thánh nhân hành động, hợp nghì mới nên.
Thuận theo đạo lý, một niềm.
Chẳng cần ráo riết, dưới trên phục tòng.
Dân vui, dân phục thong dong.
Làm dân thuận phục, nên công cao vời.
Thoán cho rằng: Người trên mỗi khi thi hành phận sự phải thuận lý, thuận thiên, thuận thời, thuận nhân tâm, và thuận cảnh (Thuận dĩ động). Hơn nữa, muốn cho dân thi hành công tác gì cũng phải làm sao cho họ vui thuận mà làm, chứ không phải miễn cưỡng mà làm(Thuận dĩ động).
Người trên muốn dân phục, phải có một đời sống thanh cao, đạo đức, một dạ vì dân, vì nước, xót thương lê thứ, tránh mọi sự hà khắc, nhũng nhiễu dân, mà chỉ muốn dân giàu có, vui sướng, an hòa. Được vậy, dân sẽ phục. Dịch nói vắn tắt: Thiên địa dĩ thuận động... dân phục. Thánh nhân cho rằng: khi dân đã có đủ ăn, đủ mặc , mà nghĩ đến sự giáo hóa, sự tinh luyện tâm thần dân, để đem lạc thú, hạnh phúc cho dân, thì cao siêu biết bao( Dự chi thời nghĩa đại hỹ tai).
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 雷 出 地 奮,豫。 先 王 以 作 樂 崇 德,殷 荐 之 上 帝,以 配 祖 考。
Tượng viết: Lôi xuất địa phấn. Dự. Tiên vương dĩ tác nhạc sùng đức. Ân hiến chi Thượng Đế. Dĩ phối tổ khảo.
Dịch. Tượng rằng:
Dự là đất chuyển, sấm rung,
Tiên vương tác nhạc, tôn sùng đức cao.
Ơn trời, tấu khúc tiêu tao,
Tình thâm tổ khảo, gửi vào nhã ca.
Tượng cho rằng: Trị dân là phải biết cổ võ lòng dân, kích động lòng dân theo chính nghĩa, chính đạo, biết sống một đời sống linh hoạt, vui tượi, dào dạt sinh khí như vạn vật đầu xuân, nhờ sấm động mà bừng tỉnh giấc đông miên.
Trời lấy sấm động, làm rung lòng đất, và rung lòng vạn vật, đem sinh khí lại cho muôn vật, thì Thánh nhân cũng chế nhạc để ca tụng đạo đức, làm rung động lòng thần minh, tiên tổ và lòng muôn dân, để sinh khí rạt rào khắp vũ trụ, hòa khí lan tỏa khắp muôn phương.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六. 鳴 豫,凶。
象 曰: 初 六 鳴 豫,志 窮 凶 也。
Sơ Lục. Minh Dự. Hung.
Dịch.
Vui mà để lộ ra ngoài,
Khoe vui, khoe sướng với đời hay chi.
Tượng rằng:
Hào Sơ vui lộ ra ngoài,
Vênh vang tự đắc với đời hay chi?
Hào Sơ cho rằng: mới vui, mới sướng, mà đã cuống cuồng, không tự chủ được, toe toét, huyênh hoang, thì thế nào cũng hỏng, vì thế nào cũng nghĩ đến hưởng thụ, cho nên sa đọa.
2. Hào Lục nhị.
六 二. 介 于 石,不 終 日,貞 吉。
象曰: 不 終 日,貞 吉﹔ 以 中 正 也。
Lục nhị. Giới vu thạch. Bất chung nhật. Trinh cát.
Tượng viết:
Bất chung nhật trinh cát. Dĩ trung chính dã.
Dịch.
Vững vàng như đá, há đâu thay,
Chẳng cần suy tính đến trọn ngày,
Cương kiên, thiết thạch thêm sung mãn,
Minh mẫn, Cương kiên, thế mới hay.
Tượng rằng: Chẳng cứ cả ngày,
Chính trung nên tốt, nên hay lâu dài.
Hào hai dạy rằng: Khi đã được thoải mái, không được buông thả tâm thần, phải biết trì chí luyện tâm, theo đường đạo lý, lòng dạ sắt son, không để cho dục tình lôi cuốn, đã định làm điều hay, phải làm cho ngay, cho gấp. Tức là trong hoàn cảnh sung mãn, mà vẫn giữ được chính lý, chính đạo, vẫn Cương kiên, thiết thạch, không ủy mị, kiêu sa. Như vậy mới là hay.
3. Hào Lục tam.
六 三. 盱 豫,悔。 遲 有 悔。
象 曰: 盱 豫 有 悔,位 不 當 也。
Lục tam. Hu dự hối. Trì hữu hối.
Tượng viết:
Hu Dự hữu hối. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Hay chi ngửa mặt, cầu vui,
Ỷ thần, ỷ thế của người hay chi.
Hào ba cho rằng: những kẻ vô tài, vô đức, bất trung, bất chính dựa vào địa vị, cậy quyền, cậy thế người mà dương dương tự đắc, vênh váo, hân hoan, thì cái vui ấy có ra gì. Biết mình sống trong những thú vui giả tạo, trong dật lạc sa đọa, mà lần lữa sống đoạn tháng, qua ngày, không chịu thay đổi nếp sống, như vậy hỏi có ra chi?
4. Hào Cửu tứ.
九 四. 由 豫,大 有 得。勿 疑。 朋 盍 簪。
象 曰: 由 豫,大 有 得 ﹔ 志 大 行 也。
Cửu tứ. Do Dự. Đại hữu đắc. Vật nghi. Bằng hạp trâm.
Tượng viết:
Do Dự đại hữu đắc. Chí đại hành dã.
Dịch.
Do mình thiên hạ được vui,
Khá đem chí lớn, giúp đời, giúp dân.
Đừng nghi chẳng có tay chân,
Bạn bè như tóc, theo trâm hội về.
Tượng rằng:
Nhờ ta thiên hạ được vui,
Càng cao trí cả, vì đời thi vi.
Hào tứ chủ trương như Thoán Từ rằng: nếu mình là trọng thần, mà ngày đêm lo đem lại an vui cho quốc dân, thì thực là một điều đại hạnh, đại bảo, còn gì mà phải nghi nan, phải sợ sệt. Chúng dân sẽ theo về mình, như tóc theo trâm, đó là trường hợp Chu Công, Y Doãn, Phó Duyệt, Đại Vũ, những bậc đại nhân như vậy, sẽ vì sự an lạc cho dân, mà lập những đại công, đại nghiệp, như ta thấy: Vũ trị Hồng Thủy, Y Doãn phạt Kiệt, Chu Công đông chinh.
5. Hào Lục ngũ.
六 五. 貞 疾,恆 不 死。
象 曰: 六 五 貞 疾,乘 剛 也。 恆 不 死,中 未 亡 也。
Lục ngũ. Trinh tật. Hằng bất tử.
Tượng viết:
Lục ngũ trinh tật. Thừa Cương dã. Hằng bất tử. Trung vị vong dã.
Dịch:
Lục ngũ giống như người có tật,
Ốm lắt leo, mà chẳng chết cho.
Tượng rằng: Lục ngũ ốm lâu,
Vì là đã cưỡi lên đầu Dương Cương,
Dằng dai, vẫn sống vất vương,
Dằng dai, vì vẫn thời thường ngôi trung.
Hào ngũ cho rằng: khi nước đã thái bình, mà vua chuyên hưởng lạc, thì có khác nào một người mắc bệnh kinh niên, nan trị, sống lay, sống lắt đâu. Lúc ấy, còn hay mất, sống hay chết, không còn do vua quyết định. Quyền thần mà trung, thì ngôi vua còn, quyền thần mà phản, thì ngôi vua mất.
6. Hào Thượng Lục.
上 六. 冥 豫,成 有 渝,無 咎。
象 曰:冥 豫 在 上,何 可 長 也。
Thượng Lục. Minh Dự. Thành. Hữu du. Vô cữu.
Tượng viết:
Minh Dự tại thượng. Hà khả trường dã.
Dịch.
Vùi đầu mê hưởng cuộc vui,
Nếu như biết sửa, vậy thời lỗi chi.
Tượng rằng: Mê mải cuộc vui.
Chênh vênh, ngất ngưởng, lâu dài làm sao?
Hào Thượng cho rằng: Một con người đang say đắm trong hoan lạc, mà biết hồi đầu, tu chính, trở về với đạo lý, sống một cuộc đời thanh cao, thì có gì đáng trách đâu. Nhược bằng cứ vùi đầu trong hoan lạc. thì làm sao mà trường cửu được?
ÁP DỤNG QUẺ DỰ VÀO THỜI ĐẠI
Trong Kinh dịch, thì quẻ Lý nói về Lễ, quẻ Dự nói về nhạc. Ta nên biết, Nhạc hết sức quan trọng đối với vua chúa xưa, vì nó kích động và thanh lịch hóa tâm thần, nên các trường đều phải học nhạc. Mỗi triều đại, lại có một khúc nhạc tiêu biểu cho chí hướng, hoài bão và công trình của triều đại.
1.) Thời Hoàng Đế, có nhạc khúc Hàm Trì, ý muốn nói vua đã làm cho đạo đức phát huy, phát triển được khắp nơi.
2.) Nghiêu có nhạc Đại Chương, ý nói lên lòng mong muốn cho nhân nghĩa đại hành, phát độ chương minh.
3.) Đế Khốc có nhạc Lục Anh. Chuyên Húc có nhạc Ngũ Hành.
4.) Thuấn có nhạc Tiêu thiều. Thiều là kế tục, ý nói vua Thuấn muốn tiếp tục con đường của vua Nghiêu.
5.) Đại Võ có nhạc Đại Hạ, ý nói vua Đại Võ nối tiếp về đường lối của hai vua Nghiêu, Thuấn, muốn cho thiên hạ được thái bình.
6.) Nhà Ân có nhạc Đại Hội, ý nói nhà Ân sẽ cố phục hưng, bảo hộ nền đạo đức của các Thánh Vương xưa.
7.) Nhà Chu có nhạc Đại Chước, cũng gọi là Đại Vũ, ý nói sẽ châm chước để luôn theo đường lối của hai vua Văn, Võ. Thế mới hiểu rằng: Người xưa mượn lời thơ, để nói lên chí hướng và hoài bão của mình, rồi phổ vào ca, nhạc, vũ, để lời thơ trở nên bất diệt, hoài bão mình trở nên quảng thi, quảng diễn, nhờ đó ảnh hưởng sâu xa đến quần chúng. Người xưa cho rằng: xét Thanh thì biết Âm, xét Âm thì biết Nhạc, xét Nhạc thì biết cách trị dân, trị nước.
Nay, trở về với dân tộc ta, ta sẽ nhận thấy tinh thần, ý chí của dân tộc đều có thể nhận thấy trong lời nhạc, ý thơ..
Hồi tiền chiến ( trước năm 1939), dân tộc ta còn sống trong vòng nô lệ của Thực Dân Pháp, lòng người dân, một phần ngơ ngác như con nai vàng lạc trong rừng hoang, một phần tìm được lối đi, nhưng không hẹn ngày trở lại, để vợ con mong mỏi ngày đêm. Tình trạng này, được nhạc sĩ Lưu Trọng Lư diễn tả trong tập thơ Tiếng Thu của ông, và năm 1939 đã phổ thành nhạc, và đã nổi tiếng một thời.
Em không nghe mùa thu,
Dưới trăng mờ thổn thức.
Em không nghe rạo rực,
Hình ảnh kẻ chinh phu,
Trong lòng người cô phụ.
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào sạc.
Con nai vàng ngơ ngác,
Đạp trên lá vàng khô.
Cuối năm 1945, sau khi Việt Minh cướp chính quyền, lòng dân vùng dậy, khí thế hăng say, được thể hiện trong bài Anh hùng ca của nhạc sĩ Phạm Duy:
Ngày bao hùng binh tiến lên,
Bờ cõi vang lừng câu Quyết chiến. . .
Tóm lại, ta có thể nói: Thơ & Nhạc là linh hồn dân tộc vậy. Ngày nay, ta thấy Thơ & Nhạc đi vào chỗ ủy mị. Thật là không nên vậy!
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
3 LÔI THỦY GIẢI
LÔI THỦY GIẢI
Giải Tự Quái
解 序 卦
Kiển giả nạn dã.
蹇 者 難 也.
Vật bất khả dĩ chung nạn
物 不 可 以 終 難
Cố thụ chi dĩ Giải.
故 受 之 以 解.
Giải giả hoãn dã.
解 者 緩 也.
Giải Tự Quái
Kiển là hoạn nạn, gian lao.
Nhưng mà gian khổ nhẽ nào mãi đâu?
Cho nên Giải tiếp theo sau;
Giải là cởi mở, ngõ hầu chơi ngơi.
Trên đời việc gì cũng có lúc cùng; kiển nạn mãi, phải có kỳ được giải thoát. Vì thế sau quẻ Kiển là quẻ Giải.
Chữ Giải xét về Từ nguyên là dao, là dùi bằng sừng trâu dùng để gỡ nút. Cho nên Giải là tháo gỡ, hóa giải tai nạn.
Quẻ Giải, trên có quẻ Chấn là sấm, là động; dưới có quẻ Khảm là nguy hiểm. Chấn ở trên Khảm, tức là gặp nguy mà có đủ sức mạnh hoạt động, nên đã thoát nguy. Vì thế, xét về mặt chữ, xét về ý nghĩa và hình tượng của quẻ Giải, đều gợi ra ý nghĩa Giải nạn, tế nguy, Giải tán hoạn nạn. Mà tiểu nhân là đầu mối sinh ra mọi sự hoạn nạn, bế tắc trong xã hội. Cho nên, sau khi đã giải được nguy cơ cho non sông, đất nước cần phải tiễu trừ tiểu nhân.
Trong suốt quẻ Giải, ta thấy hiện lên ý nghĩa Cần phải diệt trừ tiểu nhân. Nơi quẻ Kiển, là rối ren, nguy hiểm bế tắc, thời dạy cần phải đoàn kết, cần phải tìm ra được nhân tài, được người lãnh đạo, để đối phó với tình hình. Nay tai qua, nạn khỏi, đã đi đến giải nạn rồi, thời lại khuyên nên trừ diệt tiểu nhân. Đường lối thật rõ ràng vậy.
I. Thoán.
Thoán từ.
解. 利 西 南. 無 所 往. 其 來 復 吉. 有 攸 往. 夙吉.
Giải. Lợi Tây Nam. Vô sở vãng. Kỳ lai phục cát. Hữu du vãng. Túc cát.
Dịch.
Giải là giải nạn, tế nguy,
Khuôn phù đại chúng, vậy thì mới hay.
Xin đừng dở dói, múa may,
Theo nề nếp cũ, dựng gầy cơ ngơi.
Tinh hoa xưa, chẳng bỏ rời,
Ấy là may mắn, ấy thôi tốt lành.
Nếu còn việc phải thi hành,
Thời nên làm gấp, cho nhanh, cho rồi.
Lúc đã hóa giải được cơn nguy biến rồi, cần phải theo con đường khoan hòa, dung dị, phải vỗ an bá tánh. Đó là đường lối của Thành Thang, sau khi đã diệt Kiệt; của Võ Vương, sau khi đã diệt Trụ. Vì thế nói Lợi Tây Nam. Tây Nam là phía quẻ Khôn, mà Khôn là bình dị. Vì thế Trình Tử mới giải nên theo đường lối bình dị, khoan quảng.
Khi đã hóa giải được hiểm nguy rồi, đừng nên nhiều chuyện, làm phiền hà dân chúng, mà phải lo trở về với những lề hay, thói đẹp thuở trước. Như Võ Vương, khi đã diệt Trụ xong, lại trở về với nền hành chánh qui củ, đẹp đẽ của nhà Thương (Vô sở vãng. Kỳ lai phục cát).
Nhưng nếu còn việc gì cần phải giải quyết, phải giải quyết cho mau, cho lẹ mới tốt (Hữu du vãng. Túc cát).
Thoán Truyện.
彖 曰. 解. 險 以 動. 動 而 免 乎 險. 解. 解 利 西 南. 往 得 眾 也. 其 來 復 吉. 乃 得 中 也. 有 攸 往 .夙 吉. 往 有 功 也.天 地 解. 而 雷 雨 作. 雷 雨 作. 而 百 果 草 木 皆 甲 坼. 解 之 時 大 矣哉.
Thoán viết:
Giải. Hiểm dĩ động. Động nhi miễn hồ hiểm. Giải. Giải lợi Tây Nam. Vãng đắc chúng dã. Kỳ lai phục cát. Nãi đắc trung dã. Hữu du vãng. Túc cát. Vãng hữu công dã. Thiên địa giải. Nhi lôi vũ tác. Lôi vũ tác. Nhi bách quả thảo mộc giai giáp tích. Giải chi thời đại hỹ tai.
Dịch. Thoán rằng:
Giải là thoát hiểm, thoát nguy,
Trong nguy, động để vượt kỳ nguy nan.
Giải hay về hướng Tây Nam,
Cứu nguy, sẽ được dân gian theo về.
Lối xưa, giữ lấy nếp nề,
Làm hay, làm phải, nên chi tốt lành.
Nếu còn việc phải thi hành,
Thời nên làm gấp, cho nhanh, cho rồi.
Đất trời, uất khí, thông xuôi,
Sấm vang rộn rã, mưa rơi rạt rào.
Cỏ cây đâu đấy đua nhau,
Nảy chồi, đâm mộng, mở mào, nứt nanh.
Thời cơ giải thoát quần sinh,
Cao siêu, mà lại tốt lành biết bao.
Giải là gặp hiểm mà hoạt động. Hoạt động nên thoát hiểm, vì thế nên gọi là Giải.
Thoán Truyện cũng cho rằng: sau khi hóa giải được hoạn nạn, nếu mình dùng đường lối bình dị, khoan quảng, ắt sẽ được lòng dân. (Giải lợi Tây Nam. Vãng đắc chúng dã). Ngoài ra, nếu mà biết trở về với những lề lối tốt đẹp của người xưa, thì như vậy mới là hành xử phải đạo (Kỳ lai phục cát. Nãi đắc trung dã). Tuy nhiên, nếu còn có việc phải làm, thời làm cho ngay, cho gấp, đừng chần chừ, giãi đãi. Như vậy ắt sẽ nên công (Hữu du vãng. Túc cát. Vãng hữu công dã.)
Kiến An Khâu thị bình rằng: Đại khái, lúc mà tình thế vừa bình trị, con người dễ đâm ra lười, trừ họa mà chưa tuyệt, nó dễ sinh lại. Khi họa hoạn vừa chấm dứt, Thánh nhân không muốn con người, có nhiều chuyện làm mệt cho mình, nhưng cũng không muốn con người ngồi yên biếng nhác. Thoán Truyện luận tiếp: khi mà trời đất muốn làm thông sự bế tắc, uất kết của bầu trời thì sấm động, mưa rơi. Khi mà khí trời, khí đất đã thông sướng rồi, ta sẽ thấy cây cỏ đâm chồi, nẩy mậm. Cho nên thời Giải là thời quan hệ lớn lao vậy (Thiên địa giải. Nhi lôi vũ tác. Lôi vũ tác nhi. Bách quả thảo mộc giai giáp tích. Giải chi thời đại hỹ tai).
Đối với đời sống xã hội, thời Giải là một thời rất quan trọng. Thật vậy, khi mà binh lửa đa đoan, nguy hiểm chập chùng, thì mọi người đâm ngao ngán, chẳng còn muốn tính toán, làm lụng gì cho lắm nữa. Tầm hoạt động con người bị thu nhỏ lại, và những mưu đồ làm ăn, phát triển cũng bị dẹp bớt đi. Khi mà bình yên trở lại, mọi người như cây cối gặp trời mưa, sẽ đua nhau hoạt động trở lại, và đất nước sẽ có cơ hưng phấn.
Ở bên Âu Châu trước năm 1000, ai cũng nghĩ sắp tận thế, nên không còn muốn làm ăn gì nữa. Sau năm 1000 biết chắc không tận thế, dân chúng mới sống động lại, và bắt đầu xây dựng vô số nhà thờ. Những nhà thờ lớn ở Âu Châu hiện nay, được bắt đầu xây cất từ thời đó.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 雷 雨 作. 解. 君 子 以 赦 過 宥 罪.
Tượng viết:
Lôi vũ tác. Giải. Quân tử dĩ xá quá hựu tội.
Dịch. Tượng rằng:
Giải là sấm động, mưa rơi,
Hiền nhân chẳng chấp tội người mới hay.
Lỗi lầm khoan xá, tha ngay,
Tội tình cũng cố liệu bài giảm khinh.
Sấm động, mưa rơi làm cho không khí hết oi ả. Quân tử cũng tha lỗi, xá tội, làm cho tình thế bớt căng thẳng. Tượng viết: Lôi vũ tác. Giải. Quân tử dĩ xá quá hựu tội. Chữ xá ở đây là tha hẳn. Chữ hựu có nghĩa là giảm. Lỗi lầm thì tha hẳn, trọng tội thì giảm khinh, như vậy mới là hợp lý.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Sáu Hào đại khái chỉ nói lên mấy ý sau đây:
-Chớ nên nhiễu sự, làm khổ dân khi không cần.(Hào Sơ)
- Phải diệt tiểu nhân (Hào nhị)
- Không được cho tiểu nhân tham chính.(Hào 3)
- Phải xa lánh tiểu nhân. (Hào 4,5) -
- Muốn trừ tiểu nhân, nhiều khi phải tốn công phu, phải chuẩn bị, bố trí, có phương lược. (Hào 6)
1. Hào Sơ Lục.
初 六. 無 咎。
象 曰: 剛 柔 之 際,義 無 咎 也。
Sơ lục. Vô cữu.
Tượng viết:
Cương nhu chi tế. Nghĩa vô cữu dã.
Dịch.
Hào Sơ khoan quảng lỗi chi?
Tượng rằng:
Có cương vả lại có nhu,
Khởi cư hợp lý, khỏi lo lỗi lầm.
Hào Sơ Lục chỉ vẻn vẹn có hai chữ vô cữu, mà đã nói lên được đường lối phải theo khi mới bắt đầu thời kỳ Giải. Khi đại nạn vừa qua khỏi, dân chúng còn đang hoang mang, chớ nên nhiễu sự, như vậy mới được lòng dân. Thế tức là dung hoà cương nhu. Tượng viết: Cương nhu chi tế. Nghĩa vô cữu dã.
Bái công vào Quang Trung, sau khi đã cho Tam Thế là vua Tần hàng đầu, liền lập ra ba chương ước pháp hết sức giản dị, để trị dân. Không tơ hào của dân, không vi phạm cung thất nhà Tần, khiến dân thảy đều cảm phục.
Ngược lại, khi Hạng Võ vào đến Quang Trung đã:
- Giết 20 vạn quân Tần, mặc dầu họ đã hàng đầu.
- Giết dân chúng Hàm Dương vì họ đã thần phục Bái công.
- Giết Tam Thế.
- Quật lăng Tần Thủy Hoàng.
- Đốt cung A Phòng. v.v...
Thế là một đàng biết cư xử đúng luật Dịch, một đàng hành động quàng xiên, và như vậy hai đàng cát hung phân biệt rõ ràng.
2. Hào Cửu nhị.
九 二. 田 獲 三 狐. 得 黃 矢. 貞 吉.
象 曰. 九 二 貞 吉. 得 中 道 也.
Cửu nhị.
Điền hoạch tam hồ. Đắc hoàng thỉ. Trinh cát.
Tượng viết:
Cửu nhị trinh cát. Đắc trung đạo dã.
Dịch.
Đi săn bắt được ba chồn,
Rồi ra được thưởng tên vàng, may thay.
Một lòng chính trực mới hay
Tượng rằng: Chín hai chính trực, mới hay.
Thế là xử sự thẳng ngay, đàng hoàng.
Hào Cửu nhị: Lúc này thế nước đã vững vàng hơn; cho nên lúc này phải lo trừ khử kẻ tiểu nhân, và phải kén chọn người anh tài. Thế nào là kẻ tiểu nhân, về phương diện hành chánh, chính trị? Đó là những kẻ chỉ lo thủ lợi riêng, giỏi hãm hại người hiền, mà không biết gì về công chuyện tế thế, kinh bang, phò nguy, cứu khốn cho giang sơn, bờ cõi. Họ là những người gian manh, siểm nịnh, quỉ quyệt như những con hồ ly, cần phải tiễu trừ cho tận tuyệt. Vì thế Hào Cửu nhị mới nói: Điền hoạch tam hồ. (Đi săn bắt được ba con cáo). Trừ tiểu nhân cũng chưa đủ, còn phải tuyển lựa những người trung trực ra giúp nước nữa. Hoàng là màu của trung; Thỉ là tên, tượng trưng cho sự ngay thẳng. Đắc hoàng thỉ chính là được những người trung trực. Làm được hai chuyện đó là theo đuợc chính đạo, và như vậy mới tốt. (Trinh cát). Vì thế Tiểu Tượng mới nói Cửu nhị trinh cát. Đắc trung đạo dã.
3. Hào Lục tam.
六 三. 負 且 乘. 致 寇 至. 貞 吝.
象 曰. 負 且 乘. 亦 可 丑 也. 自 我 致 戎. 又 誰 咎 也.
Lục tam.
Phụ thả thừa. Trí khấu chí. Trinh lận.
Tượng viết:
Phụ thả thừa. Diệc khả xú dã. Tự ngã trí nhung. Hựu thùy cữu dã.
Dịch.
Lục tam, đầu đội, vai mang,
Mà còn xe cộ nghênh ngang, phỡn phè.
Thế là gọi giặc cướp về,
Cứ như vậy, sẽ ê chề ăn năn.
Tượng rằng: Đầu đội, vai mang,
Nghênh ngang xe cộ, bẽ bàng ê hê!
Tự mình gọi giặc cướp về
Còn chê ai nữa, hãy chê chính mình.
Hào Lục tam: Ở xã hội, có người sang, người hèn; người hèn làm những việc như khuân vác. Người sang lo việc kinh quốc, an dân và đi ngựa, đi xe. Nay dùng những kẻ hèn, kẻ tiểu nhân mà đặt vào những chức vụ lãnh đạo, thì có khác gì một người đầu đội, vai mang, mà chễm chệ ngồi trên xe đâu. Vì thế Lục tam nói Phụ thả thừa. Những kẻ tiểu nhân một khi đã có quyền trong tay, sẽ luồn cúi, nịnh bợ người trên, hãm hại người ngay, tàn ác với lê thứ, cho nên sẽ gây ra nhiều chuyện bất bình, gieo mầm bất mãn, loạn lạc khắp nơi. Vì thế Dich nói: Kỳ phụ thả thừa. Trí khấu chí. Trinh lận. Tại sao lại Trinh lận? Trinh đây phải hiểu là cứ theo con đường ấy; lận là sẽ chuốc ô nhục vào người.
Dùng kẻ tiểu nhân, kẻ khuân vác, mà cho ngồi xe, thì thực đáng hổ thẹn, đó là mình tự chiêu giặc cướp vào mình, rồi còn oán trách ai được. Tiểu Tượng Truyện viết: Phụ thả thừa. Diệc khả xú dã. Tự ngã trí nhung. Hựu thùy cữu dã.
Vua Chánh Đức nhà Minh, dùng nội thị Lưu Cẩn chỉ có tài bày ra những cuộc chơi bời, luyện trâu, luyện chó, luyện ngựa, luyện chim, rồi phong cho Lưu Cẩn làm chức Thần cơ, cai quản ngự lâm quân, lại cho dự vào việc cơ phòng, xem xét, phê phán các sớ sách thay vua, nên sau mới sinh ra chuyện công thần bị hãm hại, binh cách can qua một thời gian.
Vua Huy Tôn nhà Tống, vì dùng Cao Cầu, một người chỉ có tài nghề đá cầu, cho làm đến chức thái úy, nên đã xô đẩy biết bao anh tài lên Lương Sơn Bạc. Thế mới hay, dùng kẻ tiểu nhân là chiêu giặc cướp đến vậy! (xem thêm Hệ Từ thượng, chươngVIII).
4. Hào Cửu tứ.
九 四. 解 而 拇. 朋 至 斯 孚.
象 曰. 解 而 拇. 未 當 位 也.
Cửu tứ.
Giải nhi mẫu. Bằng chí tư phu.
Tượng viết:
Giải nhi mẫu. Vị đáng vị dã.
Dịch.
Hi sinh cắt ngón cái đi,
Bạn bè tin cẩn sẽ về với ta.
Tượng rằng: Ngón cái cắt đi,
Vì mình chưa ở đúng kỳ vị ngôi.
Hào Cửu tứ: Làm người trên cần phải biết xua đuổi những chân tay gian nịnh, hại dân, hại nước. Có làm được như vậy, nhân tài trong nước mới tin, mới về cộng tác với mình (Giải nhi mẫu. Bằng chí tư phu). Giải là cắt bỏ, Mẫu là ngón chân cái, nhi là của mình. Ý nói phải giải trừ những kẻ tiểu nhân đang bám, đang dựa vào mình. Còn phải làm những chuyện như vậy, tức cũng chưa phải là người hoàn toàn. Vì vậy Tiểu Tượng bình thêm Giải nhi mẫu. Vị đáng vị dã.
5. Hào Lục ngũ.
六 五. 君 子 維 有 解. 吉. 有 孚 于 小 人.
象 曰. 君 子 有 解. 小 人 退 也.
Lục ngũ.
Quân tử duy hữu giải. Cát. Hữu phu vu tiểu nhân.
Tượng viết:
Quân tử hữu giải. Tiểu nhân thoái dã.
Dịch.
Giải trừ được bọn gian manh,
Thời người quân tử an lành biết bao.
Tiểu nhân rũ sạch, mới hào.
Ấy là bằng chứng đã vào đường ngay.
Tượng rằng: Quân tử mà rũ tiểu nhân,
Tiểu nhân bán xới, dám gần nữa đâu.
Hào Lục ngũ: Các quan chức ở dưới còn không nên thân cận với tiểu nhân, huống chi là các bậc vua chúa.
Cho nên đã là minh quân, là phải trừ khử tiểu nhân (Quân tử duy hữu giải. Cát. Hữu phu vu tiểu nhân). Lấy gì chứng nghiệm được rằng mình đã giải trừ được tiểu nhân? Cứ xem quanh mình, nếu tiểu nhân không còn dám bén mảng tới, mới thực là mình đã xua đuổi được hết phường du nịnh. Thời Đại Võ, có người tên Nghi Địch, cất được một thứ rượu rất thơm ngon, dâng lên Đại Võ. Vua nếm thử quả thấy ngon, liền đầy Nghi Địch đi, không bao giờ cho tới triều ca nữa. Nếu vua thực tình dùng người hay, bỏ kẻ dở, thì tiểu nhân sẽ rút lui hết. Tượng viết: Quân tử hữu giải. Tiểu nhân thoái dã.
6. Hào Thượng Lục.
上 六. 公 用 射 隼. 于 高 墉 之 上. 獲 之. 無 不 利.
象 曰. 公 用 射 隼. 以 解 悖 也.
Thượng Lục.
Công dụng xạ chuẩn. Vu cao dung chi thượng. Hoạch chi vô bất lợi.
Tượng viết:
Công dụng xạ chuẩn. Dĩ giải bội dã.
Dịch.
Vương công bắn cắt tường cao,
Bắn trừ con cắt, lợi nào lợi hơn.
Tượng rằng:
Vương công bắn cắt tường cao,
Trừ mầm phản loạn, hại trào, hại dân.
Hào Thượng Lục: Tuy nhiên muốn trừ khử tiểu nhân không phải là chuyện dễ. Vì họ có thể là những quan lớn trong triều, có uy thế, có vây cánh lớn mạnh. Họ như những con chim chuẩn, chim cắt dữ tợn đậu trên bức tường cao. Muốn trừ diệt họ, mình phải có những phương kế, phải chuẩn bị cho hẳn hoi, phải đợi thời cơ thuận tiện mới ra tay, như vậy khi ra tay mới mong thắng lợi. (Công dụng xạ chuẩn vu cao dung chi thượng. Hoạch chi vô bất lợi.)
Bắn được chim cắt đây, chính là tiễu trừ những kẻ bội loạn. Tượng viết: Công dụng xạ chuẩn. Dĩ giải bội dã. Đọc bài này ta liên tưởng đến chuyện vua Càn Long trừ Thiên Địa Hội.
