Tượng hào vs tượng quẻ
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem quẻ: Lục nhâm, Thái ất, Lục hào, Mai hoa... Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức Dịch lý.
Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
Đây là chuyên mục dành cho việc xem quẻ: Lục nhâm, Thái ất, Lục hào, Mai hoa... Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức Dịch lý.
Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
ĐOÀI VI TRẠCH
BÁT THUẦN ĐOÀI
ĐOÀI VI TRẠCH
BÁT THUẦN ĐOÀI
Đoài Tự Quái
兌 序 卦
Tốn giả nhập dã.
巽 者 入 也 .
Nhập nhi hậu duyệt chi.
入 而 後 說 之
Cố thụ chi dĩ Đoài.
故 受 之 以 兌 .
Đoài giả duyệt dã.
兌 者 說 也 .
Đoài Tự Quái
Tốn vào, vả lại có phần sướng vui,
Cho nên nối tiếp là Đoài,
Đoài là vui sướng, vui rồi ly tan.
Mình từ tốn đối với người, người sẽ đẹp lòng. Vì thế sau quẻ Tốn là quẻ Đoài.
I. Thoán.
Thoán từ.
兌 . 亨 . 利貞 .
Đoài. Hanh. Lợi trinh.
Dịch.
Đoài là vui vẻ, thỏa thuê,
Rồi ra mới được mọi bề hanh thông.
Chính trinh, mà trọn được lòng,
Thế thời ích lợi, mới mong chu toàn.
Làm cho người đẹp lòng, đẹp dạ, người sẽ vui lòng cộng tác với mình để làm nên đại sự, vì thế nói Đoài hanh. Nhưng làm đẹp lòng người đây, không phải bằng những thủ đoạn bất chính, mà phải bằng những đường lối chính đáng, những cách thức đường hoàng, như vậy mới hay, mới lợi (Lợi trinh). Trinh là minh chính, chính đáng.
Thoán Truyện. Thoán viết.
彖 曰 . 兌 . 說 也 . 剛 中 而 柔 外 . 說 以 利 貞 . 是 以 順 乎 天 . 而 應 乎 人 . 說 以 先 民 . 民 忘 其 勞 . 說 以 犯 難 . 民 忘 其 死 . 說 之 大 . 民 勸 矣 哉 .
Đoài. Duyệt dã. Cương trung nhi nhu ngoại. Duyệt dĩ lợi trinh. Thị dĩ thuận hồ thiên. Nhi ứng hồ nhân. Duyệt dĩ tiên dân. Dân vong kỳ lao. Duyệt dĩ phạm nạn. Dân vong kỳ tử. Duyệt chi đại. Dân khuyến hỹ tai.
Dịch.
Đoài là vui vẻ, thỏa thuê,
Trong cương, ngoài lại thêm bề thuận nhu.
Vui mà chính đáng vui hòa,
Vui theo chính ý, lợi là mấy mươi.
Trên thời thuận với lòng trời,
Dưới thời ứng với lòng người gần xa.
Khiến dân đẹp ý, vui hòa,
Dẫu dân mệt nhọc, cũng là quên đi,
Dân vui, dân gặp hiểm nguy,
Băng chừng hiểm nạn, quản gì tử vong.
Làm cho dân được vui lòng.
Thời thôi, hậu quả vô cùng lớn lao.
Thoán Truyện quảng luận Thoán từ và cho rằng làm chính trị , phải cố sao cho được lòng dân (Đoài duyệt dã).
Bậc Quốc quân, bên trong thì minh chính, cương trực, quả quyết; nhưng bên ngoài thì mềm mỏng, khéo léo đối với mọi người (Cương trung nhi nhu ngoại). Nói thế, vì Đoài có hai Hào Dương cương bên trong, một Hào Âm nhu ở ngoài. Dùng những phương pháp chính đáng, để chinh phục lòng người, làm cho mọi người vừa lòng, đẹp ý, như thế sẽ thâu hoạch được nhiều ích lợi (Duyệt dĩ lợi trinh). Hành xử như vậy, sẽ thuận ý trời, vừa lòng người (Thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân).
Cai trị dân, hướng dẫn dân, mà làm cho dân vui đẹp, thì dẫu khiến dân làm lụng vất vả, dân cũng chẳng nề hà, dẫu bắt dân xông pha gian khổ, dân cũng liều chết hy sinh (Duyệt dĩ tiên dân. Dân vong kỳ lao. Duyệt dĩ phạm nạn. Dân vong kỳ tử). Vì thế, đắc nhân tâm, là một công trình vĩ đại, làm được cho dân chúng hứng khởi, nô nức hợp tác với chính quyền, trong mọi chương trình kiến quốc, thực là cao siêu vậy (Duyệt chi đại dân khuyến hỹ tai). Đại Học chủ trương: Nhà cầm quyền, nếu được lòng dân chúng, ắt được đất nước. Nếu để mất lòng dân chúng, chẳng khỏi mất nước.
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết.
象 曰 . 麗 澤 . 兌 . 君 子 以 朋 友 講 習 .
Lệ trạch. Đoài. Quân tử dĩ bằng hữu giảng tập.
Đoài ở đây là quẻ Đoài kép (Lệ Trạch Đoài).
Dịch. Tượng rằng:
Hai hồ kế cận thông nhau,
Bạn bè giảng tập, cơ mầu mới tinh.
Tượng giảng là hai hồ nước ở kế cận nhau, nương tựa lẫn nhau, nên đỡ khô cạn. Như vậy, muốn vui phải có đôi, có bạn.
Dịch, nhân lẽ đó dậy người quân tử, nên cùng bằng hữu học hỏi cho ra nghĩa lý, và sau đó, đem thực thi những điều đã học hỏi được. Âu cũng là nói lên sự cần thiết phải có bầu bạn, để học hành cho có hứng thú.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 和 兌 . 吉 .
象 曰 . 和 兌 之 吉 . 行 未 疑 也 .
Sơ Cửu.
Hòa Đoài. Cát.
Tượng viết:
Hòa Đoài chi cát. Hành vị nghi dã.
Dịch.
Một niềm hòa duyệt, thời hay,
Tượng rằng: Hòa duyệt mà hay,
Là vì cư xử, chẳng ai nghi ngờ.
Hào Sơ cửu ở dưới cùng quẻ Đoài, Dương cương mà lại không ứng với Cửu tứ. Thế nghĩa là Sơ Cửu biết hạ mình, sống hòa thuận với mọi người, làm đẹp lòng mọi người, mà chẳng thiên vị ai, vì thế nên tốt (Hòa Đoài. Cát).
Tấn Vân Phùng Thị nói: Hào Sơ có Dương đức, mà biết hạ mình, không thèm muốn Tam, không hiềm khích Nhị. Đó là tượng trưng người quân tử biết sống giản dị, khiêm cung, hòa nhã vậy.
Cái hay của Hào Sơ Cửu chính là biết tùy thời thuận xử, chưa làm điều gì sai ngoa, thất thố (Hòa Đoài chi cát. Hành vị nghi dã).
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 孚 兌 . 吉 . 悔 亡 .
象 曰 . 孚 兌 之 吉 . 信 志 也 .
Cửu nhị.
Phu Đoài. Cát. Hối vong.
Tượng viết:
Phu Đoài chi cát. Tín chí dã.
Dịch.
Sắt son một dạ, chẳng rời,
Hòa mà chẳng để cho người cuốn lôi,
Thế mới hay, thế mới tài.
Thế thời hết chuyện ỉ ôi, phàn nàn.
Tượng rằng:
Chính trung, hòa duyệt mà hay,
Là vì son sắt, dẫu lay chẳng rời.
Cửu nhị Dương cương, lại đắc trung, nên nói rằng: Dùng sự khảng khái mà được lòng người (Phu Đoài), vì thế nên hay, nên tốt, không có điều gì đáng phàn nàn (Cát. Hối vong). Thế là trong có chủ trương vững chắc, ngoài thì hòa duyệt, cảm thông với mọi người. Tượng cho rằng: Cửu nhị được lòng người mà vẫn hay, chính là vì có một niềm tin vững mạnh, nên chủ trương dứt khoát (Phu Đoài chi cát. Tín chí dã).
3. Hào Lục tam.
六三 . 來 兌 . 凶 .
象 曰 . 來 兌 之 凶 . 位 不 當 也 .
Lục tam.
Lai Đoài. Hung.
Tượng viết:
Lai Đoài chi hung. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Vui đâu, cũng vội xà vào,
Thế thời là xấu, phải nào hay đâu.
Tượng rằng:
Thấy vui xà tới, hay chi,
Là vì chẳng được xứng vì, xứng ngôi.
Lục tam. Ngự Án giải: Lai Đoài là một kẻ chuyên chú đi tìm thú vui, lấy hưởng thụ làm lẽ sống, chạy theo những thú vui bên ngoài, thấy đâu vui là sà đến. Như vậy làm sao mà hay được. Lai Đoài chi hung. Vị bất đáng dã. Tượng Truyện cho rằng cái dở của Lục tam, chính là tại vì không êm ngôi, xứng vị. Lấy tính cách Âm nhu, mà cầu duyệt bá vơ. Thấy người sang, bắt quàng làm họ, rồi bợ đỡ, nịnh hót. Như vậy đâu có hay (Lai Đoài chi hung. Vị bất đáng dã).
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 商 兌 . 未 寧 . 介 疾 有 喜 .
象 曰 . 九 四 之 喜 . 有 慶 也 .
Cửu tứ.
Thương Đoài vị ninh. Giới tật hữu hỉ.
Tượng viết:
Cửu tứ chi hỉ. Hữu khánh dã.
Dịch.
Băn khoăn, lưỡng lự, chưa yên,
Bên tà, bên chính, vui bên phía nào?
Rạch ròi, rất khoái phân mao,
Bỏ tà, theo chính, thế nào cũng vui.
Tượng rằng:
Được như Cửu tứ mà vui.
Thế là phúc khánh cho đời, còn chi.
Cửu tứ là Dương cương cư Âm vị, nên chưa phải là một người quân tử hoàn toàn, lại tiếp giáp với Cửu ngũ, tượng trưng cho một người công chính, cho những thú vui tinh thần cao thượng; và với Lục tam tượng trưng cho một kẻ Âm tà, cho những thú vui vật chất hư hèn. Thành thử Cửu tứ lưỡng lự, (Thương Đoài), chưa biết chọn bên nào, vì thế cho nên lòng còn sao xuyến chưa yên (Vị ninh). Nhưng rút cuộc, Cửu tứ đã có một thái độ rứt khoát. Đó là xa lánh tiểu nhân, khinh chê những thú vui hư hèn (Giới tật), vì thế nên đáng mừng vậy (Hữu hỉ). Cửu tứ là một trọng thần, mà cư xử được như vậy, thật là phúc lớn, chẳng những cho Cửu tứ, mà còn cho quốc gia nữa vậy (Cửu tứ chi hỉ. Hữu khánh dã).
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 孚 于 剝 . 有 厲 .
象 曰 . 孚 于 剝 . 位 正 當 也 .
Cửu ngũ.
Phu vu bác. Hữu lệ.
Tượng viết:
Phu vu bác. Vị chính đáng dã.
Dịch.
Nếu tin kẻ chực hại mình,
Thế thời nguy hiểm, chênh vênh quá chừng.
Tượng rằng:
Nếu tin vào kẻ hại mình,
Thế thời nguy hiểm, chênh vênh quá chừng.
Đã ngôi chính đáng cửu trùng.
Càng nên cẩn mật, đề phòng mới nên.
Cửu ngũ tuy là một ngôi vị quân vương, Dương cương đắc trung, đắc chính, nhưng nếu tin dùng kẻ tiểu nhân, ngoài mặt thì xu phụ mình, còn trong lòng thì muốn hãm hại mình (Phu vu bác), như vậy rất nguy hiểm.
Tiểu tượng cho rằng: Dầu địa vị Cửu ngũ có chính đáng chăng nữa, nhưng vẫn phải đề phòng bọn tiểu nhân. (Phu vu bác. Vị chính đáng dã).
Quản Trọng trước khi chết, xin Tề Hoàn Công đuổi Diệt Nha, Thụ Điêu và Khai Phương, là những kẻ khéo bầy vẽ, tìm thú chơi cho nhà vua. Hoàn Công nói: Diệt Nha nấu thịt con nó cho ta ăn, vậy nó thương ta còn hơn con nó, mà còn nghi nỗi gì? Quản Trọng thưa: Nhân tình không chi hơn con, con nó mà nó còn nỡ giết, huống chi là chúa sao?.
Hoàn Công nói: Thụ Điêu nó tự thiến mà thờ ta, ấy là nó tiếc ta hơn thân nó, sao lại chẳng dùng? Quản Trọng thưa: Nhân tình tiếc chi bằng tiếc thân, thân nó, nó không tiếc, huống chi thân chúa?.
Hoàn Công nói: Vệ Công tử Khai Phương bỏ chức công tử, ngàn cỗ xe, qua ở làm tôi ta, đến nỗi cha mẹ chết không về để tang, là mến ta hơn mến cha mẹ, thật không còn nghi gì nữa. Quản Trọng thưa: Nhân tình ai gần hơn cha mẹ, mà nó còn nỡ vậy thay, huống chi là Chúa. Phàm được phong ngàn cỗ xe, ai chẳng muốn, mà nó bỏ ngàn cỗ xe để đến với Chúa Công, là nó muốn nhiều hơn nghìn cỗ xe nữa kia chớ.
Hoàn Công nói: Ba người ấy thờ ta lâu lắm, sao ngày thường không thấy Trọng Phụ nói một lời?. Quản Trọng thưa: Tôi mà chẳng nói, là vì họ vừa ý Chúa công, chúng ví như nước, tôi ví như bờ đê, chẳng cho nước trào. Nay bờ đê đã lở rồi, lo sẽ có nước lụt, xin Chúa Công phải tránh. Tề Hoàn Công nghe lời, đuổi bọn Diệt Nha, Thụ Điêu và Khai Phương đi. Nhưng ít lâu sau, lại thương tiếc, triệu chúng về dùng lại. Về sau quả nhiên, bị bọn này hãm hại. Khi Hoàn Công bị bệnh nặng, họ cho xây bức tường cao ba trượng quanh tẩm thất, không cho ai lai vãng, thăm nom, để vua chết trong đói khát, cô quạnh (Đông Chu Liệt Quốc, Võ Minh Trí dịch, trang 390 - 391, và 413 - 414).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 引 兌 .
象 曰 . 上 六 引 兌 . 未 光 也 .
Thượng Lục.
Dẫn Đoài.
Tượng viết:
Thượng Lục dẫn Đoài. Vị quang dã.
Dịch.
Đã vui, còn muốn kéo dài,
Tượng rằng: Thượng muốn vui hoài,
Thế là chưa phải là người quang minh.
Thượng Lục. Ngự Án cho rằng: Thượng Lục chính là một người chỉ còn biết có hoan lạc, hưởng thụ, ngoài ra họ không còn có chí hướng, mục phiêu gì khác nữa (Thượng Lục dẫn Đoài. Vị quang dã). Hành xử như vậy, làm sao gọi là quang minh được?
ÁP DỤNG QUẺ ĐOÀI VÀO THỜI ĐẠI
Trời sinh ra người, luôn muốn cho con người sống vui, sống khoẻ, chứ không phải muốn cho con người bị đọa đầy để mà đền tội. Ta bị khổ là do xã hội, do gia đình, do chính bản thân ta, do sự u mê, lầm lạc của ta đã lôi cuốn ta vào sự khổ đó, chứ không phải do Trời hành, Trời phạt.