ÁP DỤNG QUẺ GIẢI VÀO THỜI ĐẠI
Bàn về quẻ Giải, tôi nghĩ ngay tới thời kỳ 1975, khi còn bị kẹt ở Saigon (Việt Nam). Quẻ Giải khuyên nên làm 2 vấn đề chính:
1)- Khi dẹp đại loạn xong, không nên làm khó dân.
2)- Không cho tiểu nhân tham dự chính quyền.
Ta hãy nhìn dân tình Việt Nam, khi Cộng Sản vào SAIGON. Điều ta phải nhận định là quân đội Cộng Sản thật là có kỷ luật: không hề tơ hào, không hề sách nhiễu dân điều gì.
Nhưng đến khi trị dân, ta thấy Cộng Sản đã có nhiều khiếm khuyết. Tuy mới đầu họ tuyên bố: không ai thắng, không ai bại, và người trong một nước phải bao bọc lẫn nhau, nhưng chỉ ít ngày sau là kêu gọi quân đội, dân sự phải đi trình diện học tập. Mới đầu úp úp, mở mở là học tập trong một tuần, rồi sau đó mới vỡ lẽ ra rằng Cộng Sản bắt đi học tập có khi trên 10 năm. Điều này đã gây xáo trộn và chia rẽ lớn trong nước.
Sau đó là vụ đánh Tư sản thương nghiệp. Đó là những lỗi lầm mà Chính quyền lúc đó đã phạm phải.
Còn về chuyện dùng người, thì phải công nhận lúc đầu không có đủ nhân viên, nên đã dùng bừa phứa, nên có những tiểu nhân len lỏi vào chính quyền cấp dưới như nơi Phường, Khóm, Quận. Những kẻ tiểu nhân này đã dùng quyền uy của họ để xách nhiễu dân, tham ô đủ thứ. Tuy nhiên sau đó, chính quyền cũng đã tìm đủ mọi cách trừ khử bọn tiểu nhân này.
Nhưng để bù lại, thì chính quyền Cộng Sản đã cho di tản chính thức những gia đình mà có thân nhân bị đi cải tạo một cách rộng rãi, do đó nhiều gia đình nay đã rất khá giả, con cái đã thành đạt. Họ đã thực hiện được những ước mơ là sao cho con cái họ được đi du học nước ngoài, mà trong suốt cuộc đời của nhiều người khó mà thực hiện nổi. Đó cũng là điểm đáng khen.
Nói cho công bằng, là khi thay đổi một chế độ, một triều đại, làm sao mà tránh được những sự bắt bớ, giam cầm, hay thủ tiêu những thành phần đối lập, và như vậy làm sao tránh khỏi được bao người bị hàm oan. Hơn nữa, như Dịch nói: Làm sai, biết sửa, không có lỗi (Vô cữu).
Tôi nói các vấn đề trên một cách trung thực, không phải để chỉ trích hay phê bình, mà cũng là thấy sao nói vậy, hay khen, hèn chê mà thôi, mong sao các Chính phủ sau, trước khi soạn thảo, ban bố, hoặc thi hành một đạo luật gì, thì phải nghĩ đến sự lợi ích cho dân, và bảo vệ dân trước đã.
LÔI THỦY GIẢI
Giải Tự Quái
解 序 卦
Kiển giả nạn dã.
蹇 者 難 也.
Vật bất khả dĩ chung nạn
物 不 可 以 終 難
Cố thụ chi dĩ Giải.
故 受 之 以 解.
Giải giả hoãn dã.
解 者 緩 也.
Giải Tự Quái
Kiển là hoạn nạn, gian lao.
Nhưng mà gian khổ nhẽ nào mãi đâu?
Cho nên Giải tiếp theo sau;
Giải là cởi mở, ngõ hầu chơi ngơi.
Trên đời việc gì cũng có lúc cùng; kiển nạn mãi, phải có kỳ được giải thoát. Vì thế sau quẻ Kiển là quẻ Giải.
Chữ Giải xét về Từ nguyên là dao, là dùi bằng sừng trâu dùng để gỡ nút. Cho nên Giải là tháo gỡ, hóa giải tai nạn.
Quẻ Giải, trên có quẻ Chấn là sấm, là động; dưới có quẻ Khảm là nguy hiểm. Chấn ở trên Khảm, tức là gặp nguy mà có đủ sức mạnh hoạt động, nên đã thoát nguy. Vì thế, xét về mặt chữ, xét về ý nghĩa và hình tượng của quẻ Giải, đều gợi ra ý nghĩa Giải nạn, tế nguy, Giải tán hoạn nạn. Mà tiểu nhân là đầu mối sinh ra mọi sự hoạn nạn, bế tắc trong xã hội. Cho nên, sau khi đã giải được nguy cơ cho non sông, đất nước cần phải tiễu trừ tiểu nhân.
Trong suốt quẻ Giải, ta thấy hiện lên ý nghĩa Cần phải diệt trừ tiểu nhân. Nơi quẻ Kiển, là rối ren, nguy hiểm bế tắc, thời dạy cần phải đoàn kết, cần phải tìm ra được nhân tài, được người lãnh đạo, để đối phó với tình hình. Nay tai qua, nạn khỏi, đã đi đến giải nạn rồi, thời lại khuyên nên trừ diệt tiểu nhân. Đường lối thật rõ ràng vậy.
I. Thoán.
Thoán từ.
解. 利 西 南. 無 所 往. 其 來 復 吉. 有 攸 往. 夙吉.
Giải. Lợi Tây Nam. Vô sở vãng. Kỳ lai phục cát. Hữu du vãng. Túc cát.
Dịch.
Giải là giải nạn, tế nguy,
Khuôn phù đại chúng, vậy thì mới hay.
Xin đừng dở dói, múa may,
Theo nề nếp cũ, dựng gầy cơ ngơi.
Tinh hoa xưa, chẳng bỏ rời,
Ấy là may mắn, ấy thôi tốt lành.
Nếu còn việc phải thi hành,
Thời nên làm gấp, cho nhanh, cho rồi.
Lúc đã hóa giải được cơn nguy biến rồi, cần phải theo con đường khoan hòa, dung dị, phải vỗ an bá tánh. Đó là đường lối của Thành Thang, sau khi đã diệt Kiệt; của Võ Vương, sau khi đã diệt Trụ. Vì thế nói Lợi Tây Nam. Tây Nam là phía quẻ Khôn, mà Khôn là bình dị. Vì thế Trình Tử mới giải nên theo đường lối bình dị, khoan quảng.
Khi đã hóa giải được hiểm nguy rồi, đừng nên nhiều chuyện, làm phiền hà dân chúng, mà phải lo trở về với những lề hay, thói đẹp thuở trước. Như Võ Vương, khi đã diệt Trụ xong, lại trở về với nền hành chánh qui củ, đẹp đẽ của nhà Thương (Vô sở vãng. Kỳ lai phục cát).
Nhưng nếu còn việc gì cần phải giải quyết, phải giải quyết cho mau, cho lẹ mới tốt (Hữu du vãng. Túc cát).
Thoán Truyện.
彖 曰. 解. 險 以 動. 動 而 免 乎 險. 解. 解 利 西 南. 往 得 眾 也. 其 來 復 吉. 乃 得 中 也. 有 攸 往 .夙 吉. 往 有 功 也.天 地 解. 而 雷 雨 作. 雷 雨 作. 而 百 果 草 木 皆 甲 坼. 解 之 時 大 矣哉.
Thoán viết:
Giải. Hiểm dĩ động. Động nhi miễn hồ hiểm. Giải. Giải lợi Tây Nam. Vãng đắc chúng dã. Kỳ lai phục cát. Nãi đắc trung dã. Hữu du vãng. Túc cát. Vãng hữu công dã. Thiên địa giải. Nhi lôi vũ tác. Lôi vũ tác. Nhi bách quả thảo mộc giai giáp tích. Giải chi thời đại hỹ tai.
Dịch. Thoán rằng:
Giải là thoát hiểm, thoát nguy,
Trong nguy, động để vượt kỳ nguy nan.
Giải hay về hướng Tây Nam,
Cứu nguy, sẽ được dân gian theo về.
Lối xưa, giữ lấy nếp nề,
Làm hay, làm phải, nên chi tốt lành.
Nếu còn việc phải thi hành,
Thời nên làm gấp, cho nhanh, cho rồi.
Đất trời, uất khí, thông xuôi,
Sấm vang rộn rã, mưa rơi rạt rào.
Cỏ cây đâu đấy đua nhau,
Nảy chồi, đâm mộng, mở mào, nứt nanh.
Thời cơ giải thoát quần sinh,
Cao siêu, mà lại tốt lành biết bao.
Giải là gặp hiểm mà hoạt động. Hoạt động nên thoát hiểm, vì thế nên gọi là Giải.
Thoán Truyện cũng cho rằng: sau khi hóa giải được hoạn nạn, nếu mình dùng đường lối bình dị, khoan quảng, ắt sẽ được lòng dân. (Giải lợi Tây Nam. Vãng đắc chúng dã). Ngoài ra, nếu mà biết trở về với những lề lối tốt đẹp của người xưa, thì như vậy mới là hành xử phải đạo (Kỳ lai phục cát. Nãi đắc trung dã). Tuy nhiên, nếu còn có việc phải làm, thời làm cho ngay, cho gấp, đừng chần chừ, giãi đãi. Như vậy ắt sẽ nên công (Hữu du vãng. Túc cát. Vãng hữu công dã.)
Kiến An Khâu thị bình rằng: Đại khái, lúc mà tình thế vừa bình trị, con người dễ đâm ra lười, trừ họa mà chưa tuyệt, nó dễ sinh lại. Khi họa hoạn vừa chấm dứt, Thánh nhân không muốn con người, có nhiều chuyện làm mệt cho mình, nhưng cũng không muốn con người ngồi yên biếng nhác. Thoán Truyện luận tiếp: khi mà trời đất muốn làm thông sự bế tắc, uất kết của bầu trời thì sấm động, mưa rơi. Khi mà khí trời, khí đất đã thông sướng rồi, ta sẽ thấy cây cỏ đâm chồi, nẩy mậm. Cho nên thời Giải là thời quan hệ lớn lao vậy (Thiên địa giải. Nhi lôi vũ tác. Lôi vũ tác nhi. Bách quả thảo mộc giai giáp tích. Giải chi thời đại hỹ tai).
Đối với đời sống xã hội, thời Giải là một thời rất quan trọng. Thật vậy, khi mà binh lửa đa đoan, nguy hiểm chập chùng, thì mọi người đâm ngao ngán, chẳng còn muốn tính toán, làm lụng gì cho lắm nữa. Tầm hoạt động con người bị thu nhỏ lại, và những mưu đồ làm ăn, phát triển cũng bị dẹp bớt đi. Khi mà bình yên trở lại, mọi người như cây cối gặp trời mưa, sẽ đua nhau hoạt động trở lại, và đất nước sẽ có cơ hưng phấn.
Ở bên Âu Châu trước năm 1000, ai cũng nghĩ sắp tận thế, nên không còn muốn làm ăn gì nữa. Sau năm 1000 biết chắc không tận thế, dân chúng mới sống động lại, và bắt đầu xây dựng vô số nhà thờ. Những nhà thờ lớn ở Âu Châu hiện nay, được bắt đầu xây cất từ thời đó.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 雷 雨 作. 解. 君 子 以 赦 過 宥 罪.
Tượng viết:
Lôi vũ tác. Giải. Quân tử dĩ xá quá hựu tội.
Dịch. Tượng rằng:
Giải là sấm động, mưa rơi,
Hiền nhân chẳng chấp tội người mới hay.
Lỗi lầm khoan xá, tha ngay,
Tội tình cũng cố liệu bài giảm khinh.
Sấm động, mưa rơi làm cho không khí hết oi ả. Quân tử cũng tha lỗi, xá tội, làm cho tình thế bớt căng thẳng. Tượng viết: Lôi vũ tác. Giải. Quân tử dĩ xá quá hựu tội. Chữ xá ở đây là tha hẳn. Chữ hựu có nghĩa là giảm. Lỗi lầm thì tha hẳn, trọng tội thì giảm khinh, như vậy mới là hợp lý.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Sáu Hào đại khái chỉ nói lên mấy ý sau đây:
-Chớ nên nhiễu sự, làm khổ dân khi không cần.(Hào Sơ)
- Phải diệt tiểu nhân (Hào nhị)
- Không được cho tiểu nhân tham chính.(Hào 3)
- Phải xa lánh tiểu nhân. (Hào 4,5) -
- Muốn trừ tiểu nhân, nhiều khi phải tốn công phu, phải chuẩn bị, bố trí, có phương lược. (Hào 6)
1. Hào Sơ Lục.
初 六. 無 咎。
象 曰: 剛 柔 之 際,義 無 咎 也。
Sơ lục. Vô cữu.
Tượng viết:
Cương nhu chi tế. Nghĩa vô cữu dã.
Dịch.
Hào Sơ khoan quảng lỗi chi?
Tượng rằng:
Có cương vả lại có nhu,
Khởi cư hợp lý, khỏi lo lỗi lầm.
Hào Sơ Lục chỉ vẻn vẹn có hai chữ vô cữu, mà đã nói lên được đường lối phải theo khi mới bắt đầu thời kỳ Giải. Khi đại nạn vừa qua khỏi, dân chúng còn đang hoang mang, chớ nên nhiễu sự, như vậy mới được lòng dân. Thế tức là dung hoà cương nhu. Tượng viết: Cương nhu chi tế. Nghĩa vô cữu dã.
Bái công vào Quang Trung, sau khi đã cho Tam Thế là vua Tần hàng đầu, liền lập ra ba chương ước pháp hết sức giản dị, để trị dân. Không tơ hào của dân, không vi phạm cung thất nhà Tần, khiến dân thảy đều cảm phục.
Ngược lại, khi Hạng Võ vào đến Quang Trung đã:
- Giết 20 vạn quân Tần, mặc dầu họ đã hàng đầu.
- Giết dân chúng Hàm Dương vì họ đã thần phục Bái công.
- Giết Tam Thế.
- Quật lăng Tần Thủy Hoàng.
- Đốt cung A Phòng. v.v...
Thế là một đàng biết cư xử đúng luật Dịch, một đàng hành động quàng xiên, và như vậy hai đàng cát hung phân biệt rõ ràng.
2. Hào Cửu nhị.
九 二. 田 獲 三 狐. 得 黃 矢. 貞 吉.
象 曰. 九 二 貞 吉. 得 中 道 也.
Cửu nhị.
Điền hoạch tam hồ. Đắc hoàng thỉ. Trinh cát.
Tượng viết:
Cửu nhị trinh cát. Đắc trung đạo dã.
Dịch.
Đi săn bắt được ba chồn,
Rồi ra được thưởng tên vàng, may thay.
Một lòng chính trực mới hay
Tượng rằng: Chín hai chính trực, mới hay.
Thế là xử sự thẳng ngay, đàng hoàng.
Hào Cửu nhị: Lúc này thế nước đã vững vàng hơn; cho nên lúc này phải lo trừ khử kẻ tiểu nhân, và phải kén chọn người anh tài. Thế nào là kẻ tiểu nhân, về phương diện hành chánh, chính trị? Đó là những kẻ chỉ lo thủ lợi riêng, giỏi hãm hại người hiền, mà không biết gì về công chuyện tế thế, kinh bang, phò nguy, cứu khốn cho giang sơn, bờ cõi. Họ là những người gian manh, siểm nịnh, quỉ quyệt như những con hồ ly, cần phải tiễu trừ cho tận tuyệt. Vì thế Hào Cửu nhị mới nói: Điền hoạch tam hồ. (Đi săn bắt được ba con cáo). Trừ tiểu nhân cũng chưa đủ, còn phải tuyển lựa những người trung trực ra giúp nước nữa. Hoàng là màu của trung; Thỉ là tên, tượng trưng cho sự ngay thẳng. Đắc hoàng thỉ chính là được những người trung trực. Làm được hai chuyện đó là theo đuợc chính đạo, và như vậy mới tốt. (Trinh cát). Vì thế Tiểu Tượng mới nói Cửu nhị trinh cát. Đắc trung đạo dã.
3. Hào Lục tam.
六 三. 負 且 乘. 致 寇 至. 貞 吝.
象 曰. 負 且 乘. 亦 可 丑 也. 自 我 致 戎. 又 誰 咎 也.
Lục tam.
Phụ thả thừa. Trí khấu chí. Trinh lận.
Tượng viết:
Phụ thả thừa. Diệc khả xú dã. Tự ngã trí nhung. Hựu thùy cữu dã.
Dịch.
Lục tam, đầu đội, vai mang,
Mà còn xe cộ nghênh ngang, phỡn phè.
Thế là gọi giặc cướp về,
Cứ như vậy, sẽ ê chề ăn năn.
Tượng rằng: Đầu đội, vai mang,
Nghênh ngang xe cộ, bẽ bàng ê hê!
Tự mình gọi giặc cướp về
Còn chê ai nữa, hãy chê chính mình.
Hào Lục tam: Ở xã hội, có người sang, người hèn; người hèn làm những việc như khuân vác. Người sang lo việc kinh quốc, an dân và đi ngựa, đi xe. Nay dùng những kẻ hèn, kẻ tiểu nhân mà đặt vào những chức vụ lãnh đạo, thì có khác gì một người đầu đội, vai mang, mà chễm chệ ngồi trên xe đâu. Vì thế Lục tam nói Phụ thả thừa. Những kẻ tiểu nhân một khi đã có quyền trong tay, sẽ luồn cúi, nịnh bợ người trên, hãm hại người ngay, tàn ác với lê thứ, cho nên sẽ gây ra nhiều chuyện bất bình, gieo mầm bất mãn, loạn lạc khắp nơi. Vì thế Dich nói: Kỳ phụ thả thừa. Trí khấu chí. Trinh lận. Tại sao lại Trinh lận? Trinh đây phải hiểu là cứ theo con đường ấy; lận là sẽ chuốc ô nhục vào người.
Dùng kẻ tiểu nhân, kẻ khuân vác, mà cho ngồi xe, thì thực đáng hổ thẹn, đó là mình tự chiêu giặc cướp vào mình, rồi còn oán trách ai được. Tiểu Tượng Truyện viết: Phụ thả thừa. Diệc khả xú dã. Tự ngã trí nhung. Hựu thùy cữu dã.
Vua Chánh Đức nhà Minh, dùng nội thị Lưu Cẩn chỉ có tài bày ra những cuộc chơi bời, luyện trâu, luyện chó, luyện ngựa, luyện chim, rồi phong cho Lưu Cẩn làm chức Thần cơ, cai quản ngự lâm quân, lại cho dự vào việc cơ phòng, xem xét, phê phán các sớ sách thay vua, nên sau mới sinh ra chuyện công thần bị hãm hại, binh cách can qua một thời gian.
Vua Huy Tôn nhà Tống, vì dùng Cao Cầu, một người chỉ có tài nghề đá cầu, cho làm đến chức thái úy, nên đã xô đẩy biết bao anh tài lên Lương Sơn Bạc. Thế mới hay, dùng kẻ tiểu nhân là chiêu giặc cướp đến vậy! (xem thêm Hệ Từ thượng, chươngVIII).
4. Hào Cửu tứ.
九 四. 解 而 拇. 朋 至 斯 孚.
象 曰. 解 而 拇. 未 當 位 也.
Cửu tứ.
Giải nhi mẫu. Bằng chí tư phu.
Tượng viết:
Giải nhi mẫu. Vị đáng vị dã.
Dịch.
Hi sinh cắt ngón cái đi,
Bạn bè tin cẩn sẽ về với ta.
Tượng rằng: Ngón cái cắt đi,
Vì mình chưa ở đúng kỳ vị ngôi.
Hào Cửu tứ: Làm người trên cần phải biết xua đuổi những chân tay gian nịnh, hại dân, hại nước. Có làm được như vậy, nhân tài trong nước mới tin, mới về cộng tác với mình (Giải nhi mẫu. Bằng chí tư phu). Giải là cắt bỏ, Mẫu là ngón chân cái, nhi là của mình. Ý nói phải giải trừ những kẻ tiểu nhân đang bám, đang dựa vào mình. Còn phải làm những chuyện như vậy, tức cũng chưa phải là người hoàn toàn. Vì vậy Tiểu Tượng bình thêm Giải nhi mẫu. Vị đáng vị dã.
5. Hào Lục ngũ.
六 五. 君 子 維 有 解. 吉. 有 孚 于 小 人.
象 曰. 君 子 有 解. 小 人 退 也.
Lục ngũ.
Quân tử duy hữu giải. Cát. Hữu phu vu tiểu nhân.
Tượng viết:
Quân tử hữu giải. Tiểu nhân thoái dã.
Dịch.
Giải trừ được bọn gian manh,
Thời người quân tử an lành biết bao.
Tiểu nhân rũ sạch, mới hào.
Ấy là bằng chứng đã vào đường ngay.
Tượng rằng: Quân tử mà rũ tiểu nhân,
Tiểu nhân bán xới, dám gần nữa đâu.
Hào Lục ngũ: Các quan chức ở dưới còn không nên thân cận với tiểu nhân, huống chi là các bậc vua chúa.
Cho nên đã là minh quân, là phải trừ khử tiểu nhân (Quân tử duy hữu giải. Cát. Hữu phu vu tiểu nhân). Lấy gì chứng nghiệm được rằng mình đã giải trừ được tiểu nhân? Cứ xem quanh mình, nếu tiểu nhân không còn dám bén mảng tới, mới thực là mình đã xua đuổi được hết phường du nịnh. Thời Đại Võ, có người tên Nghi Địch, cất được một thứ rượu rất thơm ngon, dâng lên Đại Võ. Vua nếm thử quả thấy ngon, liền đầy Nghi Địch đi, không bao giờ cho tới triều ca nữa. Nếu vua thực tình dùng người hay, bỏ kẻ dở, thì tiểu nhân sẽ rút lui hết. Tượng viết: Quân tử hữu giải. Tiểu nhân thoái dã.
6. Hào Thượng Lục.
上 六. 公 用 射 隼. 于 高 墉 之 上. 獲 之. 無 不 利.
象 曰. 公 用 射 隼. 以 解 悖 也.
Thượng Lục.
Công dụng xạ chuẩn. Vu cao dung chi thượng. Hoạch chi vô bất lợi.
Tượng viết:
Công dụng xạ chuẩn. Dĩ giải bội dã.
Dịch.
Vương công bắn cắt tường cao,
Bắn trừ con cắt, lợi nào lợi hơn.
Tượng rằng:
Vương công bắn cắt tường cao,
Trừ mầm phản loạn, hại trào, hại dân.
Hào Thượng Lục: Tuy nhiên muốn trừ khử tiểu nhân không phải là chuyện dễ. Vì họ có thể là những quan lớn trong triều, có uy thế, có vây cánh lớn mạnh. Họ như những con chim chuẩn, chim cắt dữ tợn đậu trên bức tường cao. Muốn trừ diệt họ, mình phải có những phương kế, phải chuẩn bị cho hẳn hoi, phải đợi thời cơ thuận tiện mới ra tay, như vậy khi ra tay mới mong thắng lợi. (Công dụng xạ chuẩn vu cao dung chi thượng. Hoạch chi vô bất lợi.)
Bắn được chim cắt đây, chính là tiễu trừ những kẻ bội loạn. Tượng viết: Công dụng xạ chuẩn. Dĩ giải bội dã. Đọc bài này ta liên tưởng đến chuyện vua Càn Long trừ Thiên Địa Hội.
ÁP DỤNG QUẺ GIẢI VÀO THỜI ĐẠI
Bàn về quẻ Giải, tôi nghĩ ngay tới thời kỳ 1975, khi còn bị kẹt ở Saigon (Việt Nam). Quẻ Giải khuyên nên làm 2 vấn đề chính:
1)- Khi dẹp đại loạn xong, không nên làm khó dân.
2)- Không cho tiểu nhân tham dự chính quyền.
Ta hãy nhìn dân tình Việt Nam, khi Cộng Sản vào SAIGON. Điều ta phải nhận định là quân đội Cộng Sản thật là có kỷ luật: không hề tơ hào, không hề sách nhiễu dân điều gì.
Nhưng đến khi trị dân, ta thấy Cộng Sản đã có nhiều khiếm khuyết. Tuy mới đầu họ tuyên bố: không ai thắng, không ai bại, và người trong một nước phải bao bọc lẫn nhau, nhưng chỉ ít ngày sau là kêu gọi quân đội, dân sự phải đi trình diện học tập. Mới đầu úp úp, mở mở là học tập trong một tuần, rồi sau đó mới vỡ lẽ ra rằng Cộng Sản bắt đi học tập có khi trên 10 năm. Điều này đã gây xáo trộn và chia rẽ lớn trong nước.
Sau đó là vụ đánh Tư sản thương nghiệp. Đó là những lỗi lầm mà Chính quyền lúc đó đã phạm phải.
Còn về chuyện dùng người, thì phải công nhận lúc đầu không có đủ nhân viên, nên đã dùng bừa phứa, nên có những tiểu nhân len lỏi vào chính quyền cấp dưới như nơi Phường, Khóm, Quận. Những kẻ tiểu nhân này đã dùng quyền uy của họ để xách nhiễu dân, tham ô đủ thứ. Tuy nhiên sau đó, chính quyền cũng đã tìm đủ mọi cách trừ khử bọn tiểu nhân này.
Nhưng để bù lại, thì chính quyền Cộng Sản đã cho di tản chính thức những gia đình mà có thân nhân bị đi cải tạo một cách rộng rãi, do đó nhiều gia đình nay đã rất khá giả, con cái đã thành đạt. Họ đã thực hiện được những ước mơ là sao cho con cái họ được đi du học nước ngoài, mà trong suốt cuộc đời của nhiều người khó mà thực hiện nổi. Đó cũng là điểm đáng khen.
Nói cho công bằng, là khi thay đổi một chế độ, một triều đại, làm sao mà tránh được những sự bắt bớ, giam cầm, hay thủ tiêu những thành phần đối lập, và như vậy làm sao tránh khỏi được bao người bị hàm oan. Hơn nữa, như Dịch nói: Làm sai, biết sửa, không có lỗi (Vô cữu).
Tôi nói các vấn đề trên một cách trung thực, không phải để chỉ trích hay phê bình, mà cũng là thấy sao nói vậy, hay khen, hèn chê mà thôi, mong sao các Chính phủ sau, trước khi soạn thảo, ban bố, hoặc thi hành một đạo luật gì, thì phải nghĩ đến sự lợi ích cho dân, và bảo vệ dân trước đã.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
4 LÔI PHONG HẰNG
LÔI PHONG HẰNG
Hằng Tự Quái
恆 序 卦
Phu phụ chi đạo.
夫 婦 之 道
Bất khả dĩ bất cửu dã
不 可 以 不 久 也
Cố thụ chi dĩ Hằng.
故 受 之 以 恆
Hằng giả cửu dã.
恆 者 久 也
Hằng Tự Quái
Vơ chồng là chuyện trường kỳ,
Quẻ Hằng mới lấy mà ghi lẽ hằng.
I. Thoán.
Thoán Từ:
恆:亨,無 咎,利 貞,利 有 攸 往 .
Hằng. Hanh. Vô cữu. Lợi trinh. Lợi hữu du vãng.
Dịch.
Hằng là hằng cửu, cửu trường,
Biết hằng, biết biến, thời thường hanh thông.
Hanh thông, mới khỏi lỗi lầm,
Hằng nơi chính đạo, mới mong lời nhiều.
Hằng có nhiều nghĩa:
1. Hằng là lâu dài, hằng cửu.
2. Hằng là bất dịch, bất biến.
3. Hằng là bất dĩ, không ngừng nghỉ.
Tự Quái cho rằng: Hằng tượng trưng cho đạo vợ chồng, vì đạo vợ chồng là chuyện lâu dài, bền bĩ, ăn đời ở kiếp cùng nhau, chứ không phải chuyện ăn xổi ở thì.
Khi còn là nhân tình, như nơi quẻ Hàm, thì nam phải nhường cho nữ, nhưng khi đã thành vợ thành chồng, như trong quẻ Hằng, thì chồng phải được trọng hơn vợ; gia đình có tôn ti như vậy, mới đi đến hằng cửu được.
Có trường cửu, mới có hanh thông; trường cửu mà hanh thông mới không đáng trách; trường cửu, bền vững theo chính lý, chính nghĩa mới hay, mới lợi. Nhưng hằng cửu không phải là cố chấp, bất biến, đã biến hằng, phải biết biến nữa mới vẹn hảo. Vì thế Thoán Từ mới nói: Hằng. Hanh. Vô cữu. Lợi trinh. Lợi hữu du vãng.
Thoán Truyện.
彖 曰:恆,久 也 . 剛 上 而 柔 下,雷 風 相 與,巽 而 動,剛 柔 皆 應,恆 . 恆 亨 無 咎,利 貞 . 久 於 其 道 也,天 地 之 道,恆 久 而 不 已 也 . 利 有 攸 往,終 則 有 始 也 . 日 月 得 天,而 能 久 照,四 時 變 化,而 能 久 成,聖 人 久 於 其 道,而 天 下 化 成 . 觀 其 所 恆,而 天 地 萬 物 之 情 可 見 矣 .
Thoán viết. Hằng. Cửu dã. Cương thượng nhi nhu hạ. Lôi phong tương dự. Tốn nhi động. Cương nhu giai ứng. Hằng. Hằng hanh vô cữu. Lợi trinh. Cửu ư kỳ đạo dã. Thiên địa chi đạo. Hằng cửu nhi bất dĩ dã. Lợi hữu du vãng. Chung tắc hữu thuỷ dã. Nhật nguyệt đắc thiên. Nhi năng cửu chiếu. Tứ thời biến hoá. Nhi năng cửu thành. Thánh nhân cửu ư kỳ đạo. Nhi thiên hạ hoá thành. Quan kỳ sở hằng. Nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hĩ.
Dịch.
Hằng là hằng cửu, cửu trường,
Cứng trên, mềm dưới, lẽ thường tôn ti.
Sấm cùng với gió tương kỳ,
Động mà uyển chuyển, nên chi cửu trường.
Lại còn tương ứng nhu cương,
Không loi, không lẻ, có đường dài lâu.
Hằng mà hay, lợi trước sau,
Là cùng đạo nghĩa, gót đầu chẳng sai.
Sáng soi Nhật Nguyệt lâu dài,
Là vì luôn cứ đường trời ruổi rong.
Tứ thời biến hóa vô cùng,
Cho nên mới được thung dung cửu trường.
Thánh nhân đạo nghĩa thời thường,
Khiến cho thiên hạ có phương hóa thành.
Có Hằng, mới rõ sự tình,
Đất trời, vạn vật, phân minh tỏ tường.
Thoán Truyện định nghĩa Hằng là hằng cửu. Thoán viết: Hằng. Cửu dã. Sở dĩ gọi quẻ này là Hằng vì 4 lý do:
1. Vì quẻ hằng có cương ở trên là Lôi; nhu ở dưới là Phong. Thế là Dương tôn Âm ti, theo đúng lẽ thường.
2. Vì quẻ Hằng có sấm (= Chấn), có gió (= Tốn). Mà sấm, gió thường đi đôi với nhau, tăng cường lẫn nhau.
3. Vì Hằng trên là Chấn, là động; dưới là Tốn, là tốn thuận; Dương thì hoạt động mạnh mẽ, Âm thì nhu hòa, tốn thuận theo Dương, đó là lẽ thường của trời đất.
4. Vì Hằng có Chấn là cương, Tốn là nhu, hai đằng ứng hợp nhau. Đó là lẽ Âm Dương giao cảm, hiệp hòa trong trời đất. Trời đất có tôn ti trật tự, nhờ có sự xướng tùy, hòa hợp, tương ứng, tương dự, mới thực hiện được sự trường cửu. Vì thế, Thoán Truyện mới nói: Cương thượng nhi nhu hạ. Lôi phong tương dự. Tốn nhi động. Cương nhu giai ứng. Hằng.
Phàm chuyện đời bao giờ cũng cần phải có sự lâu dài bền bĩ, nhưng lâu dài bền bĩ cho hợp đạo, hợp nghĩa, thì mới nên công trình, mới đem lại sự hanh thông. Làm sai đạo lý, đi ngược định luật trời đất, thời dẫu bền gan đến mấy cũng công toi. Vì thế Thoán Truyện mới viết thêm: Hằng hanh vô cữu. Lợi trinh. Cửu ư kỳ đạo dã.
Đạo trời đất thời vừa hằng cửu, vừa biến hóa không cùng. Có hằng mới có biến; có biến hóa, vãng lai tuần hoàn, nên hễ có chung thời lại có thủy, và cứ vậy cho nên mới vô cùng tận. Vì thế Thoán Truyện bàn tiếp: Thiên địa chi đạo. Hằng cửu nhi bất dĩ dã. Lợi hữu du vãng. Chung tắc hữu thuỷ dã.
Mặt trời, mặt trăng nhờ định luật của trời đất, vãng lai, doanh súc, có tuần tiết nên mới sáng soi mãi mãi. Bốn mùa nhờ có biến hóa nên mới tác thành cho muôn vật mãi mãi. Thánh nhân nhờ biết kiên trì, chung thân giảng dạy đạo trời, nên mới hóa thành được thiên hạ. Muốn hiểu ý tình của trời đất vạn vật, chúng ta cần phải có cái nhìn toàn bích, và bao quát. Vì thế Thoán Truyện mới viết thêm: Nhật nguyệt đắc thiên. Nhi năng cửu chiếu. Tứ thời biến hoá. Nhi năng cửu thành. Thánh nhân cửu ư kỳ đạo. Nhi thiên hạ hoá thành. Quan kỳ sở hằng. Nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hĩ.
Tóm lại, quẻ Hằng bao quát, chẳng những lẽ hằng lại còn cả lẽ Biến trong trời đất. Biết hằng mà không biết biến hóa, là chấp nhất bất thông. Biết biến mà không biết hằng là luân hồi vô định. Có biết hằng để mà biến, biến để mà hằng, thì mới tóm thâu được lẽ trời đất.
II. Đại Tượng Truyện
象 曰:雷 風 . 恆 . 君 子 以 立 不 易 方 .
Tượng viết.
Lôi phong. Hằng. Quân tử dĩ lập bất dịch phương.
Dịch. Tượng rằng:
Sấm gió là tượng quẻ Hằng,
Tìm nơi hằng cửu, an thân mới là.
Tượng Truyện, vì nhìn thấy lẽ hằng cửu trong trời đất, nên mới khuyên người quân tử băng qua mọi biến thiên để tìm về trung tâm điểm bất dịch. Tìm được tâm điểm bất dịch, tức là tìm được Thái Cực theo từ ngữ Nho giáo; tìm được Chân Tâm theo từ ngữ Phật giáo; tìm được Đạo theo từ ngữ Lão giáo; tìm được Bản Thể Tuyệt Đối theo từ ngữ triết học; chỉ ư chí thiện theo từ ngữ Đại Học.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Các Hào bàn về cả hai phương diện biến, hằng. Đại khái rằng người quân tử, tuy suốt đời, phải noi theo lý tưởng, noi theo đạo lý, nhưng không phải vì thế mà trở nên người cố chấp, thiển cận; ngược lại, người quân tử phải tỏ ra hết sức quyền biến, thích nghi, để lúc nào cũng hợp thời hợp cảnh, mà vẫn không phản bội lý tưởng, đường lối và chí hướng của mình. Quẻ Hằng không dựa vào sự tương ứng của sáu hào để suy nghĩa, mà lại dựa vào hai quẻ trên, dưới, để nhận định:
Hào Sơ ở cuối quẻ dưới, Hào Tứ ở cuối quẻ trên, nên đầu chưa đạt được lẽ Hằng chân chính, hãy còn lệ thuộc vào thường lệ (tức là lệ thuộc vào định luật của xã hội, của Đạo giáo), mà chưa biết biến lệ (tức là khi gặp hoàn cảnh nguy cấp, cần cấp, thì phải biết biến). Ví dụ: người theo đạo Jehovah's Witness, không được truyền máu tươi vào người, vì thế nên rủi bị thương tích cần được tiếp máu, thì đành chịu chết, chứ không được cho truyền máu ở ngoài vào. Đáng lẽ phải biết quyền biến, phải vì hoàn cảnh nguy đó mà thay đổi lề luật của đạo, mà cho truyền máu để cứu mạng thì đúng hơn, do đó ta nói: Sơ thì dở, mà Tứ thì cũng chẳng hay.
Hào Tam đầu quẻ dưới, Hào Thượng đầu quẻ trên, thời lại quá mức; chỉ thích nhẽ biến mà không biết nhẽ thường (ví dụ: có những người chỉ thích sống phóng túng theo văn minnh vật chất, mà không chịu gò mình vào lễ giáo), vì vậy mà Tam thời hay thay đổi (bất Hằng), Lục thì lao xao, lác xác (chấn Hằng = thay đổi).
Duy có Hào Nhị, Hào Ngũ là biết xử cho phải, xử theo đúng lẽ Hằng chân chính; Hào Nhị thời biết Năng cửu trung, gặp nghịch cảnh vẫn theo đúng đạo lý. Hào Ngũ thì biết lẽ hằng cửu, lại biết quyền biến, cho nên dầu gặp hoàn cảnh không thuận tiện, cũng biết xử sự cho phải.
Học 6 Hào quẻ Hằng mà nhớ được 2 chữ: Có khi biến có khi thường, hoặc chấp kinh cũng phải tòng quyền, là hiểu được thêm ý Dịch Kinh phơi bày trong quẻ này.
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 浚 恆 . 貞 凶 . 無 攸 利 .
象 曰 . 浚 恆 之 凶 . 始 求 深 也 .
Sơ lục. Tuấn hằng. Trinh hung. Vô du lợi.
Tượng viết.
Tuấn hằng chi hung. Thuỷ cầu thâm dã.
Dịch.
Thoạt đầu mà tưởng sâu xa,
Cứ theo cách ấy, ắt là hung tai.
Tượng rằng: Bước đầu đại khái sơ sài,
Mà mong sâu sắc, rạch ròi làm sao?
Hào Sơ cho rằng vừa chân ướt chân ráo, bước vào 1 phạm vi nào, 1 vấn đề gì, mà đã đòi hiểu xa, biết rộng, đó là 1 chuyện phi lý, rất có hại, chẳng thể nên công. Vì thế Hào từ mới nói: Tuấn hằng. Trinh hung. Vô du lợi.
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 悔 亡 .
象 曰 . 九 二 悔 亡 . 能 久 中 也 .
Cửu nhị. Hối vong.
Tượng viết.
Cửu nhị hối vong. Năng cửu trung dã.
Dịch
Tuy không thuận cảnh, thuận ngôi,
Ăn năn hối lỗi âu thời cũng xong.
Tượng rằng: Chẳng phải ăn năn,
Vì rằng xử sự luôn nhằm đạo trung.
Hào Hai là Dương Hào cư Âm vị, thế là nhờ sống trong nghịch cảnh, nhờ theo đúng lẽ phải, theo đúng định luật của trời đất, nên hóa giải được mọi sự dở dang, chếch mác. Hào từ chỉ nói hai chữ hối vong, nhưng ta phải đem Hào tài Hào vị mà giải thích thêm, tuy Dương Hào cư Âm vị là bất chính, nhưng nhờ đắc trung, nên mới hối vong. Tượng Truyện giải rằng: Sở dĩ thoát được mọi điều phàn nàn chính là vì đã biết bền vững theo Trung đạo, theo đạo lý, tức Năng cửu trung.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 不 恆 其 德 . 或 承 之 羞 . 貞 吝 .
象 曰 . 不 恆 其 德 . 無 所 容 也 .
Cửu tam. Bất hằng kỳ đức. Hoặc thừa chi tu. Trinh lận.
Tượng viết.
Bất hằng kỳ đức. Vô sở dung dã.
Dịch.
Người mà tính nết hay thay,
Rồi ra tủi hổ có ngày phải mang.
Dở rồi, còn cứ làm gan,
Ở trong dở mãi, phàn nàn rồi đây.
Tượng rằng: Tính nết hay thay,
Ai mà chịu nổi ngữ này được đâu?
Hào Ba là Hào thượng của quẻ Tốn, mà Tốn có nết là không quả quyết, không có định kiến. Vì thế mà Hào ba tượng trưng cho những người không quả quyết, hay thay đổi, nay thế này, mai thế khác. Những người nhẹ dạ như vậy chỉ mua chuốc lấy xấu hổ cho mình. Đó là những người Bất hằng kỳ đức hay thừa chi tu. Những người thế ấy sẽ không có chỗ dung thân; Tượng viết: Bất hằng kỳ đức vô sở dung dã. Thực vậy, đã mau thay, chóng chán, thì làm sao giỏi về nghề nghiệp, làm sao mà chung thủy được với ai.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 田 無 禽 .
象 曰 . 久 非 其 位 . 安 得 禽 也 .
Cửu tứ. Điền vô cầm.
Tượng viết.
Cửu phi kỳ vị. An đắc cầm dã.
Dịch.
Đi săn mà chẳng gặp chim,
Tượng rằng: Chẳng đúng vị ngôi,
Thì sao mà bắt được mồi, được chim.
Hào Cửu tứ là Dương cư Âm vị, vừa bất trung, lại vừa bất chính, nghĩa là vừa sống trong nghịch cảnh, lại vừa không khéo xử, thì làm sao mà làm nên công trạng gì được; cũng như người đi săn, nhè ngay nơi không có mồi, có chim mà săn, thì dẫu vất vả tối ngày cũng không có gì trong bị. Cửu Tứ viết: Điền vô cầm. Tượng viết: Cửu phi kỳ vị. An đắc cầm dã.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 恆 其 德 . 貞 . 婦 人 吉 . 夫 子 凶 .
象 曰 . 婦 人 貞 吉 . 從 一 而 終 也 . 夫 子 制 義 . 從 婦 凶 也 .
Lục ngũ. Hằng kỳ đức. Trinh. Phụ nhân cát. Phu tử hung.
Tượng viết.
Phụ nhân trinh cát. Tòng nhất nhi chung dã. Phu tử chế nghĩa.
Tòng phụ hung dã.
Dịch.
Luôn luôn ăn ở thuận tòng,
Đàn bà thì tốt, đàn ông thì tồi.
Tượng rằng: Đàn bà thuận tòng thời hay,
Một đời chuyên nhất, xưa nay đã đành.
Đàn ông quyền biến cho tinh.
Cứ như phụ nữ, tốt lành chi đâu.
Hào Năm chủ trương rằng: Chấp nhất hoặc chấp trung vô quyền biến là dở, chứ chẳng phải là hay. Ví như đàn bà có thể chấp nhất, theo đúng truyền thống được, chứ đàn ông thời phải biết tùy cơ ứng biến mới hay, mới phải. Vì thế Hào Lục ngũ nói: Hằng kỳ đức. Trinh. Phụ nhân cát. Phu tử hung. Mạnh Tử chê những người cố chấp; Bá Di là người tiết tháo, trung trực ngay thẳng, đến nỗi không chịu đứng chung 1 triều đình với kẻ ác, chuyện vãn với kẻ ác. Nói chuyện với hương lân mà thấy họ đội nón chẳng ngay, liền vội vã bỏ đi ngay. Người như thế, Mạnh Tử cho là cố chấp hẹp hòi. (Mạnh Tử, Công Tôn Sửu, thượng - 9.)
6. Hào Thượng lục.
上 六 . 振 恆 . 凶 .
象 曰 . 振 恆 在 上 . 大 無 功 也 .
Thượng lục. Chấn Hằng. Hung.
Tượng viết.
Chấn hằng tại thượng. Đại vô công dã.
Dịch.
Luôn luôn xớn xác, lau chau,
Thế thời có tốt chi đâu mà hòng.
Tượng rằng: Người trên xớn xác, lau chau,
Luôn luôn như vậy, có đâu công thành.
Hào Thượng Lục cho rằng những người hấp tấp, bồng bột, những người lao xao, lắc xắc, không làm nên công chuyện gì, vì một khi đã không bình tĩnh, không tự chủ, thì không làm được việc lớn, đó là trường hợp Vương An Thạch muốn thay đổi hết thể chế, luật lệ đời nhà Tống.
ÁP DỤNG QUẺ HẰNG VÀO THỜI ĐẠI
Trước hết Tự Quái bàn về đạo vợ chồng, mà đạo vợ chồng là phu xướng phụ tùy, là thông cảm lẫn nhau, là ăn đời ở kiếp với nhau. Còn Thoán, Tượng và Hào dạy ta đi từ Biến Thiên (Vạn Hữu) đến Bất Biến, Hằng Cửu.
Biến thiên là luôn thay đổi, bất kỳ về phương diện gì, đạo Phật gọi Biến Thiên là Vô Thường, là Luân Hồi. Bất biến hay hằng Cửu là ổn định, là không thay đổi. Đạo Phật gọi Hằng Cửu là Niết Bàn. Đạo Lão gọi Hằng Cửu là Đạo. Đạo Nho gọi Hằng Cửu là Thái Cực (Trời).
*Về phương diện vật chất, nhờ dinh dưỡng nên cơ thể chúng ta thay đổi hằng ngày, nhưng tới 1 tuổi nào đó nó sẽ thay đổi ít thôi, nhưng nó không đưa ta tới Hằng Cửu.
*Về phương diện tinh thần, nếu đi về phía đạo đức thì gọi là Đại nhân, nếu đi về phía vật dục thì gọi là Tiểu nhân, nếu đi về phía tinh hoa cao đại, thì gọi là Thánh nhân. Đó là đường đi về nơi Chí thiện, nơi Hằng Cửu.
Khi ta còn ít tuổi ta nên theo một đạo giáo, để cho ta có một ý niệm căn bản về đạo đức, để cho ta biết thế nào là làm lành tránh dữ, nhưng đến khi đã lớn tuổi, đã đủ sức phân biệt điều phải, quấy, thì ta phải biết mở rộng tầm nhìn, lối nghĩ, phải tìm hiểu về các đạo khác, tìm hiểu những cái hay, cái dở của họ hay của mình, để óc ta không bị những điều cố chấp, hẹp hòi của đạo giáo, nó đè nén ta trong 1 cái lồng của tư tưởng chật hẹp.
Nếu ta theo một đạo giáo nào, thì dù ngoan đạo tột bực chăng nữa, ta cũng không thể đi tới chỗ Chí thiện được, vì ta phải tuân theo những giáo điều của họ, nên sự suy tư của ta bị gò bó vào một chỗ, do đó tinh thần ta không thể phát triển tới chỗ cao đại được. Nếu muốn tới chỗ tinh hoa mà các Nho gia xưa kia nói là: Chỉ ư chí thiện, thì ta phải tự cởi bỏ những xiềng xích mà đạo giáo đã trói buộc ta, rồi phải dày công suy tư đọc sách thánh hiền, nhờ cao nhân chỉ điểm, thì ta mới thu hoạch được kết quả, còn mong nhờ những phương pháp bàng môn, tả đạo để thu hoạch kết quả, thì quả thực là công việc mò trăng đáy biển, vô ích vậy.
Khi đọc được một cuốn sách hay, hay gặp được cao nhân giỏi chỉ điểm cho ta, thì ta hãy lắng tâm để ghi nhận những điều hay ý đẹp đó, nhưng ta đừng trụ vào nó, mà phải luôn luôn thu nhận những cái mới mẻ khác. Vì những điều mà ngày hôm nay ta tưởng là hay nhất, thì biết đâu ngày mai sẽ có những điều mới mẻ hơn đến với ta, nhất là sự tiến hóa về mọi phương diện của nhân loại đang trên đà phát triển. Do đó Đức Phật khi xưa đã nói trong kinh Kim Cương: Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm, để nhắc nhở ta vậy.
*Về phương diện nghề nghiệp, nếu ta cố gắng học hỏi, dày công suy tư, nghiên cứu, để giúp ích cho nhân loại, thì ta cũng có thể đưa nó, hay nó đưa tên tuổi ta tới ngàn đời sau, tức Hằng Cửu vậy.
Ngày nay chúng ta sống trong tiện nghi: đèn điện, bếp ga, điện thoại, tủ lạnh, quạt máy, v.v... máy bay đưa ta vượt trùng dương, ô tô giúp ta vận chuyển hàng ngày, còn biết bao lợi ích mang tới cho nhân loại, mà trang giấy nhỏ này không sao kể xiết được. Tóm lại, những sự phát minh đó đã mang lợi ích nhiều cho nhân loại, và đã mang tên tuổi của các nhà bác học đó tới Hằng Cửu vậy.
Các nhà ái quốc, các vị quan thanh liêm, các vị trung thần, những người đã dùng nghề nghiệp của mình để bảo vệ dân, mưu lợi ích cho dân, khi chết đi được dân thờ phượng, thì các vị đó đã lên được tới Hằng Cửu vậy.
Tóm lại, Hằng Cửu hay Niết Bàn muốn đạt được không phải quá khó khăn, vì nó không phải là nơi chốn, mà nó chỉ là một trạng thái thuộc về tâm linh, miễn sao ta luôn cố gắng tiến tới về mọi phương diện, để có thể tự hào là ngẩng mặt lên không thẹn với Trời, cúi mặt xuống không hổ với Đất, thì Niết Bàn sẽ mở để chờ ta.
LÔI PHONG HẰNG
Hằng Tự Quái
恆 序 卦
Phu phụ chi đạo.
夫 婦 之 道
Bất khả dĩ bất cửu dã
不 可 以 不 久 也
Cố thụ chi dĩ Hằng.
故 受 之 以 恆
Hằng giả cửu dã.
恆 者 久 也
Hằng Tự Quái
Vơ chồng là chuyện trường kỳ,
Quẻ Hằng mới lấy mà ghi lẽ hằng.
I. Thoán.
Thoán Từ:
恆:亨,無 咎,利 貞,利 有 攸 往 .
Hằng. Hanh. Vô cữu. Lợi trinh. Lợi hữu du vãng.
Dịch.
Hằng là hằng cửu, cửu trường,
Biết hằng, biết biến, thời thường hanh thông.
Hanh thông, mới khỏi lỗi lầm,
Hằng nơi chính đạo, mới mong lời nhiều.
Hằng có nhiều nghĩa:
1. Hằng là lâu dài, hằng cửu.
2. Hằng là bất dịch, bất biến.
3. Hằng là bất dĩ, không ngừng nghỉ.
Tự Quái cho rằng: Hằng tượng trưng cho đạo vợ chồng, vì đạo vợ chồng là chuyện lâu dài, bền bĩ, ăn đời ở kiếp cùng nhau, chứ không phải chuyện ăn xổi ở thì.
Khi còn là nhân tình, như nơi quẻ Hàm, thì nam phải nhường cho nữ, nhưng khi đã thành vợ thành chồng, như trong quẻ Hằng, thì chồng phải được trọng hơn vợ; gia đình có tôn ti như vậy, mới đi đến hằng cửu được.
Có trường cửu, mới có hanh thông; trường cửu mà hanh thông mới không đáng trách; trường cửu, bền vững theo chính lý, chính nghĩa mới hay, mới lợi. Nhưng hằng cửu không phải là cố chấp, bất biến, đã biến hằng, phải biết biến nữa mới vẹn hảo. Vì thế Thoán Từ mới nói: Hằng. Hanh. Vô cữu. Lợi trinh. Lợi hữu du vãng.
Thoán Truyện.
彖 曰:恆,久 也 . 剛 上 而 柔 下,雷 風 相 與,巽 而 動,剛 柔 皆 應,恆 . 恆 亨 無 咎,利 貞 . 久 於 其 道 也,天 地 之 道,恆 久 而 不 已 也 . 利 有 攸 往,終 則 有 始 也 . 日 月 得 天,而 能 久 照,四 時 變 化,而 能 久 成,聖 人 久 於 其 道,而 天 下 化 成 . 觀 其 所 恆,而 天 地 萬 物 之 情 可 見 矣 .
Thoán viết. Hằng. Cửu dã. Cương thượng nhi nhu hạ. Lôi phong tương dự. Tốn nhi động. Cương nhu giai ứng. Hằng. Hằng hanh vô cữu. Lợi trinh. Cửu ư kỳ đạo dã. Thiên địa chi đạo. Hằng cửu nhi bất dĩ dã. Lợi hữu du vãng. Chung tắc hữu thuỷ dã. Nhật nguyệt đắc thiên. Nhi năng cửu chiếu. Tứ thời biến hoá. Nhi năng cửu thành. Thánh nhân cửu ư kỳ đạo. Nhi thiên hạ hoá thành. Quan kỳ sở hằng. Nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hĩ.
Dịch.
Hằng là hằng cửu, cửu trường,
Cứng trên, mềm dưới, lẽ thường tôn ti.
Sấm cùng với gió tương kỳ,
Động mà uyển chuyển, nên chi cửu trường.
Lại còn tương ứng nhu cương,
Không loi, không lẻ, có đường dài lâu.
Hằng mà hay, lợi trước sau,
Là cùng đạo nghĩa, gót đầu chẳng sai.
Sáng soi Nhật Nguyệt lâu dài,
Là vì luôn cứ đường trời ruổi rong.
Tứ thời biến hóa vô cùng,
Cho nên mới được thung dung cửu trường.
Thánh nhân đạo nghĩa thời thường,
Khiến cho thiên hạ có phương hóa thành.
Có Hằng, mới rõ sự tình,
Đất trời, vạn vật, phân minh tỏ tường.
Thoán Truyện định nghĩa Hằng là hằng cửu. Thoán viết: Hằng. Cửu dã. Sở dĩ gọi quẻ này là Hằng vì 4 lý do:
1. Vì quẻ hằng có cương ở trên là Lôi; nhu ở dưới là Phong. Thế là Dương tôn Âm ti, theo đúng lẽ thường.
2. Vì quẻ Hằng có sấm (= Chấn), có gió (= Tốn). Mà sấm, gió thường đi đôi với nhau, tăng cường lẫn nhau.
3. Vì Hằng trên là Chấn, là động; dưới là Tốn, là tốn thuận; Dương thì hoạt động mạnh mẽ, Âm thì nhu hòa, tốn thuận theo Dương, đó là lẽ thường của trời đất.
4. Vì Hằng có Chấn là cương, Tốn là nhu, hai đằng ứng hợp nhau. Đó là lẽ Âm Dương giao cảm, hiệp hòa trong trời đất. Trời đất có tôn ti trật tự, nhờ có sự xướng tùy, hòa hợp, tương ứng, tương dự, mới thực hiện được sự trường cửu. Vì thế, Thoán Truyện mới nói: Cương thượng nhi nhu hạ. Lôi phong tương dự. Tốn nhi động. Cương nhu giai ứng. Hằng.
Phàm chuyện đời bao giờ cũng cần phải có sự lâu dài bền bĩ, nhưng lâu dài bền bĩ cho hợp đạo, hợp nghĩa, thì mới nên công trình, mới đem lại sự hanh thông. Làm sai đạo lý, đi ngược định luật trời đất, thời dẫu bền gan đến mấy cũng công toi. Vì thế Thoán Truyện mới viết thêm: Hằng hanh vô cữu. Lợi trinh. Cửu ư kỳ đạo dã.
Đạo trời đất thời vừa hằng cửu, vừa biến hóa không cùng. Có hằng mới có biến; có biến hóa, vãng lai tuần hoàn, nên hễ có chung thời lại có thủy, và cứ vậy cho nên mới vô cùng tận. Vì thế Thoán Truyện bàn tiếp: Thiên địa chi đạo. Hằng cửu nhi bất dĩ dã. Lợi hữu du vãng. Chung tắc hữu thuỷ dã.
Mặt trời, mặt trăng nhờ định luật của trời đất, vãng lai, doanh súc, có tuần tiết nên mới sáng soi mãi mãi. Bốn mùa nhờ có biến hóa nên mới tác thành cho muôn vật mãi mãi. Thánh nhân nhờ biết kiên trì, chung thân giảng dạy đạo trời, nên mới hóa thành được thiên hạ. Muốn hiểu ý tình của trời đất vạn vật, chúng ta cần phải có cái nhìn toàn bích, và bao quát. Vì thế Thoán Truyện mới viết thêm: Nhật nguyệt đắc thiên. Nhi năng cửu chiếu. Tứ thời biến hoá. Nhi năng cửu thành. Thánh nhân cửu ư kỳ đạo. Nhi thiên hạ hoá thành. Quan kỳ sở hằng. Nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hĩ.
Tóm lại, quẻ Hằng bao quát, chẳng những lẽ hằng lại còn cả lẽ Biến trong trời đất. Biết hằng mà không biết biến hóa, là chấp nhất bất thông. Biết biến mà không biết hằng là luân hồi vô định. Có biết hằng để mà biến, biến để mà hằng, thì mới tóm thâu được lẽ trời đất.
II. Đại Tượng Truyện
象 曰:雷 風 . 恆 . 君 子 以 立 不 易 方 .
Tượng viết.
Lôi phong. Hằng. Quân tử dĩ lập bất dịch phương.
Dịch. Tượng rằng:
Sấm gió là tượng quẻ Hằng,
Tìm nơi hằng cửu, an thân mới là.
Tượng Truyện, vì nhìn thấy lẽ hằng cửu trong trời đất, nên mới khuyên người quân tử băng qua mọi biến thiên để tìm về trung tâm điểm bất dịch. Tìm được tâm điểm bất dịch, tức là tìm được Thái Cực theo từ ngữ Nho giáo; tìm được Chân Tâm theo từ ngữ Phật giáo; tìm được Đạo theo từ ngữ Lão giáo; tìm được Bản Thể Tuyệt Đối theo từ ngữ triết học; chỉ ư chí thiện theo từ ngữ Đại Học.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Các Hào bàn về cả hai phương diện biến, hằng. Đại khái rằng người quân tử, tuy suốt đời, phải noi theo lý tưởng, noi theo đạo lý, nhưng không phải vì thế mà trở nên người cố chấp, thiển cận; ngược lại, người quân tử phải tỏ ra hết sức quyền biến, thích nghi, để lúc nào cũng hợp thời hợp cảnh, mà vẫn không phản bội lý tưởng, đường lối và chí hướng của mình. Quẻ Hằng không dựa vào sự tương ứng của sáu hào để suy nghĩa, mà lại dựa vào hai quẻ trên, dưới, để nhận định:
Hào Sơ ở cuối quẻ dưới, Hào Tứ ở cuối quẻ trên, nên đầu chưa đạt được lẽ Hằng chân chính, hãy còn lệ thuộc vào thường lệ (tức là lệ thuộc vào định luật của xã hội, của Đạo giáo), mà chưa biết biến lệ (tức là khi gặp hoàn cảnh nguy cấp, cần cấp, thì phải biết biến). Ví dụ: người theo đạo Jehovah's Witness, không được truyền máu tươi vào người, vì thế nên rủi bị thương tích cần được tiếp máu, thì đành chịu chết, chứ không được cho truyền máu ở ngoài vào. Đáng lẽ phải biết quyền biến, phải vì hoàn cảnh nguy đó mà thay đổi lề luật của đạo, mà cho truyền máu để cứu mạng thì đúng hơn, do đó ta nói: Sơ thì dở, mà Tứ thì cũng chẳng hay.
Hào Tam đầu quẻ dưới, Hào Thượng đầu quẻ trên, thời lại quá mức; chỉ thích nhẽ biến mà không biết nhẽ thường (ví dụ: có những người chỉ thích sống phóng túng theo văn minnh vật chất, mà không chịu gò mình vào lễ giáo), vì vậy mà Tam thời hay thay đổi (bất Hằng), Lục thì lao xao, lác xác (chấn Hằng = thay đổi).
Duy có Hào Nhị, Hào Ngũ là biết xử cho phải, xử theo đúng lẽ Hằng chân chính; Hào Nhị thời biết Năng cửu trung, gặp nghịch cảnh vẫn theo đúng đạo lý. Hào Ngũ thì biết lẽ hằng cửu, lại biết quyền biến, cho nên dầu gặp hoàn cảnh không thuận tiện, cũng biết xử sự cho phải.
Học 6 Hào quẻ Hằng mà nhớ được 2 chữ: Có khi biến có khi thường, hoặc chấp kinh cũng phải tòng quyền, là hiểu được thêm ý Dịch Kinh phơi bày trong quẻ này.
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 浚 恆 . 貞 凶 . 無 攸 利 .
象 曰 . 浚 恆 之 凶 . 始 求 深 也 .
Sơ lục. Tuấn hằng. Trinh hung. Vô du lợi.
Tượng viết.
Tuấn hằng chi hung. Thuỷ cầu thâm dã.
Dịch.
Thoạt đầu mà tưởng sâu xa,
Cứ theo cách ấy, ắt là hung tai.
Tượng rằng: Bước đầu đại khái sơ sài,
Mà mong sâu sắc, rạch ròi làm sao?
Hào Sơ cho rằng vừa chân ướt chân ráo, bước vào 1 phạm vi nào, 1 vấn đề gì, mà đã đòi hiểu xa, biết rộng, đó là 1 chuyện phi lý, rất có hại, chẳng thể nên công. Vì thế Hào từ mới nói: Tuấn hằng. Trinh hung. Vô du lợi.
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 悔 亡 .
象 曰 . 九 二 悔 亡 . 能 久 中 也 .
Cửu nhị. Hối vong.
Tượng viết.
Cửu nhị hối vong. Năng cửu trung dã.
Dịch
Tuy không thuận cảnh, thuận ngôi,
Ăn năn hối lỗi âu thời cũng xong.
Tượng rằng: Chẳng phải ăn năn,
Vì rằng xử sự luôn nhằm đạo trung.
Hào Hai là Dương Hào cư Âm vị, thế là nhờ sống trong nghịch cảnh, nhờ theo đúng lẽ phải, theo đúng định luật của trời đất, nên hóa giải được mọi sự dở dang, chếch mác. Hào từ chỉ nói hai chữ hối vong, nhưng ta phải đem Hào tài Hào vị mà giải thích thêm, tuy Dương Hào cư Âm vị là bất chính, nhưng nhờ đắc trung, nên mới hối vong. Tượng Truyện giải rằng: Sở dĩ thoát được mọi điều phàn nàn chính là vì đã biết bền vững theo Trung đạo, theo đạo lý, tức Năng cửu trung.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 不 恆 其 德 . 或 承 之 羞 . 貞 吝 .
象 曰 . 不 恆 其 德 . 無 所 容 也 .
Cửu tam. Bất hằng kỳ đức. Hoặc thừa chi tu. Trinh lận.
Tượng viết.
Bất hằng kỳ đức. Vô sở dung dã.
Dịch.
Người mà tính nết hay thay,
Rồi ra tủi hổ có ngày phải mang.
Dở rồi, còn cứ làm gan,
Ở trong dở mãi, phàn nàn rồi đây.
Tượng rằng: Tính nết hay thay,
Ai mà chịu nổi ngữ này được đâu?
Hào Ba là Hào thượng của quẻ Tốn, mà Tốn có nết là không quả quyết, không có định kiến. Vì thế mà Hào ba tượng trưng cho những người không quả quyết, hay thay đổi, nay thế này, mai thế khác. Những người nhẹ dạ như vậy chỉ mua chuốc lấy xấu hổ cho mình. Đó là những người Bất hằng kỳ đức hay thừa chi tu. Những người thế ấy sẽ không có chỗ dung thân; Tượng viết: Bất hằng kỳ đức vô sở dung dã. Thực vậy, đã mau thay, chóng chán, thì làm sao giỏi về nghề nghiệp, làm sao mà chung thủy được với ai.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 田 無 禽 .
象 曰 . 久 非 其 位 . 安 得 禽 也 .
Cửu tứ. Điền vô cầm.
Tượng viết.
Cửu phi kỳ vị. An đắc cầm dã.
Dịch.
Đi săn mà chẳng gặp chim,
Tượng rằng: Chẳng đúng vị ngôi,
Thì sao mà bắt được mồi, được chim.
Hào Cửu tứ là Dương cư Âm vị, vừa bất trung, lại vừa bất chính, nghĩa là vừa sống trong nghịch cảnh, lại vừa không khéo xử, thì làm sao mà làm nên công trạng gì được; cũng như người đi săn, nhè ngay nơi không có mồi, có chim mà săn, thì dẫu vất vả tối ngày cũng không có gì trong bị. Cửu Tứ viết: Điền vô cầm. Tượng viết: Cửu phi kỳ vị. An đắc cầm dã.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 恆 其 德 . 貞 . 婦 人 吉 . 夫 子 凶 .
象 曰 . 婦 人 貞 吉 . 從 一 而 終 也 . 夫 子 制 義 . 從 婦 凶 也 .