Khổ là do xã hội: Trong một nước, mà phong kiến, lạc hậu còn ngự trị, thì người dân sao mà sống thoải mái được. Ta hãy nhìn xem hình ảnh của trẻ em bên Hoa Kỳ, các em da dẻ hồng hào, mập mạnh, chạy nhẩy, tươi cười. Trông các em, ta cảm thấy như trông thấy bầy thiên thần đang nô đùa. Trong khi đó, hãy nhìn trẻ em ở trong các xã hội chậm tiến như ở bên Á Châu, Phi châu; ta thấy các em xanh xao, gầy ốm, thiếu sự hồn nhiên, hay quấy, hay khóc.
Còn người lớn, thì đa số thiếu ăn, thiếu mặc, đời sống thiếu tiện nghi, thua sút dân tộc xứ người quá xa.
Làm sao cho ta khỏi khổ vì xã hội, vì gia đình, hay vì sự mê muội của chính bản thân ta.
Trước tiên, người cầm đầu nước phải biết mưu lợi ích cho dân. Phải biết đưa dân, chỉ dẫn cho dân vào con đường tiến hóa về mọi mặt : kinh tế, xã hội, đạo đức, nghề nghiệp, phát minh vv... Luôn luôn phải chạy đua trên đà tiến hóa của nhân loại. Luôn luôn phải giúp dân, nâng đỡ những tài năng ưu tú để họ có đủ phương tiện vật chất, tinh thần, để họ có thể thực hiện được những hoài bão của họ, để họ có thể mang tài năng của mình mà giúp ích cho nhà, cho nước mai sau.
Tiếp theo, người dân phải biết bổn phận mình phải làm gì? Mỗi người dân, gái cũng như trai, ai nấy đều phải có nghề nghiệp để có thể tự túc được, không phải sống nương tựa vào người khác. Ngay trẻ em, từ 8 tuổi, ta cũng thể tập cho các em có thể giúp đỡ cha mẹ trong công việc nhẹ trong nhà như: lau bàn ghế, hay có thể tự săn sóc lấy cho mình được như ăn uống, tắm rửa, thay quần áo, thu dọn buồng ngủ của mình cho ngăn nắp. Như vậy, trong một gia đình, vợ chồng đều có nghề có thể kiếm được tiền, con tuy nhỏ mà đã có óc trưởng thành sớm, thì dù ở hoàn cảnh nào, ta cũng không bị lo âu nao núng. Như vậy, ta đã bớt được rất nhiều nỗi khổ vì gia đình.
Khổ do chính bản thân ta tạo ra. Phần lớn nỗi khổ này do sự hôn nhân sai lầm mà ra, cũng chỉ vì yêu đương vội vã, không suy xét cẩn thận đã kết hôn. Sau đó, là do nghề nghiệp, đó cũng là vì lúc còn ở học đường, ta đã chọn một nghề không hợp với khả năng của ta, chỉ vì cha mẹ ta, hoặc do chính bản thân ta, chỉ chọn nghề do bề ngoài của nó, mà ít người nào chịu tìm hiểu xem mình có đủ khả năng học nghề đó không, hoặc nó có thích hợp với mình không? Do đó hậu quả là khi ra trường không kiếm được việc, hoặc có việc mà không được trọng dụng, vì khả năng quá yếu của mình, nên lúc nào cũng không được thoải mái, hoặc tự ti mặc cảm vì kém bạn đồng nghiệp.
Tệ hại hơn nữa, là khổ do sự u mê mà ra. Nhiều người chỉ vì muốn làm giầu nhanh chóng mà không phải khó nhọc gì, nên lao đầu vào thú vui bài bạc, để cuối cùng tán gia bại sản vì nó. Lại có người chạy theo thú vui nhục dục, để rồi tiền hết, bệnh mang. Lúc đó lại đổ cho tại số sui mà ra. Tóm lại, Khổ hay Sướng, Buồn hay Vui là do ta tự quyết định cho ta vậy.
BÁT THUẦN ĐOÀI
ĐOÀI VI TRẠCH
BÁT THUẦN ĐOÀI
Đoài Tự Quái
兌 序 卦
Tốn giả nhập dã.
巽 者 入 也 .
Nhập nhi hậu duyệt chi.
入 而 後 說 之
Cố thụ chi dĩ Đoài.
故 受 之 以 兌 .
Đoài giả duyệt dã.
兌 者 說 也 .
Đoài Tự Quái
Tốn vào, vả lại có phần sướng vui,
Cho nên nối tiếp là Đoài,
Đoài là vui sướng, vui rồi ly tan.
Mình từ tốn đối với người, người sẽ đẹp lòng. Vì thế sau quẻ Tốn là quẻ Đoài.
I. Thoán.
Thoán từ.
兌 . 亨 . 利貞 .
Đoài. Hanh. Lợi trinh.
Dịch.
Đoài là vui vẻ, thỏa thuê,
Rồi ra mới được mọi bề hanh thông.
Chính trinh, mà trọn được lòng,
Thế thời ích lợi, mới mong chu toàn.
Làm cho người đẹp lòng, đẹp dạ, người sẽ vui lòng cộng tác với mình để làm nên đại sự, vì thế nói Đoài hanh. Nhưng làm đẹp lòng người đây, không phải bằng những thủ đoạn bất chính, mà phải bằng những đường lối chính đáng, những cách thức đường hoàng, như vậy mới hay, mới lợi (Lợi trinh). Trinh là minh chính, chính đáng.
Thoán Truyện. Thoán viết.
彖 曰 . 兌 . 說 也 . 剛 中 而 柔 外 . 說 以 利 貞 . 是 以 順 乎 天 . 而 應 乎 人 . 說 以 先 民 . 民 忘 其 勞 . 說 以 犯 難 . 民 忘 其 死 . 說 之 大 . 民 勸 矣 哉 .
Đoài. Duyệt dã. Cương trung nhi nhu ngoại. Duyệt dĩ lợi trinh. Thị dĩ thuận hồ thiên. Nhi ứng hồ nhân. Duyệt dĩ tiên dân. Dân vong kỳ lao. Duyệt dĩ phạm nạn. Dân vong kỳ tử. Duyệt chi đại. Dân khuyến hỹ tai.
Dịch.
Đoài là vui vẻ, thỏa thuê,
Trong cương, ngoài lại thêm bề thuận nhu.
Vui mà chính đáng vui hòa,
Vui theo chính ý, lợi là mấy mươi.
Trên thời thuận với lòng trời,
Dưới thời ứng với lòng người gần xa.
Khiến dân đẹp ý, vui hòa,
Dẫu dân mệt nhọc, cũng là quên đi,
Dân vui, dân gặp hiểm nguy,
Băng chừng hiểm nạn, quản gì tử vong.
Làm cho dân được vui lòng.
Thời thôi, hậu quả vô cùng lớn lao.
Thoán Truyện quảng luận Thoán từ và cho rằng làm chính trị , phải cố sao cho được lòng dân (Đoài duyệt dã).
Bậc Quốc quân, bên trong thì minh chính, cương trực, quả quyết; nhưng bên ngoài thì mềm mỏng, khéo léo đối với mọi người (Cương trung nhi nhu ngoại). Nói thế, vì Đoài có hai Hào Dương cương bên trong, một Hào Âm nhu ở ngoài. Dùng những phương pháp chính đáng, để chinh phục lòng người, làm cho mọi người vừa lòng, đẹp ý, như thế sẽ thâu hoạch được nhiều ích lợi (Duyệt dĩ lợi trinh). Hành xử như vậy, sẽ thuận ý trời, vừa lòng người (Thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân).
Cai trị dân, hướng dẫn dân, mà làm cho dân vui đẹp, thì dẫu khiến dân làm lụng vất vả, dân cũng chẳng nề hà, dẫu bắt dân xông pha gian khổ, dân cũng liều chết hy sinh (Duyệt dĩ tiên dân. Dân vong kỳ lao. Duyệt dĩ phạm nạn. Dân vong kỳ tử). Vì thế, đắc nhân tâm, là một công trình vĩ đại, làm được cho dân chúng hứng khởi, nô nức hợp tác với chính quyền, trong mọi chương trình kiến quốc, thực là cao siêu vậy (Duyệt chi đại dân khuyến hỹ tai). Đại Học chủ trương: Nhà cầm quyền, nếu được lòng dân chúng, ắt được đất nước. Nếu để mất lòng dân chúng, chẳng khỏi mất nước.
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết.
象 曰 . 麗 澤 . 兌 . 君 子 以 朋 友 講 習 .
Lệ trạch. Đoài. Quân tử dĩ bằng hữu giảng tập.
Đoài ở đây là quẻ Đoài kép (Lệ Trạch Đoài).
Dịch. Tượng rằng:
Hai hồ kế cận thông nhau,
Bạn bè giảng tập, cơ mầu mới tinh.
Tượng giảng là hai hồ nước ở kế cận nhau, nương tựa lẫn nhau, nên đỡ khô cạn. Như vậy, muốn vui phải có đôi, có bạn.
Dịch, nhân lẽ đó dậy người quân tử, nên cùng bằng hữu học hỏi cho ra nghĩa lý, và sau đó, đem thực thi những điều đã học hỏi được. Âu cũng là nói lên sự cần thiết phải có bầu bạn, để học hành cho có hứng thú.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 和 兌 . 吉 .
象 曰 . 和 兌 之 吉 . 行 未 疑 也 .
Sơ Cửu.
Hòa Đoài. Cát.
Tượng viết:
Hòa Đoài chi cát. Hành vị nghi dã.
Dịch.
Một niềm hòa duyệt, thời hay,
Tượng rằng: Hòa duyệt mà hay,
Là vì cư xử, chẳng ai nghi ngờ.
Hào Sơ cửu ở dưới cùng quẻ Đoài, Dương cương mà lại không ứng với Cửu tứ. Thế nghĩa là Sơ Cửu biết hạ mình, sống hòa thuận với mọi người, làm đẹp lòng mọi người, mà chẳng thiên vị ai, vì thế nên tốt (Hòa Đoài. Cát).
Tấn Vân Phùng Thị nói: Hào Sơ có Dương đức, mà biết hạ mình, không thèm muốn Tam, không hiềm khích Nhị. Đó là tượng trưng người quân tử biết sống giản dị, khiêm cung, hòa nhã vậy.
Cái hay của Hào Sơ Cửu chính là biết tùy thời thuận xử, chưa làm điều gì sai ngoa, thất thố (Hòa Đoài chi cát. Hành vị nghi dã).
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 孚 兌 . 吉 . 悔 亡 .
象 曰 . 孚 兌 之 吉 . 信 志 也 .
Cửu nhị.
Phu Đoài. Cát. Hối vong.
Tượng viết:
Phu Đoài chi cát. Tín chí dã.
Dịch.
Sắt son một dạ, chẳng rời,
Hòa mà chẳng để cho người cuốn lôi,
Thế mới hay, thế mới tài.
Thế thời hết chuyện ỉ ôi, phàn nàn.
Tượng rằng:
Chính trung, hòa duyệt mà hay,
Là vì son sắt, dẫu lay chẳng rời.
Cửu nhị Dương cương, lại đắc trung, nên nói rằng: Dùng sự khảng khái mà được lòng người (Phu Đoài), vì thế nên hay, nên tốt, không có điều gì đáng phàn nàn (Cát. Hối vong). Thế là trong có chủ trương vững chắc, ngoài thì hòa duyệt, cảm thông với mọi người. Tượng cho rằng: Cửu nhị được lòng người mà vẫn hay, chính là vì có một niềm tin vững mạnh, nên chủ trương dứt khoát (Phu Đoài chi cát. Tín chí dã).
3. Hào Lục tam.
六三 . 來 兌 . 凶 .
象 曰 . 來 兌 之 凶 . 位 不 當 也 .
Lục tam.
Lai Đoài. Hung.
Tượng viết:
Lai Đoài chi hung. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Vui đâu, cũng vội xà vào,
Thế thời là xấu, phải nào hay đâu.
Tượng rằng:
Thấy vui xà tới, hay chi,
Là vì chẳng được xứng vì, xứng ngôi.
Lục tam. Ngự Án giải: Lai Đoài là một kẻ chuyên chú đi tìm thú vui, lấy hưởng thụ làm lẽ sống, chạy theo những thú vui bên ngoài, thấy đâu vui là sà đến. Như vậy làm sao mà hay được. Lai Đoài chi hung. Vị bất đáng dã. Tượng Truyện cho rằng cái dở của Lục tam, chính là tại vì không êm ngôi, xứng vị. Lấy tính cách Âm nhu, mà cầu duyệt bá vơ. Thấy người sang, bắt quàng làm họ, rồi bợ đỡ, nịnh hót. Như vậy đâu có hay (Lai Đoài chi hung. Vị bất đáng dã).
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 商 兌 . 未 寧 . 介 疾 有 喜 .
象 曰 . 九 四 之 喜 . 有 慶 也 .
Cửu tứ.
Thương Đoài vị ninh. Giới tật hữu hỉ.
Tượng viết:
Cửu tứ chi hỉ. Hữu khánh dã.
Dịch.
Băn khoăn, lưỡng lự, chưa yên,
Bên tà, bên chính, vui bên phía nào?
Rạch ròi, rất khoái phân mao,
Bỏ tà, theo chính, thế nào cũng vui.
Tượng rằng:
Được như Cửu tứ mà vui.
Thế là phúc khánh cho đời, còn chi.
Cửu tứ là Dương cương cư Âm vị, nên chưa phải là một người quân tử hoàn toàn, lại tiếp giáp với Cửu ngũ, tượng trưng cho một người công chính, cho những thú vui tinh thần cao thượng; và với Lục tam tượng trưng cho một kẻ Âm tà, cho những thú vui vật chất hư hèn. Thành thử Cửu tứ lưỡng lự, (Thương Đoài), chưa biết chọn bên nào, vì thế cho nên lòng còn sao xuyến chưa yên (Vị ninh). Nhưng rút cuộc, Cửu tứ đã có một thái độ rứt khoát. Đó là xa lánh tiểu nhân, khinh chê những thú vui hư hèn (Giới tật), vì thế nên đáng mừng vậy (Hữu hỉ). Cửu tứ là một trọng thần, mà cư xử được như vậy, thật là phúc lớn, chẳng những cho Cửu tứ, mà còn cho quốc gia nữa vậy (Cửu tứ chi hỉ. Hữu khánh dã).
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 孚 于 剝 . 有 厲 .
象 曰 . 孚 于 剝 . 位 正 當 也 .
Cửu ngũ.
Phu vu bác. Hữu lệ.
Tượng viết:
Phu vu bác. Vị chính đáng dã.
Dịch.
Nếu tin kẻ chực hại mình,
Thế thời nguy hiểm, chênh vênh quá chừng.
Tượng rằng:
Nếu tin vào kẻ hại mình,
Thế thời nguy hiểm, chênh vênh quá chừng.
Đã ngôi chính đáng cửu trùng.
Càng nên cẩn mật, đề phòng mới nên.
Cửu ngũ tuy là một ngôi vị quân vương, Dương cương đắc trung, đắc chính, nhưng nếu tin dùng kẻ tiểu nhân, ngoài mặt thì xu phụ mình, còn trong lòng thì muốn hãm hại mình (Phu vu bác), như vậy rất nguy hiểm.