Lục ngũ. Hằng kỳ đức. Trinh. Phụ nhân cát. Phu tử hung.
Tượng viết.
Phụ nhân trinh cát. Tòng nhất nhi chung dã. Phu tử chế nghĩa.
Tòng phụ hung dã.
Dịch.
Luôn luôn ăn ở thuận tòng,
Đàn bà thì tốt, đàn ông thì tồi.
Tượng rằng: Đàn bà thuận tòng thời hay,
Một đời chuyên nhất, xưa nay đã đành.
Đàn ông quyền biến cho tinh.
Cứ như phụ nữ, tốt lành chi đâu.
Hào Năm chủ trương rằng: Chấp nhất hoặc chấp trung vô quyền biến là dở, chứ chẳng phải là hay. Ví như đàn bà có thể chấp nhất, theo đúng truyền thống được, chứ đàn ông thời phải biết tùy cơ ứng biến mới hay, mới phải. Vì thế Hào Lục ngũ nói: Hằng kỳ đức. Trinh. Phụ nhân cát. Phu tử hung. Mạnh Tử chê những người cố chấp; Bá Di là người tiết tháo, trung trực ngay thẳng, đến nỗi không chịu đứng chung 1 triều đình với kẻ ác, chuyện vãn với kẻ ác. Nói chuyện với hương lân mà thấy họ đội nón chẳng ngay, liền vội vã bỏ đi ngay. Người như thế, Mạnh Tử cho là cố chấp hẹp hòi. (Mạnh Tử, Công Tôn Sửu, thượng - 9.)
6. Hào Thượng lục.
上 六 . 振 恆 . 凶 .
象 曰 . 振 恆 在 上 . 大 無 功 也 .
Thượng lục. Chấn Hằng. Hung.
Tượng viết.
Chấn hằng tại thượng. Đại vô công dã.
Dịch.
Luôn luôn xớn xác, lau chau,
Thế thời có tốt chi đâu mà hòng.
Tượng rằng: Người trên xớn xác, lau chau,
Luôn luôn như vậy, có đâu công thành.
Hào Thượng Lục cho rằng những người hấp tấp, bồng bột, những người lao xao, lắc xắc, không làm nên công chuyện gì, vì một khi đã không bình tĩnh, không tự chủ, thì không làm được việc lớn, đó là trường hợp Vương An Thạch muốn thay đổi hết thể chế, luật lệ đời nhà Tống.
ÁP DỤNG QUẺ HẰNG VÀO THỜI ĐẠI
Trước hết Tự Quái bàn về đạo vợ chồng, mà đạo vợ chồng là phu xướng phụ tùy, là thông cảm lẫn nhau, là ăn đời ở kiếp với nhau. Còn Thoán, Tượng và Hào dạy ta đi từ Biến Thiên (Vạn Hữu) đến Bất Biến, Hằng Cửu.
Biến thiên là luôn thay đổi, bất kỳ về phương diện gì, đạo Phật gọi Biến Thiên là Vô Thường, là Luân Hồi. Bất biến hay hằng Cửu là ổn định, là không thay đổi. Đạo Phật gọi Hằng Cửu là Niết Bàn. Đạo Lão gọi Hằng Cửu là Đạo. Đạo Nho gọi Hằng Cửu là Thái Cực (Trời).
*Về phương diện vật chất, nhờ dinh dưỡng nên cơ thể chúng ta thay đổi hằng ngày, nhưng tới 1 tuổi nào đó nó sẽ thay đổi ít thôi, nhưng nó không đưa ta tới Hằng Cửu.
*Về phương diện tinh thần, nếu đi về phía đạo đức thì gọi là Đại nhân, nếu đi về phía vật dục thì gọi là Tiểu nhân, nếu đi về phía tinh hoa cao đại, thì gọi là Thánh nhân. Đó là đường đi về nơi Chí thiện, nơi Hằng Cửu.
Khi ta còn ít tuổi ta nên theo một đạo giáo, để cho ta có một ý niệm căn bản về đạo đức, để cho ta biết thế nào là làm lành tránh dữ, nhưng đến khi đã lớn tuổi, đã đủ sức phân biệt điều phải, quấy, thì ta phải biết mở rộng tầm nhìn, lối nghĩ, phải tìm hiểu về các đạo khác, tìm hiểu những cái hay, cái dở của họ hay của mình, để óc ta không bị những điều cố chấp, hẹp hòi của đạo giáo, nó đè nén ta trong 1 cái lồng của tư tưởng chật hẹp.
Nếu ta theo một đạo giáo nào, thì dù ngoan đạo tột bực chăng nữa, ta cũng không thể đi tới chỗ Chí thiện được, vì ta phải tuân theo những giáo điều của họ, nên sự suy tư của ta bị gò bó vào một chỗ, do đó tinh thần ta không thể phát triển tới chỗ cao đại được. Nếu muốn tới chỗ tinh hoa mà các Nho gia xưa kia nói là: Chỉ ư chí thiện, thì ta phải tự cởi bỏ những xiềng xích mà đạo giáo đã trói buộc ta, rồi phải dày công suy tư đọc sách thánh hiền, nhờ cao nhân chỉ điểm, thì ta mới thu hoạch được kết quả, còn mong nhờ những phương pháp bàng môn, tả đạo để thu hoạch kết quả, thì quả thực là công việc mò trăng đáy biển, vô ích vậy.
Khi đọc được một cuốn sách hay, hay gặp được cao nhân giỏi chỉ điểm cho ta, thì ta hãy lắng tâm để ghi nhận những điều hay ý đẹp đó, nhưng ta đừng trụ vào nó, mà phải luôn luôn thu nhận những cái mới mẻ khác. Vì những điều mà ngày hôm nay ta tưởng là hay nhất, thì biết đâu ngày mai sẽ có những điều mới mẻ hơn đến với ta, nhất là sự tiến hóa về mọi phương diện của nhân loại đang trên đà phát triển. Do đó Đức Phật khi xưa đã nói trong kinh Kim Cương: Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm, để nhắc nhở ta vậy.
*Về phương diện nghề nghiệp, nếu ta cố gắng học hỏi, dày công suy tư, nghiên cứu, để giúp ích cho nhân loại, thì ta cũng có thể đưa nó, hay nó đưa tên tuổi ta tới ngàn đời sau, tức Hằng Cửu vậy.
Ngày nay chúng ta sống trong tiện nghi: đèn điện, bếp ga, điện thoại, tủ lạnh, quạt máy, v.v... máy bay đưa ta vượt trùng dương, ô tô giúp ta vận chuyển hàng ngày, còn biết bao lợi ích mang tới cho nhân loại, mà trang giấy nhỏ này không sao kể xiết được. Tóm lại, những sự phát minh đó đã mang lợi ích nhiều cho nhân loại, và đã mang tên tuổi của các nhà bác học đó tới Hằng Cửu vậy.
Các nhà ái quốc, các vị quan thanh liêm, các vị trung thần, những người đã dùng nghề nghiệp của mình để bảo vệ dân, mưu lợi ích cho dân, khi chết đi được dân thờ phượng, thì các vị đó đã lên được tới Hằng Cửu vậy.
Tóm lại, Hằng Cửu hay Niết Bàn muốn đạt được không phải quá khó khăn, vì nó không phải là nơi chốn, mà nó chỉ là một trạng thái thuộc về tâm linh, miễn sao ta luôn cố gắng tiến tới về mọi phương diện, để có thể tự hào là ngẩng mặt lên không thẹn với Trời, cúi mặt xuống không hổ với Đất, thì Niết Bàn sẽ mở để chờ ta.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
5 ĐỊA PHONG THĂNG
ĐỊA PHONG THĂNG
Thăng Tự Quái
升 序 卦
Tụy giả tụ dã.
萃 者 聚 也
Tụ nhi thượng giả vị chi thăng.
聚 而 上 者 謂 之 升
Cố thụ chi dĩ thăng.
故 受 之 以 升
Thăng Tự Quái
Tụy là tụ tập tương liên kim bằng,
Tụ mà thượng tiến là Thăng,
Cho nên Thăng mới theo chân tiếp vào.
Sau quẻ Tụy là quẻ Thăng. Sao gọi là Thăng? Tự quái cho rằng: Cái gì mà chồng chất sẽ hóa nên cao dần. Vì thế sau quẻ Tụy là quẻ Thăng. Xét theo thế quẻ, thì quẻ Thăng, trên có quẻ Khôn là Đất, dưới có quẻ Tốn là cây. Cây mọc từ đất vươn dần lên cao, vì thế nên gọi là Thăng. Toàn quẻ Thăng bàn về sự tiến bước của một hiền thần, leo dần các cấp bậc công danh, để mà tiến mãi lên ngôi cao. Thăng hàm ngụ ý nghĩa cố gắng vươn lên.
I. Thoán.
Thoán từ.
升 . 元 亨 . 用 見 大 人 . 勿 恤 . 南 征 吉 .
Thoán từ:
Thăng. Nguyên hanh. Dụng kiến đại nhân. Vật tuất. Nam chinh cát.
Dịch.
Thăng là tiến mãi, tiến lên.
Tiến trình thanh thản, chu tuyền hanh thông.
Được người tài đức giúp công,
Thời thôi khỏi phải nhọc lòng âu lo.
Tiến lên, đừng có chần chờ,
Rồi ra mọi sự êm ru, tốt lành.
Thoán từ: Thăng là thăng tiến, mà đã thăng tiến tất nhiên sẽ hanh thông (Thăng. Nguyên hanh). Muốn tiến lên cần có người trên phù trợ. Được như vậy, sẽ không còn phải lo lắng (Dụng kiến đại nhân. Vật tuất). Cố gắng tiến về phía quang minh, tiến tới một tiền trình cao đại, thời hay, thời tốt biết mấy mươi.
Nam là phía của ánh sáng, của văn minh, nên người Trung Hoa vốn trọng phía Nam. Vua chúa xưa thường quay về phía nam mà trị dân, ý muốn nói trị dân để đưa dân tới quang minh, thịnh trị (Nam chinh cát).
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰 . 柔 以 時 升 . 巽 而 順 . 剛 中 而 應 . 是 以 大 亨 . 用 見 大 人 . 勿 恤 . 有 慶 也 . 南 征 吉 . 志 行 也 .
Nhu dĩ thời thăng. Tốn nhi thuận. Cương trung nhi ứng. Thị dĩ đại hanh. Dụng kiến đại nhân. Vật tuất. Hữu khánh dã. Nam chinh cát. Chí hành dã.
Dịch.
Thoán rằng: Nhu tiến theo thời,
Khiêm cung, thuận thảo, thêm tài, thêm hay.
Dưới hay, trên lại liên tài,
Cho nên mọi sự êm xuôi, vẹn toàn.
Dùng người tài đức, mới ngoan,
Rồi ra phúc khánh, muôn vàn khỏi lo.
Tiến lên, đừng có chần chờ,
Đổi điều nguyện ước cho ra thành toàn.
Thoán Truyện: Người dưới muốn tiến lên, cần phải có thời cơ thuận tiện (Nhu dĩ thời thăng). Ví như có gặp loạn lạc, giặc giã, thì anh hùng, Hào kiệt mới có cơ tiến thân. Có gặp khoa thi, thì các anh tài, dân giả mới có cơ nhìn thấy bệ rồng. Muốn tiến lên, cần phải khiêm tốn, quyền biến (Tốn nhi thuận), phải có chân tài, chân đức, lại phải có người trên cố cập (Cương trung nhi ứng), có được như vậy thì đường công danh mới thanh thản, dễ dàng (thị dĩ đại hanh). Trên con đường tiến thân, mà được cấp trên hỗ trợ, thì khỏi còn lo khó khăn, trở ngại và sẽ được phúc khánh (Dụng kiến đại nhân. Vật tuất hữu khánh dã).
Như vậy sẽ thỏa chí tang bồng, vì đường mây đã rộng mở, công danh kia như đã đón chờ ai (Nam chinh cát. Chí hành dã). Mới hay ở đời hữu chí cánh thành, và miếng đỉnh chung trời chẳng riêng ai.
Đọc lịch sử, ta thấy biết bao hàn sĩ trở thành danh nhân, biết bao anh hùng đã xuất thân từ hang cùng, ngõ hẻm.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 地 中 生 木 . 升 . 君 子 以 順 德 . 積 小 以 高 大 .
Tượng viết:
Địa trung sinh mộc. Thăng. Quân tử dĩ thuận đức. Tích tiểu dĩ cao đại.
Dịch. Tượng rằng:
Cây từ lòng đất vươn lên,
Hiền nhân, quântử hãy nên theo đòi.
Theo đường nhân đức hôm mai,
Điều lành tuy nhỏ, tích hoài hóa to.
Chắt chiu kẽ tóc, chân tơ,
Vinh quang cao đại, đón chờ tương lai.
Cây mọc từ đất vươn mãi lên cao, chứng tỏ muôn vật đều hàm tàng khả năng tiến triển. Người quân tử cũng phải tuân theo định luật ấy của trời đất (Quân tử dĩ thuận đức), sẽ cố đi từ chỗ nhỏ, đến lớn, súc tích điều nhỏ nhặt để dần dần đi đến chỗ cao đại (Tích tiểu dĩ cao đại). Đó là một định luật nhân sinh phổ quát, mà Nho, Phật, Lão luôn luôn đề cao.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 允 升 . 大 吉 .
象 曰 . 允 升 大 吉 . 上 合 志 也 .
Sơ Lục.
Doãn thăng. Đại cát.
Tượng viết:
Doãn thăng đại cát. Thượng hợp chí dã.
Dịch.
Tiến lên mà được người tin,
Thế thời tốt đẹp, chu tuyền biết bao.
Tượng rằng: Tiến lên mà được người tin,
Thế thời tốt đẹp, chu tuyền biết bao.
Tiến mà được vậy, hay sao.
Thế là ý hiệp, tâm đầu dưới trên.
Hào Sơ Lục. Trình tử giải chữ Doãn là tin theo
Ngự Án (Vua Khang Hi) giải chữ Doãn là được người trên tin mình. Tin theo người trên mà tiến lên, chưa hẳn là đại cát.
Lưu Cẩn và Đại Dụng, muốn tâng công với vua Chánh Đức, để được vua tin dùng, bèn đi thuê một người nhà quê là Trình Bảo đem vào huê viên của vua, để giả làm thích khách. Lưu Cẩn và Đại Dụng nói đó là một màn kịch, nếu Trình Bảo đóng xong sẽ trọng thưởng. Trình Bảo tin thật. Sáng sớm giả làm thích khách, cầm gươm xông vào giết vua. Cốc Đại Dụng và Lưu Cẩn xông vào cứu giá. Trình Bảo trá bại, Lưu Cẩn dượt theo. Trình Bảo hỏi: Trốn đâu? Lưu Cẩn bảo: Xuống giếng. Trình Bảo trốn xuống giếng, bị Lưu Cẩn chém bay đầu... Như vậy tin người trên, chưa hẳn là Đại cát. Cho nên, nơi đây tôi (tác giả) giải theo Ngự Án, là trên con đường tiến thủ, mà được người trên tin yêu mình, sẽ được đại cát. Khảo lịch sử các triều đại, ta thấy có nhiều người vì được cấp trên tin dùng mà đã chóng được cất nhắc. Tượng Truyện giải: Doãn thăng là dưới trên ý hợp tâm đầu.
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 孚 乃 利 用 . 無 咎 .
象 曰 . 九 二 之 孚 . 有 喜 也 .
Cửu nhị.
Phu nãi lợi dụng thược. Vô cữu.
Tượng viết:
Cửu nhị chi phu. Hữu hĩ dã.
Dịch.
Một lòng thành khẩn, chí trung,
Dầu cho lễ bạc, cũng không quản gì.
Lòng thành, lễ bạc, lỗi chi.
Tượng rằng: Cửu nhị chí trung,
Đó là một sự đáng mừng, đáng vui.
Hào Cửu nhị: đây tượng trưng cho một vị công thần. Công thần cốt có lòng trung thành với quân vương (Phu) còn những hình thức bên ngoài có đơn sơ, cũng không lỗi gì (Lợi dụng thược. Vô cữu).
Tống Thái Tổ xưa, phàm trào chính có việc chi quan hệ, lúc đương triều chưa quyết định được, thì ban đêm bất luận khuya sớm, thường mặc đồ tiểu phục , đến dinh các vị công thần mà đàm luận. Một ngày kia, nhằm ngày mồng một tháng giêng năm Cần Đức nguyên niên, Vua đội sương tuyết đến nhà Triệu Phổ, lúc canh ba. Triệu Phổ rước vào, sai gia nhân luộc thịt, rồi đem rượu bạch cúc ra hâm, dọn ra rất đơn sơ, rồi lại xin phép cho vợ ra rót rượu. Vua nói cùng Triệu Phổ rằng: Chỗ này chẳng nên kể việc quân thần, phải đãi nhau như tình huynh đệ mà thôi (Phi Long, trang 639). Đó là Phu nãi lợi dụng thược. Vô cữu.
Tiểu Tượng bình rằng: Công thần mà trung nghĩa là điều đáng mừng vậy. Tượng viết: Cửu nhị chi phu. Hữu hỉ dã. Khâu Kiến An bình rằng: Tuy Hào Cửu nhị không nói đến chuyện Thăng , nhưng khi mà trên dưới đã tin lòng nhau, thì chẳng những là không lỗi gì, mà ắt còn có cái mừng vinh thăng nữa.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 升 虛 邑 .
象 曰 . 升 虛 邑 . 無 所 疑 也 .
Cửu tam.
Thăng hư ấp.
Tượng viết:
Thăng hư ấp. Vô sở nghi dã.
Dịch.
Tiến lên thanh thả, dễ dàng,
Y như vào ấp, vào làng bỏ không.
Hào Cửu tam: Đối với một người tài trí thông minh thao lược (Cửu tam là Dương Hào), chính đính (Dương Hào cư Dương vị), từ tốn (Cửu tam thuộc quẻ Tốn), vừa lòng cấp trên (ba Hào trên thuộc Khôn là thuận), được cấp trên nâng đỡ (ứng với Thượng Lục)., thời sự thăng tiến cũng dễ dàng như đi vào làng trống vậy (thăng hư ấp). Sở dĩ như vậy, là vì người trên không nghi kỵ mình. Tượng viết: Thăng hư ấp. Vô sở nghi dã.
4. Hào Lục tứ.
六 四 . 王 用 亨 于 岐 山 . 吉 . 無 咎 .
象 曰 . 王 用 亨 于 岐 山 . 順 事 也 .
Lục tứ.
Vương dụng hanh vu Kỳ Sơn. Cát. Vô cữu.
Tượng viết:
Vương dụng hanh vu kỳ Sơn. Thuận sự dã.
Dịch.
Khéo khuôn, khéo xử ở đời,
Văn vương hưng vượng ở nơi núi Kỳ.
Đã hay, còn khỏi tiếng chê.
Tượng rằng: Khéo khuôn, khéo xử ở đời,
Văn vương hưng vượng ở nơi núi Kỳ,
Thế là thuận sự, thuận thì.
Hào Lục tứ: Các nhà bình giải cắt nghĩa Hào này mỗi người một lối, duyên do là tại chữ hanh
- Trình tử đọc hanh là hanh, và giải là hanh thông.
- Chu Hi đọc hanh là hưởng, và giải là tế tự thần minh, phải dùng tâm thành, phải tập trung tinh thần mới cảm thông với thần minh được.
Trình tử giải Hào này đại khái như sau: Lục tứ là một trọng thần kế cận quân vương, chỉ nên giúp cho Vua, một ngày một trở nên tài đức, giúp cho hiền sĩ ở dưới được thăng tiến, còn mình đừng có mong tiến chức nữa. Bởi mong tiến nữa, sẽ bị nghi là bức tiếm quyền của quân vương. Văn Vương đã theo đường lối này khi ở Kỳ Sơn, và nhờ đường lối này mà đã làm mọi sự trở nên thông suốt, đẹp đẽ, tốt lành (Vương dụng hanh vu Kỳ Sơn. Cát. Vô cữu).
Trình tử giải Dụng hanh là Dụng thử nhi hanh. Như vậy trọng thần giúp cho vua tiến lên, cho người hiền sĩ ở dưới tiến lên về chức vị, còn mình tuy không tiến thêm về chức, nhưng tiến thêm về đạo đức. Trình tử sở dĩ giải Hào này như vậy, chắc là vì thấy trong lịch sử có nhiều trọng thần đã lăng bức quyền vua.
Đọc Tam Quốc, ta thấy Tư Mã Sư mỗi khi vào triều đều đeo gươm lên điện, và vua Ngụy là Tào Phương mỗi khi thấy Tư Mã Sư vào triều thì run bần bật như người bị kim châm sau lưng, có khi còn bước xuống khỏi ngai rồng đón tiếp. Khi các quan tâu trình mọi việc, Tư Mã Sư tự ý quyết đoán không hỏi qua ý vua một câu. Xong rồi Sư ra về, ngang nhiên bước xuống thềm điện, lên xe ra khỏi nội cung, tiền hô hậu ủng có tới vài ngàn người ngựa... (Tam Quốc Chí Tử Vi Lang dịch trang 1921).
-Wilhelm giải đại khái rằng: vua Văn Vương đã giới thiệu những công thần của vua với thần núi Kỳ Sơn, và đã cho họ được dự khói hương nơi Thái Miếu, bên cạnh vua. Như vậy là công thần thăng tiến, đến mức độ cao nhất rồi, tiếng tăm lẫy lừng trước mặt cả thần minh, lẫn người, và đã lưu danh hậu thế. Giải như Wilhelm cũng có cái hay, vì thực ra các vua chúa xưa cũng thường hay vẽ hình các công thần để lưu lại hậu thế.
-Quang Võ nhà Hán, cho vẽ hình 28 tướng tá đã giúp vua hưng nghiệp, ở cung Vân Đài.
-Càn Đức nhà Đường, cho vẽ hình các công thần treo ở Lăng Yên Các.
-Triết Tông nhà Tống, vẽ hình 39 tướng tài có công dẹp Anh Hùng Lương Sơn Bạc, và treo ở Lầu Huy An.v.v...
. Tượng viết: Vương dụng hanh vu Kỳ Sơn. Thuận sự dã. Trình tử giải rằng: Đường lối mà vua Văn Vương đã áp dụng khi ở Kỳ Sơn đó là thuận thời, thuận đức mà cư xử vậy.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 貞 吉 . 升 階 .
象 曰 . 貞 吉 升 階 . 大 得 志 也 .
Lục ngũ.
Trinh cát. Thăng giai.
Tượng viết:
Trinh cát thăng giai. Đại đắc chí dã.
Dịch.
Bền lòng, vững chí, mới hay,
Thềm đời nhẹ bước, một ngày một lên.
Tượng rằng:
Bền lòng, vững chí mới hay,
Thềm đời nhẹ bước, niềm tây phỉ nguyền.
Hào Lục ngũ: Trình tử giải rằng: Quân vương mà biết bền lòng tín dụng hiền tài, thời sẽ tốt đẹp, sẽ có cơ tiến phát mãi, như người có bậc, có thềm đá bước lên.
Tượng viết: Trinh cát thăng giai. Đại đắc chí dã. Trình tử giải rằng: Nếu biết bền lòng, vững chí ủy nhiệm hiền tài, để tuần tự tiến lên, thì có thể đi đến chỗ thiên hạ đại trị. Thế là đại đắc chí vậy.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 冥 升 . 利 于 不 息 之 貞 .
象 曰 . 冥 升 在 上 . 消 不 富 也 .
Thượng Lục.
Minh thăng. Lợi vu bất tức chi trinh.
Tượng viết:
Minh thăng tại thượng. Tiêu bất phú dã.
Dịch:
Cực cao, nhắm mắt tiến bừa,
Ám hôn, chẳng có tri cơ chút nào.
Tượng rằng:
Tiến nhân, tiến đức, chẳng sao,
Chính, minh, thượng tiến, thì nào hại chi.
Hào Thượng Lục: Đã tiến đến cùng, mà còn muốn tiến nữa, tức là tiến mù quáng (Minh thăng). Vậy nên đổi cái lòng vụ lợi, tham cầu không ngơi ấy ra lòng ưa chuộng tiến đức, tiến đạo thì mới hay (Lợi vu bất tức chi trinh).
Tiểu Tượng cho rằng: Thượng Lục sở dĩ tiến một cách mù quáng, vì không biết lẽ tiêu tức của trời đất. Tiến cực dĩ nhiên sẽ tiêu, mà đã tiêu thì làm sao mà giầu có được. Tượng viết: Minh thăng tại thượng. Tiêu bất phú dã.
ÁP DỤNG QUẺ THĂNG VÀO THỜI ĐẠI
Sống trên đời, luôn phải cố gắng vươn lên. Khi còn trẻ, phải vươn lên về phía công danh, lợi lộc. Lúc ấy, nên có người trên phù trợ. Nhưng tất cả phải chính đáng, ngay thẳng. Khi tóc đã hoa râm, thì phải dùng nửa đời sau, để tiến về tinh hoa, đạo đức. Làm sao để được như 2 câu thơ sau:
Khi sinh bạn khóc, người cười,
Sống sao khi chết bạn vui, người sầu.
-Về công danh, ta phải kiên trì. Người thông minh học 5 năm, ta kém thông minh ta học 10 năm, miễn sao ta có chí ta sẽ bằng người, và ta luôn luôn tự hào về ý chí của ta.
-Về lợi lộc, ý nói về thương mại, ta phải chịu khó, thật thà, ngay thẳng và thành tín, và luôn phải học hỏi kinh nghiệm của người đã làm cùng nghề như mình lâu năm. Chớ tự phụ , kiêu ngạo, tự cho mình là giỏi, là không cần ai chỉ dẫn, thì mới thành công được.
-Về đạo đức, điều này nếu có thể được, cha mẹ nên trau giồi cho con từ khi còn nhỏ, làm lành, nghĩ lành, và xa lánh làm xấu, nghĩ xấu, dù việc đó là điều nhỏ nhặt, như nói dối, tham lam của người.v.v...Vì quen làm điều lành, nghĩ lành, sau đọc sách Thánh hiền, thì sẽ trở thành người đạo đức.
Còn quen làm ác, và gian tham ngay từ nhỏ, mà cha mẹ lại quá nuông chiều con, lại hay viện cớ con còn nhỏ dại nên chưa cần răn dạy ngay, đợi lúc trẻ khôn lớn thì đã quá muộn, chúng không còn nghe lời người trên nữa. Do đó, chúng dễ dàng bị xa ngã, nếu lại giao du với bạn bè xấu thì hậu quả chúng là những tai hoạ cho xã hội, nếu chúng may mắn mà có công danh chăng nữa, thì chúng cũng chỉ là những viên chức tham ô, hại dân, hại nước mà thôi. Cổ nhân đã có câu:
Dạy con từ thuở còn thơ,
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
Ngày nay, vì quá bận rộn vì công ăn, việc làm, vì sinh kế, nên không còn thời giờ để săn sóc, dạy dỗ con cái cẩn thận, nên biết bao bậc cha mẹ đã quá đau lòng vì con mình hư hỏng đến không thể ngờ, lúc đó đành đổ tại số phận, đành sống trong tủi nhục cho qua ngày.
ĐỊA PHONG THĂNG
Thăng Tự Quái
升 序 卦
Tụy giả tụ dã.
萃 者 聚 也
Tụ nhi thượng giả vị chi thăng.
聚 而 上 者 謂 之 升
Cố thụ chi dĩ thăng.
故 受 之 以 升
Thăng Tự Quái
Tụy là tụ tập tương liên kim bằng,
Tụ mà thượng tiến là Thăng,
Cho nên Thăng mới theo chân tiếp vào.
Sau quẻ Tụy là quẻ Thăng. Sao gọi là Thăng? Tự quái cho rằng: Cái gì mà chồng chất sẽ hóa nên cao dần. Vì thế sau quẻ Tụy là quẻ Thăng. Xét theo thế quẻ, thì quẻ Thăng, trên có quẻ Khôn là Đất, dưới có quẻ Tốn là cây. Cây mọc từ đất vươn dần lên cao, vì thế nên gọi là Thăng. Toàn quẻ Thăng bàn về sự tiến bước của một hiền thần, leo dần các cấp bậc công danh, để mà tiến mãi lên ngôi cao. Thăng hàm ngụ ý nghĩa cố gắng vươn lên.
I. Thoán.
Thoán từ.
升 . 元 亨 . 用 見 大 人 . 勿 恤 . 南 征 吉 .
Thoán từ:
Thăng. Nguyên hanh. Dụng kiến đại nhân. Vật tuất. Nam chinh cát.
Dịch.
Thăng là tiến mãi, tiến lên.
Tiến trình thanh thản, chu tuyền hanh thông.
Được người tài đức giúp công,
Thời thôi khỏi phải nhọc lòng âu lo.
Tiến lên, đừng có chần chờ,
Rồi ra mọi sự êm ru, tốt lành.
Thoán từ: Thăng là thăng tiến, mà đã thăng tiến tất nhiên sẽ hanh thông (Thăng. Nguyên hanh). Muốn tiến lên cần có người trên phù trợ. Được như vậy, sẽ không còn phải lo lắng (Dụng kiến đại nhân. Vật tuất). Cố gắng tiến về phía quang minh, tiến tới một tiền trình cao đại, thời hay, thời tốt biết mấy mươi.
Nam là phía của ánh sáng, của văn minh, nên người Trung Hoa vốn trọng phía Nam. Vua chúa xưa thường quay về phía nam mà trị dân, ý muốn nói trị dân để đưa dân tới quang minh, thịnh trị (Nam chinh cát).
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰 . 柔 以 時 升 . 巽 而 順 . 剛 中 而 應 . 是 以 大 亨 . 用 見 大 人 . 勿 恤 . 有 慶 也 . 南 征 吉 . 志 行 也 .
Nhu dĩ thời thăng. Tốn nhi thuận. Cương trung nhi ứng. Thị dĩ đại hanh. Dụng kiến đại nhân. Vật tuất. Hữu khánh dã. Nam chinh cát. Chí hành dã.
Dịch.
Thoán rằng: Nhu tiến theo thời,
Khiêm cung, thuận thảo, thêm tài, thêm hay.
Dưới hay, trên lại liên tài,
Cho nên mọi sự êm xuôi, vẹn toàn.
Dùng người tài đức, mới ngoan,
Rồi ra phúc khánh, muôn vàn khỏi lo.
Tiến lên, đừng có chần chờ,
Đổi điều nguyện ước cho ra thành toàn.
Thoán Truyện: Người dưới muốn tiến lên, cần phải có thời cơ thuận tiện (Nhu dĩ thời thăng). Ví như có gặp loạn lạc, giặc giã, thì anh hùng, Hào kiệt mới có cơ tiến thân. Có gặp khoa thi, thì các anh tài, dân giả mới có cơ nhìn thấy bệ rồng. Muốn tiến lên, cần phải khiêm tốn, quyền biến (Tốn nhi thuận), phải có chân tài, chân đức, lại phải có người trên cố cập (Cương trung nhi ứng), có được như vậy thì đường công danh mới thanh thản, dễ dàng (thị dĩ đại hanh). Trên con đường tiến thân, mà được cấp trên hỗ trợ, thì khỏi còn lo khó khăn, trở ngại và sẽ được phúc khánh (Dụng kiến đại nhân. Vật tuất hữu khánh dã).
Như vậy sẽ thỏa chí tang bồng, vì đường mây đã rộng mở, công danh kia như đã đón chờ ai (Nam chinh cát. Chí hành dã). Mới hay ở đời hữu chí cánh thành, và miếng đỉnh chung trời chẳng riêng ai.
Đọc lịch sử, ta thấy biết bao hàn sĩ trở thành danh nhân, biết bao anh hùng đã xuất thân từ hang cùng, ngõ hẻm.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 地 中 生 木 . 升 . 君 子 以 順 德 . 積 小 以 高 大 .
Tượng viết:
Địa trung sinh mộc. Thăng. Quân tử dĩ thuận đức. Tích tiểu dĩ cao đại.
Dịch. Tượng rằng:
Cây từ lòng đất vươn lên,
Hiền nhân, quântử hãy nên theo đòi.
Theo đường nhân đức hôm mai,
Điều lành tuy nhỏ, tích hoài hóa to.
Chắt chiu kẽ tóc, chân tơ,
Vinh quang cao đại, đón chờ tương lai.
Cây mọc từ đất vươn mãi lên cao, chứng tỏ muôn vật đều hàm tàng khả năng tiến triển. Người quân tử cũng phải tuân theo định luật ấy của trời đất (Quân tử dĩ thuận đức), sẽ cố đi từ chỗ nhỏ, đến lớn, súc tích điều nhỏ nhặt để dần dần đi đến chỗ cao đại (Tích tiểu dĩ cao đại). Đó là một định luật nhân sinh phổ quát, mà Nho, Phật, Lão luôn luôn đề cao.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 允 升 . 大 吉 .
象 曰 . 允 升 大 吉 . 上 合 志 也 .
Sơ Lục.
Doãn thăng. Đại cát.
Tượng viết:
Doãn thăng đại cát. Thượng hợp chí dã.
Dịch.
Tiến lên mà được người tin,
Thế thời tốt đẹp, chu tuyền biết bao.
Tượng rằng: Tiến lên mà được người tin,
Thế thời tốt đẹp, chu tuyền biết bao.
Tiến mà được vậy, hay sao.
Thế là ý hiệp, tâm đầu dưới trên.
Hào Sơ Lục. Trình tử giải chữ Doãn là tin theo
Ngự Án (Vua Khang Hi) giải chữ Doãn là được người trên tin mình. Tin theo người trên mà tiến lên, chưa hẳn là đại cát.
Lưu Cẩn và Đại Dụng, muốn tâng công với vua Chánh Đức, để được vua tin dùng, bèn đi thuê một người nhà quê là Trình Bảo đem vào huê viên của vua, để giả làm thích khách. Lưu Cẩn và Đại Dụng nói đó là một màn kịch, nếu Trình Bảo đóng xong sẽ trọng thưởng. Trình Bảo tin thật. Sáng sớm giả làm thích khách, cầm gươm xông vào giết vua. Cốc Đại Dụng và Lưu Cẩn xông vào cứu giá. Trình Bảo trá bại, Lưu Cẩn dượt theo. Trình Bảo hỏi: Trốn đâu? Lưu Cẩn bảo: Xuống giếng. Trình Bảo trốn xuống giếng, bị Lưu Cẩn chém bay đầu... Như vậy tin người trên, chưa hẳn là Đại cát. Cho nên, nơi đây tôi (tác giả) giải theo Ngự Án, là trên con đường tiến thủ, mà được người trên tin yêu mình, sẽ được đại cát. Khảo lịch sử các triều đại, ta thấy có nhiều người vì được cấp trên tin dùng mà đã chóng được cất nhắc. Tượng Truyện giải: Doãn thăng là dưới trên ý hợp tâm đầu.
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 孚 乃 利 用 . 無 咎 .
象 曰 . 九 二 之 孚 . 有 喜 也 .
Cửu nhị.
Phu nãi lợi dụng thược. Vô cữu.
Tượng viết:
Cửu nhị chi phu. Hữu hĩ dã.
Dịch.
Một lòng thành khẩn, chí trung,
Dầu cho lễ bạc, cũng không quản gì.
Lòng thành, lễ bạc, lỗi chi.
Tượng rằng: Cửu nhị chí trung,
Đó là một sự đáng mừng, đáng vui.
Hào Cửu nhị: đây tượng trưng cho một vị công thần. Công thần cốt có lòng trung thành với quân vương (Phu) còn những hình thức bên ngoài có đơn sơ, cũng không lỗi gì (Lợi dụng thược. Vô cữu).
Tống Thái Tổ xưa, phàm trào chính có việc chi quan hệ, lúc đương triều chưa quyết định được, thì ban đêm bất luận khuya sớm, thường mặc đồ tiểu phục , đến dinh các vị công thần mà đàm luận. Một ngày kia, nhằm ngày mồng một tháng giêng năm Cần Đức nguyên niên, Vua đội sương tuyết đến nhà Triệu Phổ, lúc canh ba. Triệu Phổ rước vào, sai gia nhân luộc thịt, rồi đem rượu bạch cúc ra hâm, dọn ra rất đơn sơ, rồi lại xin phép cho vợ ra rót rượu. Vua nói cùng Triệu Phổ rằng: Chỗ này chẳng nên kể việc quân thần, phải đãi nhau như tình huynh đệ mà thôi (Phi Long, trang 639). Đó là Phu nãi lợi dụng thược. Vô cữu.
Tiểu Tượng bình rằng: Công thần mà trung nghĩa là điều đáng mừng vậy. Tượng viết: Cửu nhị chi phu. Hữu hỉ dã. Khâu Kiến An bình rằng: Tuy Hào Cửu nhị không nói đến chuyện Thăng , nhưng khi mà trên dưới đã tin lòng nhau, thì chẳng những là không lỗi gì, mà ắt còn có cái mừng vinh thăng nữa.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 升 虛 邑 .
象 曰 . 升 虛 邑 . 無 所 疑 也 .
Cửu tam.
Thăng hư ấp.
Tượng viết:
Thăng hư ấp. Vô sở nghi dã.
Dịch.
Tiến lên thanh thả, dễ dàng,
Y như vào ấp, vào làng bỏ không.
Hào Cửu tam: Đối với một người tài trí thông minh thao lược (Cửu tam là Dương Hào), chính đính (Dương Hào cư Dương vị), từ tốn (Cửu tam thuộc quẻ Tốn), vừa lòng cấp trên (ba Hào trên thuộc Khôn là thuận), được cấp trên nâng đỡ (ứng với Thượng Lục)., thời sự thăng tiến cũng dễ dàng như đi vào làng trống vậy (thăng hư ấp). Sở dĩ như vậy, là vì người trên không nghi kỵ mình. Tượng viết: Thăng hư ấp. Vô sở nghi dã.
4. Hào Lục tứ.
六 四 . 王 用 亨 于 岐 山 . 吉 . 無 咎 .
象 曰 . 王 用 亨 于 岐 山 . 順 事 也 .
Lục tứ.
Vương dụng hanh vu Kỳ Sơn. Cát. Vô cữu.
Tượng viết:
Vương dụng hanh vu kỳ Sơn. Thuận sự dã.
Dịch.
Khéo khuôn, khéo xử ở đời,
Văn vương hưng vượng ở nơi núi Kỳ.
Đã hay, còn khỏi tiếng chê.
Tượng rằng: Khéo khuôn, khéo xử ở đời,
Văn vương hưng vượng ở nơi núi Kỳ,
Thế là thuận sự, thuận thì.
Hào Lục tứ: Các nhà bình giải cắt nghĩa Hào này mỗi người một lối, duyên do là tại chữ hanh
- Trình tử đọc hanh là hanh, và giải là hanh thông.
- Chu Hi đọc hanh là hưởng, và giải là tế tự thần minh, phải dùng tâm thành, phải tập trung tinh thần mới cảm thông với thần minh được.
Trình tử giải Hào này đại khái như sau: Lục tứ là một trọng thần kế cận quân vương, chỉ nên giúp cho Vua, một ngày một trở nên tài đức, giúp cho hiền sĩ ở dưới được thăng tiến, còn mình đừng có mong tiến chức nữa. Bởi mong tiến nữa, sẽ bị nghi là bức tiếm quyền của quân vương. Văn Vương đã theo đường lối này khi ở Kỳ Sơn, và nhờ đường lối này mà đã làm mọi sự trở nên thông suốt, đẹp đẽ, tốt lành (Vương dụng hanh vu Kỳ Sơn. Cát. Vô cữu).
Trình tử giải Dụng hanh là Dụng thử nhi hanh. Như vậy trọng thần giúp cho vua tiến lên, cho người hiền sĩ ở dưới tiến lên về chức vị, còn mình tuy không tiến thêm về chức, nhưng tiến thêm về đạo đức. Trình tử sở dĩ giải Hào này như vậy, chắc là vì thấy trong lịch sử có nhiều trọng thần đã lăng bức quyền vua.
Đọc Tam Quốc, ta thấy Tư Mã Sư mỗi khi vào triều đều đeo gươm lên điện, và vua Ngụy là Tào Phương mỗi khi thấy Tư Mã Sư vào triều thì run bần bật như người bị kim châm sau lưng, có khi còn bước xuống khỏi ngai rồng đón tiếp. Khi các quan tâu trình mọi việc, Tư Mã Sư tự ý quyết đoán không hỏi qua ý vua một câu. Xong rồi Sư ra về, ngang nhiên bước xuống thềm điện, lên xe ra khỏi nội cung, tiền hô hậu ủng có tới vài ngàn người ngựa... (Tam Quốc Chí Tử Vi Lang dịch trang 1921).
-Wilhelm giải đại khái rằng: vua Văn Vương đã giới thiệu những công thần của vua với thần núi Kỳ Sơn, và đã cho họ được dự khói hương nơi Thái Miếu, bên cạnh vua. Như vậy là công thần thăng tiến, đến mức độ cao nhất rồi, tiếng tăm lẫy lừng trước mặt cả thần minh, lẫn người, và đã lưu danh hậu thế. Giải như Wilhelm cũng có cái hay, vì thực ra các vua chúa xưa cũng thường hay vẽ hình các công thần để lưu lại hậu thế.
-Quang Võ nhà Hán, cho vẽ hình 28 tướng tá đã giúp vua hưng nghiệp, ở cung Vân Đài.
-Càn Đức nhà Đường, cho vẽ hình các công thần treo ở Lăng Yên Các.
-Triết Tông nhà Tống, vẽ hình 39 tướng tài có công dẹp Anh Hùng Lương Sơn Bạc, và treo ở Lầu Huy An.v.v...
. Tượng viết: Vương dụng hanh vu Kỳ Sơn. Thuận sự dã. Trình tử giải rằng: Đường lối mà vua Văn Vương đã áp dụng khi ở Kỳ Sơn đó là thuận thời, thuận đức mà cư xử vậy.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 貞 吉 . 升 階 .
象 曰 . 貞 吉 升 階 . 大 得 志 也 .
Lục ngũ.
Trinh cát. Thăng giai.
Tượng viết:
Trinh cát thăng giai. Đại đắc chí dã.
Dịch.
Bền lòng, vững chí, mới hay,
Thềm đời nhẹ bước, một ngày một lên.
Tượng rằng:
Bền lòng, vững chí mới hay,
Thềm đời nhẹ bước, niềm tây phỉ nguyền.
Hào Lục ngũ: Trình tử giải rằng: Quân vương mà biết bền lòng tín dụng hiền tài, thời sẽ tốt đẹp, sẽ có cơ tiến phát mãi, như người có bậc, có thềm đá bước lên.
Tượng viết: Trinh cát thăng giai. Đại đắc chí dã. Trình tử giải rằng: Nếu biết bền lòng, vững chí ủy nhiệm hiền tài, để tuần tự tiến lên, thì có thể đi đến chỗ thiên hạ đại trị. Thế là đại đắc chí vậy.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 冥 升 . 利 于 不 息 之 貞 .
象 曰 . 冥 升 在 上 . 消 不 富 也 .
Thượng Lục.
Minh thăng. Lợi vu bất tức chi trinh.
Tượng viết:
Minh thăng tại thượng. Tiêu bất phú dã.
Dịch:
Cực cao, nhắm mắt tiến bừa,
Ám hôn, chẳng có tri cơ chút nào.
Tượng rằng:
Tiến nhân, tiến đức, chẳng sao,
Chính, minh, thượng tiến, thì nào hại chi.
Hào Thượng Lục: Đã tiến đến cùng, mà còn muốn tiến nữa, tức là tiến mù quáng (Minh thăng). Vậy nên đổi cái lòng vụ lợi, tham cầu không ngơi ấy ra lòng ưa chuộng tiến đức, tiến đạo thì mới hay (Lợi vu bất tức chi trinh).
Tiểu Tượng cho rằng: Thượng Lục sở dĩ tiến một cách mù quáng, vì không biết lẽ tiêu tức của trời đất. Tiến cực dĩ nhiên sẽ tiêu, mà đã tiêu thì làm sao mà giầu có được. Tượng viết: Minh thăng tại thượng. Tiêu bất phú dã.
ÁP DỤNG QUẺ THĂNG VÀO THỜI ĐẠI
Sống trên đời, luôn phải cố gắng vươn lên. Khi còn trẻ, phải vươn lên về phía công danh, lợi lộc. Lúc ấy, nên có người trên phù trợ. Nhưng tất cả phải chính đáng, ngay thẳng. Khi tóc đã hoa râm, thì phải dùng nửa đời sau, để tiến về tinh hoa, đạo đức. Làm sao để được như 2 câu thơ sau:
Khi sinh bạn khóc, người cười,
Sống sao khi chết bạn vui, người sầu.
-Về công danh, ta phải kiên trì. Người thông minh học 5 năm, ta kém thông minh ta học 10 năm, miễn sao ta có chí ta sẽ bằng người, và ta luôn luôn tự hào về ý chí của ta.
-Về lợi lộc, ý nói về thương mại, ta phải chịu khó, thật thà, ngay thẳng và thành tín, và luôn phải học hỏi kinh nghiệm của người đã làm cùng nghề như mình lâu năm. Chớ tự phụ , kiêu ngạo, tự cho mình là giỏi, là không cần ai chỉ dẫn, thì mới thành công được.
-Về đạo đức, điều này nếu có thể được, cha mẹ nên trau giồi cho con từ khi còn nhỏ, làm lành, nghĩ lành, và xa lánh làm xấu, nghĩ xấu, dù việc đó là điều nhỏ nhặt, như nói dối, tham lam của người.v.v...Vì quen làm điều lành, nghĩ lành, sau đọc sách Thánh hiền, thì sẽ trở thành người đạo đức.
Còn quen làm ác, và gian tham ngay từ nhỏ, mà cha mẹ lại quá nuông chiều con, lại hay viện cớ con còn nhỏ dại nên chưa cần răn dạy ngay, đợi lúc trẻ khôn lớn thì đã quá muộn, chúng không còn nghe lời người trên nữa. Do đó, chúng dễ dàng bị xa ngã, nếu lại giao du với bạn bè xấu thì hậu quả chúng là những tai hoạ cho xã hội, nếu chúng may mắn mà có công danh chăng nữa, thì chúng cũng chỉ là những viên chức tham ô, hại dân, hại nước mà thôi. Cổ nhân đã có câu:
Dạy con từ thuở còn thơ,
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
Ngày nay, vì quá bận rộn vì công ăn, việc làm, vì sinh kế, nên không còn thời giờ để săn sóc, dạy dỗ con cái cẩn thận, nên biết bao bậc cha mẹ đã quá đau lòng vì con mình hư hỏng đến không thể ngờ, lúc đó đành đổ tại số phận, đành sống trong tủi nhục cho qua ngày.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
6 THỦY PHONG TỈNH
THỦY PHONG TỈNH
Tỉnh Tự Quái
井 序 卦
Khốn hồ thượng giả
困 乎 上 者
Tất phản hạ.
必 反 下
Cố thụ chi dĩ Tỉnh.
故 受 之 以 井
Tỉnh Tự Quái
Cao mà khốn nạn, sẽ thường xuống sâu.
Cho nên Tỉnh tiếp theo sau.
Khi người bị khốn ở bên trên, sẽ quay xuống phía dưới, cho nên, sau quẻ Khốn là quẻ Tỉnh. Tỉnh là giếng. Nói đến giếng nước, tức là nói đến cung cấp nước uống cho dân chúng từ ngàn xưa tới nay.
Thường làng nào cũng có giếng. Giếng đào sâu xuống cho tới các mạch nước ngầm, nên có thể cung cấp nước ăn uống cho cả dân làng.
Quẻ Tỉnh, trên là quẻ Khảm là nước, dưới là quẻ Tốn là gỗ. Xưa người ta dùng gầu tre, gỗ hoặc những cần cây để múc nước giếng lên. Lại cũng dùng giây thòng gầu xuống để múc nước lên. Ca dao ta có câu: Tưởng giếng sâu, em nối sợi dây dài, ngờ đâu giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây.
I. Thoán.
Thoán từ.
井 . 改 邑 不 改 井 . 無 喪 無 得 . 往 來 井 井 . 汔 至 . 亦 未 繘 井 . 羸 其 瓶 . 凶 .
Tỉnh. Cải ấp bất cải tỉnh. Vô táng vô đắc. Vãng lai tỉnh tỉnh.
Ngật chí. Diệc vị duật tỉnh. Luy kỳ bình. Hung.
Dịch.
Tỉnh là nước giếng nuôi người,
Rời làng, rời ấp, chẳng rời giếng đi.
Dùng nhiều, nước chẳng suy vi,
Không dùng, nước vẫn cứ y chẳng tràn.
Người qua, kẻ lại rộn ràng,
Tha hồ đến giếng, kín mang nước về.
Thòng dây chưa tới, ích chi?
Giây chưa tới nước, cách gì múc lên.
Dùng gầu nứt rạn, chẳng bền,
Dùng gầu nứt rạn, thảo hèn nào hung.
Thoán từ: Giếng là 1 cơ cấu cần thiết nhất trong làng mạc. Xưa, ông Công Lưu, tổ phụ nhà Chu, muốn lập cơ ngơi ở đất Bân, cũng đã đến nghiên cứu phương hướng, chỗ nắng, chỗ râm, cùng là nơi có mạch nước chẩy, thế là đào giếng, rồi mới lập ấp. Vì vậy, sau này dẫu hình dạng làng mạc có đổi thay, kiến trúc nhà cửa có biến đổi, thời cái giếng vẫn y nguyên cùng tuế nguyệt (Tỉnh. Cải ấp bất cải Tỉnh). Đã có giếng tốt, thời dầu nhiều người ăn nước, giếng cũng không hao kiệt, mà thảng hoặc giếng không có ai dùng, thời giếng cũng không tràn đầy (Vô táng vô đắc)
Giếng chỉ làm việc của giếng là cung cấp nước ăn, còn ai đến cũng không mời, ai đi cũng không giữ (Vãng lai tỉnh tỉnh). Nhưng muốn kín nước giếng, phải có dây đủ dài, có gầu lành lặn mới được. Nếu chưa tới mực nước, mà dây đã hết, hoặc gầu múc nuớc mà vỡ chẩy, thì cũng chẳng được ích lợi gì (Ngật chí. Diệc vị duật tỉnh. Luy kỳ bình. Hung).
Ngật chí là chưa tới nơi. Duật là giây để kéo nước.
Luy kỳ bình là gầu vỡ, gầu chẩy.
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰: 巽 乎 水 而 上 水,井﹔井 養 而 不 窮 也。改 邑 不 改 井,乃 以 剛 中 也。汔 至 亦 未 繘 井,未 有 功 也。羸 其 瓶,是 以 凶 也。
Tồn hồ thủy nhi thượng thủy. Tỉnh. Tỉnh dưỡng nhi bất cùng dã. Cải ấp bất cải tỉnh. Nãi dĩ cương trung dã. Ngật chí. Diệc vị duật tỉnh. Vị hữu công dã. Luy kỳ bình. Thị dĩ hung dã.
Dịch.
Ném gầu vào múc nước lên,
Tỉnh là Tồn dưới, thủy trên rõ rành.
Giếng là nguồn mạch dưỡng sinh,
Dưỡng nuôi mãi mãi, công trình dài lâu.
Rời làng, giếng chẳng rời đâu,
Cương cường, trung chính, trước sau vững bền.
Hụt dây, nên nước không lên,
Nghĩa là dang dở, không nên công trình,
Dùng gầu rạn nứt, chẳng lành.
Không lành, không lặn, đã đành là hung.
Thoán Truyện giải thích Tỉnh là ném gầu vào nước để múc nước lên. Thoán viết: Tồn hồ thủy nhi thượng thủy. Tỉnh. Thoán Truyện cũng cho biết đặc tính của giếng là cung cấp nước nuôi dân mãi mãi chẳng cùng (Tỉnh dưỡng nhi bất cùng dã). Kế đó Thoán Truyện giải thích Thoán từ: Cải ấp bất cải tỉnh. Nãi dĩ cương trung dã là thay đổi ấp, mà không thay đổi giếng, vì giếng là cái gì thiên nhiên, còn làng mạc là cái gì nhân tạo. Cương trung tức là cái gì lý tưởng, thiên nhiên. Muốn kín nước, phải giòng dây xuống cho tới mực nước, chưa tới nước thì chưa đi tới đâu (Ngật chí. Diệc vị duật tỉnh. Vị hữu công dã). Muốn kín nước, mà gầu lại thủng, lại vỡ, thì thật là hỏng chuyện (Luy kỳ bình. thị dĩ hung dã).
- Giếng tượng trưng cho cái gì hằng cửu, còn các tổ chức xã hội khác như làng mạc, thôn xóm, tượng trưng cho cái gì biến thiên. Nơi xã hội, giếng cũng tượng trưng cho nhân luân. Dẫu hình thức chính trị đổi thay, dẫu triều đại luân chuyển, nhưng nhân luân sau trước vẫn y nguyên.
-Giếng cũng tượng trưng cho nguồn sống, cho thiên tính nơi con người. Đó là tầng lớp sâu xa nhất trong con người. Nếu một tổ chức xã hội nào, một nền văn minh, giáo dục nào mà sao lãng nguồn sống ấy, thiên tính ấy, thì chỉ là cơ cấu nhân tạo tạm bợ, không có ích lợi gì lâu dài; y như đi múc nước giếng, mà dây không đủ dài, gầu không đủ kín, thời sao múc được nước ăn.
Nói cách khác, trong cuộc tu thân của chúng ta, điều cốt yếu là phải đạt tới nguồn mạch siêu nhiên, sống động trong con người. Nếu trạng thái siêu nhiên ấy chưa đạt được, thời con người chỉ sống trong tình trạng giả tạo, y thức như người muốn uống nước giếng trong mát, mà dây không đủ dài, gầu không đủ kín, nên đành phải chịu khát.
Tào Thăng giải Tỉnh là cái gì bất biến tượng trưng cho Đạo. Tỉnh cũng tượng trưng cho đời sống chính trị, cũng y như giếng cần phải có nước luôn luôn, để cung cấp nhu cầu cho nhân loại.
Vương đạo hay một nền hành chánh hoàn hảo, cũng là nguồn mạch sống động của đời sống quốc gia. Không gian, thời gian có thể đổi thay, nhưng một nền cai trị hoàn hảo bao giờ cũng là lý tưởng của nhân loại.
Tóm lại, Thoán của quẻ Tỉnh dạy ta hai bài học chính yếu:
1- Phải cố gắng đạt tới nguồn mạch sống động, siêu nhiên nơi con người, phải đạt tới Trời, tới Đạo, nơi tầng sâu con người, để thoả mãn nguyện vọng sâu xa, huyền bí nơi con người.
2- Phải có 1 nền hành chánh hoàn hảo, để thoả mãn nhu cầu muôn dân.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 木 上 有 水 . 井 . 君 子 以 勞 民 勸 相 .
Tượng viết:
Mộc thượng hữu thủy. Tỉnh. Quân tử dĩ lao dân khuyến tướng.
Dịch. Tượng rằng:
Tỉnh là nước có trên cây,
Khuyên dân lao tác, dở hay đỡ đần.
Mới hay quân tử thương dân,
Nuôi dân, lại dạy tương thân, tương phù.
Giải là : Trên gỗ, trên cây có nước là giếng. Người quân tử nhân đó khuyến khích dân lao tác, và giúp đỡ lẫn nhau. Nói là nước trên gỗ, trên cây, vì xưa dùng cần cây, dùng gầu mà múc nước lên. Vua chúa xưa đã tổ chức phương pháp Tỉnh Điền để chúng đân đồng lao, cộng tác với nhau. Phép Tỉnh Điền được gói ghém trong chữ Tỉnh. Chữ Tỉnh gồm có 9 ô:
-Tám ô chung quanh là ruộng đất chia cho 8 gia đình, gọi là tư điền. Ô thứ 9, ở giữa có cái giếng, gọi là công điền. 8 gia đình chung quanh, cùng ăn nước ở cái giếng chung ấy, lại cùng khai thác thửa ruộng công điền ấy để nộp lợi tức cho triều đình. Còn phần tư điền bên ngoài, làm được bao nhiêu thời giữ lấy mà ăn.
Thế là nhờ phép Tỉnh điền, vua chúa vừa khiến dân lao tác, vừa khuyến khích họ tương trợ lẫn nhau.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Hào từ & Tiểu Tượng Truyện, nói lên các điều kiện mà một giếng nước cần phải có.
-Nước giếng không được dơ bẩn (Hào Sơ).
-Giếng không được nứt rạn, có hang hốc chung quanh (Hào nhị).
-Giếng tốt, nhưng cần phải được người dùng (Hào 3)
-Giếng cũng có khi cần sang sửa lại (Hào 4).
-Khi giếng có nước ngon, cần phải để cho mọi người dùng (Hào 5, 6).
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 井 泥 不 食 . 舊 井 無 禽 .
象 曰 . 井 泥 不 食 . 下 也 . 舊 井 無 禽 . 時 舍 也 .
Sơ Lục.
Tỉnh nê bất thực. Cựu tỉnh vô cầm.
Tượng Truyện.
Tỉnh nê bất thực. Hạ dã. Cựu tỉnh vô cầm. Thời xả dã.
Dịch.
Giếng bùn, chẳng thể uống ăn,
Giếng xưa quạnh quẽ, biệt tăm chim trời.
Tượng rằng:
Giếng bùn, chẳng thể uống ăn.
Nghĩa là đáy đục, chỉ thuần bùn dơ.
Giếng xưa chim chóc hững hờ,
Người đời ruồng rẫy, nên ra hoang tàn.
Giếng cần phải tinh khiết. Nước giếng mà bùn, đục, thời sẽ chẳng ai ăn (Tỉnh nê bất thực). Chẳng những thế chim muông cũng bỏ rơi, không thèm lai vãng nữa, (Cựu tỉnh vô cầm).
Tiểu Tượng giải rằng: Giếng bùn đục không ai ăn, là vì giếng cạn quá (Tỉnh nê bất thực hạ đã). Giếng xưa hoang phế, chim muông không còn lai vãng tới nữa, là vì giếng đã bị người đời bỏ không dùng (Cựu tỉnh vô cầm. thời xã dã). Cũng một lẽ, những người hạ tiện, dơ bẩn, hèn hạ trong xã hội, cũng sẽ bị đời ruồng bỏ không dùng.
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 井 谷 射 鮒 . 瓮 敝 漏 .
象 曰 . 井 谷 射 鮒 . 無 與 也 .
Cửu nhị.
Tỉnh cốc xạ phụ. Ửng tệ lậu.
Tượng viết:
Tỉnh cốc xạ phụ. Vô dữ dã.
Dịch.
Giếng mà có ngách rỉ xuôi,
Nước rò rỉ xuống, nuôi loài ốc sên.
Giếng mà gáo lại chẳng bền,
Giếng mà gáo thủng, nước lên cách nào?
Tượng rằng:
Nước mà có ngách rỉ xuôi,
Nước rò rỉ xuống, nuôi loài ốc sên.
Giếng mà chẳng có nước lên,
Tại vì chẳng được bên trên khuông phò.
Hào Cửu nhị: Một cái giếng, mà có hang, có hốc chung quanh (Tỉnh cốc), thời nước giếng sẽ rò rỉ ra bên ngoài (Xạ), bất quá là nuôi được các loài sên, loài ốc (Phụ), chứ còn nước đâu nữa mà cung cấp cho người. Hoặc đi kín nước, lại dùng gầu rách, gầu thủng thì làm sao mà có nước? (Ửng tệ lậu).
Đó là trường hợp những người có tài, mà vì không có lý tưởng cao đại, chí hướng vững chắc, nên đã để cho tài năng mình phao phí, mai một. Chẳng những thế, lại hạ mình theo vật dục, bầu bạn với tiểu nhân, hạ cấp, thì làm sao có thể làm ích cho đời?. Tiểu tượng bình rằng: Giếng có hang hốc, nước rò rĩ ra ngoài để nuôi sên ốc, là có ý nói rằng: Không còn được cấp trên đoái tưởng nữa.
Tượng viết: Tỉnh cốc xạ phụ. Vô dữ dã. Một người thiếu tư cách, không còn được cấp trên ngó ngàng tới, thì cũng vô dụng như cái giếng, mà nước rò rỉ hết ra ngoài, hay cái gầu múc nước bể, thủng không còn kín nước được nữa.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 井 渫 不 食 . 為 我 民 惻 . 可 用 汲 . 王 明 . 并 受 其 福 .
象 曰 . 井 渫 不 食 . 行 惻 也 . 求 王 明 . 受 福 也 .
Cửu tam.
Tỉnh tiết bất thực. Vi ngã tâm trắc. Khả dụng cấp.
Vương minh. Tỉnh thụ kỳ phúc.
Tượng viết:
Tỉnh tiết bất thực. Hành trắc dã. Cầu vương minh. Thụ phúc dã.
Dịch.
Giếng trong, mà chẳng ai ăn,
Làm ta luống những băn khoăn tấc lòng.
Băn khoăn vì nước giếng trong,
Thời nên kín nước mà dùng, mà ăn.
Nếu như có được minh quân,
Toàn dân phúc trạch, hồng ân tràn đầy.
Tượng rằng:
Giếng trong mà chẳng ai ăn,
Bộ hành luống những băn khoăn tấc lòng.
Cầu cho có đấng minh quân,
Toàn dân phúc trạch, hồng ân tràn đầy.
Hào Cửu tam: Khi đã có nước giếng tốt, nước đã lắng trong (Tỉnh tiết), mà vẫn bị người đời quên không dùng (Bất thực); thấy tình cảnh ấy, ai cũng phải bùi ngùi tấc dạ (Dĩ ngã tâm trắc). Đây là một thứ nước giếng có thể cung cấp nước ngon (Khả dụng cấp). Nếu gặp được minh quân dùng, thời cả đôi bên đều được phúc khánh (Vương minh tịnh thụ kỳ phúc).
Tượng Truyện bàn thêm rằng: Nước giếng trong mát mà không được ăn, nên người bộ hành thấy bùi ngùi tấc dạ, ước mong gặp được đấng minh quân, có gặp thì cả hai đàng đều được phúc khánh.
Tượng viết: Tỉnh tiết bất thực. Hành trắc dã. Cầu vương minh thụ phúc dã. (Tiết là trong; hành là người đi đường) Dương Mưu Trai bình rằng: Nước ngon có thể ăn là phần của giếng, không ăn nước giếng là quyền của người. Không được ăn, giếng không than thở, nhưng người đi đường phải than thở. Đây không phải than thở cho giếng, mà than thở cho người quân tử có tài, có đức mà không được trọng dụng. Giếng một khi được dùng , thời cả thôn ấp được phúc. Có giếng ngon mà không được dùng, thời cũng như không có giếng. Có hiền nhân mà không có minh vương, thời cũng như không có hiền nhân. Đức Khổng nói: Không có minh vương ra đời, thời thiên hạ ai là người biết trọng dụng ta (Lễ ký) (Minh vương bất hưng. Thiên hạ thục năng tông dư).
Hào Cửu tam tuy nói về giếng, mà thực ra nói về người quân tử. Nếu không có bậc minh quân như vua Nghiêu, thời vua Thuấn âu chỉ là một ngư phủ nơi điền trạch. Nếu không có một minh vương như Cao Tông, thời Phó Duyệt chỉ là một dung phu nơi núi rừng...
4. Hào Lục tứ.
六 四 . 井無 咎 .
象 曰 . 井無 咎 . 修 井 也 .
Lục tứ.
Tỉnh trứu vô cữu.
Tượng viết:
Tỉnh trứu vô cữu. Tu tỉnh dã.
Dịch.
Giếng xây, sửa lại lỗi chi
Tượng rằng:
Giếng xây, sửa lại lỗi chi.
Sửa sang cho giếng có bề khang trang.
Hào Lục tứ: (Trứu là lát gạch, sang sửa lại phía bên trong giếng). Giếng đôi khi cần ngưng cung cấp nước, để sửa chữa lại phía bên trong cho hẳn hoi. Như vậy có gì là đáng trách đâu.
Tượng Truyện giải: Tỉnh trứu là chữa giếng.
Tượng viết: Tỉnh trứu vô cữu. Tu tỉnh dã. Các công bộc quốc gia, nhiều khi cũng phải có thời gian để tu bổ lại:
-Tu bổ lại nghề nghiệp
-Chấn chỉnh lại lề lối làm việc.
-Tu sửa lại đức hạnh.
Như vậy, tuy mất ít ngày không làm ích cho đời, như giếng đang sửa phải ngưng cung cấp nước, nhưng sau đó sẽ trở nên mới, nên hay, và sẽ giúp ích nhiều hơn.