Tiểu tượng cho rằng: Dầu địa vị Cửu ngũ có chính đáng chăng nữa, nhưng vẫn phải đề phòng bọn tiểu nhân. (Phu vu bác. Vị chính đáng dã).
Quản Trọng trước khi chết, xin Tề Hoàn Công đuổi Diệt Nha, Thụ Điêu và Khai Phương, là những kẻ khéo bầy vẽ, tìm thú chơi cho nhà vua. Hoàn Công nói: Diệt Nha nấu thịt con nó cho ta ăn, vậy nó thương ta còn hơn con nó, mà còn nghi nỗi gì? Quản Trọng thưa: Nhân tình không chi hơn con, con nó mà nó còn nỡ giết, huống chi là chúa sao?.
Hoàn Công nói: Thụ Điêu nó tự thiến mà thờ ta, ấy là nó tiếc ta hơn thân nó, sao lại chẳng dùng? Quản Trọng thưa: Nhân tình tiếc chi bằng tiếc thân, thân nó, nó không tiếc, huống chi thân chúa?.
Hoàn Công nói: Vệ Công tử Khai Phương bỏ chức công tử, ngàn cỗ xe, qua ở làm tôi ta, đến nỗi cha mẹ chết không về để tang, là mến ta hơn mến cha mẹ, thật không còn nghi gì nữa. Quản Trọng thưa: Nhân tình ai gần hơn cha mẹ, mà nó còn nỡ vậy thay, huống chi là Chúa. Phàm được phong ngàn cỗ xe, ai chẳng muốn, mà nó bỏ ngàn cỗ xe để đến với Chúa Công, là nó muốn nhiều hơn nghìn cỗ xe nữa kia chớ.
Hoàn Công nói: Ba người ấy thờ ta lâu lắm, sao ngày thường không thấy Trọng Phụ nói một lời?. Quản Trọng thưa: Tôi mà chẳng nói, là vì họ vừa ý Chúa công, chúng ví như nước, tôi ví như bờ đê, chẳng cho nước trào. Nay bờ đê đã lở rồi, lo sẽ có nước lụt, xin Chúa Công phải tránh. Tề Hoàn Công nghe lời, đuổi bọn Diệt Nha, Thụ Điêu và Khai Phương đi. Nhưng ít lâu sau, lại thương tiếc, triệu chúng về dùng lại. Về sau quả nhiên, bị bọn này hãm hại. Khi Hoàn Công bị bệnh nặng, họ cho xây bức tường cao ba trượng quanh tẩm thất, không cho ai lai vãng, thăm nom, để vua chết trong đói khát, cô quạnh (Đông Chu Liệt Quốc, Võ Minh Trí dịch, trang 390 - 391, và 413 - 414).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 引 兌 .
象 曰 . 上 六 引 兌 . 未 光 也 .
Thượng Lục.
Dẫn Đoài.
Tượng viết:
Thượng Lục dẫn Đoài. Vị quang dã.
Dịch.
Đã vui, còn muốn kéo dài,
Tượng rằng: Thượng muốn vui hoài,
Thế là chưa phải là người quang minh.
Thượng Lục. Ngự Án cho rằng: Thượng Lục chính là một người chỉ còn biết có hoan lạc, hưởng thụ, ngoài ra họ không còn có chí hướng, mục phiêu gì khác nữa (Thượng Lục dẫn Đoài. Vị quang dã). Hành xử như vậy, làm sao gọi là quang minh được?
ÁP DỤNG QUẺ ĐOÀI VÀO THỜI ĐẠI
Trời sinh ra người, luôn muốn cho con người sống vui, sống khoẻ, chứ không phải muốn cho con người bị đọa đầy để mà đền tội. Ta bị khổ là do xã hội, do gia đình, do chính bản thân ta, do sự u mê, lầm lạc của ta đã lôi cuốn ta vào sự khổ đó, chứ không phải do Trời hành, Trời phạt.
Khổ là do xã hội: Trong một nước, mà phong kiến, lạc hậu còn ngự trị, thì người dân sao mà sống thoải mái được. Ta hãy nhìn xem hình ảnh của trẻ em bên Hoa Kỳ, các em da dẻ hồng hào, mập mạnh, chạy nhẩy, tươi cười. Trông các em, ta cảm thấy như trông thấy bầy thiên thần đang nô đùa. Trong khi đó, hãy nhìn trẻ em ở trong các xã hội chậm tiến như ở bên Á Châu, Phi châu; ta thấy các em xanh xao, gầy ốm, thiếu sự hồn nhiên, hay quấy, hay khóc.
Còn người lớn, thì đa số thiếu ăn, thiếu mặc, đời sống thiếu tiện nghi, thua sút dân tộc xứ người quá xa.
Làm sao cho ta khỏi khổ vì xã hội, vì gia đình, hay vì sự mê muội của chính bản thân ta.
Trước tiên, người cầm đầu nước phải biết mưu lợi ích cho dân. Phải biết đưa dân, chỉ dẫn cho dân vào con đường tiến hóa về mọi mặt : kinh tế, xã hội, đạo đức, nghề nghiệp, phát minh vv... Luôn luôn phải chạy đua trên đà tiến hóa của nhân loại. Luôn luôn phải giúp dân, nâng đỡ những tài năng ưu tú để họ có đủ phương tiện vật chất, tinh thần, để họ có thể thực hiện được những hoài bão của họ, để họ có thể mang tài năng của mình mà giúp ích cho nhà, cho nước mai sau.
Tiếp theo, người dân phải biết bổn phận mình phải làm gì? Mỗi người dân, gái cũng như trai, ai nấy đều phải có nghề nghiệp để có thể tự túc được, không phải sống nương tựa vào người khác. Ngay trẻ em, từ 8 tuổi, ta cũng thể tập cho các em có thể giúp đỡ cha mẹ trong công việc nhẹ trong nhà như: lau bàn ghế, hay có thể tự săn sóc lấy cho mình được như ăn uống, tắm rửa, thay quần áo, thu dọn buồng ngủ của mình cho ngăn nắp. Như vậy, trong một gia đình, vợ chồng đều có nghề có thể kiếm được tiền, con tuy nhỏ mà đã có óc trưởng thành sớm, thì dù ở hoàn cảnh nào, ta cũng không bị lo âu nao núng. Như vậy, ta đã bớt được rất nhiều nỗi khổ vì gia đình.
Khổ do chính bản thân ta tạo ra. Phần lớn nỗi khổ này do sự hôn nhân sai lầm mà ra, cũng chỉ vì yêu đương vội vã, không suy xét cẩn thận đã kết hôn. Sau đó, là do nghề nghiệp, đó cũng là vì lúc còn ở học đường, ta đã chọn một nghề không hợp với khả năng của ta, chỉ vì cha mẹ ta, hoặc do chính bản thân ta, chỉ chọn nghề do bề ngoài của nó, mà ít người nào chịu tìm hiểu xem mình có đủ khả năng học nghề đó không, hoặc nó có thích hợp với mình không? Do đó hậu quả là khi ra trường không kiếm được việc, hoặc có việc mà không được trọng dụng, vì khả năng quá yếu của mình, nên lúc nào cũng không được thoải mái, hoặc tự ti mặc cảm vì kém bạn đồng nghiệp.
Tệ hại hơn nữa, là khổ do sự u mê mà ra. Nhiều người chỉ vì muốn làm giầu nhanh chóng mà không phải khó nhọc gì, nên lao đầu vào thú vui bài bạc, để cuối cùng tán gia bại sản vì nó. Lại có người chạy theo thú vui nhục dục, để rồi tiền hết, bệnh mang. Lúc đó lại đổ cho tại số sui mà ra. Tóm lại, Khổ hay Sướng, Buồn hay Vui là do ta tự quyết định cho ta vậy.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
2 TRẠCH THỦY KHỐN
TRẠCH THỦY KHỐN
Khốn Tự Quái
困 序 卦
Thăng nhi bất dĩ tất Khốn.
升 而 不 以 必 困
Cố thụ chi dĩ Khốn.
故 受 之 以 困.
Khốn Tự Quái
Lên cao cao mãi, đành rằng tai ương,
Cho nên Khốn tả nhiễu nhương...
Tiếp sau quẻ Thăng, là quẻ Khốn. Tại sao gọi bằng Khốn? Theo Tự Quái thì Thăng quá sẽ bị khốn. Chữ Khốn có chữ Mộc nằm trong bộ Vi. Đó là 1 cây bị tù túng không vươn lên được.
Quẻ Khốn trên có Đoài, dưới có Khảm. Nơi quẻ Đoài, thì 1 Hào Âm khuất lấp 2 Hào Dương, nơi quẻ Khảm thì hai Hào Âm chèn ép một Hào Dương ở giữa. Vì thế nên gọi bằng Khốn. Khốn tức là Quân tử bị tiểu nhân đè nén, khuất lấp.
I. Thoán.
Thoán từ.
困 . 亨 . 貞 . 大 人 吉 . 無 咎 . 有 言 不 信 .
Khốn. Hanh. Trinh. Đại nhân cát. Vô cữu. Hữu ngôn bất tín.
Dịch.
Khốn cùng, nhưng vẫn hanh thông,
Trung trinh, quân tử khốn cùng vẫn hay.
Khốn cùng, mà vẫn thẳng ngay,
Tuyệt nhiên không có đơn sai, lỗi lầm.
Gặp thời điên đảo phong trần.
Hãy nên kín miệng, nói năng ích gì.
Thoán từ: Khốn là khốn đốn. Khốn đốn trước mắt phàm phu, thời là cùng cực lao lung, nhưng trước mắt Thánh hiền, thì khốn vẫn mang lại sự hanh thông. Thật vậy, thân tuy khốn, nhưng phẩm giá vẫn vẹn toàn. Đạo vẫn cao, đức vẫn trọng, vẫn để được tiếng thơm muôn thuở, đó là trường hợp Nguyễn Tri Phương, Võ Tánh vv...
Khốn mà vẫn Hanh, vì sự khốn khổ là một phương tiện để đào luyện tâm thần một cách hữu hiệu. Mạnh Tử viết: Hễ trời định phó thác trách nhiệm lớn lao cho người nào, trước hết làm cho người ấy phải khổ não tâm trí, lao nhọc gân cốt, đói khát, cầu bơ cầu bất, nghèo nàn, thiếu hụt trước sau, và làm cho rối loạn điên đảo các cuộc hành vi của người ấy. Như vậy đặng phát động lương tâm của người, kiên nhẫn tính tình của người, và gia tăng tài đức còn khiếm khuyết của người.
Thế thường, người ta trước có lầm lỗi, rồi sau mới có thể sửa đổi. Trước có khốn đốn, nơi tâm tư hoạnh nghịch mới mưu lự, rồi sau mới hưng thịnh...(Mạnh Tử Cáo Tử Chương cú hạ, 15). Tuy nhiên, chỉ có người quân tử khi gặp lúc cùng khốn, mới giữ được tròn khí tiết, mới xử sự đường hoàng, không ai chê trách được, còn tiểu nhân ắt là không như vậy. Thoán Từ nói: Trinh. Đại nhân cát. Cũng y như Luận ngữ nói: Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hỹ (Luận Ngữ XV, 1). Lúc cùng khốn, lúc thất thế, mình có nói gì cũng chẳng ai tin mình (Hữu ngôn bất tín). Như vậy, thà kín tiếng, xẻn lời thì hơn.
Thoán Truyện.
Thoán viết:
彖 曰 . 困 . 剛 掩 也 . 險 以 說 . 困 而 不 失 其 所 . 亨 . 其 唯 君 子 乎 ? 貞 大 人 吉 . 以 剛 中 也 . 有 言 不 信 . 尚 口 乃 窮 也 .
Khốn. Cương yểm dã. Hiểm nhi duyệt. Khốn nhi bất thất kỳ sở hanh.
Kỳ duy quân tử hồ. Trinh đại nhân cát. Dĩ cương trung dã.
Hữu ngôn bất tín. Thượng khẩu nãi cùng dã.
Dịch.
Khốn là cứng bị mềm che,
Tuy trong gian hiểm, thỏa thuê khác nào.
Khốn cùng, mà vẫn thanh tao,
Trừ phi quân tử, nhẽ nào hanh thông.
Khốn cùng, mà vẫn trinh trung,
Phải là quân tử, mới mong tốt lành.
Gặp thời cùng khốn, điêu linh,
Sắt son, trung chính, thế tình mấy ai?
Chẳng nên cả tiếng, lắm lời,
Bạ mồm, có thể họa tai khôn cùng.
Thoán Truyện trước hết giải thích chữ Khốn, và cho rằng khốn là Dương cương bị khuất lấp. Dương cương là ánh sáng, là người quân tử, cũng y như nói ánh sáng bị che khuất, quân tử bị tiểu nhân đàn áp, bưng bít. (Khốn cương yểm dã). Gặp hiểm nguy, mà vẫn yên vui, vẫn giữ lòng an bình, thanh thản, thì chỉ có người quân tử mới làm được như vậy (Hiểm nhi duyệt. Khốn nhi bất thất kỳ sở hanh. Kỳ duy quân tử hồ). Đó là trường hợp đức Khổng bị vây 5,7 ngày ở Trần, Thái mà vẫn đàn ca, (Sử ký Tư Mã Thiên, Khổng tử thế gia), hoặc Nhan Hồi sống trong ngõ hẹp với 1 giỏ cơm, 1 bầu nước mà vẫn lấy làm ung dung, sung sướng (Luận Ngữ, VI, 9).
Người quân tử, gặp cảnh khốn cùng, vẫn giữ được lòng minh chính, vẫn giữ được lòng sắt son, như vậy mới hay (Trinh. Đại nhân cát). Họ tuy gặp cảnh khốn cùng, vẫn là đại nhân. Diogène, sống trong ống cống, với chiếc bát để ăn uống; được vua Alexandre đến thăm, ông xin vua một ân huệ là đứng lui ra, đừng lấp ánh mặt trời của ông.
Gặp nguy hiểm, khốn cùng, có nói cũng chẳng ai tin, nên dẫu có khua múa cũng chỉ chuốc lấy hoạ hại. Tiết Nhân Quí bị Lý Đạo Tông, là em vua Đường Thái Tôn bày mưu hại. Lý Đạo Tông giả chiếu chỉ triệu Tiết Nhân Quí về trào, mời về dinh dự tiệc, chuốc rượu mê cho say, và vu cho rằng định hãm hiếp và cố sát Quận Chúa. Đường Thái Tông nổi giận đòi chém, mà có đợi cho Tiết Nhân Quí biện bạch được lời nào đâu.
II. Đại Tượng Truyện
象 曰 . 澤 無 水 . 困 . 君 子 以 致 命 遂 志 .
Tượng viết:
Trạch vô thủy. Khốn. Quân tử dĩ trí mệnh toại chí.
Dịch. Tượng viết:
Khốn là nước rút khỏi chầm,
Khốn cùng, quân tử xả thân vẹn nghì.
Hồ mà không có nước, thì cá lấy đâu mà sống, người lấy nước đâu mà dùng nên ắt khốn. Người quân tử suy ra rằng, lúc cùng khốn phải biết coi thường sinh mạng, để bảo tồn đạo nghĩa (Quân tử dĩ trí mệnh toại chí). Trình tử cho rằng: Gặp nguy mà biết đó là Mệnh Trời, thời sẽ bình tĩnh tự thủ, không đến nỗi xao xuyến tâm thần, còn không thời sẽ mất tinh thần, và sẽ mắc kẹt trong tai ách. Giải như vậy cũng hay.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 臀 困 于 株木 . 入 于幽 谷 . 三 歲 不 .