Sửa giếng cho giếng trở nên tốt, tức là Nhật tân kỳ đức. Xây giếng cho hết mọi lỗ hổng tức là Nhàn tà, Tồn thành, là ngăn chặn mọi điều tà ác, để giữ gìn lấy cái tinh thành. Hào 4 này dạy ta những bài học tu thân chí lý vậy.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 井 冽 . 寒 泉 食.
象 曰 . 寒 泉 之 食 . 中 正 也 .
Cửu ngũ.
Tỉnh liệt. Hàn tuyền thực.
Tượng viết:
Hàn tuyền chi thực. Trung chính dã.
Dịch.
Giếng mà trong vắt, trong veo,
Nước tuôn mát lạnh cho nhiều người ăn.
Tượng rằng:
Nước tuôn mát lạnh, người ăn,
Là đem trung chính trị dân, trị đời.
Hào Cửu ngũ đây vì Dương cương trung chính, lại ở ngôi trên, nên tài đức đều tận thiện, tận mỹ. Đối với giếng, thì đó là một giếng nước trong (Tỉnh liệt), do 1 mạch nước mát mẻ cung cấp (Hàn tuyền), như vậy có thể dùng để ăn được (Thực). Tượng Truyện bình rằng: Nước giếng trong mát, có thể ăn được, là chí thiện, là hoàn hảo vậy.
Một giếng nước chỉ trở nên hữu ích, khi nào được uống, được ăn. Một nhà lãnh đạo hoàn hảo, chỉ trở nên hữu ích thực sự, khi làm cho dân được theo phương châm mình, tôn chỉ mình mà hành động. Như vậy, ích lợi mới trở nên vô tận (Hàn tuyền chi thực. Trung chính dã).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 井 收 勿 幕 . 有 孚 無 吉 .
象 曰 . 元 吉 在 上 . 大 成 也 .
Thượng Lục.
Tỉnh thu vật mạc. Hữu phu nguyên cát.
Tượng viết:
Nguyên cát tại thượng. Đại thành dã.
Dịch.
Giếng ngon, người múc tha hồ,
Chẳng nên đậy điệm, để cho người dùng.
Nước tuôn mãi mãi chẳng cùng,
Thế là mỹ mãn, thành công tốt lành.
Hào Thượng Lục: Giếng nước ngon, đã được mọi người đến múc (Tỉnh thu) thời hãy để mặc tình cho đời dùng, chẳng nên đậy nó làm chi (Vật mạc). Nếu cứ được như vậy mãi, (Hữu phu), sẽ được muôn phần tốt đẹp (Nguyên cát).
Các quẻ khác, thì khi nói đến Hào 6, là nói đến biến, đến cực, đến bất dụng. Riêng quẻ Tỉnh, quẻ Đỉnh thời cung cấp vật thực, nên cái hay nhất là nước được đem ra dùng, đồ ăn được đem ra ăn. Vì thế Tượng Truyện mới bình rằng: Quẻ Tỉnh này, Hào trên hết mới thật là hay (Nguyên cát tại thượng), vì lúc này nói là lúc thành công mỹ mãn.(Đại thành dã). Xét về phương diện nhân sự, thì người quân tử ở cao ngôi, làm ích cho đời càng nhiều, càng hay, càng lâu, càng tốt, như vậy mới là thành công mỹ mãn, như vậy mới là đại thành.
ÁP DỤNG QUẺ TỈNH VÀO THỜI ĐẠI
Ta phải biết khai thác những khả năng còn tiềm ẩn trong ta, từ lúc còn ở học đường, nếu có thể, để giáo sư chú ý đến ta, mà tiến dẫn ta mai sau.
Khi làm việc trong một hãng xưởng nào, nếu ta thấy ta có tài gì đặc biệt, mà chưa được cấp trên biết tới, thì ta phải tìm cách thi thố tài năng đó, bằng cách nhờ người đề bạt, hay tự mình đề bạt lên cấp trên. Không nên ù lì, nhút nhát, chịu yên phận một chỗ, để mai một tài năng mình. Một khi đã lên cao rồi, thì phải hết sức mang tài ra, mà làm những công việc ích nước, lợi dân. Phải luôn luôn học hỏi nghiên cứu, để tiến thêm, chớ đừng tự mãn, cho thế là đủ, rồi đâm ra lười biếng, quay ra hưởng lạc, thì uổng phí tài năng. Và như vậy, thì cũng như giếng tốt mà không có người dùng.
THỦY PHONG TỈNH
Tỉnh Tự Quái
井 序 卦
Khốn hồ thượng giả
困 乎 上 者
Tất phản hạ.
必 反 下
Cố thụ chi dĩ Tỉnh.
故 受 之 以 井
Tỉnh Tự Quái
Cao mà khốn nạn, sẽ thường xuống sâu.
Cho nên Tỉnh tiếp theo sau.
Khi người bị khốn ở bên trên, sẽ quay xuống phía dưới, cho nên, sau quẻ Khốn là quẻ Tỉnh. Tỉnh là giếng. Nói đến giếng nước, tức là nói đến cung cấp nước uống cho dân chúng từ ngàn xưa tới nay.
Thường làng nào cũng có giếng. Giếng đào sâu xuống cho tới các mạch nước ngầm, nên có thể cung cấp nước ăn uống cho cả dân làng.
Quẻ Tỉnh, trên là quẻ Khảm là nước, dưới là quẻ Tốn là gỗ. Xưa người ta dùng gầu tre, gỗ hoặc những cần cây để múc nước giếng lên. Lại cũng dùng giây thòng gầu xuống để múc nước lên. Ca dao ta có câu: Tưởng giếng sâu, em nối sợi dây dài, ngờ đâu giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây.
I. Thoán.
Thoán từ.
井 . 改 邑 不 改 井 . 無 喪 無 得 . 往 來 井 井 . 汔 至 . 亦 未 繘 井 . 羸 其 瓶 . 凶 .
Tỉnh. Cải ấp bất cải tỉnh. Vô táng vô đắc. Vãng lai tỉnh tỉnh.
Ngật chí. Diệc vị duật tỉnh. Luy kỳ bình. Hung.
Dịch.
Tỉnh là nước giếng nuôi người,
Rời làng, rời ấp, chẳng rời giếng đi.
Dùng nhiều, nước chẳng suy vi,
Không dùng, nước vẫn cứ y chẳng tràn.
Người qua, kẻ lại rộn ràng,
Tha hồ đến giếng, kín mang nước về.
Thòng dây chưa tới, ích chi?
Giây chưa tới nước, cách gì múc lên.
Dùng gầu nứt rạn, chẳng bền,
Dùng gầu nứt rạn, thảo hèn nào hung.
Thoán từ: Giếng là 1 cơ cấu cần thiết nhất trong làng mạc. Xưa, ông Công Lưu, tổ phụ nhà Chu, muốn lập cơ ngơi ở đất Bân, cũng đã đến nghiên cứu phương hướng, chỗ nắng, chỗ râm, cùng là nơi có mạch nước chẩy, thế là đào giếng, rồi mới lập ấp. Vì vậy, sau này dẫu hình dạng làng mạc có đổi thay, kiến trúc nhà cửa có biến đổi, thời cái giếng vẫn y nguyên cùng tuế nguyệt (Tỉnh. Cải ấp bất cải Tỉnh). Đã có giếng tốt, thời dầu nhiều người ăn nước, giếng cũng không hao kiệt, mà thảng hoặc giếng không có ai dùng, thời giếng cũng không tràn đầy (Vô táng vô đắc)
Giếng chỉ làm việc của giếng là cung cấp nước ăn, còn ai đến cũng không mời, ai đi cũng không giữ (Vãng lai tỉnh tỉnh). Nhưng muốn kín nước giếng, phải có dây đủ dài, có gầu lành lặn mới được. Nếu chưa tới mực nước, mà dây đã hết, hoặc gầu múc nuớc mà vỡ chẩy, thì cũng chẳng được ích lợi gì (Ngật chí. Diệc vị duật tỉnh. Luy kỳ bình. Hung).
Ngật chí là chưa tới nơi. Duật là giây để kéo nước.
Luy kỳ bình là gầu vỡ, gầu chẩy.
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰: 巽 乎 水 而 上 水,井﹔井 養 而 不 窮 也。改 邑 不 改 井,乃 以 剛 中 也。汔 至 亦 未 繘 井,未 有 功 也。羸 其 瓶,是 以 凶 也。
Tồn hồ thủy nhi thượng thủy. Tỉnh. Tỉnh dưỡng nhi bất cùng dã. Cải ấp bất cải tỉnh. Nãi dĩ cương trung dã. Ngật chí. Diệc vị duật tỉnh. Vị hữu công dã. Luy kỳ bình. Thị dĩ hung dã.
Dịch.
Ném gầu vào múc nước lên,
Tỉnh là Tồn dưới, thủy trên rõ rành.
Giếng là nguồn mạch dưỡng sinh,
Dưỡng nuôi mãi mãi, công trình dài lâu.
Rời làng, giếng chẳng rời đâu,
Cương cường, trung chính, trước sau vững bền.
Hụt dây, nên nước không lên,
Nghĩa là dang dở, không nên công trình,
Dùng gầu rạn nứt, chẳng lành.
Không lành, không lặn, đã đành là hung.
Thoán Truyện giải thích Tỉnh là ném gầu vào nước để múc nước lên. Thoán viết: Tồn hồ thủy nhi thượng thủy. Tỉnh. Thoán Truyện cũng cho biết đặc tính của giếng là cung cấp nước nuôi dân mãi mãi chẳng cùng (Tỉnh dưỡng nhi bất cùng dã). Kế đó Thoán Truyện giải thích Thoán từ: Cải ấp bất cải tỉnh. Nãi dĩ cương trung dã là thay đổi ấp, mà không thay đổi giếng, vì giếng là cái gì thiên nhiên, còn làng mạc là cái gì nhân tạo. Cương trung tức là cái gì lý tưởng, thiên nhiên. Muốn kín nước, phải giòng dây xuống cho tới mực nước, chưa tới nước thì chưa đi tới đâu (Ngật chí. Diệc vị duật tỉnh. Vị hữu công dã). Muốn kín nước, mà gầu lại thủng, lại vỡ, thì thật là hỏng chuyện (Luy kỳ bình. thị dĩ hung dã).
- Giếng tượng trưng cho cái gì hằng cửu, còn các tổ chức xã hội khác như làng mạc, thôn xóm, tượng trưng cho cái gì biến thiên. Nơi xã hội, giếng cũng tượng trưng cho nhân luân. Dẫu hình thức chính trị đổi thay, dẫu triều đại luân chuyển, nhưng nhân luân sau trước vẫn y nguyên.
-Giếng cũng tượng trưng cho nguồn sống, cho thiên tính nơi con người. Đó là tầng lớp sâu xa nhất trong con người. Nếu một tổ chức xã hội nào, một nền văn minh, giáo dục nào mà sao lãng nguồn sống ấy, thiên tính ấy, thì chỉ là cơ cấu nhân tạo tạm bợ, không có ích lợi gì lâu dài; y như đi múc nước giếng, mà dây không đủ dài, gầu không đủ kín, thời sao múc được nước ăn.
Nói cách khác, trong cuộc tu thân của chúng ta, điều cốt yếu là phải đạt tới nguồn mạch siêu nhiên, sống động trong con người. Nếu trạng thái siêu nhiên ấy chưa đạt được, thời con người chỉ sống trong tình trạng giả tạo, y thức như người muốn uống nước giếng trong mát, mà dây không đủ dài, gầu không đủ kín, nên đành phải chịu khát.
Tào Thăng giải Tỉnh là cái gì bất biến tượng trưng cho Đạo. Tỉnh cũng tượng trưng cho đời sống chính trị, cũng y như giếng cần phải có nước luôn luôn, để cung cấp nhu cầu cho nhân loại.
Vương đạo hay một nền hành chánh hoàn hảo, cũng là nguồn mạch sống động của đời sống quốc gia. Không gian, thời gian có thể đổi thay, nhưng một nền cai trị hoàn hảo bao giờ cũng là lý tưởng của nhân loại.
Tóm lại, Thoán của quẻ Tỉnh dạy ta hai bài học chính yếu:
1- Phải cố gắng đạt tới nguồn mạch sống động, siêu nhiên nơi con người, phải đạt tới Trời, tới Đạo, nơi tầng sâu con người, để thoả mãn nguyện vọng sâu xa, huyền bí nơi con người.
2- Phải có 1 nền hành chánh hoàn hảo, để thoả mãn nhu cầu muôn dân.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 木 上 有 水 . 井 . 君 子 以 勞 民 勸 相 .
Tượng viết:
Mộc thượng hữu thủy. Tỉnh. Quân tử dĩ lao dân khuyến tướng.
Dịch. Tượng rằng:
Tỉnh là nước có trên cây,
Khuyên dân lao tác, dở hay đỡ đần.
Mới hay quân tử thương dân,
Nuôi dân, lại dạy tương thân, tương phù.
Giải là : Trên gỗ, trên cây có nước là giếng. Người quân tử nhân đó khuyến khích dân lao tác, và giúp đỡ lẫn nhau. Nói là nước trên gỗ, trên cây, vì xưa dùng cần cây, dùng gầu mà múc nước lên. Vua chúa xưa đã tổ chức phương pháp Tỉnh Điền để chúng đân đồng lao, cộng tác với nhau. Phép Tỉnh Điền được gói ghém trong chữ Tỉnh. Chữ Tỉnh gồm có 9 ô:
-Tám ô chung quanh là ruộng đất chia cho 8 gia đình, gọi là tư điền. Ô thứ 9, ở giữa có cái giếng, gọi là công điền. 8 gia đình chung quanh, cùng ăn nước ở cái giếng chung ấy, lại cùng khai thác thửa ruộng công điền ấy để nộp lợi tức cho triều đình. Còn phần tư điền bên ngoài, làm được bao nhiêu thời giữ lấy mà ăn.
Thế là nhờ phép Tỉnh điền, vua chúa vừa khiến dân lao tác, vừa khuyến khích họ tương trợ lẫn nhau.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Hào từ & Tiểu Tượng Truyện, nói lên các điều kiện mà một giếng nước cần phải có.
-Nước giếng không được dơ bẩn (Hào Sơ).
-Giếng không được nứt rạn, có hang hốc chung quanh (Hào nhị).
-Giếng tốt, nhưng cần phải được người dùng (Hào 3)
-Giếng cũng có khi cần sang sửa lại (Hào 4).
-Khi giếng có nước ngon, cần phải để cho mọi người dùng (Hào 5, 6).
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 井 泥 不 食 . 舊 井 無 禽 .
象 曰 . 井 泥 不 食 . 下 也 . 舊 井 無 禽 . 時 舍 也 .
Sơ Lục.
Tỉnh nê bất thực. Cựu tỉnh vô cầm.
Tượng Truyện.
Tỉnh nê bất thực. Hạ dã. Cựu tỉnh vô cầm. Thời xả dã.
Dịch.
Giếng bùn, chẳng thể uống ăn,
Giếng xưa quạnh quẽ, biệt tăm chim trời.
Tượng rằng:
Giếng bùn, chẳng thể uống ăn.
Nghĩa là đáy đục, chỉ thuần bùn dơ.
Giếng xưa chim chóc hững hờ,
Người đời ruồng rẫy, nên ra hoang tàn.
Giếng cần phải tinh khiết. Nước giếng mà bùn, đục, thời sẽ chẳng ai ăn (Tỉnh nê bất thực). Chẳng những thế chim muông cũng bỏ rơi, không thèm lai vãng nữa, (Cựu tỉnh vô cầm).
Tiểu Tượng giải rằng: Giếng bùn đục không ai ăn, là vì giếng cạn quá (Tỉnh nê bất thực hạ đã). Giếng xưa hoang phế, chim muông không còn lai vãng tới nữa, là vì giếng đã bị người đời bỏ không dùng (Cựu tỉnh vô cầm. thời xã dã). Cũng một lẽ, những người hạ tiện, dơ bẩn, hèn hạ trong xã hội, cũng sẽ bị đời ruồng bỏ không dùng.
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 井 谷 射 鮒 . 瓮 敝 漏 .
象 曰 . 井 谷 射 鮒 . 無 與 也 .
Cửu nhị.
Tỉnh cốc xạ phụ. Ửng tệ lậu.
Tượng viết:
Tỉnh cốc xạ phụ. Vô dữ dã.
Dịch.
Giếng mà có ngách rỉ xuôi,
Nước rò rỉ xuống, nuôi loài ốc sên.
Giếng mà gáo lại chẳng bền,
Giếng mà gáo thủng, nước lên cách nào?
Tượng rằng:
Nước mà có ngách rỉ xuôi,
Nước rò rỉ xuống, nuôi loài ốc sên.
Giếng mà chẳng có nước lên,
Tại vì chẳng được bên trên khuông phò.
Hào Cửu nhị: Một cái giếng, mà có hang, có hốc chung quanh (Tỉnh cốc), thời nước giếng sẽ rò rỉ ra bên ngoài (Xạ), bất quá là nuôi được các loài sên, loài ốc (Phụ), chứ còn nước đâu nữa mà cung cấp cho người. Hoặc đi kín nước, lại dùng gầu rách, gầu thủng thì làm sao mà có nước? (Ửng tệ lậu).
Đó là trường hợp những người có tài, mà vì không có lý tưởng cao đại, chí hướng vững chắc, nên đã để cho tài năng mình phao phí, mai một. Chẳng những thế, lại hạ mình theo vật dục, bầu bạn với tiểu nhân, hạ cấp, thì làm sao có thể làm ích cho đời?. Tiểu tượng bình rằng: Giếng có hang hốc, nước rò rĩ ra ngoài để nuôi sên ốc, là có ý nói rằng: Không còn được cấp trên đoái tưởng nữa.
Tượng viết: Tỉnh cốc xạ phụ. Vô dữ dã. Một người thiếu tư cách, không còn được cấp trên ngó ngàng tới, thì cũng vô dụng như cái giếng, mà nước rò rỉ hết ra ngoài, hay cái gầu múc nước bể, thủng không còn kín nước được nữa.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 井 渫 不 食 . 為 我 民 惻 . 可 用 汲 . 王 明 . 并 受 其 福 .
象 曰 . 井 渫 不 食 . 行 惻 也 . 求 王 明 . 受 福 也 .
Cửu tam.
Tỉnh tiết bất thực. Vi ngã tâm trắc. Khả dụng cấp.
Vương minh. Tỉnh thụ kỳ phúc.
Tượng viết:
Tỉnh tiết bất thực. Hành trắc dã. Cầu vương minh. Thụ phúc dã.
Dịch.
Giếng trong, mà chẳng ai ăn,
Làm ta luống những băn khoăn tấc lòng.
Băn khoăn vì nước giếng trong,
Thời nên kín nước mà dùng, mà ăn.
Nếu như có được minh quân,
Toàn dân phúc trạch, hồng ân tràn đầy.
Tượng rằng:
Giếng trong mà chẳng ai ăn,
Bộ hành luống những băn khoăn tấc lòng.
Cầu cho có đấng minh quân,
Toàn dân phúc trạch, hồng ân tràn đầy.
Hào Cửu tam: Khi đã có nước giếng tốt, nước đã lắng trong (Tỉnh tiết), mà vẫn bị người đời quên không dùng (Bất thực); thấy tình cảnh ấy, ai cũng phải bùi ngùi tấc dạ (Dĩ ngã tâm trắc). Đây là một thứ nước giếng có thể cung cấp nước ngon (Khả dụng cấp). Nếu gặp được minh quân dùng, thời cả đôi bên đều được phúc khánh (Vương minh tịnh thụ kỳ phúc).
Tượng Truyện bàn thêm rằng: Nước giếng trong mát mà không được ăn, nên người bộ hành thấy bùi ngùi tấc dạ, ước mong gặp được đấng minh quân, có gặp thì cả hai đàng đều được phúc khánh.
Tượng viết: Tỉnh tiết bất thực. Hành trắc dã. Cầu vương minh thụ phúc dã. (Tiết là trong; hành là người đi đường) Dương Mưu Trai bình rằng: Nước ngon có thể ăn là phần của giếng, không ăn nước giếng là quyền của người. Không được ăn, giếng không than thở, nhưng người đi đường phải than thở. Đây không phải than thở cho giếng, mà than thở cho người quân tử có tài, có đức mà không được trọng dụng. Giếng một khi được dùng , thời cả thôn ấp được phúc. Có giếng ngon mà không được dùng, thời cũng như không có giếng. Có hiền nhân mà không có minh vương, thời cũng như không có hiền nhân. Đức Khổng nói: Không có minh vương ra đời, thời thiên hạ ai là người biết trọng dụng ta (Lễ ký) (Minh vương bất hưng. Thiên hạ thục năng tông dư).
Hào Cửu tam tuy nói về giếng, mà thực ra nói về người quân tử. Nếu không có bậc minh quân như vua Nghiêu, thời vua Thuấn âu chỉ là một ngư phủ nơi điền trạch. Nếu không có một minh vương như Cao Tông, thời Phó Duyệt chỉ là một dung phu nơi núi rừng...
4. Hào Lục tứ.
六 四 . 井無 咎 .
象 曰 . 井無 咎 . 修 井 也 .
Lục tứ.
Tỉnh trứu vô cữu.
Tượng viết:
Tỉnh trứu vô cữu. Tu tỉnh dã.
Dịch.
Giếng xây, sửa lại lỗi chi
Tượng rằng:
Giếng xây, sửa lại lỗi chi.
Sửa sang cho giếng có bề khang trang.
Hào Lục tứ: (Trứu là lát gạch, sang sửa lại phía bên trong giếng). Giếng đôi khi cần ngưng cung cấp nước, để sửa chữa lại phía bên trong cho hẳn hoi. Như vậy có gì là đáng trách đâu.
Tượng Truyện giải: Tỉnh trứu là chữa giếng.
Tượng viết: Tỉnh trứu vô cữu. Tu tỉnh dã. Các công bộc quốc gia, nhiều khi cũng phải có thời gian để tu bổ lại:
-Tu bổ lại nghề nghiệp
-Chấn chỉnh lại lề lối làm việc.
-Tu sửa lại đức hạnh.
Như vậy, tuy mất ít ngày không làm ích cho đời, như giếng đang sửa phải ngưng cung cấp nước, nhưng sau đó sẽ trở nên mới, nên hay, và sẽ giúp ích nhiều hơn.
Sửa giếng cho giếng trở nên tốt, tức là Nhật tân kỳ đức. Xây giếng cho hết mọi lỗ hổng tức là Nhàn tà, Tồn thành, là ngăn chặn mọi điều tà ác, để giữ gìn lấy cái tinh thành. Hào 4 này dạy ta những bài học tu thân chí lý vậy.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 井 冽 . 寒 泉 食.
象 曰 . 寒 泉 之 食 . 中 正 也 .
Cửu ngũ.
Tỉnh liệt. Hàn tuyền thực.
Tượng viết:
Hàn tuyền chi thực. Trung chính dã.
Dịch.
Giếng mà trong vắt, trong veo,
Nước tuôn mát lạnh cho nhiều người ăn.
Tượng rằng:
Nước tuôn mát lạnh, người ăn,
Là đem trung chính trị dân, trị đời.
Hào Cửu ngũ đây vì Dương cương trung chính, lại ở ngôi trên, nên tài đức đều tận thiện, tận mỹ. Đối với giếng, thì đó là một giếng nước trong (Tỉnh liệt), do 1 mạch nước mát mẻ cung cấp (Hàn tuyền), như vậy có thể dùng để ăn được (Thực). Tượng Truyện bình rằng: Nước giếng trong mát, có thể ăn được, là chí thiện, là hoàn hảo vậy.
Một giếng nước chỉ trở nên hữu ích, khi nào được uống, được ăn. Một nhà lãnh đạo hoàn hảo, chỉ trở nên hữu ích thực sự, khi làm cho dân được theo phương châm mình, tôn chỉ mình mà hành động. Như vậy, ích lợi mới trở nên vô tận (Hàn tuyền chi thực. Trung chính dã).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 井 收 勿 幕 . 有 孚 無 吉 .
象 曰 . 元 吉 在 上 . 大 成 也 .
Thượng Lục.
Tỉnh thu vật mạc. Hữu phu nguyên cát.
Tượng viết:
Nguyên cát tại thượng. Đại thành dã.
Dịch.
Giếng ngon, người múc tha hồ,
Chẳng nên đậy điệm, để cho người dùng.
Nước tuôn mãi mãi chẳng cùng,
Thế là mỹ mãn, thành công tốt lành.
Hào Thượng Lục: Giếng nước ngon, đã được mọi người đến múc (Tỉnh thu) thời hãy để mặc tình cho đời dùng, chẳng nên đậy nó làm chi (Vật mạc). Nếu cứ được như vậy mãi, (Hữu phu), sẽ được muôn phần tốt đẹp (Nguyên cát).
Các quẻ khác, thì khi nói đến Hào 6, là nói đến biến, đến cực, đến bất dụng. Riêng quẻ Tỉnh, quẻ Đỉnh thời cung cấp vật thực, nên cái hay nhất là nước được đem ra dùng, đồ ăn được đem ra ăn. Vì thế Tượng Truyện mới bình rằng: Quẻ Tỉnh này, Hào trên hết mới thật là hay (Nguyên cát tại thượng), vì lúc này nói là lúc thành công mỹ mãn.(Đại thành dã). Xét về phương diện nhân sự, thì người quân tử ở cao ngôi, làm ích cho đời càng nhiều, càng hay, càng lâu, càng tốt, như vậy mới là thành công mỹ mãn, như vậy mới là đại thành.
ÁP DỤNG QUẺ TỈNH VÀO THỜI ĐẠI
Ta phải biết khai thác những khả năng còn tiềm ẩn trong ta, từ lúc còn ở học đường, nếu có thể, để giáo sư chú ý đến ta, mà tiến dẫn ta mai sau.
Khi làm việc trong một hãng xưởng nào, nếu ta thấy ta có tài gì đặc biệt, mà chưa được cấp trên biết tới, thì ta phải tìm cách thi thố tài năng đó, bằng cách nhờ người đề bạt, hay tự mình đề bạt lên cấp trên. Không nên ù lì, nhút nhát, chịu yên phận một chỗ, để mai một tài năng mình. Một khi đã lên cao rồi, thì phải hết sức mang tài ra, mà làm những công việc ích nước, lợi dân. Phải luôn luôn học hỏi nghiên cứu, để tiến thêm, chớ đừng tự mãn, cho thế là đủ, rồi đâm ra lười biếng, quay ra hưởng lạc, thì uổng phí tài năng. Và như vậy, thì cũng như giếng tốt mà không có người dùng.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
7 TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ
TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ
Đại Quá Tự Quái
大 過 序 卦
Di giả dưỡng dã.
頤 者 養 也
Bất dưỡng tắc bất khả động.
不 養 則 不 可 動
Cố thụ chi dĩ Đại Quá.
故 受 之 以 大 過
Đại Quá Tự Quái
Di là di dưỡng muôn loài trước sau,
Có nuôi, chuyển động mới mầu.
Cho nên Đại Quá, lẽ âu tiếp vào.
Đại Quá là quẻ có 4 Hào Dương bên trong, còn Sơ và Thượng là Âm. Dương quá nhiều hơn Âm, mà Dương là Đại, nên gọi Đại Quá.
Vì vậy, Đại Quá là thời kỳ Quân tử mạnh hơn Tiểu nhân. Nhưng Đại Quá, vì trên dưới là hào Âm cả, nên ví như cái cột mà trên, dưới 2 đầu đã yếu, đã oẻ, khó lòng đứng vững, hay như một cái cây đã khô, vì sinh lực không còn ở gốc, hay ở ngọn nữa. Như vậy Đại Quá chính là một trường hợp khẩn trương phi thường, cần phải có người tài đức phi thường, làm những công chuyện phi thường mới cứu vãn nổi.
Vì thế Đại Quá vừa là phi thường chi thế, vừa là phi thường chi nhân, chi sự. Đại Quá là quá cương, nên trong quẻ bàn rằng: muốn làm nên đại công, đại nghiệp, thời cương là hay, nhưng quá cương đến mức quá tự tín, quá khinh thường, khinh thị là dở, phải cẩn trọng mới nên công.
Cương quá mức, làm vượt quá thời, hoạt động mà đến phải rơi xuống hồ (Đại Quá, trên có Đoài là Hồ, dưới có Tốn = Nhập = rơi vào). Tuy là những người phi phàm, có tư cách xuất chúng, nhưng đời thường chẳng dung! Cho nên phải biết cẩn thận, lo lắng, đề phòng, xét mình sửa sai, thì mới có thể đáp ứng được Thiên Mệnh.
Hào Âm mà ở vị âm là quá Nhu.
Hào Dương mà ở vị Dương, là quá Cương, không hay. (Âm hào ở Dương vị, Dương hào ở Âm vị mới tốt.) Thế là dạy con người phải biết lúc Cương, lúc Nhu, lúc Tiến, lúc Thoái, chứ đừng khăng khăng một mực.
I. Thoán.
Thoán Từ.
大 過 . 棟 橈 . 利 有 攸 往 . 亨 .
Đại Quá. Đống nạo. Lợi hữu du vãng. Hanh.
Dịch.
Đại Quá là cột yếu chân.
Hiền nhân thịnh đạt, tiểu nhân suy tàn.
Công trình hãy liệu tính toan,
Mưu cầu, rồi sẽ đường hoàng, hanh thông.
Đại Quá là thời quân tử thịnh, tiểu nhân suy, vì vậy đó chính là lúc để làm những đại công, đại nghiệp (Lợi hữu du vãng. Hanh).
Thoán Truyện.
彖 曰 : 大 過 . 大 者 過 也 . 棟 橈 . 本 末 弱也 . 剛 過 而 中 . 巽 而 說 行 . 利 有 攸 往 . 乃 亨 . 大 過 之 時 大 矣 哉.
Thoán viết.
Đại Quá. Đại giả quá dã. Đống nạo. Bản mạt nhược dã. Cương quá nhi trung. Tốn nhi duyệt hành. Lợi hữu du vãng. Nãi hanh. Đại quá chi thời đại hĩ tai.
Dịch.
Đại Quá, ấy là to lớn quá,
Cột đã cong, thượng hạ yếu mềm.
Cương cường, nhưng vẫn chính chuyên.
Dịu dàng, vui vẻ, hóa nên công trình,
Cứ hăng hái, tiến hành công tác.
Sẽ có ngày hoan lạc, hanh thông,
Muốn làm đại sự, đại công,
Gặp thời, gặp vận, mới mong như nguyền.
Đại Quá vì Sơ, Thượng là Âm, mà bốn hào giữa là Dương, tượng như cây cột mà trên, dưới yếu, ở giữa lại cứng, nên không thể đứng thẳng, mà sẽ oẻ, sẽ cong, vì thế nói: Đống nạo. Bản mạt nhược dã. Tuy Dương cương quá thịnh, nhưng Nhị, Ngũ đều đắc trung (Cương quá nhi trung). Đại Quá có Tốn ở dưới là Tốn thuận (Tốn nhi duyệt hành), trên có Đoài là hòa duyệt, thời làm công chuyện sẽ đi đến hanh thông (Lợi hữu du vãng. Nãi hanh).
Nói cách khác, phàm làm đại công, đại sự, tuy phải cương quyết, nhưng cũng phải hết sức khéo léo, xử sao cho vừa ý, đẹp lòng mọi người, mới dễ nên công. Thời Đại Quá thật là một thời buổi phi thường, nó đòi hỏi những nhân vật phi thường lỗi lạc, những công chuyện phi thường (Đại Quá chi thời đại hĩ tai). Xưa, nay đã có bao chuyện phi thường:
* Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn, thay vì cho con là phi thường
* Đức Trần Hưng Đạo đã 3 lần diệt quân Nguyên là một nhân vật phi thường, đã làm nên công chuyện phi thường.
* Thám hiểm trên Cung trăng là công chuyện phi thường của ngày nay vậy.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 : 澤 滅 木 . 大 過 . 君 子 以 獨 立 不 懼 . 遯 世 無 悶 .
Tượng viết: Trạch diệt mộc. Đại Quá. Quân tử dĩ độc lập bất cụ. Độn thế vô muộn.
Dịch.
Tượng rằng: Hồ ngập lút cây,
Ấy là câu chuyện xưa nay phi thường.
Nên người quân tử xem gương,
Hiên ngang, độc lập, đường đường, sợ chi.
Dẫu rằng chẳng tiếng tăm gì,
Sống đời ẩn dật, chẳng khi phiền sầu.
Tượng Truyện bình luận thẳng về những bậc hiền tài, phi phàm, thoát tục, và cho rằng những bậc phi phàm, phải sống cuộc đời phi phàm, phải vượt trổi chúng nhân, đừng có lo âu, sợ hãi, buồn phiền. Vì những người tầm thường, làm sao hiểu được những bậc phi thường trong trần thế.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. 初 六 : 藉 用 白 茅 . 無 咎 .
象 曰 : 藉 用 白 茅 . 柔 在 下 也 .
Hào Sơ Lục.
Sơ Lục. Tạ dụng bạch mao. Vô cữu.
Tượng viết: Tạ dụng bạch mao. Nhu tại hạ dã.
Dịch. Sơ Lục.
Cỏ tranh dùng để lót đồ,
Một niềm thận trọng, khỏi lo lỗi lầm.
Tượng rằng:
Cỏ tranh dùng để lót đồ,
Vì còn thấp kém, nên lo lỗi lầm.
Hào Sơ dạy bài học cẩn trọng, cỏ gianh tuy hèn, nếu biết dùng để lót, để trải dưới đất, cho đồ quí khỏi hư, thì lỗi chi đâu.
2. 九 二 : 枯 楊 生梯 . 老 夫 得 其女 妻 . 無 不 利 .
象 曰 : 老 夫 女 妻 . 過 以 相 與 也 .
Hào Lục nhị.
Lục nhị. Khô dương sinh đề. Lão phu đắc kỳ nữ thê. Vô bất lợi.
Tượng viết: Lão phu nữ thê. Quá dĩ tương dự dã.
Dịch. Cửu nhị.
Dương khô, mà rễ lại sinh,
Ông già, mà lại được tình gái tơ.
Âm Dương, tương tế, tương phò.
Làm gì mà chẳng hay ho, chu toàn.
Tượng rằng:
Ông già, mà lấy gái tơ,
Thế thời khắng khít quá đa còn gì.
Hào hai là Dương cư Âm vị, thế tức là Cương, Nhu tương tế, là đắc trung, dụng nhu. Hào 2 là Dương, mà kế với Hào Sơ là Nhu, y như ông già mà lấy được bà vợ trẻ, có khác nào cây Dương đương khô, mà tự nhiên lại sinh rễ, lại sống động lại. Ý muốn nói: Phàm làm đại công, đại sự, mà biết Cương, biết Nhu, biết tiến, biết thoái, cho khéo léo, lại biết dùng những người dưới, thì có thể canh tân được thế cuộc.
3. 九 三 : 棟 橈 . 凶 .
象 曰 : 棟 橈 之 凶 . 不 可 以 有 輔 也 .
Hào Cửu tam.
Cửu tam. Đống nạo. Hung.
Tượng viết: Đống nạo chi hung. Bất khả dĩ hữu phụ dã.
Dịch.
Cột nhà mà oẻ cái chân.
Oẻ chân thì chắc nhiều phần chẳng hay.
Tượng rằng:
Cột nhà chân chẳng ra chi,
Làm sao có kẻ hộ trì giúp công.
Hào tam đã Cương mà lại ở vị Dương, thế là quá Cương. Hào này là hào cuối của quẻ Tốn, mà Tốn có hào Sơ là Âm, y như cây cột bị ỏe chân (Đống nạo. Hung).
Quá Cương, quá tự phụ, không coi ai ra gì, thì làm sao mà có người cộng tác, như vậy sẽ như cây cột bị oẻ chân, sẽ làm cho cả tòa nhà bị sụp đổ, đại cuộc sụp đổ (Đống nạo chi hung. Bất khả dĩ hữu phụ dã).
4. 九 四 . 棟 隆 . 吉 . 有 它 吝 .
象曰 . 棟 隆 之 吉 . 不 橈 乎 下 也 .
Hào Cửu tứ.
Cửu tứ. Đống long. Cát. Hữu tha lận.
Tượng viết: Đống long chi cát. Bất nạo hồ hạ dã.
Dịch.
Cột cao thời tốt, thời hay,
Sinh lòng kia khác, tiếc thay sự tình.
Tượng viết:
Cột cao mà tốt, mà hay.
Là vì chân chẳng lung lay, oẻ mềm.
Cửu tứ là Dương Cương, mà lại cư Âm, thế nên không quá Cương, lại là Hào dưới cùng của quẻ Đoài. Mà Đoài có 2 hào dưới Dương, hào trên Âm, tức là dưới thực, trên hư, dưới chắc, trên yếu. Vì thế, Cửu tứ gợi lên một cây cột vững vàng (Đống long cát). Mình đã vững, đã có thanh thế, đã khéo xử sự, thì đừng có hệ lụy tiểu nhân nữa, kẻo sẽ bị chê cười. Hào tứ nói: Hữu tha lận, là chớ nên bịn rịn với Sơ, mà sinh lòng kia khác, ví dụ như để củng cố địa vị, mưu cầu tư lợi, như thế sẽ bị chê cười.
5. 九 五 . 枯 楊 生 華 . 老 婦 得 士 夫 . 無 咎 無 譽 .
象 曰 . 枯 楊 生 華 . 何 可 久 也 . 老 婦 士 夫 . 亦 可 丑 也 .
Hào Cửu ngũ.
Cửu ngũ. Khô Dương sinh hoa. Lão phụ đắc kỳ sĩ phu. Vô cữu vô dự.
Tượng viết: Khô Dương sinh hoa. Hà khả cửu dã. Lão phụ sĩ phu. Diệc khả xú dã.
Dịch Cửu ngũ.
Dương khô mà lại trổ hoa,
Bà già mà lại được chồng là con trai.
Chê bai, ai nỡ chê bai,
Nhưng mà danh giá, có đời nào đâu.
Tượng rằng:
Dương khô, mà lại trổ hoa,
Hoa kia hỏi được sẽ là bao lâu.
Vợ già, chồng trẻ hay đâu,
Chẳng qua, để hổ cho nhau bấy chầy.
Cửu ngũ là người có tài, có đức, muốn làm nên đại công, đại nghiệp, nhưng thay vì đi sát với quần chúng, lại lo cộng tác với những kẻ tiểu nhân, tuy có địa vị (thượng lục), nhưng không có thực tài, chỉ có hư danh. Như vậy có khác nào một cây Dương đã khô héo, lại còn trổ thêm một vài bông hoa (Khô Dương sinh hoa), hoa nở sẽ tàn đi, và lôi cuốn theo cả tàn lực của cây; cũng như chồng trẻ mà lấy phải vợ già, làm sao mà sinh con cái (Lão phụ đắc kỳ sĩ phu).
Họ không đáng chê, vì làm chính trị phải tìm vây cánh; nhưng cũng không đáng khen, vì cộng tác với những kẻ tiểu nhân hữu danh, vô thực, thời làm sao nên công (Vô cữu vô dự), nhưng chắc họ sẽ lấy làm tự hổ (Diệc khả xú dã).
6. 上 六 . 過 涉 滅 頂 . 凶 . 無 咎 .
象 曰 . 過 涉 之 凶 . 不 可 咎 也 .
Hào Thượng Lục.
Thượng Lục. Quá thiệp diệt đỉnh. Hung. Vô cữu.
Tượng viết: Quá thiệp chi hung. Bất khả cữu dã.
Dịch. Thượng Lục:
Quá sâu lội ngập cả đầu,
Việc đành rằng xấu, đừng sầu oán ai.
Tượng rằng:
Lội sâu, chìm nghỉm là hung,
Thôi đừng oán trách lung tung làm gì.
Hào Thượng Lục đã Nhu, mà lại ở Âm vị, là quá Nhu. Ở cuối quẻ Đại Quá là lúc khó khăn nhất, đòi hỏi một nhân tài phi thường. Nếu không tự lượng, mà cũng cứ ra tay gánh vác bừa, thì có khác nào lội nước quá sâu, ngập lút cả đầu đâu. Xưa nay, biết bao người có lòng tha thiết cứu đời, đã thật sự xả thân cứu đời, nhưng vì tài thô, trí thiển, không đủ kiến thức, mưu lược, kinh luân, nên đã bị ngọn trào lịch sử nhận chìm. Xét việc thành bại thật đáng buồn cho họ, nhưng xét về khí tiết của họ, thì nào có gì đáng chê trách họ đâu.
ÁP DỤNG QUẺ ĐẠI QUÁ VÀO THỜI ĐẠI
Thời đại nào cũng có những người phi phàm, có tài năng, tư cách xuất chúng, nhưng lại chỉ có một số rất ít (phải nói là quá ít), là thành công mà thôi. Tại sao vậy?
Tôi xin mạo muội mượn lời dạy của quẻ Đại Quá trên, mà phân tách: Yếu tố nào đã khiến những người có tài năng hơn người đó lại thất bại. Tôi xin đưa ra 2 trường hợp:
A) Người làm chính trị: Họ thất baị là vì có nhiều nguyên do:
1) Vì không có mục đích, môi trường, chủ trương chính đáng.
2) Vì yếu ớt, thiếu lực lượng thì chỉ có 2/10, mà thất bại vì nóng nảy, ương ngạnh, thì có đến 8/10. Những người này thường cho mình là chính nhân, quân tử, mà mọi người khác là Tiểu nhân, chỉ mình là hay, còn người khác là dở.
3) Làm gì cũng muốn thành công mau, kết quả vội. Vì thế bọn tiểu nhân dễ xu phụ, du nịnh, làm ra vẻ mặt phục tùng, theo ý thích của họ, làm cho họ trở nên cao ngạo. Họ làm công việc không suy tính, không dựa vào chúng dân, mà lại dựa vào những người hữu danh, vô thực, thì nếu may mắn mà được một chút như ý, thì thử hỏi: Hoa nở cành khô sống mấy mươi.
B. Người có tài năng thật sự: Như những nhà Bác Học, Khoa Học gia, Kỹ sư phát minh, hoặc những người không có bằng cấp ngoài đời, nhưng họ có tài năng, sáng kiến vượt bực.
1) Những nhà Bác Học, Khoa Học gia: những người này phần lớn được Chính Phủ giúp đỡ về mọi phương diện, nên khi tìm được cái gì, là được công bố kết quả, nên do đó danh vọng dễ lên, vì được nhiều người biết tiếng, tiền tài tương đối cũng khả quan
2) Những người giỏi, có tài năng, nhưng không có bằng cấp ngoài đời: Họ biết là họ không có bằng cấp, học lực bằng ai, vì thế họ không kiêu ngạo. Lúc đầu, họ mang hết tài năng, sáng kiến ra để làm những cái nho nhỏ, vừa đủ tài sức họ, sau khi đã thành công, họ mới phát triển lớn ra, và họ dùng tiền mướn những người kỹ sư giỏi về cộng tác, để kiếm tiền cho họ. Do đó số người này, về mặt kiếm tiền khá thành công, vì họ biết cách dùng người.
3) Những người có tài năng, bằng cấp, óc phát minh: Những người này là những người chịu thiệt thòi nhất, bị lớp người trên lợi dụng tài năng mình để kiếm tiền cho họ, và còn bị họ che dấu tài năng mình, và chỉ trả mình số lương tối thiểu, so với số lợi tức mà mình đã kiếm ra cho họ.
Tại sao, những người có tài năng lại bị bóc lột như vậy mà không biết giải quyết . Làm sao có thể giải quyết?
Theo thiển ý của tôi: Những người có thực tài, phải có quyết tâm phát triển tài mình một cách độc lập, nếu có thể nên có những ý kiến sau:
* Những người có tài, phải cộng tác với nhau thành một khối. Khối này sẽ do một vị anh minh, sáng suốt, có lòng vị tha, không cao ngạo đứng đầu, cùng với một bộ phận gồm nhiều người tài giỏi khác (được bầu) lãnh đạo. Những vị này, trừ vị chỉ huy lúc đầu là chủ tịch, còn chỉ được giữ chức vụ, lương bổng, trong nhiệm kỳ có giới hạn.
* Chính phủ phải nâng đỡ họ về mặt tài chính lúc đầu để họ và gia đình có đủ phương tiện sống, mà tiến hành công cuộc phát minh. Khi đã thành nếp, thì lương hướng của họ nhiều, ít sẽ tùy theo sự thành công của họ.
Thành công của họ phải được công bố trên báo chí, để khuyến khích họ và những người theo sau họ. Như vậy mới công bằng, và như vậy mới có sự cố gắng để tiến lên, và nhân tài mới có cơ phát triển.
Ước mong bài Áp dụng nhỏ bé này đến tay những ai có tài năng, óc độc lập, lòng cầu tiến, mà chưa đủ hùng tâm, can đảm tiến lên, thì hãy kêu gọi những người tài giỏi, đồng chí với mình đứng lên, mà thực hiện hoài bão, để tránh khỏi cảnh Người bóc lột người, và để người có tài năng có dịp thi thố đúng với khả năng của họ, thời kẻ viết bài này cũng đã mãn nguyện rồi.
TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ
Đại Quá Tự Quái
大 過 序 卦
Di giả dưỡng dã.
頤 者 養 也
Bất dưỡng tắc bất khả động.
不 養 則 不 可 動
Cố thụ chi dĩ Đại Quá.
故 受 之 以 大 過
Đại Quá Tự Quái
Di là di dưỡng muôn loài trước sau,
Có nuôi, chuyển động mới mầu.
Cho nên Đại Quá, lẽ âu tiếp vào.
Đại Quá là quẻ có 4 Hào Dương bên trong, còn Sơ và Thượng là Âm. Dương quá nhiều hơn Âm, mà Dương là Đại, nên gọi Đại Quá.
Vì vậy, Đại Quá là thời kỳ Quân tử mạnh hơn Tiểu nhân. Nhưng Đại Quá, vì trên dưới là hào Âm cả, nên ví như cái cột mà trên, dưới 2 đầu đã yếu, đã oẻ, khó lòng đứng vững, hay như một cái cây đã khô, vì sinh lực không còn ở gốc, hay ở ngọn nữa. Như vậy Đại Quá chính là một trường hợp khẩn trương phi thường, cần phải có người tài đức phi thường, làm những công chuyện phi thường mới cứu vãn nổi.
Vì thế Đại Quá vừa là phi thường chi thế, vừa là phi thường chi nhân, chi sự. Đại Quá là quá cương, nên trong quẻ bàn rằng: muốn làm nên đại công, đại nghiệp, thời cương là hay, nhưng quá cương đến mức quá tự tín, quá khinh thường, khinh thị là dở, phải cẩn trọng mới nên công.
Cương quá mức, làm vượt quá thời, hoạt động mà đến phải rơi xuống hồ (Đại Quá, trên có Đoài là Hồ, dưới có Tốn = Nhập = rơi vào). Tuy là những người phi phàm, có tư cách xuất chúng, nhưng đời thường chẳng dung! Cho nên phải biết cẩn thận, lo lắng, đề phòng, xét mình sửa sai, thì mới có thể đáp ứng được Thiên Mệnh.
Hào Âm mà ở vị âm là quá Nhu.
Hào Dương mà ở vị Dương, là quá Cương, không hay. (Âm hào ở Dương vị, Dương hào ở Âm vị mới tốt.) Thế là dạy con người phải biết lúc Cương, lúc Nhu, lúc Tiến, lúc Thoái, chứ đừng khăng khăng một mực.
I. Thoán.
Thoán Từ.
大 過 . 棟 橈 . 利 有 攸 往 . 亨 .
Đại Quá. Đống nạo. Lợi hữu du vãng. Hanh.
Dịch.
Đại Quá là cột yếu chân.
Hiền nhân thịnh đạt, tiểu nhân suy tàn.
Công trình hãy liệu tính toan,
Mưu cầu, rồi sẽ đường hoàng, hanh thông.
Đại Quá là thời quân tử thịnh, tiểu nhân suy, vì vậy đó chính là lúc để làm những đại công, đại nghiệp (Lợi hữu du vãng. Hanh).
Thoán Truyện.
彖 曰 : 大 過 . 大 者 過 也 . 棟 橈 . 本 末 弱也 . 剛 過 而 中 . 巽 而 說 行 . 利 有 攸 往 . 乃 亨 . 大 過 之 時 大 矣 哉.
Thoán viết.
Đại Quá. Đại giả quá dã. Đống nạo. Bản mạt nhược dã. Cương quá nhi trung. Tốn nhi duyệt hành. Lợi hữu du vãng. Nãi hanh. Đại quá chi thời đại hĩ tai.
Dịch.
Đại Quá, ấy là to lớn quá,
Cột đã cong, thượng hạ yếu mềm.
Cương cường, nhưng vẫn chính chuyên.
Dịu dàng, vui vẻ, hóa nên công trình,
Cứ hăng hái, tiến hành công tác.
Sẽ có ngày hoan lạc, hanh thông,
Muốn làm đại sự, đại công,
Gặp thời, gặp vận, mới mong như nguyền.
Đại Quá vì Sơ, Thượng là Âm, mà bốn hào giữa là Dương, tượng như cây cột mà trên, dưới yếu, ở giữa lại cứng, nên không thể đứng thẳng, mà sẽ oẻ, sẽ cong, vì thế nói: Đống nạo. Bản mạt nhược dã. Tuy Dương cương quá thịnh, nhưng Nhị, Ngũ đều đắc trung (Cương quá nhi trung). Đại Quá có Tốn ở dưới là Tốn thuận (Tốn nhi duyệt hành), trên có Đoài là hòa duyệt, thời làm công chuyện sẽ đi đến hanh thông (Lợi hữu du vãng. Nãi hanh).
Nói cách khác, phàm làm đại công, đại sự, tuy phải cương quyết, nhưng cũng phải hết sức khéo léo, xử sao cho vừa ý, đẹp lòng mọi người, mới dễ nên công. Thời Đại Quá thật là một thời buổi phi thường, nó đòi hỏi những nhân vật phi thường lỗi lạc, những công chuyện phi thường (Đại Quá chi thời đại hĩ tai). Xưa, nay đã có bao chuyện phi thường:
* Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn, thay vì cho con là phi thường
* Đức Trần Hưng Đạo đã 3 lần diệt quân Nguyên là một nhân vật phi thường, đã làm nên công chuyện phi thường.
* Thám hiểm trên Cung trăng là công chuyện phi thường của ngày nay vậy.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 : 澤 滅 木 . 大 過 . 君 子 以 獨 立 不 懼 . 遯 世 無 悶 .
Tượng viết: Trạch diệt mộc. Đại Quá. Quân tử dĩ độc lập bất cụ. Độn thế vô muộn.
Dịch.
Tượng rằng: Hồ ngập lút cây,
Ấy là câu chuyện xưa nay phi thường.
Nên người quân tử xem gương,
Hiên ngang, độc lập, đường đường, sợ chi.
Dẫu rằng chẳng tiếng tăm gì,
Sống đời ẩn dật, chẳng khi phiền sầu.
Tượng Truyện bình luận thẳng về những bậc hiền tài, phi phàm, thoát tục, và cho rằng những bậc phi phàm, phải sống cuộc đời phi phàm, phải vượt trổi chúng nhân, đừng có lo âu, sợ hãi, buồn phiền. Vì những người tầm thường, làm sao hiểu được những bậc phi thường trong trần thế.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. 初 六 : 藉 用 白 茅 . 無 咎 .
象 曰 : 藉 用 白 茅 . 柔 在 下 也 .
Hào Sơ Lục.
Sơ Lục. Tạ dụng bạch mao. Vô cữu.
Tượng viết: Tạ dụng bạch mao. Nhu tại hạ dã.
Dịch. Sơ Lục.
Cỏ tranh dùng để lót đồ,
Một niềm thận trọng, khỏi lo lỗi lầm.
Tượng rằng:
Cỏ tranh dùng để lót đồ,
Vì còn thấp kém, nên lo lỗi lầm.
Hào Sơ dạy bài học cẩn trọng, cỏ gianh tuy hèn, nếu biết dùng để lót, để trải dưới đất, cho đồ quí khỏi hư, thì lỗi chi đâu.
2. 九 二 : 枯 楊 生梯 . 老 夫 得 其女 妻 . 無 不 利 .
象 曰 : 老 夫 女 妻 . 過 以 相 與 也 .
Hào Lục nhị.
Lục nhị. Khô dương sinh đề. Lão phu đắc kỳ nữ thê. Vô bất lợi.
Tượng viết: Lão phu nữ thê. Quá dĩ tương dự dã.
Dịch. Cửu nhị.
Dương khô, mà rễ lại sinh,
Ông già, mà lại được tình gái tơ.
Âm Dương, tương tế, tương phò.
Làm gì mà chẳng hay ho, chu toàn.
Tượng rằng:
Ông già, mà lấy gái tơ,
Thế thời khắng khít quá đa còn gì.
Hào hai là Dương cư Âm vị, thế tức là Cương, Nhu tương tế, là đắc trung, dụng nhu. Hào 2 là Dương, mà kế với Hào Sơ là Nhu, y như ông già mà lấy được bà vợ trẻ, có khác nào cây Dương đương khô, mà tự nhiên lại sinh rễ, lại sống động lại. Ý muốn nói: Phàm làm đại công, đại sự, mà biết Cương, biết Nhu, biết tiến, biết thoái, cho khéo léo, lại biết dùng những người dưới, thì có thể canh tân được thế cuộc.
3. 九 三 : 棟 橈 . 凶 .
象 曰 : 棟 橈 之 凶 . 不 可 以 有 輔 也 .
Hào Cửu tam.
Cửu tam. Đống nạo. Hung.
Tượng viết: Đống nạo chi hung. Bất khả dĩ hữu phụ dã.
Dịch.
Cột nhà mà oẻ cái chân.
Oẻ chân thì chắc nhiều phần chẳng hay.
Tượng rằng:
Cột nhà chân chẳng ra chi,
Làm sao có kẻ hộ trì giúp công.
Hào tam đã Cương mà lại ở vị Dương, thế là quá Cương. Hào này là hào cuối của quẻ Tốn, mà Tốn có hào Sơ là Âm, y như cây cột bị ỏe chân (Đống nạo. Hung).
Quá Cương, quá tự phụ, không coi ai ra gì, thì làm sao mà có người cộng tác, như vậy sẽ như cây cột bị oẻ chân, sẽ làm cho cả tòa nhà bị sụp đổ, đại cuộc sụp đổ (Đống nạo chi hung. Bất khả dĩ hữu phụ dã).
4. 九 四 . 棟 隆 . 吉 . 有 它 吝 .
象曰 . 棟 隆 之 吉 . 不 橈 乎 下 也 .
Hào Cửu tứ.
Cửu tứ. Đống long. Cát. Hữu tha lận.
Tượng viết: Đống long chi cát. Bất nạo hồ hạ dã.
Dịch.
Cột cao thời tốt, thời hay,
Sinh lòng kia khác, tiếc thay sự tình.
Tượng viết:
Cột cao mà tốt, mà hay.
Là vì chân chẳng lung lay, oẻ mềm.
Cửu tứ là Dương Cương, mà lại cư Âm, thế nên không quá Cương, lại là Hào dưới cùng của quẻ Đoài. Mà Đoài có 2 hào dưới Dương, hào trên Âm, tức là dưới thực, trên hư, dưới chắc, trên yếu. Vì thế, Cửu tứ gợi lên một cây cột vững vàng (Đống long cát). Mình đã vững, đã có thanh thế, đã khéo xử sự, thì đừng có hệ lụy tiểu nhân nữa, kẻo sẽ bị chê cười. Hào tứ nói: Hữu tha lận, là chớ nên bịn rịn với Sơ, mà sinh lòng kia khác, ví dụ như để củng cố địa vị, mưu cầu tư lợi, như thế sẽ bị chê cười.
5. 九 五 . 枯 楊 生 華 . 老 婦 得 士 夫 . 無 咎 無 譽 .
象 曰 . 枯 楊 生 華 . 何 可 久 也 . 老 婦 士 夫 . 亦 可 丑 也 .
Hào Cửu ngũ.
Cửu ngũ. Khô Dương sinh hoa. Lão phụ đắc kỳ sĩ phu. Vô cữu vô dự.
Tượng viết: Khô Dương sinh hoa. Hà khả cửu dã. Lão phụ sĩ phu. Diệc khả xú dã.
Dịch Cửu ngũ.
Dương khô mà lại trổ hoa,
Bà già mà lại được chồng là con trai.
Chê bai, ai nỡ chê bai,
Nhưng mà danh giá, có đời nào đâu.
Tượng rằng:
Dương khô, mà lại trổ hoa,
Hoa kia hỏi được sẽ là bao lâu.
Vợ già, chồng trẻ hay đâu,
Chẳng qua, để hổ cho nhau bấy chầy.
Cửu ngũ là người có tài, có đức, muốn làm nên đại công, đại nghiệp, nhưng thay vì đi sát với quần chúng, lại lo cộng tác với những kẻ tiểu nhân, tuy có địa vị (thượng lục), nhưng không có thực tài, chỉ có hư danh. Như vậy có khác nào một cây Dương đã khô héo, lại còn trổ thêm một vài bông hoa (Khô Dương sinh hoa), hoa nở sẽ tàn đi, và lôi cuốn theo cả tàn lực của cây; cũng như chồng trẻ mà lấy phải vợ già, làm sao mà sinh con cái (Lão phụ đắc kỳ sĩ phu).
Họ không đáng chê, vì làm chính trị phải tìm vây cánh; nhưng cũng không đáng khen, vì cộng tác với những kẻ tiểu nhân hữu danh, vô thực, thời làm sao nên công (Vô cữu vô dự), nhưng chắc họ sẽ lấy làm tự hổ (Diệc khả xú dã).
6. 上 六 . 過 涉 滅 頂 . 凶 . 無 咎 .
象 曰 . 過 涉 之 凶 . 不 可 咎 也 .
Hào Thượng Lục.
Thượng Lục. Quá thiệp diệt đỉnh. Hung. Vô cữu.
Tượng viết: Quá thiệp chi hung. Bất khả cữu dã.
Dịch. Thượng Lục:
Quá sâu lội ngập cả đầu,
Việc đành rằng xấu, đừng sầu oán ai.
Tượng rằng:
Lội sâu, chìm nghỉm là hung,
Thôi đừng oán trách lung tung làm gì.
Hào Thượng Lục đã Nhu, mà lại ở Âm vị, là quá Nhu. Ở cuối quẻ Đại Quá là lúc khó khăn nhất, đòi hỏi một nhân tài phi thường. Nếu không tự lượng, mà cũng cứ ra tay gánh vác bừa, thì có khác nào lội nước quá sâu, ngập lút cả đầu đâu. Xưa nay, biết bao người có lòng tha thiết cứu đời, đã thật sự xả thân cứu đời, nhưng vì tài thô, trí thiển, không đủ kiến thức, mưu lược, kinh luân, nên đã bị ngọn trào lịch sử nhận chìm. Xét việc thành bại thật đáng buồn cho họ, nhưng xét về khí tiết của họ, thì nào có gì đáng chê trách họ đâu.
ÁP DỤNG QUẺ ĐẠI QUÁ VÀO THỜI ĐẠI
Thời đại nào cũng có những người phi phàm, có tài năng, tư cách xuất chúng, nhưng lại chỉ có một số rất ít (phải nói là quá ít), là thành công mà thôi. Tại sao vậy?
Tôi xin mạo muội mượn lời dạy của quẻ Đại Quá trên, mà phân tách: Yếu tố nào đã khiến những người có tài năng hơn người đó lại thất bại. Tôi xin đưa ra 2 trường hợp:
A) Người làm chính trị: Họ thất baị là vì có nhiều nguyên do:
1) Vì không có mục đích, môi trường, chủ trương chính đáng.
2) Vì yếu ớt, thiếu lực lượng thì chỉ có 2/10, mà thất bại vì nóng nảy, ương ngạnh, thì có đến 8/10. Những người này thường cho mình là chính nhân, quân tử, mà mọi người khác là Tiểu nhân, chỉ mình là hay, còn người khác là dở.
3) Làm gì cũng muốn thành công mau, kết quả vội. Vì thế bọn tiểu nhân dễ xu phụ, du nịnh, làm ra vẻ mặt phục tùng, theo ý thích của họ, làm cho họ trở nên cao ngạo. Họ làm công việc không suy tính, không dựa vào chúng dân, mà lại dựa vào những người hữu danh, vô thực, thì nếu may mắn mà được một chút như ý, thì thử hỏi: Hoa nở cành khô sống mấy mươi.
B. Người có tài năng thật sự: Như những nhà Bác Học, Khoa Học gia, Kỹ sư phát minh, hoặc những người không có bằng cấp ngoài đời, nhưng họ có tài năng, sáng kiến vượt bực.
1) Những nhà Bác Học, Khoa Học gia: những người này phần lớn được Chính Phủ giúp đỡ về mọi phương diện, nên khi tìm được cái gì, là được công bố kết quả, nên do đó danh vọng dễ lên, vì được nhiều người biết tiếng, tiền tài tương đối cũng khả quan
2) Những người giỏi, có tài năng, nhưng không có bằng cấp ngoài đời: Họ biết là họ không có bằng cấp, học lực bằng ai, vì thế họ không kiêu ngạo. Lúc đầu, họ mang hết tài năng, sáng kiến ra để làm những cái nho nhỏ, vừa đủ tài sức họ, sau khi đã thành công, họ mới phát triển lớn ra, và họ dùng tiền mướn những người kỹ sư giỏi về cộng tác, để kiếm tiền cho họ. Do đó số người này, về mặt kiếm tiền khá thành công, vì họ biết cách dùng người.
3) Những người có tài năng, bằng cấp, óc phát minh: Những người này là những người chịu thiệt thòi nhất, bị lớp người trên lợi dụng tài năng mình để kiếm tiền cho họ, và còn bị họ che dấu tài năng mình, và chỉ trả mình số lương tối thiểu, so với số lợi tức mà mình đã kiếm ra cho họ.
Tại sao, những người có tài năng lại bị bóc lột như vậy mà không biết giải quyết . Làm sao có thể giải quyết?
Theo thiển ý của tôi: Những người có thực tài, phải có quyết tâm phát triển tài mình một cách độc lập, nếu có thể nên có những ý kiến sau:
* Những người có tài, phải cộng tác với nhau thành một khối. Khối này sẽ do một vị anh minh, sáng suốt, có lòng vị tha, không cao ngạo đứng đầu, cùng với một bộ phận gồm nhiều người tài giỏi khác (được bầu) lãnh đạo. Những vị này, trừ vị chỉ huy lúc đầu là chủ tịch, còn chỉ được giữ chức vụ, lương bổng, trong nhiệm kỳ có giới hạn.
* Chính phủ phải nâng đỡ họ về mặt tài chính lúc đầu để họ và gia đình có đủ phương tiện sống, mà tiến hành công cuộc phát minh. Khi đã thành nếp, thì lương hướng của họ nhiều, ít sẽ tùy theo sự thành công của họ.
Thành công của họ phải được công bố trên báo chí, để khuyến khích họ và những người theo sau họ. Như vậy mới công bằng, và như vậy mới có sự cố gắng để tiến lên, và nhân tài mới có cơ phát triển.
Ước mong bài Áp dụng nhỏ bé này đến tay những ai có tài năng, óc độc lập, lòng cầu tiến, mà chưa đủ hùng tâm, can đảm tiến lên, thì hãy kêu gọi những người tài giỏi, đồng chí với mình đứng lên, mà thực hiện hoài bão, để tránh khỏi cảnh Người bóc lột người, và để người có tài năng có dịp thi thố đúng với khả năng của họ, thời kẻ viết bài này cũng đã mãn nguyện rồi.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
8 TRẠCH LÔI TÙY
TRẠCH LÔI TÙY
Tùy Tự Quái
隨 序 卦
Dự tất hữu Tùy.
豫 必 有 隨,
Cố thụ chi dĩ Tùy.
故 受 之 以 隨
Trạch Lôi Tùy
Hân hoan hòa dự, thì thường người theo,
Quẻ Tùy vì thế nối điêu...
I. Tùy với chữ Thời.
Quẻ Tùy là một trong 12 quẻ Dịch bàn về chữ Thời. Vì thế nơi quẻ Tùy, ta hãy duyệt lại vấn đề chữ Thời, vấn đề thời gian trong Kinh Dịch, cũng như trong cuộc đời...
Có thể nói được rằng thời gian sinh ra là do sự biến dịch, chuyển dịch của vạn hữu.