象 曰 . 入 于 幽 谷 . 幽 不 明 也 .
Sơ Lục.
Đồn khốn vu chu mộc. Nhập vu u cốc. Tam tuế bất địch.
Tượng viết:
Nhập vu u cốc. U bất minh dã.
Dịch.
Mông trần, gốc trụi ngồi nhằm,
Vào trong hang tối ba năm thấy gì?
Tượng rằng: Hang tối đi vào,
Thế là dốt nát, chứ nào thông minh.
Hào Sơ Lục tượng trưng một người mắc khốn, mới đầu không hiểu vì đâu mà có tai bay, vạ gió như vậy, thực là như ngồi phải chông, phải cọc (Đồn khốn vu chu mộc), như lạc vào hang sâu (Nhập vu u cốc), đến 3 năm, mà cũng chẳng thấy được nẻo ra, chẳng thấy được người cứu (Tam tuế bất địch). Đó là trường hợp Tiết Nhân Quí bị Lý đạo Tông hãm hại như đã nói trên, và phải giam cầm nơi thiên lao 3 năm tròn. (Nhập vu u cốc). Nhiều khi mình mắc hoạ hoạn, chính là vì mình không sáng suốt (U bất minh dã).
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 困 于 酒 食 . 朱 紱 方 來 . 利 用 亨 祀 . 征 凶 . 無 咎 .
象 曰 . 困 于 酒 食 . 中 有 慶 也
Cửu nhị:
Khốn vu tửu thực. Chu phất phương lai. Lợi dụng hưởng tự. Chinh hung. Vô cữu.
Tượng viết:
Khốn vu tửu thực. Trung hữu khánh dã.
Dịch.
Ngoài tuy ăn uống, rượu chè,
Nhưng mà lòng vẫn ủ ê, buồn phiền.
Rồi ra vua sẽ lưu liên,
Rồi ra tất đỏ có phen gặp mình,
Lòng thành cảm động thần minh,
Nhưng đừng vội vã tiến hành việc chi.
Vội làm hung họa có khi,
Mình làm, mình chịu, kêu gì được ai.
Tượng rằng:
Rượu chè, mà vẫn khốn nàn,
Một lòng trung liệt, chứa chan phước lành.
Hào Cửu nhị tượng trưng là 1 bậc công thần, tuy bên ngoài vẫn sống trong nhung lụa, vẫn ăn sung, mặc sướng, nhưng không vì thế mà vui được, trái lại nhiều khi vẫn buồn khổ (Khốn vu tửu thực). Buồn khổ, có khi vì vận nước điêu linh, nhân dân đồ thán, có khi vì thù nhà chưa báo. Những người như vậy, rồi ra sẽ được quân vương cố cập (Chu phất phương lai). (Chu phất là mảnh vải điều bao đầu gối của vua chúa). Trong khi chờ đợi, hãy tâm thành van vái thần minh (Lợi dụng hưởng tự). Nếu vội vàng hành động, sẽ mang họa và không đổ lỗi cho ai được (Chinh hung vô cữu). Ví như Ngũ Tử Tư dẫu là mưu thần của Hạp Lư, nhưng bao lâu chưa đem quân về phá Sở được, để báo thù cho cha là Ngũ Xa, thì lòng vẫn rầu rĩ, khôn khuây. Thế là Khốn vu tửu thực. Sau này, Hạp Lư cũng phải chiều ý, mà cất quân đánh Sở, giúp cho Ngũ Tử Tư báo thù. Thế là Chu phất phương lai. Tuy nhiên, từ lúc lập chí báo thù, cho đến khi thực hiện được chí hướng ấy, cần 1 thời gian dài, nếu làm vội vã sẽ thất bại. Thế là Vãng hung vô cữu.
Tượng Truyện bình rằng: Cơm rượu ê hề, mà vẫn thấy lòng đau đớn, những người có lòng thành như vậy sẽ cảm động được đất trời, nên rồi ra cũng sẽ được phúc khánh (Khốn vu tửu thực. Trung hữu khánh dã).
3. Hào Lục tam.
六 三 . 困 于 石 . 據 于 蒺 藜 . 入 于 其 宮 . 不 見 其 妻 . 凶 .
象 曰 . 據 于 蒺 藜 . 乘 剛 也 . 入 于 其 宮 . 不 見 其 妻 . 不 祥 也 .
Lục tam.
Khốn vu thạch. Cứ vu tật lê. Nhập vu kỳ cung. Bất kiến kỳ thê. Hung.
Tượng viết:
Cứ vu tật lê. Thừa cương dã. Nhập vu kỳ cung. Bất kiến kỳ thê.
Bất tường dã.
Dịch.
Những là vấp đá, chạm gai,
Khốn sao khốn khổ, tơi bời tấm thân.
Về nhà thời vợ biệt tăm,
Tứ bề quạnh quẽ, thập phần hung tai.
Tượng rằng: Dựa phải bụi gai,
Mình nhu, mà dám cưỡi chòi trên cương,
Về nhà vợ biệt hà phương,
Thế là gặp chuyện bất tường còn chi.
Hào Lục tam tượng trưng một người Âm nhu chi tài, lại bất trung, bất chính. Gặp lúc cùng khốn, đã không có tài, mà lại làm liều, thì làm sao thoát nạn. Muốn tiến lên, thì Cửu tứ, Cửu ngũ như đá ngăn trước mặt (Khốn vu thạch). Muốn lùi, mà sau có Cửu nhị, như gai đâm sau lưng (Cứ vu tật lê), lại trên không ứng với Thượng Lục, có khác nào người gặp nguy khốn đã tiến thoái, lưỡng nan; mà tìm về nhà thì vợ đã biệt tăm tích (Nhập vu kỳ cung. Bất kiến kỳ thê), như vậy thì dĩ nhiên là hung hoạ rồi. Tượng Truyện bình rằng: Phàm Nhu mà cưỡi lên Cương, phàm những người bất tài, bất tướng mà chèo đèo, đòi ăn trên, ngồi chốc người anh tài, thế là dựa vào gai, đạp vào gai vậy (Cứ vu tật lê. Thừa cương dã). Thân đã bất an, mà còn đạp gai, đạp góc, thế là bất tường vậy, y như về nhà mà không thấy vợ (Nhập vu kỳ cung. bất kiến kỳ thê. Bất tường dã).
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 來 徐 徐 . 困 于 金 車 . 吝 . 有 終 .
象 曰 . 來 徐 徐 . 志 在 下 也 . 雖 不 當 位 . 有 與 也 .
Cửu tứ.
Lai từ từ. Khốn vu kim xa. Lận. Hữu chung.
Tượng viết:
Lai từ từ. Chí tại hạ dã. Tuy bất đáng vị. Hữu dữ dã.
Dịch.
Tới nhưng chậm chạp, dùng dằng.
Muốn đi, khốn nổi xe ngăn mất đường.
Tuy là đáng phải phàn nàn,
Cuối cùng âu cũng sẽ làm nên công.
Tượng rằng:
Tới nhưng chậm chạp, dùng dằng,
Xót tình kẻ dưới, dạ hằng vấn vương.
Tuy là ngôi vị dở dang,
Nhưng mà vẫn kẻ lo toan cùng mình.
Hào Cửu tứ: Nhiều khi thấy những người chân tay mình mắc nàn, mà muốn giúp cũng khó lòng, phải tuần tự nhi tiến (Lai từ từ), phải tránh né cho khỏi vấp váp sự chống đối của đối phương (Khốn vu kim xa), tuy làm vậy cũng đáng hổ ngươi, nhưng không đáng trách (Lận. Hữu chung). Cửu tứ muốn cứu Sơ Lục, mà phải đi chầm chậm (Lai từ từ). Khốn vu kim xa là bị Cửu nhị như chiếc xe sắt cản trở.
Y như bè bạn Tiết Nhân Quý, có Trình Giảo Kim, Uất Trì Cung, Từ Mậu Công từng làm quan lớn trong triều, mà muốn cứu Tiết Nhân Quí khỏi tội, khỏi bị hại cũng mất mấy năm trời.
Tượng Truyện bình rằng: Tuy là hoạt động chậm chạp, nhưng mà ý chí vẫn gởi gấm nơi người dưới (Lai từ từ. Chí tại hạ dã). Tuy rằng ngôi vị không được chính đáng, nhưng sau cùng cũng vẫn tới được mà cứu vớt được Sơ (Tuy bất đáng vị. Hữu dữ dã).
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 劓 刖 . 困 于 赤 紱 . 乃 徐 有 說 . 利 用 祭 祀 .
象 曰 . 劓 刖 . 志 未 得 也 . 乃 徐 有 說 . 以 中 直 也 .
利 用 祭 祀 . 受 福 也 .
Cửu ngũ.
Tị nguyệt. Khốn vu xích phất. Nãi từ hữu duyệt. Lợi dụng tế tự.
Tượng viết:
Tị nguyệt. Chí vị đắc dã. Nãi từ hữu duyệt. Dĩ trung trực dã.
Lợi dụng tế tự. Thụ phúc dã.
Dịch.
Ra uy cắt mũi, chặt chân.
Quân thần xui khiến, ra thân khốn nàn.
Từ từ, lòng sẽ rảnh rang,
Hãy nên tế lễ, vái van ơn trời.
Tượng rằng:
Ra uy cắt mũi, chặt chân.
Ý nguyền chưa được thập phần thỏa thuê.
Từ từ âu sẽ đẹp bề,
Một niềm trung trực, lo gì chẳng hay.
Tế thần sẽ được phúc dầy,
Chân thành cầu đảo, tràn đầy ơn trên.
Hào Cửu ngũ: có nhiều cách bình giải:
Trình tử giải đại khái rằng: Bậc quân vương mà bị khốn, là vì trên, dưới đều bỏ mình (Tị nguyệt: Tị là bị thương ở mũi, ở trên: Nguyệt là bị thương ở chân, ở dưới; trên dưới đều bị thương. Bậc quân vương mà bị khốn là vì thiên hạ bỏ mình (Khốn vu xích phất). Tuy nhiên Cửu ngũ đồng đức với cửu nhị, rồi ra sẽ được Cửu nhị cứu khốn phò nguy. Phàm Quân vương bị khốn, phải lo cầu hiền tài, với tất cả lòng thành như là tế tự thần minh vậy, âu sẽ gặp may lành (Nãi từ hữu duyệt. Lợi dụng tế tự)
Lai Trí Đức giải đại khái như sau:
Tị nguyệt là vua bị khốn.
Khốn vu xích phất là tôi bị khốn.
Nãi từ hữu duyệt là rồi ra cũng sẽ thoát nạn.
Lợi dụng tế tự là thành khẩn cầu xin sẽ được phúc.
Dưới đây xin dẫn sự tích lịch sử, để giúp ta hiểu rõ Hào này: Vua Tống Thái Tổ đi chinh phạt Nam Đường, bị yêu đạo Dư Hồng vây khốn tại thành Thọ Châu, bị bắt mất 12 tướng, lại gần hết lương thực. Vua rưng rưng nước mắt mà than rằng: Binh tướng bị vây, vua rầu, tôi nhục, uổng công xây dựng 18 năm trời, lại nỗi mẹ già buồn bực đêm ngày, 80 tuổi trông con dựa cửa. Nói tới đó, cầm lòng không đậu, lụy ngọc chan hòa. Miêu Quang Vũ và bá quan xúm nhau lại khuyên giải. Miêu Quang Vũ khuyên vua nên đặt hương án, cầu trời, khấn phật, họa may trời phật sai thần tiên xuống trừ nó mới xong. Đêm ấy vua tôi ăn chay, tắm gội, mặc đồ mới, đồng quì trước hương án mà cầu trời...Hứa nếu thoát nạn, khi về nước rồi, sẽ giảm thuế, tha tù, làm phúc mà chuộc tội. Rạng sáng, trời sai Phi thử đem tha vào kho cho vua ba mươi vạn hộc lúa, và mấy ngày sau Hoàng Thạch Công sai Trịnh Ân xuống phá vòng vây để đi cầu viện cho vua.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 困 于 葛 . 于 . 曰 動 悔 . 有 悔 . 征 吉 .
象 曰. 困 于 葛. 未 當 也 . 動 悔 . 有 悔 . 吉 行 也 .
Thượng Lục.
Khốn vu cát lũy. Vu nghiệt ngột. Viết động hối. Hữu hối . Chinh cát.
Tượng viết:
Khốn vu cát lũy. Vị đáng dã. Động hối hữu hối. Cát hành dã.
Dịch.
Sắn bìm quấn quít, nhiễu nhương,
Khó bề dở dói, nên vương khốn nàn.
Khốn nàn mà biết lo toan,
Lỗi lầm mà biết phàn nàn thời hay.
Tượng rằng:
Sắn bìm quấn quít, vấn vương,
Hãy còn khốn đốn, chưa đường thoát ra.
Tránh điều ân hận, phiền hà.
Liệu cơ thoát khốn, mới là mắn may.
Hào Thượng Lục: Lúc này, là thời khốn đã tới cùng, cùng tất biến. Tuy nhiên Thượng Lục còn bị khốn khó như dây dợ sắn bìm, vướng mắc chưa thoát được (Khốn vu cát lũy), hoạt động còn có mòi nguy hiểm lắm (Vu nghiệt ngột). Nhưng nếu biết tự nhủ rằng: Hoạt động sẽ gặp điều đáng phàn nàn (Viết động hối). Nếu làm sai, mà biết phàn nàn, sang sửa (Hữu hối), được như vậy mà tiến hành công chuyện, sẽ thoát khốn (Chinh cát).
Tượng viết: Khốn vu cát lũy. Vị đáng dã. Động hối. Hữu hối. Cát hành dã. Bị khốn khó buộc ràng, chưa biến đổi hoàn cảnh, thế là chưa biết xử sự cho hay, hành động cho khéo (Khốn vu cát lũy. Vị đáng dã). Biết lo trước những trắc trở khi hoạt động, làm sai biết hối quá, như vậy có thể thoát khốn, thế là tiến hành sẽ gặp may (Động hối. Hữu hối. Cát hành dã).
ÁP DỤNG QUẺ KHỐN VÀO THỜI ĐẠI
Nhìn vào đời sống xã hội, nhân quần, ta thấy xưa nay không biết là bao người đã bị giông tố xã hội, gia đình, thời gian, hoàn cảnh cuốn lôi, đã lâm vào những cảnh cùng khốn hết sức.
Cách đây 50 năm, ở Đức, Hitler đã ra lệnh thiêu sống 6 triệu người Do Thái, mà Thế giới chịu không can thiệp nổi.
Lại gần đây, ở Việt Nam, biết bao người đi vượt biên đã bị hải tặc Thái Lan hãm hiếp, giết chóc khiến gia đình ly tán, người còn, người chết, tình cảnh thật thê lương.
Xưa kia, biết bao công thần đã bị nhà vua cố tình giết chết, hoặc bị đồng liêu giá họa và đã đi đến chỗ tử vong. Họ tỏ ra ung dung, thư thái trước cái chết, như Nhạc Phi,vv...
Dịch kinh, khuyên ta nếu gặp hoàn cảnh trên, phải bình tĩnh mà tìm cách thoát khỏi cảnh nguy khốn đó.
Theo tôi (tác giả viết bài này), nếu dân Do Thái lúc ấy cùng đoàn kết nổi lên chống lại, thì làm sao Đức quốc xã thiêu sống nổi 6 triệu người. Nếu trước khi vượt biên, mà ta hoạch định sẵn chương trình, tất cả đều mang gậy gộc, hoặc dấu vài khẩu súng theo. Khi trông thấy thuyền cướp Thái Lan từ xa tiến lại, ta nhất tề đứng lên, với tư thế sẵn sàng ứng chiến, thì tôi nghĩ với vài tên cướp biển chắc chắn không dám xâm phạm ta. Nhà tôi có người bạn, cũng ở trong trường hợp này, ông ta cùng với những người nam trong thuyền, mang theo gậy gộc và khi trông thấy bọn cướp có vài ba đứa tiến đến, là nhất tề cầm gậy ứng chiến. Bọn cướp thấy khó ăn, nên đã không dám làm gì.
Còn trường hợp Nhạc Phi, hồi nhỏ lúc đọc Truyện, tôi đã không tán thành hành động của Người, vì theo tôi đó là Ngu trung, thật vậy Người đã không đặt Quốc Gia, Dân tộc trên hết, mà đã vì chữ trung, sẳn sàng chịu chết bởi tay gian thần Tần Cối, và một vị vua hôn ám. Thật là một cái chết không đáng vậy. Tóm lại, Học Dịch cốt để phòng những tai họa, khó khăn có thể xẩy ra, ta sẽ giải quyết được nó dễ dàng hơn, và xa hơn nữa ta sẽ bớt đi được nhiều lỗi lầm trong đời ta.
TRẠCH THỦY KHỐN
Khốn Tự Quái
困 序 卦
Thăng nhi bất dĩ tất Khốn.
升 而 不 以 必 困
Cố thụ chi dĩ Khốn.
故 受 之 以 困.
Khốn Tự Quái
Lên cao cao mãi, đành rằng tai ương,
Cho nên Khốn tả nhiễu nhương...
Tiếp sau quẻ Thăng, là quẻ Khốn. Tại sao gọi bằng Khốn? Theo Tự Quái thì Thăng quá sẽ bị khốn. Chữ Khốn có chữ Mộc nằm trong bộ Vi. Đó là 1 cây bị tù túng không vươn lên được.
Quẻ Khốn trên có Đoài, dưới có Khảm. Nơi quẻ Đoài, thì 1 Hào Âm khuất lấp 2 Hào Dương, nơi quẻ Khảm thì hai Hào Âm chèn ép một Hào Dương ở giữa. Vì thế nên gọi bằng Khốn. Khốn tức là Quân tử bị tiểu nhân đè nén, khuất lấp.
I. Thoán.
Thoán từ.
困 . 亨 . 貞 . 大 人 吉 . 無 咎 . 有 言 不 信 .
Khốn. Hanh. Trinh. Đại nhân cát. Vô cữu. Hữu ngôn bất tín.
Dịch.
Khốn cùng, nhưng vẫn hanh thông,
Trung trinh, quân tử khốn cùng vẫn hay.
Khốn cùng, mà vẫn thẳng ngay,
Tuyệt nhiên không có đơn sai, lỗi lầm.
Gặp thời điên đảo phong trần.
Hãy nên kín miệng, nói năng ích gì.
Thoán từ: Khốn là khốn đốn. Khốn đốn trước mắt phàm phu, thời là cùng cực lao lung, nhưng trước mắt Thánh hiền, thì khốn vẫn mang lại sự hanh thông. Thật vậy, thân tuy khốn, nhưng phẩm giá vẫn vẹn toàn. Đạo vẫn cao, đức vẫn trọng, vẫn để được tiếng thơm muôn thuở, đó là trường hợp Nguyễn Tri Phương, Võ Tánh vv...
Khốn mà vẫn Hanh, vì sự khốn khổ là một phương tiện để đào luyện tâm thần một cách hữu hiệu. Mạnh Tử viết: Hễ trời định phó thác trách nhiệm lớn lao cho người nào, trước hết làm cho người ấy phải khổ não tâm trí, lao nhọc gân cốt, đói khát, cầu bơ cầu bất, nghèo nàn, thiếu hụt trước sau, và làm cho rối loạn điên đảo các cuộc hành vi của người ấy. Như vậy đặng phát động lương tâm của người, kiên nhẫn tính tình của người, và gia tăng tài đức còn khiếm khuyết của người.
Thế thường, người ta trước có lầm lỗi, rồi sau mới có thể sửa đổi. Trước có khốn đốn, nơi tâm tư hoạnh nghịch mới mưu lự, rồi sau mới hưng thịnh...(Mạnh Tử Cáo Tử Chương cú hạ, 15). Tuy nhiên, chỉ có người quân tử khi gặp lúc cùng khốn, mới giữ được tròn khí tiết, mới xử sự đường hoàng, không ai chê trách được, còn tiểu nhân ắt là không như vậy. Thoán Từ nói: Trinh. Đại nhân cát. Cũng y như Luận ngữ nói: Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hỹ (Luận Ngữ XV, 1). Lúc cùng khốn, lúc thất thế, mình có nói gì cũng chẳng ai tin mình (Hữu ngôn bất tín). Như vậy, thà kín tiếng, xẻn lời thì hơn.
Thoán Truyện.
Thoán viết:
彖 曰 . 困 . 剛 掩 也 . 險 以 說 . 困 而 不 失 其 所 . 亨 . 其 唯 君 子 乎 ? 貞 大 人 吉 . 以 剛 中 也 . 有 言 不 信 . 尚 口 乃 窮 也 .
Khốn. Cương yểm dã. Hiểm nhi duyệt. Khốn nhi bất thất kỳ sở hanh.
Kỳ duy quân tử hồ. Trinh đại nhân cát. Dĩ cương trung dã.
Hữu ngôn bất tín. Thượng khẩu nãi cùng dã.
Dịch.
Khốn là cứng bị mềm che,
Tuy trong gian hiểm, thỏa thuê khác nào.
Khốn cùng, mà vẫn thanh tao,
Trừ phi quân tử, nhẽ nào hanh thông.
Khốn cùng, mà vẫn trinh trung,
Phải là quân tử, mới mong tốt lành.
Gặp thời cùng khốn, điêu linh,
Sắt son, trung chính, thế tình mấy ai?
Chẳng nên cả tiếng, lắm lời,
Bạ mồm, có thể họa tai khôn cùng.
Thoán Truyện trước hết giải thích chữ Khốn, và cho rằng khốn là Dương cương bị khuất lấp. Dương cương là ánh sáng, là người quân tử, cũng y như nói ánh sáng bị che khuất, quân tử bị tiểu nhân đàn áp, bưng bít. (Khốn cương yểm dã). Gặp hiểm nguy, mà vẫn yên vui, vẫn giữ lòng an bình, thanh thản, thì chỉ có người quân tử mới làm được như vậy (Hiểm nhi duyệt. Khốn nhi bất thất kỳ sở hanh. Kỳ duy quân tử hồ). Đó là trường hợp đức Khổng bị vây 5,7 ngày ở Trần, Thái mà vẫn đàn ca, (Sử ký Tư Mã Thiên, Khổng tử thế gia), hoặc Nhan Hồi sống trong ngõ hẹp với 1 giỏ cơm, 1 bầu nước mà vẫn lấy làm ung dung, sung sướng (Luận Ngữ, VI, 9).
Người quân tử, gặp cảnh khốn cùng, vẫn giữ được lòng minh chính, vẫn giữ được lòng sắt son, như vậy mới hay (Trinh. Đại nhân cát). Họ tuy gặp cảnh khốn cùng, vẫn là đại nhân. Diogène, sống trong ống cống, với chiếc bát để ăn uống; được vua Alexandre đến thăm, ông xin vua một ân huệ là đứng lui ra, đừng lấp ánh mặt trời của ông.
Gặp nguy hiểm, khốn cùng, có nói cũng chẳng ai tin, nên dẫu có khua múa cũng chỉ chuốc lấy hoạ hại. Tiết Nhân Quí bị Lý Đạo Tông, là em vua Đường Thái Tôn bày mưu hại. Lý Đạo Tông giả chiếu chỉ triệu Tiết Nhân Quí về trào, mời về dinh dự tiệc, chuốc rượu mê cho say, và vu cho rằng định hãm hiếp và cố sát Quận Chúa. Đường Thái Tông nổi giận đòi chém, mà có đợi cho Tiết Nhân Quí biện bạch được lời nào đâu.
II. Đại Tượng Truyện
象 曰 . 澤 無 水 . 困 . 君 子 以 致 命 遂 志 .
Tượng viết:
Trạch vô thủy. Khốn. Quân tử dĩ trí mệnh toại chí.
Dịch. Tượng viết:
Khốn là nước rút khỏi chầm,
Khốn cùng, quân tử xả thân vẹn nghì.
Hồ mà không có nước, thì cá lấy đâu mà sống, người lấy nước đâu mà dùng nên ắt khốn. Người quân tử suy ra rằng, lúc cùng khốn phải biết coi thường sinh mạng, để bảo tồn đạo nghĩa (Quân tử dĩ trí mệnh toại chí). Trình tử cho rằng: Gặp nguy mà biết đó là Mệnh Trời, thời sẽ bình tĩnh tự thủ, không đến nỗi xao xuyến tâm thần, còn không thời sẽ mất tinh thần, và sẽ mắc kẹt trong tai ách. Giải như vậy cũng hay.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 臀 困 于 株木 . 入 于幽 谷 . 三 歲 不 .
象 曰 . 入 于 幽 谷 . 幽 不 明 也 .
Sơ Lục.
Đồn khốn vu chu mộc. Nhập vu u cốc. Tam tuế bất địch.
Tượng viết:
Nhập vu u cốc. U bất minh dã.
Dịch.
Mông trần, gốc trụi ngồi nhằm,
Vào trong hang tối ba năm thấy gì?
Tượng rằng: Hang tối đi vào,
Thế là dốt nát, chứ nào thông minh.
Hào Sơ Lục tượng trưng một người mắc khốn, mới đầu không hiểu vì đâu mà có tai bay, vạ gió như vậy, thực là như ngồi phải chông, phải cọc (Đồn khốn vu chu mộc), như lạc vào hang sâu (Nhập vu u cốc), đến 3 năm, mà cũng chẳng thấy được nẻo ra, chẳng thấy được người cứu (Tam tuế bất địch). Đó là trường hợp Tiết Nhân Quí bị Lý đạo Tông hãm hại như đã nói trên, và phải giam cầm nơi thiên lao 3 năm tròn. (Nhập vu u cốc). Nhiều khi mình mắc hoạ hoạn, chính là vì mình không sáng suốt (U bất minh dã).
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 困 于 酒 食 . 朱 紱 方 來 . 利 用 亨 祀 . 征 凶 . 無 咎 .
象 曰 . 困 于 酒 食 . 中 有 慶 也
Cửu nhị:
Khốn vu tửu thực. Chu phất phương lai. Lợi dụng hưởng tự. Chinh hung. Vô cữu.
Tượng viết:
Khốn vu tửu thực. Trung hữu khánh dã.
Dịch.
Ngoài tuy ăn uống, rượu chè,
Nhưng mà lòng vẫn ủ ê, buồn phiền.
Rồi ra vua sẽ lưu liên,
Rồi ra tất đỏ có phen gặp mình,
Lòng thành cảm động thần minh,
Nhưng đừng vội vã tiến hành việc chi.
Vội làm hung họa có khi,
Mình làm, mình chịu, kêu gì được ai.
Tượng rằng:
Rượu chè, mà vẫn khốn nàn,
Một lòng trung liệt, chứa chan phước lành.
Hào Cửu nhị tượng trưng là 1 bậc công thần, tuy bên ngoài vẫn sống trong nhung lụa, vẫn ăn sung, mặc sướng, nhưng không vì thế mà vui được, trái lại nhiều khi vẫn buồn khổ (Khốn vu tửu thực). Buồn khổ, có khi vì vận nước điêu linh, nhân dân đồ thán, có khi vì thù nhà chưa báo. Những người như vậy, rồi ra sẽ được quân vương cố cập (Chu phất phương lai). (Chu phất là mảnh vải điều bao đầu gối của vua chúa). Trong khi chờ đợi, hãy tâm thành van vái thần minh (Lợi dụng hưởng tự). Nếu vội vàng hành động, sẽ mang họa và không đổ lỗi cho ai được (Chinh hung vô cữu). Ví như Ngũ Tử Tư dẫu là mưu thần của Hạp Lư, nhưng bao lâu chưa đem quân về phá Sở được, để báo thù cho cha là Ngũ Xa, thì lòng vẫn rầu rĩ, khôn khuây. Thế là Khốn vu tửu thực. Sau này, Hạp Lư cũng phải chiều ý, mà cất quân đánh Sở, giúp cho Ngũ Tử Tư báo thù. Thế là Chu phất phương lai. Tuy nhiên, từ lúc lập chí báo thù, cho đến khi thực hiện được chí hướng ấy, cần 1 thời gian dài, nếu làm vội vã sẽ thất bại. Thế là Vãng hung vô cữu.
Tượng Truyện bình rằng: Cơm rượu ê hề, mà vẫn thấy lòng đau đớn, những người có lòng thành như vậy sẽ cảm động được đất trời, nên rồi ra cũng sẽ được phúc khánh (Khốn vu tửu thực. Trung hữu khánh dã).
3. Hào Lục tam.
六 三 . 困 于 石 . 據 于 蒺 藜 . 入 于 其 宮 . 不 見 其 妻 . 凶 .
象 曰 . 據 于 蒺 藜 . 乘 剛 也 . 入 于 其 宮 . 不 見 其 妻 . 不 祥 也 .
Lục tam.
Khốn vu thạch. Cứ vu tật lê. Nhập vu kỳ cung. Bất kiến kỳ thê. Hung.
Tượng viết:
Cứ vu tật lê. Thừa cương dã. Nhập vu kỳ cung. Bất kiến kỳ thê.
Bất tường dã.
Dịch.
Những là vấp đá, chạm gai,
Khốn sao khốn khổ, tơi bời tấm thân.
Về nhà thời vợ biệt tăm,
Tứ bề quạnh quẽ, thập phần hung tai.
Tượng rằng: Dựa phải bụi gai,
Mình nhu, mà dám cưỡi chòi trên cương,
Về nhà vợ biệt hà phương,
Thế là gặp chuyện bất tường còn chi.
Hào Lục tam tượng trưng một người Âm nhu chi tài, lại bất trung, bất chính. Gặp lúc cùng khốn, đã không có tài, mà lại làm liều, thì làm sao thoát nạn. Muốn tiến lên, thì Cửu tứ, Cửu ngũ như đá ngăn trước mặt (Khốn vu thạch). Muốn lùi, mà sau có Cửu nhị, như gai đâm sau lưng (Cứ vu tật lê), lại trên không ứng với Thượng Lục, có khác nào người gặp nguy khốn đã tiến thoái, lưỡng nan; mà tìm về nhà thì vợ đã biệt tăm tích (Nhập vu kỳ cung. Bất kiến kỳ thê), như vậy thì dĩ nhiên là hung hoạ rồi. Tượng Truyện bình rằng: Phàm Nhu mà cưỡi lên Cương, phàm những người bất tài, bất tướng mà chèo đèo, đòi ăn trên, ngồi chốc người anh tài, thế là dựa vào gai, đạp vào gai vậy (Cứ vu tật lê. Thừa cương dã). Thân đã bất an, mà còn đạp gai, đạp góc, thế là bất tường vậy, y như về nhà mà không thấy vợ (Nhập vu kỳ cung. bất kiến kỳ thê. Bất tường dã).
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 來 徐 徐 . 困 于 金 車 . 吝 . 有 終 .
象 曰 . 來 徐 徐 . 志 在 下 也 . 雖 不 當 位 . 有 與 也 .
Cửu tứ.
Lai từ từ. Khốn vu kim xa. Lận. Hữu chung.
Tượng viết:
Lai từ từ. Chí tại hạ dã. Tuy bất đáng vị. Hữu dữ dã.
Dịch.
Tới nhưng chậm chạp, dùng dằng.
Muốn đi, khốn nổi xe ngăn mất đường.
Tuy là đáng phải phàn nàn,
Cuối cùng âu cũng sẽ làm nên công.
Tượng rằng:
Tới nhưng chậm chạp, dùng dằng,
Xót tình kẻ dưới, dạ hằng vấn vương.
Tuy là ngôi vị dở dang,
Nhưng mà vẫn kẻ lo toan cùng mình.
Hào Cửu tứ: Nhiều khi thấy những người chân tay mình mắc nàn, mà muốn giúp cũng khó lòng, phải tuần tự nhi tiến (Lai từ từ), phải tránh né cho khỏi vấp váp sự chống đối của đối phương (Khốn vu kim xa), tuy làm vậy cũng đáng hổ ngươi, nhưng không đáng trách (Lận. Hữu chung). Cửu tứ muốn cứu Sơ Lục, mà phải đi chầm chậm (Lai từ từ). Khốn vu kim xa là bị Cửu nhị như chiếc xe sắt cản trở.
Y như bè bạn Tiết Nhân Quý, có Trình Giảo Kim, Uất Trì Cung, Từ Mậu Công từng làm quan lớn trong triều, mà muốn cứu Tiết Nhân Quí khỏi tội, khỏi bị hại cũng mất mấy năm trời.
Tượng Truyện bình rằng: Tuy là hoạt động chậm chạp, nhưng mà ý chí vẫn gởi gấm nơi người dưới (Lai từ từ. Chí tại hạ dã). Tuy rằng ngôi vị không được chính đáng, nhưng sau cùng cũng vẫn tới được mà cứu vớt được Sơ (Tuy bất đáng vị. Hữu dữ dã).
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 劓 刖 . 困 于 赤 紱 . 乃 徐 有 說 . 利 用 祭 祀 .
象 曰 . 劓 刖 . 志 未 得 也 . 乃 徐 有 說 . 以 中 直 也 .
利 用 祭 祀 . 受 福 也 .
Cửu ngũ.
Tị nguyệt. Khốn vu xích phất. Nãi từ hữu duyệt. Lợi dụng tế tự.
Tượng viết:
Tị nguyệt. Chí vị đắc dã. Nãi từ hữu duyệt. Dĩ trung trực dã.
Lợi dụng tế tự. Thụ phúc dã.
Dịch.
Ra uy cắt mũi, chặt chân.
Quân thần xui khiến, ra thân khốn nàn.
Từ từ, lòng sẽ rảnh rang,
Hãy nên tế lễ, vái van ơn trời.
Tượng rằng:
Ra uy cắt mũi, chặt chân.
Ý nguyền chưa được thập phần thỏa thuê.
Từ từ âu sẽ đẹp bề,
Một niềm trung trực, lo gì chẳng hay.
Tế thần sẽ được phúc dầy,
Chân thành cầu đảo, tràn đầy ơn trên.
Hào Cửu ngũ: có nhiều cách bình giải:
Trình tử giải đại khái rằng: Bậc quân vương mà bị khốn, là vì trên, dưới đều bỏ mình (Tị nguyệt: Tị là bị thương ở mũi, ở trên: Nguyệt là bị thương ở chân, ở dưới; trên dưới đều bị thương. Bậc quân vương mà bị khốn là vì thiên hạ bỏ mình (Khốn vu xích phất). Tuy nhiên Cửu ngũ đồng đức với cửu nhị, rồi ra sẽ được Cửu nhị cứu khốn phò nguy. Phàm Quân vương bị khốn, phải lo cầu hiền tài, với tất cả lòng thành như là tế tự thần minh vậy, âu sẽ gặp may lành (Nãi từ hữu duyệt. Lợi dụng tế tự)
Lai Trí Đức giải đại khái như sau:
Tị nguyệt là vua bị khốn.
Khốn vu xích phất là tôi bị khốn.
Nãi từ hữu duyệt là rồi ra cũng sẽ thoát nạn.
Lợi dụng tế tự là thành khẩn cầu xin sẽ được phúc.
Dưới đây xin dẫn sự tích lịch sử, để giúp ta hiểu rõ Hào này: Vua Tống Thái Tổ đi chinh phạt Nam Đường, bị yêu đạo Dư Hồng vây khốn tại thành Thọ Châu, bị bắt mất 12 tướng, lại gần hết lương thực. Vua rưng rưng nước mắt mà than rằng: Binh tướng bị vây, vua rầu, tôi nhục, uổng công xây dựng 18 năm trời, lại nỗi mẹ già buồn bực đêm ngày, 80 tuổi trông con dựa cửa. Nói tới đó, cầm lòng không đậu, lụy ngọc chan hòa. Miêu Quang Vũ và bá quan xúm nhau lại khuyên giải. Miêu Quang Vũ khuyên vua nên đặt hương án, cầu trời, khấn phật, họa may trời phật sai thần tiên xuống trừ nó mới xong. Đêm ấy vua tôi ăn chay, tắm gội, mặc đồ mới, đồng quì trước hương án mà cầu trời...Hứa nếu thoát nạn, khi về nước rồi, sẽ giảm thuế, tha tù, làm phúc mà chuộc tội. Rạng sáng, trời sai Phi thử đem tha vào kho cho vua ba mươi vạn hộc lúa, và mấy ngày sau Hoàng Thạch Công sai Trịnh Ân xuống phá vòng vây để đi cầu viện cho vua.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 困 于 葛 . 于 . 曰 動 悔 . 有 悔 . 征 吉 .
象 曰. 困 于 葛. 未 當 也 . 動 悔 . 有 悔 . 吉 行 也 .
Thượng Lục.
Khốn vu cát lũy. Vu nghiệt ngột. Viết động hối. Hữu hối . Chinh cát.
Tượng viết:
Khốn vu cát lũy. Vị đáng dã. Động hối hữu hối. Cát hành dã.
Dịch.
Sắn bìm quấn quít, nhiễu nhương,
Khó bề dở dói, nên vương khốn nàn.
Khốn nàn mà biết lo toan,
Lỗi lầm mà biết phàn nàn thời hay.
Tượng rằng:
Sắn bìm quấn quít, vấn vương,
Hãy còn khốn đốn, chưa đường thoát ra.
Tránh điều ân hận, phiền hà.
Liệu cơ thoát khốn, mới là mắn may.
Hào Thượng Lục: Lúc này, là thời khốn đã tới cùng, cùng tất biến. Tuy nhiên Thượng Lục còn bị khốn khó như dây dợ sắn bìm, vướng mắc chưa thoát được (Khốn vu cát lũy), hoạt động còn có mòi nguy hiểm lắm (Vu nghiệt ngột). Nhưng nếu biết tự nhủ rằng: Hoạt động sẽ gặp điều đáng phàn nàn (Viết động hối). Nếu làm sai, mà biết phàn nàn, sang sửa (Hữu hối), được như vậy mà tiến hành công chuyện, sẽ thoát khốn (Chinh cát).
Tượng viết: Khốn vu cát lũy. Vị đáng dã. Động hối. Hữu hối. Cát hành dã. Bị khốn khó buộc ràng, chưa biến đổi hoàn cảnh, thế là chưa biết xử sự cho hay, hành động cho khéo (Khốn vu cát lũy. Vị đáng dã). Biết lo trước những trắc trở khi hoạt động, làm sai biết hối quá, như vậy có thể thoát khốn, thế là tiến hành sẽ gặp may (Động hối. Hữu hối. Cát hành dã).
ÁP DỤNG QUẺ KHỐN VÀO THỜI ĐẠI
Nhìn vào đời sống xã hội, nhân quần, ta thấy xưa nay không biết là bao người đã bị giông tố xã hội, gia đình, thời gian, hoàn cảnh cuốn lôi, đã lâm vào những cảnh cùng khốn hết sức.
Cách đây 50 năm, ở Đức, Hitler đã ra lệnh thiêu sống 6 triệu người Do Thái, mà Thế giới chịu không can thiệp nổi.
Lại gần đây, ở Việt Nam, biết bao người đi vượt biên đã bị hải tặc Thái Lan hãm hiếp, giết chóc khiến gia đình ly tán, người còn, người chết, tình cảnh thật thê lương.
Xưa kia, biết bao công thần đã bị nhà vua cố tình giết chết, hoặc bị đồng liêu giá họa và đã đi đến chỗ tử vong. Họ tỏ ra ung dung, thư thái trước cái chết, như Nhạc Phi,vv...
Dịch kinh, khuyên ta nếu gặp hoàn cảnh trên, phải bình tĩnh mà tìm cách thoát khỏi cảnh nguy khốn đó.
Theo tôi (tác giả viết bài này), nếu dân Do Thái lúc ấy cùng đoàn kết nổi lên chống lại, thì làm sao Đức quốc xã thiêu sống nổi 6 triệu người. Nếu trước khi vượt biên, mà ta hoạch định sẵn chương trình, tất cả đều mang gậy gộc, hoặc dấu vài khẩu súng theo. Khi trông thấy thuyền cướp Thái Lan từ xa tiến lại, ta nhất tề đứng lên, với tư thế sẵn sàng ứng chiến, thì tôi nghĩ với vài tên cướp biển chắc chắn không dám xâm phạm ta. Nhà tôi có người bạn, cũng ở trong trường hợp này, ông ta cùng với những người nam trong thuyền, mang theo gậy gộc và khi trông thấy bọn cướp có vài ba đứa tiến đến, là nhất tề cầm gậy ứng chiến. Bọn cướp thấy khó ăn, nên đã không dám làm gì.
Còn trường hợp Nhạc Phi, hồi nhỏ lúc đọc Truyện, tôi đã không tán thành hành động của Người, vì theo tôi đó là Ngu trung, thật vậy Người đã không đặt Quốc Gia, Dân tộc trên hết, mà đã vì chữ trung, sẳn sàng chịu chết bởi tay gian thần Tần Cối, và một vị vua hôn ám. Thật là một cái chết không đáng vậy. Tóm lại, Học Dịch cốt để phòng những tai họa, khó khăn có thể xẩy ra, ta sẽ giải quyết được nó dễ dàng hơn, và xa hơn nữa ta sẽ bớt đi được nhiều lỗi lầm trong đời ta.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
3 TRẠCH ĐỊA TỤY
TRẠCH ĐỊA TỤY
Tụy Tự Quái
萃 序 卦
Cấu giả ngộ dã
姤 者 遇 也
Vật tương ngộ nhi hậu tụ
物 相 遇 而 後 聚
Cố thụ chi dĩ Tụy
故 受 之 以 萃
Tụy giả tụ dã.
萃 者 聚 也.
Tụy Tự Quái
Cấu là gặp gỡ duyên may,
Gặp rồi vạn vật có ngày kết duyên.
Cho nên Tụy tiếp theo liền,
Tụy là tụ tập, tương liên kim bằng.
Tụy nghĩa là tụ hợp. Tụ hợp nhỏ thì thành gia đình, đoàn thể; lớn thì thành quốc gia, xã hội. Có tụ hợp thì mới đi đến chỗ hanh thông, vì con người không thể như Robinson Crusoe cô thân, chích ảnh nơi hoang đảo, mà phải có bạn bè thân thích để giải quyết mọi chuyện đời.
I. Thoán.
萃 . 亨 . 王 假 有 廟 . 利 見 大 人 . 亨 . 利 貞 . 用 大 牲 吉 . 利 有 攸 往.
Thoán từ.
Tụy. Hanh. Vương cách hữu miếu. Lợi kiến đại mhân. Hanh.
Lợi trinh. Dụng đại sinh cát. Lợi hữu du vãng.
Dịch.
Tụy là tụ chúng hợp quần,
Rồi ra thế sự được phần hanh thông.
Vua ra tế tự miếu tông,
U minh nối kết giải đồng gần xa.
Gặp người đức độ, tài hoa,
Thời hay, thời lợi, biết là mấy mươi.
Lấy trung, lấy chính hợp người,
Mới mong sẽ được vẹn mười lợi hanh.
Chững chàng sửa lễ tam sanh,
Linh đình, trang trọng tốt lành mấy mươi.
Hãy nên tính chuyện ngược xuôi,
Công trình âu sẽ chẩy trôi, vẹn toàn.
Tụ hợp, hợp quần là điều hay, điều tốt (Tụy hanh).
Nhưng tụ hợp phải tuân theo những qui luật, những đường lối nhất định.
1. Trước tiên, phải có tín ngưỡng, có chủ thuyết để nối kết lòng người. Vì thế vua phải ra nơi miếu tông làm việc tế tự (Vương cách hữu miếu). Tức là phải dùng tín ngưỡng làm chiêu bài qui dân, tụ chúng.
2. Muốn qui dân, tụ chúng, phải có người lãnh đạo cho hay, cho giỏi. Gặp được người lãnh đạo hay, dân nước sẽ bước vào con đường hanh thông, thái thịnh (Lợi kiến đại nhân. Hanh).
3. Phải có chính nghĩa, chính đạo, mới hay, mới lợi (Lợi trinh). Gian manh cũng có thể vì lợi lộc mà kết thành bầy bọn, nhưng họ sẽ làm hại thiên hạ. Anh hùng, Hào kiệt trên đời chiêu dân, lập quốc, ví dụ như Moise, vì có chính nghĩa, nên mới lưu danh muôn thuở.
4. Phải tổ chức những cuộc tế lễ linh đình (Dụng đại sinh cát). Đó là một cách xử thế để chinh phục lòng dân.
Những cuộc hội hè, rước sách lớn, những cuộc biểu tình lớn, đều có mục đích là gây một ảnh hưởng tâm lý mạnh mẽ nơi dân con, cho họ trông thấy mà tin.
5. Lại phải thi hành một công chuyện gì ích quốc, lợi dân, cho dân mục kích nhãn tiền, như vậy mới hay, mới lợi (Lợi hữu du vãng).
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰 . 萃 . 聚 也 . 順 以 說 . 剛 中 而 應 . 故 聚 也 . 王 假 有 廟 . 致 孝 享 也 . 利 見 大 人 亨 . 聚 以 正 也 . 用 大 牲 吉 . 利 有 攸 往 . 順 天 命 也 . 觀 其 所 聚 . 而 天 地 萬 物 之 情 可 見 矣 .
Tụy. Tụ dã. Thuận dĩ duyệt. Cương trung nhi ứng. Cố tụ dã. Vương cách hữu miếu. Trí hiếu hưởng dã. Lợi kiến đại nhân hanh. Tụ dĩ chính dã. Dụng đại sinh cát. Lợi hữu du vãng. Thuận thiên mệnh dã. Quan kỳ sở tụ. Nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hỹ.
Dịch. Thoán rằng:
Tụ là tụ chúng hợp quần,
Rồi ra thế sự được phần hanh thông.
Vua ra tế tự miếu tông,
U minh nối kết giải đồng gần xa.
Gặp người đức độ, tài hoa,
Thời hay, thời lợi, biết là mấy mươi.
Lấy trung, lấy chính họp người,
Mới mong sẽ được vẹn mười lợi hanh.
Chững chàng sửa lễ tam sanh,
Linh đình, trang trọng, tốt lành mấy mươi,
Hãy nên tính chuyện ngược xuôi,
Công trình âu sẽ chẩy trôi, vẹn toàn.
Thoán Truyện trước tiên định nghĩa Tụy là Tụ họp. (Tụy tụ dã). Muốn qui dân, tụ chúng, người dưới phải thuận phục người trên, người trên phải sung sướng khi được dắt dìu kẻ dưới. Người trên thì giỏi giang minh chính, kẻ dưới thì hỗ trợ, tuân phục hết lòng. Có như vậy mới qui dân, tụ chúng được (Thuận dĩ duyệt. Cương trung nhi ứng cố tụ dã.)
Muốn qui tụ dân chúng, người lãnh đạo phải lấy tín ngưỡng làm keo sơn gắn bó lòng người. Phải đích thân đứng ra tế lễ, để dạy dân kính trời, và hiếu với tổ tiên (Vương cách hữu miếu. Trí hiếu hưởng dã).
Lại cũng phải khéo biết dùng những lễ nghi, hình thức bên ngoài, những công trình cụ thể, nhãn tiền để cho dân thấy mà tin phục (Dụng đại sinh cát. Lợi hữu du vãng. Thuận thiên mệnh dã). Làm như vậy tức là thuận theo những định luật tự nhiên vậy. Ngoài ra, Tụy còn cho ta thấy rõ tình đời. Chữ rằng: Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Có giống nhau mới tụ họp cùng nhau.
Cho nên cứ nhìn xem cách tụ hợp của muôn vật, chúng ta sẽ biết được tình ý chúng. Nơi con người, cứ xem họ hợp đoàn với ai, sẽ biết được tình ý họ. Nhà thơ tìm bạn họa thơ; người ăn chơi đánh bạn với kẻ ăn chơi; người đạo đức giao du với người đạo đức... Thế là xem cách hội họp, mà hiểu được tình người (Quan kỳ sở tụ. Nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hỹ).
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 澤 上 於 地 . 萃 . 君 子 以 除 戎 器 . 戒 不 虞 .
Tượng viết:
Trạch thượng ư địa. Tụy. Quân tử dĩ trừ nhung khí. Giới bất ngu.
Dịch. Tượng rằng:
Tụy là trên đất có hồ,
Nên người quân tử phải lo đề phòng.
Sẵn sàng khí giới binh nhung.
Ngăn ngừa bất trắc, đề phòng rủi ro.
Hồ ở trên đất là Tụy. Người quân tử nhân đó sửa soạn khí giới, để đề phòng mọi bất trắc. Nước hồ mà dâng quá mặt đất sẽ tràn. Phải phòng bị sự tràn ngập ấy.
Người mà tụ tập đông đảo, cũng có thể nổi dậy gây phiến loạn, trộm cắp cũng thường xẩy ra nơi đám đông. Vì thế khi tụ tập đông đảo, cần phải sẵn sàng võ khí để đề phòng mọi bất trắc. Có vậy mới tránh mọi tai họa.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 有 孚 不 終 . 乃 亂 乃 萃 . 若 號 . 一 握 為 笑 . 勿 恤 . 往 無 咎 .
象 曰 . 乃 亂 乃 萃 . 其 志 亂 也 .
Sơ Lục.
Hữu phu bất chung. Nãi loạn nãi tụy. Nhược Hào. Nhất ác vi tiếu.
Vật tuất. Vãng vô cữu.
Tượng viết:
Nãi loạn nãi tụy. Kỳ chí loạn dã.
Dịch.
Thành tâm muốn họp cùng người,
Nhưng mà chưa được xong xuôi chu toàn,
Cho nên tụ bậy, họp càn,
Hô Hào chính ứng, cả đoàn cười chê.
Đừng lo, cứ tiến lên đi,
Một lòng qui chính, lỗi gì nữa đâu.
Tượng rằng: Tụ bậy, họp càn,
Là vì chí loạn, thần hôn mất rồi.
Hào Sơ mô tả những người có lòng thành khẩn, muốn tìm người hay mà liên kết (Hữu phu), nhưng vì ý chí không bền vững (bất chung), nên có thể tụ họp sằng bậy với những người không xứng đáng (Nãi loạn nãi tụy). Nhưng khi đã nhận xét biết lỗi lầm mình, họ nhất định tìm về với những bậc chính nhân quân tử (Nhược Hào). Khi ấy, dĩ nhiên bị bầy bọn chê cười, chế riễu (nhất ác vi tiếu). Nếu họ can đảm, đừng có lo ngại, và cứ nhất quyết thi hành ý chí của mình (Vật tuất vãng), thời sẽ không có lỗi chi cả (Vô cữu).
Tượng Truyện cho rằng: Sở dĩ có chuyện họp xằng, họp bậy, chính là vì ý chí đã rối loạn (Nãi loạn nãi tụy. Kỳ chí loạn dã). Trên đời không thiếu gì những trường hợp này. Xưa kia, biết bao người trung lương mà vì hoàn cảnh bắt buộc, phải sống nghề lục lâm, lạc thảo cho qua ngày, đợi thời kỳ sẽ được chiêu an. Hoặc biết bao kẻ lòng ngay, mà bị quyến rũ, nên đã đi vào những con đường tà ngụy, họp bầy cùng những kẻ bất chính, bất lương. Tuy nhiên, nếu họ nhận được lỗi lầm mình, bỏ tối tìm sáng thì nào có lỗi chi đâu.
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 引 吉 . 無 咎 . 孚 乃 利 用.
象 曰. 引 吉 無 咎 . 中 未 變 也 .
Lục nhị.
Dẫn cát. Vô cữu. Phu nãi lợi dụng thược.
Tượng viết:
Dẫn cát vô cữu. Trung vị biến dã.
Dịch.
Dắt nhau qui chính, thời hay,
Dắt nhau qui chính, cả bày lỗi chi.
Lòng thành đã quyết vẹn nghì,
Thành tâm là trọng, xá gì lễ dâng.
Tượng rằng: Dắt nhau qui chính, thời hay,
Dắt nhau qui chính, cả bầy lỗi chi.
Lòng trung chưa chút suy vi,
Lòng trung chưa có Hào ly biến rời.
Hào Lục nhị là những người có quyền hành, thế lực. Đã vậy mà còn biết minh chúa mà phù, đem cả bầy bọn, tùy tùng về theo cùng những người minh chính, thời rất hay, rất tốt, không có gì đáng chê trách (Dẫn cát. Vô cữu). Khi đã có lòng thành khẩn, thì không cần những lễ nghi, hình thức bên ngoài cho trang trọng làm chi, hiểu lòng nhau là đủ (Phu nãi lợi dụng thược). Phu là lòng thành khẩn, Thược là tế lễ mùa Xuân, tương đối nhỏ. Trở về cùng minh chúa, đem cả bầy bọn trở về cùng minh chúa, trỏ về mà lòng trung nghĩa vẫn chu toàn, như vậy mới hay.
Trần Hi Trân, một Hào kiệt thời Tống, lúc lâm nạn, bất đắc dĩ phải nhập lõa với bọn thảo khấu ở Viên Thúy trại. Nhưng khi có dịp thuận tiện, liền trở về qui phục triều đình. Lòng trung nghĩa trước sau chẳng hề rời đổi. Thực đúng với trường hợp Hào Lục nhị này. (Xem Thủy Hử) (Dẫn cát vô cữu. Trung vị biến dã).
3. Hào Lục tam.
六 三 . 萃 如 嗟 如 . 無 攸 利 . 往 無 咎 . 小 吝 .
象 曰 . 往 無 咎 . 上 巽 也 .
Lục tam.
Tụy như ta như. Vô du lợi. Vãng vô cữu. Tiểu lận.
Tượng viết:
Vãng vô cữu. Thượng tốn dã.
Dịch.
Lòng riêng muốn họp với người.
Mà người chẳng họp, vắn dài thở than.
Mặc dầu đôi chút quải gàng,
Hãy tìm đến kẻ tâm xoang như mình.
Lỗi chi mà lỗi cho đành...
Hào Lục tam ứng vào những hạng người bất trung, bất chính, địa vị dở dang, tài đức thấp thỏi, nên muốn liên kết với người, mà người chẳng chịu, tứ cố vô thân, trên dưới không ai hưởng ứng với mình, vì thế nên xót xa than thở (Tụy như ta như). Lúc ấy chẳng có thể làm gì cho hay (Vô du lợi). Thôi thì tìm nơi nào tá túc, để mà chờ thời. Như vậy chẳng danh giá gì, nhưng cũng không có lỗi (Vãng vô cữu. Tiểu lận). Vãng là tiến lên, cầu hợp với Thượng Lục. Thượng Lục đây chính là một người bè bạn, nhưng không thân thiết lắm. Cầu hợp với Thượng, không có lỗi, vì Thượng cũng vui lòng chấp nhận. Tượng viết: Vãng vô cữu. Thượng tốn dã.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 大 吉 . 無 咎 .
象 曰 . 大 吉 無 咎 . 位 不 當 也 .
Cửu tứ.
Đại cát. Vô cữu.
Tượng viết:
Đại cát vô cữu. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Qui mô cho rộng, cho to,
Hành vi tốt đẹp, hết lo lỗi lầm.
Tượng rằng: Qui mô cho rộng, cho to.
Hành vi tốt đẹp, hết lo lỗi lầm.
Tượng rằng: Qui mô cho rộng, cho to,
Hành vi tốt đẹp, hết lo lỗi lầm.
Tốt lành, rồi sẽ êm dầm,
Là vì ngôi vị có phần dở dang.
Hào Cửu tứ chính là một đại công thần, dưới thì được dân thuận theo, trên thì được vua tin cậy. Ngồi ngôi vị trọng thần, thật hết sức khó xử. Phải ăn ở sao cho vẹn chữ trung, thì mới được hay lành. Vì thế mới nói: Đại cát. Vô cữu. Phải Đại cát rồi mới Vô cữu. Cái khó xử của vị đại thần này là tuy tài đức siêu việt, nhưng địa vị lại dưới vị quân vương. Thế là có tài lãnh đạo lại không ở ngôi lãnh đạo. Vì thế Tượng viết: Đại cát vô cữu. Vị bất đáng dã.
Hào Cửu tứ quẻ Tụy cũng tương tự như Hào Cửu tứ quẻ Tùy, Dịch kinh luôn khuyên những trọng thần phải bắt chước Châu Công, Y Doãn, chứ đừng theo thói Đổng Trác, Tào Tháo.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五. 萃 有 位 . 無 咎 . 匪 孚 . 元 永 貞 . 悔 亡 .
象 曰 . 萃 有 位 . 志 未 光 也 .
Cửu ngũ.
Tụy hữu vị. Vô cữu. Phỉ phu. Nguyên vĩnh trinh. Hối vong.
Tượng viết:
Tụy hữu vị. Chí vị quang dã.
Dịch.
Tụ dân mà có vị ngôi,
Mới mong tránh được đơn sai, lỗi lầm.
Ví như dân chửa tin lòng,
Thì mình càng phải ra công tu trì,
Sao cho đáng mặt trị vì,
Tấc lòng minh chính, chẳng hề đơn sai.
Hay sao hay mãi mới hay,
Rồi ra sẽ chẳng còn ai phàn nàn.
Tượng rằng: Tụ dân đã có vị ngôi,
Thế mà còn có những người chửa tin.
Nếu người tin chẳng trọn niềm,
Chí mình chưa được vẹn tuyền quang minh.
Hào Cửu ngũ là bậc quân vương, ở ngôi vị lãnh đạo. Đức thịnh, Vị tôn, tất nhiên mọi người sẽ qui phục (Tụy hữu vị. Vô cữu). Nếu còn có người chưa phục, thì mình hãy chau dồi đức độ của đấng quân vương, hãy theo đúng đường lối của đấng quân vương, hãy thực thi ba tôn chỉ: Nguyên, Vĩnh, Trinh
- Nguyên là vị quân chủ có đức độ, tài ba
- Vĩnh là phải mưu đồ những công trình trường cửu cho dân.
- Trinh là thực thi chánh đạo.
Được như vậy, khỏi cần hối hận, phàn nàn (Nguyên vĩnh trinh. Hối vong). Tượng Truyện bình rằng: Tuy mình có ngôi vị, nhưng ý chí, đức độ mình chưa lan tỏa khắp nơi, nên người chưa tin.
Tượng viết: Tụy hữu vị. Chí vị quang dã. Đời vua Thuấn, có giặc Miêu không chịu thần phục, vua bèn truyền quảng thi văn đức, lại cho múa ca vũ hai bên sân rồng. Bảy tuần sau rợ Miêu qui phục. (Kinh Thư, Đại Vũ)
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 齍 咨 涕 洟,無 咎 .
象 曰 . 齍 咨 涕 洟 . 未 安 上 也 .
Thượng Lục.
Tế tư thế di. Vô cữu.
Tượng viết:
Tế tư thế di. Vị an thượng dã.
Dịch.
Thở than xùi xụt, vắn dài,
Thôi đừng tính chuyện trách người làm chi.
Tượng rằng: Xùi xụt, thở than,
Vì sao mà chẳng được an, được lành.
Hào Thượng Lục: Người trên mà không có tư cách, sẽ không qui tụ được người. Vì thế nên mới phải khóc lóc, than van. Sở dĩ Thượng Cửu phải than khóc như vậy là vì ở ngôi trên, mà chẳng được yên. Tượng viết: Tế tư thế di. Vị an thượng dã. Đầu đời nhà Đông Hán, giặc Xích Mi tôn Bồn Tử lên làm vua. Bồn Tử tuy là giòng tôn thất, nhưng mới 15 tuổi, lại đang đi chăn dê, nên chẳng hiểu gì quốc chính, được bá quan mang về tung hô vạn tuế, nhưng cũng chẳng biết cai trị ra sao. Làm vua chưa được 1 năm, thiên hạ càng ngày càng loạn, trong cung cấm cũng đói khát thiếu thốn. Bồn Tử ngày đêm khóc lóc, sau lại đem ngọc ấn trao trả các quan, để xin về làng lánh nạn. Các quan không chịu, ép phải tiếp tục làm vua. Sau này, vua Quang Võ đem quân về đánh dẹp, Bồn Tử và các quan thấy thế đánh không lại bèn xin hàng. Quang Võ thuận cho, và cũng không nỡ giết, lại còn phong vương tước cho Bồn Tử. Thật đúng là có vị ngôi, mà chẳng có tài đức, thời cũng chẳng nên cơm cháo gì.
ÁP DỤNG QUẺ TỤY VÀO THỜI ĐẠI
Muốn lập nước, lập đảng, ta phải có chủ thuyết chính đáng, phải có tài ba, đức độ, đường lối rõ rệt, và biết mưu đồ lợi ích trường cửu cho dân.
*Muốn tụ hợp một số người, để phản đối chính quyền hay chủ nhân, hoặc cấp lãnh đạo của họ, mà nay ta gọi là biểu tình, thì ta phải có lý do chính đáng; người cầm đầu phải là người có uy tín, có nhiệt tâm, và là người được nhiều người tin cậy. Hành động luôn phải ôn hoà, thì sự thành công có phần dễ dàng hơn.
*Thấp hơn nữa là muốn gây dựng một xí nghiệp, chẳng những ta phải thành thạo về ngành chuyên môn của xí nghiệp, mà còn phải rành về cách quản trị xí nghiệp nữa.
*Phải là người trọng tín nghĩa, có thành tín, chứ không thể gặp ai cũng hứa hẹn đủ điều, rồi sau lại phủi tay rũ sạch. Có tín nghĩa, thành tín thì thiên hạ mới có thể tin cậy mình mà góp công, góp của, hợp tác với mình được.
*Phải biết xã giao giỏi, biết nhún nhường, tuy biết mình giỏi nhưng không kiêu ngạo, để đối nội thì thu phục được nhân tâm, khiến nhân viên dưới quyền mình sẽ hết lòng tận tụy hy sinh, chuyên cần trong mọi công việc với mình; như vậy sẽ có nhiều nhân tài đến giúp mình. Khi đã phát đạt, thì phải biết trọng thưởng, hậu đãi cho những người đã có công, đã góp sức và cộng tác với mình, chứ không nên vắt chanh bỏ vỏ, họ chưa già đã bắt về hưu non, để tuyển người mới, giá lương sẽ thấp hơn. Như vậy, không hợp thiên lý, khó vững bền.
Đối ngoại, giỏi mà nhún nhường, không kiêu ngạo, sẽ nhiều bạn, ít thù, và khi cần khuếch trương lớn, sự mời mọc người góp công, góp của, sẽ thành công dễ dàng hơn nhiều. Do vậy mà người Trung Hoa, một dân tộc nổi tiếng về thương mại, thường khi người cha là chủ 1 xí nghiệp lớn, nếu muốn truyền lại cho con, thường bắt người con phải chịu cực khổ, làm công việc từ dưới đi lên, để mai sau người con sẽ thành thạo mọi công chuyện, và để giảm bớt tính kiêu ngạo của loài người; và thành tín là bài học đầu của họ.
TRẠCH ĐỊA TỤY
Tụy Tự Quái
萃 序 卦
Cấu giả ngộ dã
姤 者 遇 也
Vật tương ngộ nhi hậu tụ
物 相 遇 而 後 聚
Cố thụ chi dĩ Tụy
故 受 之 以 萃
Tụy giả tụ dã.
萃 者 聚 也.
Tụy Tự Quái
Cấu là gặp gỡ duyên may,
Gặp rồi vạn vật có ngày kết duyên.
Cho nên Tụy tiếp theo liền,
Tụy là tụ tập, tương liên kim bằng.
Tụy nghĩa là tụ hợp. Tụ hợp nhỏ thì thành gia đình, đoàn thể; lớn thì thành quốc gia, xã hội. Có tụ hợp thì mới đi đến chỗ hanh thông, vì con người không thể như Robinson Crusoe cô thân, chích ảnh nơi hoang đảo, mà phải có bạn bè thân thích để giải quyết mọi chuyện đời.
I. Thoán.
萃 . 亨 . 王 假 有 廟 . 利 見 大 人 . 亨 . 利 貞 . 用 大 牲 吉 . 利 有 攸 往.
Thoán từ.
Tụy. Hanh. Vương cách hữu miếu. Lợi kiến đại mhân. Hanh.
Lợi trinh. Dụng đại sinh cát. Lợi hữu du vãng.
Dịch.
Tụy là tụ chúng hợp quần,
Rồi ra thế sự được phần hanh thông.
Vua ra tế tự miếu tông,
U minh nối kết giải đồng gần xa.
Gặp người đức độ, tài hoa,
Thời hay, thời lợi, biết là mấy mươi.
Lấy trung, lấy chính hợp người,
Mới mong sẽ được vẹn mười lợi hanh.
Chững chàng sửa lễ tam sanh,
Linh đình, trang trọng tốt lành mấy mươi.
Hãy nên tính chuyện ngược xuôi,
Công trình âu sẽ chẩy trôi, vẹn toàn.
Tụ hợp, hợp quần là điều hay, điều tốt (Tụy hanh).
Nhưng tụ hợp phải tuân theo những qui luật, những đường lối nhất định.
1. Trước tiên, phải có tín ngưỡng, có chủ thuyết để nối kết lòng người. Vì thế vua phải ra nơi miếu tông làm việc tế tự (Vương cách hữu miếu). Tức là phải dùng tín ngưỡng làm chiêu bài qui dân, tụ chúng.
2. Muốn qui dân, tụ chúng, phải có người lãnh đạo cho hay, cho giỏi. Gặp được người lãnh đạo hay, dân nước sẽ bước vào con đường hanh thông, thái thịnh (Lợi kiến đại nhân. Hanh).
3. Phải có chính nghĩa, chính đạo, mới hay, mới lợi (Lợi trinh). Gian manh cũng có thể vì lợi lộc mà kết thành bầy bọn, nhưng họ sẽ làm hại thiên hạ. Anh hùng, Hào kiệt trên đời chiêu dân, lập quốc, ví dụ như Moise, vì có chính nghĩa, nên mới lưu danh muôn thuở.
4. Phải tổ chức những cuộc tế lễ linh đình (Dụng đại sinh cát). Đó là một cách xử thế để chinh phục lòng dân.
Những cuộc hội hè, rước sách lớn, những cuộc biểu tình lớn, đều có mục đích là gây một ảnh hưởng tâm lý mạnh mẽ nơi dân con, cho họ trông thấy mà tin.
5. Lại phải thi hành một công chuyện gì ích quốc, lợi dân, cho dân mục kích nhãn tiền, như vậy mới hay, mới lợi (Lợi hữu du vãng).
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰 . 萃 . 聚 也 . 順 以 說 . 剛 中 而 應 . 故 聚 也 . 王 假 有 廟 . 致 孝 享 也 . 利 見 大 人 亨 . 聚 以 正 也 . 用 大 牲 吉 . 利 有 攸 往 . 順 天 命 也 . 觀 其 所 聚 . 而 天 地 萬 物 之 情 可 見 矣 .
Tụy. Tụ dã. Thuận dĩ duyệt. Cương trung nhi ứng. Cố tụ dã. Vương cách hữu miếu. Trí hiếu hưởng dã. Lợi kiến đại nhân hanh. Tụ dĩ chính dã. Dụng đại sinh cát. Lợi hữu du vãng. Thuận thiên mệnh dã. Quan kỳ sở tụ. Nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hỹ.
Dịch. Thoán rằng:
Tụ là tụ chúng hợp quần,
Rồi ra thế sự được phần hanh thông.
Vua ra tế tự miếu tông,
U minh nối kết giải đồng gần xa.
Gặp người đức độ, tài hoa,
Thời hay, thời lợi, biết là mấy mươi.
Lấy trung, lấy chính họp người,
Mới mong sẽ được vẹn mười lợi hanh.
Chững chàng sửa lễ tam sanh,
Linh đình, trang trọng, tốt lành mấy mươi,
Hãy nên tính chuyện ngược xuôi,
Công trình âu sẽ chẩy trôi, vẹn toàn.
Thoán Truyện trước tiên định nghĩa Tụy là Tụ họp. (Tụy tụ dã). Muốn qui dân, tụ chúng, người dưới phải thuận phục người trên, người trên phải sung sướng khi được dắt dìu kẻ dưới. Người trên thì giỏi giang minh chính, kẻ dưới thì hỗ trợ, tuân phục hết lòng. Có như vậy mới qui dân, tụ chúng được (Thuận dĩ duyệt. Cương trung nhi ứng cố tụ dã.)
Muốn qui tụ dân chúng, người lãnh đạo phải lấy tín ngưỡng làm keo sơn gắn bó lòng người. Phải đích thân đứng ra tế lễ, để dạy dân kính trời, và hiếu với tổ tiên (Vương cách hữu miếu. Trí hiếu hưởng dã).
Lại cũng phải khéo biết dùng những lễ nghi, hình thức bên ngoài, những công trình cụ thể, nhãn tiền để cho dân thấy mà tin phục (Dụng đại sinh cát. Lợi hữu du vãng. Thuận thiên mệnh dã). Làm như vậy tức là thuận theo những định luật tự nhiên vậy. Ngoài ra, Tụy còn cho ta thấy rõ tình đời. Chữ rằng: Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Có giống nhau mới tụ họp cùng nhau.
Cho nên cứ nhìn xem cách tụ hợp của muôn vật, chúng ta sẽ biết được tình ý chúng. Nơi con người, cứ xem họ hợp đoàn với ai, sẽ biết được tình ý họ. Nhà thơ tìm bạn họa thơ; người ăn chơi đánh bạn với kẻ ăn chơi; người đạo đức giao du với người đạo đức... Thế là xem cách hội họp, mà hiểu được tình người (Quan kỳ sở tụ. Nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hỹ).
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 澤 上 於 地 . 萃 . 君 子 以 除 戎 器 . 戒 不 虞 .
Tượng viết:
Trạch thượng ư địa. Tụy. Quân tử dĩ trừ nhung khí. Giới bất ngu.
Dịch. Tượng rằng:
Tụy là trên đất có hồ,
Nên người quân tử phải lo đề phòng.
Sẵn sàng khí giới binh nhung.
Ngăn ngừa bất trắc, đề phòng rủi ro.
Hồ ở trên đất là Tụy. Người quân tử nhân đó sửa soạn khí giới, để đề phòng mọi bất trắc. Nước hồ mà dâng quá mặt đất sẽ tràn. Phải phòng bị sự tràn ngập ấy.
Người mà tụ tập đông đảo, cũng có thể nổi dậy gây phiến loạn, trộm cắp cũng thường xẩy ra nơi đám đông. Vì thế khi tụ tập đông đảo, cần phải sẵn sàng võ khí để đề phòng mọi bất trắc. Có vậy mới tránh mọi tai họa.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 有 孚 不 終 . 乃 亂 乃 萃 . 若 號 . 一 握 為 笑 . 勿 恤 . 往 無 咎 .
象 曰 . 乃 亂 乃 萃 . 其 志 亂 也 .
Sơ Lục.
Hữu phu bất chung. Nãi loạn nãi tụy. Nhược Hào. Nhất ác vi tiếu.
Vật tuất. Vãng vô cữu.
Tượng viết:
Nãi loạn nãi tụy. Kỳ chí loạn dã.
Dịch.
Thành tâm muốn họp cùng người,
Nhưng mà chưa được xong xuôi chu toàn,
Cho nên tụ bậy, họp càn,
Hô Hào chính ứng, cả đoàn cười chê.
Đừng lo, cứ tiến lên đi,
Một lòng qui chính, lỗi gì nữa đâu.
Tượng rằng: Tụ bậy, họp càn,
Là vì chí loạn, thần hôn mất rồi.
Hào Sơ mô tả những người có lòng thành khẩn, muốn tìm người hay mà liên kết (Hữu phu), nhưng vì ý chí không bền vững (bất chung), nên có thể tụ họp sằng bậy với những người không xứng đáng (Nãi loạn nãi tụy). Nhưng khi đã nhận xét biết lỗi lầm mình, họ nhất định tìm về với những bậc chính nhân quân tử (Nhược Hào). Khi ấy, dĩ nhiên bị bầy bọn chê cười, chế riễu (nhất ác vi tiếu). Nếu họ can đảm, đừng có lo ngại, và cứ nhất quyết thi hành ý chí của mình (Vật tuất vãng), thời sẽ không có lỗi chi cả (Vô cữu).
Tượng Truyện cho rằng: Sở dĩ có chuyện họp xằng, họp bậy, chính là vì ý chí đã rối loạn (Nãi loạn nãi tụy. Kỳ chí loạn dã). Trên đời không thiếu gì những trường hợp này. Xưa kia, biết bao người trung lương mà vì hoàn cảnh bắt buộc, phải sống nghề lục lâm, lạc thảo cho qua ngày, đợi thời kỳ sẽ được chiêu an. Hoặc biết bao kẻ lòng ngay, mà bị quyến rũ, nên đã đi vào những con đường tà ngụy, họp bầy cùng những kẻ bất chính, bất lương. Tuy nhiên, nếu họ nhận được lỗi lầm mình, bỏ tối tìm sáng thì nào có lỗi chi đâu.
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 引 吉 . 無 咎 . 孚 乃 利 用.
象 曰. 引 吉 無 咎 . 中 未 變 也 .
Lục nhị.
Dẫn cát. Vô cữu. Phu nãi lợi dụng thược.
Tượng viết:
Dẫn cát vô cữu. Trung vị biến dã.
Dịch.
Dắt nhau qui chính, thời hay,
Dắt nhau qui chính, cả bày lỗi chi.
Lòng thành đã quyết vẹn nghì,
Thành tâm là trọng, xá gì lễ dâng.
Tượng rằng: Dắt nhau qui chính, thời hay,
Dắt nhau qui chính, cả bầy lỗi chi.
Lòng trung chưa chút suy vi,
Lòng trung chưa có Hào ly biến rời.
Hào Lục nhị là những người có quyền hành, thế lực. Đã vậy mà còn biết minh chúa mà phù, đem cả bầy bọn, tùy tùng về theo cùng những người minh chính, thời rất hay, rất tốt, không có gì đáng chê trách (Dẫn cát. Vô cữu). Khi đã có lòng thành khẩn, thì không cần những lễ nghi, hình thức bên ngoài cho trang trọng làm chi, hiểu lòng nhau là đủ (Phu nãi lợi dụng thược). Phu là lòng thành khẩn, Thược là tế lễ mùa Xuân, tương đối nhỏ. Trở về cùng minh chúa, đem cả bầy bọn trở về cùng minh chúa, trỏ về mà lòng trung nghĩa vẫn chu toàn, như vậy mới hay.
Trần Hi Trân, một Hào kiệt thời Tống, lúc lâm nạn, bất đắc dĩ phải nhập lõa với bọn thảo khấu ở Viên Thúy trại. Nhưng khi có dịp thuận tiện, liền trở về qui phục triều đình. Lòng trung nghĩa trước sau chẳng hề rời đổi. Thực đúng với trường hợp Hào Lục nhị này. (Xem Thủy Hử) (Dẫn cát vô cữu. Trung vị biến dã).
3. Hào Lục tam.
六 三 . 萃 如 嗟 如 . 無 攸 利 . 往 無 咎 . 小 吝 .
象 曰 . 往 無 咎 . 上 巽 也 .
Lục tam.
Tụy như ta như. Vô du lợi. Vãng vô cữu. Tiểu lận.
Tượng viết:
Vãng vô cữu. Thượng tốn dã.
Dịch.
Lòng riêng muốn họp với người.
Mà người chẳng họp, vắn dài thở than.
Mặc dầu đôi chút quải gàng,
Hãy tìm đến kẻ tâm xoang như mình.
Lỗi chi mà lỗi cho đành...
Hào Lục tam ứng vào những hạng người bất trung, bất chính, địa vị dở dang, tài đức thấp thỏi, nên muốn liên kết với người, mà người chẳng chịu, tứ cố vô thân, trên dưới không ai hưởng ứng với mình, vì thế nên xót xa than thở (Tụy như ta như). Lúc ấy chẳng có thể làm gì