-Trước tiên, tinh cầu và địa cầu chuyển dịch trên vòm trời, tạo nên tháng năm và tuần tiết: đó là Thời gian thiên văn.
-Các tế bào trong người ta sinh sinh, hóa hóa, lúc thịnh, lúc suy, lúc tụ, lúc tán, cũng tạo nên một thứ thời gian: đó là Thời gian tuổi tác.
-Tâm hồn ta chuyển dịch, biến thiên, vui vui, buồn buồn, lúc thì bừng sáng như bình minh, lúc thì ảm đạm như bóng tối. Sự chuyển dịch ấy cũng tạo nên một thứ thời gian: đó là Thời gian tâm lý. Thời gian đó co giãn không chừng, vì nếu vui thì: ngày vui ngắn chẳng tầy gang. Nếu mà buồn bã, hoặc nhớ Nhung, hay mong đợi, khắc khoải thì một ngày đằng đẵng xem bằng ba thu.
-Tâm tư, chí hướng, dân tình của mỗi dân, mỗi nước cũng biến thiên, tạo nên một thứ thời gian mới, là Thời gian lịch sử. Thời gian như là động cơ, mà không gian như là môi trường chuyển dịch. Thời gian, không gian cũng có thể nói chung là hoàn cảnh, mà tâm hồn ta sẽ băng qua trên lộ trình đi tìm chân lý, hay nói cách khác, trên lộ trình thực hiện con người chân thực của ta.
II. Tùy với hai chữ: Tùy thời.
Bây giờ, ta trở về quẻ Tùy để giảng rộng 2 chữ Tùy thời. Như trên đã nói, thời gian chỉ là những giai đoạn, những công cụ, những điều kiện cần thiết để chúng ta đào luyện xác thân, trí não, tâm thần, để con người chúng ta trở nên hoàn hảo, toàn chân, toàn mỹ. Như vậy, ta cần phải xác định mục tiêu, và chí hướng của ta, sau đó phải biết quyền biến, tùy thời, xử thế, tùy nghi tiến thoái, để thực hiện mục tiêu ấy.
III. Tùy áp dụng vào nghệ thuật trị dân
Xã hội chẳng qua chỉ là một tập thể của con người. Cái tập thể ấy, không nên dùng những luật pháp vô nhân, những biện pháp hà khắc để cai trị. Trái lại, phải tổ chức sao cho mọi người đều nhận định ra được thiên chân, thiên lý, nhận định ra rằng mỗi người sinh ra, kẻ nhanh, người chậm, đều cốt là tạo cho mình một đời sống lý tưởng, gồm đủ Chân, Thiện, Mỹ.
I. Thoán.
Thoán Từ.
隨:元 亨 利 貞,無 咎。
Tùy. Nguyên hanh. Lợi trinh. Vô cữu.
Dịch.
Tùy kia cao trọng biết bao,
Hanh thông, lợi ích, bề nào cũng hay.
Nếu mà theo trọn đường ngay,
Thời Tùy mới khỏi mỉa mai miệng đời.
Phương châm thứ nhất: Phải lấy Chân, Thiện, Mỹ, làm mục tiêu để vươn lên, phải lấy sự công chính làm cùng đích để đạt tới, rồi ra cuộc đời của mọi người cũng được hanh thông, cũng được lợi ích thật sự.
Thoán Truyện.
隨,剛 來 而 下 柔,動 而 說,隨。大 亨 貞,無 咎,而 天 下 隨 時,隨 之 時 義 大 矣 哉!
Thoán viết:
Tùy. Cương lai nhi há Nhu. Động nhi duyệt tùy. Đại hanh trinh vô cữu. Nhi thiên hạ tùy thời. Tùy thời chi nghĩa đại hỹ tai.
Dịch. Thoán rằng:
Cứng xuống dưới mềm,
Đây vừa tác động, kia liền vui theo,
Dưới trên, hòa xướng, thương chiều.
Thời hay mãi mãi, khỏi điều chê bai,
Nếu mà thiên hạ tùy thời,
Tùy thời mà hiểu, lớn thôi không chừng.
Tùy thời dẫu sao cũng vô cùng quan trọng, vì nhờ thời gian và hoàn cảnh, với tất cả sự thách đố cam go của chúng, mà cốt cách của mỗi người, theo đà thời gian, dần dà sẽ được minh định bằng tầm hiểu biết, bằng cái yêu, cái ghét, cái thích thú đặc biệt của mỗi người; niềm tin tưởng, chí hướng, và sự quyết tâm thực hiện chí hướng ấy của mỗi người (Tùy thời chi nghĩa đại hỹ tai).
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 澤 中 有 雷,隨﹔ 君 子 以 嚮 晦 入 宴 息。
Tượng rằng:
Trạch trung hữu lôi. Tùy. Quân tử dĩ hướng hối nhập yến tức.
Dịch. Tượng rằng:
Trong hồ, sấm lặng là Tùy,
Hiền nhân tối đến, lo về nghỉ ngơi.
Như vậy, nhà vua cai trị dân không phải bằng ý riêng mình, mà chính là bằng ý Trời. Đem luật Trời hằng cửu mà ban cho dân, đem lý tưởng toàn thiện mà làm mục tiêu để cùng nhau tiến tới. Được như vậy là Tùy Thiên, Thuận Thiên.
Phương châm thứ hai: Bậc lãnh đạo dân là phải biết tùy theo ý muốn của toàn dân, vì dân đã muốn tức là Trời muốn, dân đã muốn tức là Trời sẽ theo, nhẽ nào nhà lãnh đạo dân đi ngược lại. Đó cũng là chủ trương của Đại Học. Đại Học viết: Vui sướng thay bậc quân tử, cha mẹ dân, dân ưa thích điều gì, nhà cầm quyền cũng ưa thích theo; dân chán ghét điều gì, nhà cầm quyền cũng chán ghét theo, vì biết thuận theo dân tâm, đó mới gọi là cha mẹ dân vậy.
Sướng thay là bậc trị dân,
Cùng dân yêu ghét, muôn phần chẳng sai,
Đáng làm cha mẹ muôn người. (Đại Học, X)
Mà ước muốn của dân thật là giản dị, làm sao có được một đời sống bình an, sung túc, đầm ấm, thuận hòa, không bị quấy nhiễu, bóc lột, tóm lại sống một cuộc đời đáng sống, không phải thở than, phải xót xa, phải cay đắng, cơ cực. Trị dân mà thuận lòng dân như vậy, thì bất kỳ đề xướng chuyện gì dân cũng vui theo, vì họ biết đó là vì họ, vì quyền lợi của con cháu họ sau này.
Phương châm thứ ba: Trị dân phải biết bắt chước Trời mà hành sự, lúc cần động thì động, cần tĩnh thì tĩnh, không bắt dân làm gì trái thời tiết, để cho dân luôn sống hòa mình cùng đại khối vũ trụ.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九. 官 有 渝,貞 吉。 出 門 交 有 功。
象 曰: 官 有 渝,從 正 吉 也。 出 門 交 有 功,不 失 也。
Sơ Cửu. Quan hữu du. Trinh cát. Xuất môn giao hữu công.
Tượng viết:
Quan hữu du. Tòng chính cát dã. Xuất môn giao hữu công. Bất thất dã.
Dịch. Sơ Cửu:
Người trên đổi cảnh ở ăn,
Luôn theo lẽ chính, mới rằng là hay
Ra đời xử thuận với đời,
Chiều lòng đại chúng, ắt thời công lao.
Tượng rằng: Trên có đổi thay,
Để theo lẽ chính, nên hay đã đành.
Hào Sơ cho rằng: Trị dân phải có phương châm cao cả, là luôn luôn theo lẽ chính, theo chính đạo, theo lý tưởng. Trị dân mà lâng lâng vẹn sạch niềm tây, treo gương chính nghĩa, tùy thuận nhân tâm, thì còn gì hay hơn.
2. Hào Lục nhị.
六 二. 系 小 子,失 丈 夫。
象 曰: 系 小 子,弗 兼 與 也。
Lục nhị. Hệ tiểu tử. Thất trượng phu.
Tượng viết:
Hệ tiểu tử. Phất kiêm dữ dã.
Dịch.
Nếu mà vương lấy kẻ hèn,
Thế nào cũng mất ngưởi hiền, người hay.
Tượng rằng: Vương lấy kẻ hèn,
Được đây , mất đó hai bên chẳng cùng.
Hào hai cho rằng: người trị dân có hai con đường thuận nhân tâm. Một là theo bầy bọn tiểu nhân, theo thị dục, thị hiếu của chúng, thì sẽ mất lòng những người quang minh, chính đại, những người hiền lương. Hai là theo đường lối người quân tử, như vậy sẽ mất lòng tiểu nhân. Không thể nào được lòng cả đôi bên được.
3. Hào Lục tam.
六 三 . 系 丈 夫,失 小 子。 隨 有 求 得,利 居 貞。
象 曰: 系 丈 夫,志 舍 下 也。
Lục tam. Hệ trượng phu. Thất tiểu tử. Tùy hữu cầu đắc. Lợi cư trinh.
Tượng viết:
Hệ trượng phu. Chí xả hạ dã.
Dịch.
Bậc trượng phu, nếu mình giữ lấy,
Kẻ tiểu nhân thấy vậy sẽ xa.
Theo người, muốn sẽ được mà,
Ở ăn chính đáng, mới là lợi lâu
Tượng rằng: Giữ lấy trượng phu,
Rắp lòng bỏ kẻ hạ ngu đã đành.
Còn như thuận theo ước vọng của những người hiền lương, công chính, thì những kẻ gian tà sẽ lánh mặt xa.
Theo được đường lối này, phải cho Cương quyết, bền gan, sau sẽ hay, sẽ lợi, vì có thể cảm hóa được những bọn tiểu nhân, tà ngụy.
4. Hào Cửu tứ.
九 四. 隨 有 獲,貞 凶。有 孚 在 道,以 明,何 咎。
象 曰: 隨 有 獲,其 義 凶 也。 有 孚 在 道,明 功 也。
Cửu tứ. Tùy hữu hoạch. Trinh hung. Hữu phu tại đạo. Dĩ minh. Hà cữu.
Tượng viết:
Tùy hữu hoạch. Kỳ nghĩa hung dã. Hữu phu tại đạo. Minh công dã.
Dịch.
Chiều dân, dân sẽ theo mình,
Chiều dân thái thậm, âu đành chẳng hay.
Một lòng trung chính, thẳng ngay,
Khôn ngoan, khéo xử, thế này lỗi chi.
Tượng rằng: Chiều dân, dân sẽ theo mình,
Chiều dân thái thậm, âu đành chẳng hay,
Một lòng trung chính, thẳng ngay,
Ở ăn phải đạo, thế này là khôn.
Hào tứ cho rằng: cai trị thuận nhân tâm, không phải là cai trị mị dân. Hơn nữa một trọng thần mà được lòng dân, phải biết ăn ở cho phải đạo, để sao cho lòng luôn luôn giữ được sự tín thành, hành động luôn luôn hợp nghĩa lý, ngôi vị tuy cao trọng, mà không mang tiếng lấn vua, quyền thế tuy to tát mà vẫn không đi quá trớn, thế mới là sáng suốt, khéo léo. Đó là trường hợp Đức Trần Hưng Đạo, 3 lần cả phá quân Nguyên, phò vua, cứu nước mà vẫn giữ trọn được niềm thần tử.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五. 孚 于 嘉,吉。
象 曰: 孚 于 嘉,吉 ﹔位 正 中 也。
Cửu ngũ. Phu vu gia, cát.
Tượng viết:
Phu vu gia, cát. Vị chính trung dã.
Dịch.
Cửu ngũ: Khi thịnh đạt, tín thành vẫn giữ,
Giữ tín thành, thế đó mới hay.
Tượng rằng:
Khi hay, mà vẫn tín thành,
Hay là ngôi vị của mình chính trung.
Còn nhà vua, ở ngôi vị cao, mà luôn luôn sống thuận theo đạo lý, bao giờ cũng tín thành, hợp lễ nghĩa, xử sự luôn đúng theo hai chữ chính trung, như vậy còn gì đẹp đẽ hơn.
6. Hào Thượng Lục.
上 六. 拘 系 之,乃 從 維 之。 王 用 亨 于 西 山。
象 曰: 拘 系 之,上 窮 也。
Thượng Lục. Câu hệ chi. Nãi tòng duy chi. Vương dụng hanh vu Tây Sơn.
Tượng viết:
Câu hệ chi. Thượng cùng dã.
Dịch.
Quấn quít, vấn vương, dính líu nhau,
Dường như thắt buộc chẳng rời nhau,
Thái Vương nhờ thế hưng cơ nghiệp,
Đi đến Tây Sơn, dựng nghiệp lâu.
Hào Thượng Lục cho rằng: Nếu vua và bách quan, ai nấy trước sau đều tha thiết một lòng thuận theo đạo lý, thuận theo chính nghĩa, chính đạo, thuận theo ước nguyện của dân, thuận theo nhân tâm mà trị dân, thì dĩ nhiên dân sẽ qui thuận, sẽ một dạ trung thành với vua, với chính quyền. Sự khắng khít, gắn bó ấy, dẫu chư thần cũng phải cảm động, như vậy lo chi giang sơn không bền vững. Đó là phương pháp lập nghiệp của Thái Vương xưa ở đất Kỳ Sơn vậy.
ÁP DỤNG QUẺ TÙY VÀO THỜI ĐẠI
Muốn cho cuộc đời ta thêm ý nghĩa, ta phải phác họa đạị khái cho ta những chiều hướng, những bước đường của ta sẽ đi, những giai đoạn mà ta muốn vượt, những công trình mà ta muốn làm từ đầu, đến cuối cuộc đời. Được như vậy, ta sẽ sống một cuộc đời thoải mái, sung sướng, và
cuộc đời chúng ta sẽ là một mùa Xuân bất diệt, và thời gian sẽ trở nên có ý nghĩa với ta. Ta không còn phải than thở như Lamartine trong bài thơ Le Lac của ông ta:
Phiêu dạt mãi tới bến bờ xa lắc,
Trong đêm tăm, trôi dạt biết về đâu.
Lênh đênh sống trên trùng dương thời khắc,
Chẳng buông neo dừng lại được ngày sao?
Nếu ta hãy còn trong tuổi vị thành niên, chỉ còn ít tháng nữa là học hết bậc trung học, ta phải phác họa một tương lai cho ta.:
- Nếu dựng sự nghiệp bằng con đường học vấn: Ta phải chọn nghề nào mà năng khiếu ta thích hợp, dân chúng đang cần, và quan trọng nhất là ta có đủ thông minh, kiên nhẫn để theo đuổi nó tới khi đạt được tới mục đích hay không?. Đó là ta phải tùy theo ngoại cảnh và hoàn cảnh của ta vậy.
- Dựng sự nghiệp bằng con đường thương mại: Ta phải biết tự kiểm xem ta có phải là người thành tín, xã giao giỏi, có độ lượng, và nhất là phải có năng khiếu về thương mại không? Nếu có, thì ta chỉ cần biết Tùy thời xuất nhập, thì ta đã có thể thành công được rồi.
Bất kỳ làm chuyện gì đều phải dựa vào chữ Tùy, người biết hành động theo chữ Tùy, sẽ biết tiến, thoái, và như vậy trên bước đường đời sẽ dễ dàng giải quyết những chuyện khó khăn mà ta gặp phải hơn.
Ngày nay, chữ Tùy quả là rất cần thiết, và rất hữu dụng cho chúng ta, những người dân sống nơi đất lạ, quê người. Ta phải tùy theo hoàn cảnh, trình độ hiểu biết, tài năng của mình mà tìm công ăn, việc làm, như vậy sẽ dễ dàng cho ta hơn. Điều quan trọng là ta phải luôn luôn kiên nhẫn và tự tin, đừng bao giờ nản lòng trước một hoàn cảnh khó khăn nào, thì trước sau gì ta cũng sẽ được toại lòng.
TRẠCH LÔI TÙY
Tùy Tự Quái
隨 序 卦
Dự tất hữu Tùy.
豫 必 有 隨,
Cố thụ chi dĩ Tùy.
故 受 之 以 隨
Trạch Lôi Tùy
Hân hoan hòa dự, thì thường người theo,
Quẻ Tùy vì thế nối điêu...
I. Tùy với chữ Thời.
Quẻ Tùy là một trong 12 quẻ Dịch bàn về chữ Thời. Vì thế nơi quẻ Tùy, ta hãy duyệt lại vấn đề chữ Thời, vấn đề thời gian trong Kinh Dịch, cũng như trong cuộc đời...
Có thể nói được rằng thời gian sinh ra là do sự biến dịch, chuyển dịch của vạn hữu.
-Trước tiên, tinh cầu và địa cầu chuyển dịch trên vòm trời, tạo nên tháng năm và tuần tiết: đó là Thời gian thiên văn.
-Các tế bào trong người ta sinh sinh, hóa hóa, lúc thịnh, lúc suy, lúc tụ, lúc tán, cũng tạo nên một thứ thời gian: đó là Thời gian tuổi tác.
-Tâm hồn ta chuyển dịch, biến thiên, vui vui, buồn buồn, lúc thì bừng sáng như bình minh, lúc thì ảm đạm như bóng tối. Sự chuyển dịch ấy cũng tạo nên một thứ thời gian: đó là Thời gian tâm lý. Thời gian đó co giãn không chừng, vì nếu vui thì: ngày vui ngắn chẳng tầy gang. Nếu mà buồn bã, hoặc nhớ Nhung, hay mong đợi, khắc khoải thì một ngày đằng đẵng xem bằng ba thu.
-Tâm tư, chí hướng, dân tình của mỗi dân, mỗi nước cũng biến thiên, tạo nên một thứ thời gian mới, là Thời gian lịch sử. Thời gian như là động cơ, mà không gian như là môi trường chuyển dịch. Thời gian, không gian cũng có thể nói chung là hoàn cảnh, mà tâm hồn ta sẽ băng qua trên lộ trình đi tìm chân lý, hay nói cách khác, trên lộ trình thực hiện con người chân thực của ta.
II. Tùy với hai chữ: Tùy thời.
Bây giờ, ta trở về quẻ Tùy để giảng rộng 2 chữ Tùy thời. Như trên đã nói, thời gian chỉ là những giai đoạn, những công cụ, những điều kiện cần thiết để chúng ta đào luyện xác thân, trí não, tâm thần, để con người chúng ta trở nên hoàn hảo, toàn chân, toàn mỹ. Như vậy, ta cần phải xác định mục tiêu, và chí hướng của ta, sau đó phải biết quyền biến, tùy thời, xử thế, tùy nghi tiến thoái, để thực hiện mục tiêu ấy.
III. Tùy áp dụng vào nghệ thuật trị dân
Xã hội chẳng qua chỉ là một tập thể của con người. Cái tập thể ấy, không nên dùng những luật pháp vô nhân, những biện pháp hà khắc để cai trị. Trái lại, phải tổ chức sao cho mọi người đều nhận định ra được thiên chân, thiên lý, nhận định ra rằng mỗi người sinh ra, kẻ nhanh, người chậm, đều cốt là tạo cho mình một đời sống lý tưởng, gồm đủ Chân, Thiện, Mỹ.
I. Thoán.
Thoán Từ.
隨:元 亨 利 貞,無 咎。
Tùy. Nguyên hanh. Lợi trinh. Vô cữu.
Dịch.
Tùy kia cao trọng biết bao,
Hanh thông, lợi ích, bề nào cũng hay.
Nếu mà theo trọn đường ngay,
Thời Tùy mới khỏi mỉa mai miệng đời.
Phương châm thứ nhất: Phải lấy Chân, Thiện, Mỹ, làm mục tiêu để vươn lên, phải lấy sự công chính làm cùng đích để đạt tới, rồi ra cuộc đời của mọi người cũng được hanh thông, cũng được lợi ích thật sự.
Thoán Truyện.
隨,剛 來 而 下 柔,動 而 說,隨。大 亨 貞,無 咎,而 天 下 隨 時,隨 之 時 義 大 矣 哉!
Thoán viết:
Tùy. Cương lai nhi há Nhu. Động nhi duyệt tùy. Đại hanh trinh vô cữu. Nhi thiên hạ tùy thời. Tùy thời chi nghĩa đại hỹ tai.
Dịch. Thoán rằng:
Cứng xuống dưới mềm,
Đây vừa tác động, kia liền vui theo,
Dưới trên, hòa xướng, thương chiều.
Thời hay mãi mãi, khỏi điều chê bai,
Nếu mà thiên hạ tùy thời,
Tùy thời mà hiểu, lớn thôi không chừng.
Tùy thời dẫu sao cũng vô cùng quan trọng, vì nhờ thời gian và hoàn cảnh, với tất cả sự thách đố cam go của chúng, mà cốt cách của mỗi người, theo đà thời gian, dần dà sẽ được minh định bằng tầm hiểu biết, bằng cái yêu, cái ghét, cái thích thú đặc biệt của mỗi người; niềm tin tưởng, chí hướng, và sự quyết tâm thực hiện chí hướng ấy của mỗi người (Tùy thời chi nghĩa đại hỹ tai).
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 澤 中 有 雷,隨﹔ 君 子 以 嚮 晦 入 宴 息。
Tượng rằng:
Trạch trung hữu lôi. Tùy. Quân tử dĩ hướng hối nhập yến tức.
Dịch. Tượng rằng:
Trong hồ, sấm lặng là Tùy,
Hiền nhân tối đến, lo về nghỉ ngơi.
Như vậy, nhà vua cai trị dân không phải bằng ý riêng mình, mà chính là bằng ý Trời. Đem luật Trời hằng cửu mà ban cho dân, đem lý tưởng toàn thiện mà làm mục tiêu để cùng nhau tiến tới. Được như vậy là Tùy Thiên, Thuận Thiên.
Phương châm thứ hai: Bậc lãnh đạo dân là phải biết tùy theo ý muốn của toàn dân, vì dân đã muốn tức là Trời muốn, dân đã muốn tức là Trời sẽ theo, nhẽ nào nhà lãnh đạo dân đi ngược lại. Đó cũng là chủ trương của Đại Học. Đại Học viết: Vui sướng thay bậc quân tử, cha mẹ dân, dân ưa thích điều gì, nhà cầm quyền cũng ưa thích theo; dân chán ghét điều gì, nhà cầm quyền cũng chán ghét theo, vì biết thuận theo dân tâm, đó mới gọi là cha mẹ dân vậy.
Sướng thay là bậc trị dân,
Cùng dân yêu ghét, muôn phần chẳng sai,
Đáng làm cha mẹ muôn người. (Đại Học, X)
Mà ước muốn của dân thật là giản dị, làm sao có được một đời sống bình an, sung túc, đầm ấm, thuận hòa, không bị quấy nhiễu, bóc lột, tóm lại sống một cuộc đời đáng sống, không phải thở than, phải xót xa, phải cay đắng, cơ cực. Trị dân mà thuận lòng dân như vậy, thì bất kỳ đề xướng chuyện gì dân cũng vui theo, vì họ biết đó là vì họ, vì quyền lợi của con cháu họ sau này.
Phương châm thứ ba: Trị dân phải biết bắt chước Trời mà hành sự, lúc cần động thì động, cần tĩnh thì tĩnh, không bắt dân làm gì trái thời tiết, để cho dân luôn sống hòa mình cùng đại khối vũ trụ.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九. 官 有 渝,貞 吉。 出 門 交 有 功。
象 曰: 官 有 渝,從 正 吉 也。 出 門 交 有 功,不 失 也。
Sơ Cửu. Quan hữu du. Trinh cát. Xuất môn giao hữu công.
Tượng viết:
Quan hữu du. Tòng chính cát dã. Xuất môn giao hữu công. Bất thất dã.
Dịch. Sơ Cửu:
Người trên đổi cảnh ở ăn,
Luôn theo lẽ chính, mới rằng là hay
Ra đời xử thuận với đời,
Chiều lòng đại chúng, ắt thời công lao.
Tượng rằng: Trên có đổi thay,
Để theo lẽ chính, nên hay đã đành.
Hào Sơ cho rằng: Trị dân phải có phương châm cao cả, là luôn luôn theo lẽ chính, theo chính đạo, theo lý tưởng. Trị dân mà lâng lâng vẹn sạch niềm tây, treo gương chính nghĩa, tùy thuận nhân tâm, thì còn gì hay hơn.
2. Hào Lục nhị.
六 二. 系 小 子,失 丈 夫。
象 曰: 系 小 子,弗 兼 與 也。
Lục nhị. Hệ tiểu tử. Thất trượng phu.
Tượng viết:
Hệ tiểu tử. Phất kiêm dữ dã.
Dịch.
Nếu mà vương lấy kẻ hèn,
Thế nào cũng mất ngưởi hiền, người hay.
Tượng rằng: Vương lấy kẻ hèn,
Được đây , mất đó hai bên chẳng cùng.
Hào hai cho rằng: người trị dân có hai con đường thuận nhân tâm. Một là theo bầy bọn tiểu nhân, theo thị dục, thị hiếu của chúng, thì sẽ mất lòng những người quang minh, chính đại, những người hiền lương. Hai là theo đường lối người quân tử, như vậy sẽ mất lòng tiểu nhân. Không thể nào được lòng cả đôi bên được.
3. Hào Lục tam.
六 三 . 系 丈 夫,失 小 子。 隨 有 求 得,利 居 貞。
象 曰: 系 丈 夫,志 舍 下 也。
Lục tam. Hệ trượng phu. Thất tiểu tử. Tùy hữu cầu đắc. Lợi cư trinh.
Tượng viết:
Hệ trượng phu. Chí xả hạ dã.
Dịch.
Bậc trượng phu, nếu mình giữ lấy,
Kẻ tiểu nhân thấy vậy sẽ xa.
Theo người, muốn sẽ được mà,
Ở ăn chính đáng, mới là lợi lâu
Tượng rằng: Giữ lấy trượng phu,
Rắp lòng bỏ kẻ hạ ngu đã đành.
Còn như thuận theo ước vọng của những người hiền lương, công chính, thì những kẻ gian tà sẽ lánh mặt xa.
Theo được đường lối này, phải cho Cương quyết, bền gan, sau sẽ hay, sẽ lợi, vì có thể cảm hóa được những bọn tiểu nhân, tà ngụy.
4. Hào Cửu tứ.
九 四. 隨 有 獲,貞 凶。有 孚 在 道,以 明,何 咎。
象 曰: 隨 有 獲,其 義 凶 也。 有 孚 在 道,明 功 也。
Cửu tứ. Tùy hữu hoạch. Trinh hung. Hữu phu tại đạo. Dĩ minh. Hà cữu.
Tượng viết:
Tùy hữu hoạch. Kỳ nghĩa hung dã. Hữu phu tại đạo. Minh công dã.
Dịch.
Chiều dân, dân sẽ theo mình,
Chiều dân thái thậm, âu đành chẳng hay.
Một lòng trung chính, thẳng ngay,
Khôn ngoan, khéo xử, thế này lỗi chi.
Tượng rằng: Chiều dân, dân sẽ theo mình,
Chiều dân thái thậm, âu đành chẳng hay,
Một lòng trung chính, thẳng ngay,
Ở ăn phải đạo, thế này là khôn.
Hào tứ cho rằng: cai trị thuận nhân tâm, không phải là cai trị mị dân. Hơn nữa một trọng thần mà được lòng dân, phải biết ăn ở cho phải đạo, để sao cho lòng luôn luôn giữ được sự tín thành, hành động luôn luôn hợp nghĩa lý, ngôi vị tuy cao trọng, mà không mang tiếng lấn vua, quyền thế tuy to tát mà vẫn không đi quá trớn, thế mới là sáng suốt, khéo léo. Đó là trường hợp Đức Trần Hưng Đạo, 3 lần cả phá quân Nguyên, phò vua, cứu nước mà vẫn giữ trọn được niềm thần tử.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五. 孚 于 嘉,吉。
象 曰: 孚 于 嘉,吉 ﹔位 正 中 也。
Cửu ngũ. Phu vu gia, cát.
Tượng viết:
Phu vu gia, cát. Vị chính trung dã.
Dịch.
Cửu ngũ: Khi thịnh đạt, tín thành vẫn giữ,
Giữ tín thành, thế đó mới hay.
Tượng rằng:
Khi hay, mà vẫn tín thành,
Hay là ngôi vị của mình chính trung.
Còn nhà vua, ở ngôi vị cao, mà luôn luôn sống thuận theo đạo lý, bao giờ cũng tín thành, hợp lễ nghĩa, xử sự luôn đúng theo hai chữ chính trung, như vậy còn gì đẹp đẽ hơn.
6. Hào Thượng Lục.
上 六. 拘 系 之,乃 從 維 之。 王 用 亨 于 西 山。
象 曰: 拘 系 之,上 窮 也。
Thượng Lục. Câu hệ chi. Nãi tòng duy chi. Vương dụng hanh vu Tây Sơn.
Tượng viết:
Câu hệ chi. Thượng cùng dã.
Dịch.
Quấn quít, vấn vương, dính líu nhau,
Dường như thắt buộc chẳng rời nhau,
Thái Vương nhờ thế hưng cơ nghiệp,
Đi đến Tây Sơn, dựng nghiệp lâu.
Hào Thượng Lục cho rằng: Nếu vua và bách quan, ai nấy trước sau đều tha thiết một lòng thuận theo đạo lý, thuận theo chính nghĩa, chính đạo, thuận theo ước nguyện của dân, thuận theo nhân tâm mà trị dân, thì dĩ nhiên dân sẽ qui thuận, sẽ một dạ trung thành với vua, với chính quyền. Sự khắng khít, gắn bó ấy, dẫu chư thần cũng phải cảm động, như vậy lo chi giang sơn không bền vững. Đó là phương pháp lập nghiệp của Thái Vương xưa ở đất Kỳ Sơn vậy.
ÁP DỤNG QUẺ TÙY VÀO THỜI ĐẠI
Muốn cho cuộc đời ta thêm ý nghĩa, ta phải phác họa đạị khái cho ta những chiều hướng, những bước đường của ta sẽ đi, những giai đoạn mà ta muốn vượt, những công trình mà ta muốn làm từ đầu, đến cuối cuộc đời. Được như vậy, ta sẽ sống một cuộc đời thoải mái, sung sướng, và
cuộc đời chúng ta sẽ là một mùa Xuân bất diệt, và thời gian sẽ trở nên có ý nghĩa với ta. Ta không còn phải than thở như Lamartine trong bài thơ Le Lac của ông ta:
Phiêu dạt mãi tới bến bờ xa lắc,
Trong đêm tăm, trôi dạt biết về đâu.
Lênh đênh sống trên trùng dương thời khắc,
Chẳng buông neo dừng lại được ngày sao?
Nếu ta hãy còn trong tuổi vị thành niên, chỉ còn ít tháng nữa là học hết bậc trung học, ta phải phác họa một tương lai cho ta.:
- Nếu dựng sự nghiệp bằng con đường học vấn: Ta phải chọn nghề nào mà năng khiếu ta thích hợp, dân chúng đang cần, và quan trọng nhất là ta có đủ thông minh, kiên nhẫn để theo đuổi nó tới khi đạt được tới mục đích hay không?. Đó là ta phải tùy theo ngoại cảnh và hoàn cảnh của ta vậy.
- Dựng sự nghiệp bằng con đường thương mại: Ta phải biết tự kiểm xem ta có phải là người thành tín, xã giao giỏi, có độ lượng, và nhất là phải có năng khiếu về thương mại không? Nếu có, thì ta chỉ cần biết Tùy thời xuất nhập, thì ta đã có thể thành công được rồi.
Bất kỳ làm chuyện gì đều phải dựa vào chữ Tùy, người biết hành động theo chữ Tùy, sẽ biết tiến, thoái, và như vậy trên bước đường đời sẽ dễ dàng giải quyết những chuyện khó khăn mà ta gặp phải hơn.
Ngày nay, chữ Tùy quả là rất cần thiết, và rất hữu dụng cho chúng ta, những người dân sống nơi đất lạ, quê người. Ta phải tùy theo hoàn cảnh, trình độ hiểu biết, tài năng của mình mà tìm công ăn, việc làm, như vậy sẽ dễ dàng cho ta hơn. Điều quan trọng là ta phải luôn luôn kiên nhẫn và tự tin, đừng bao giờ nản lòng trước một hoàn cảnh khó khăn nào, thì trước sau gì ta cũng sẽ được toại lòng.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ: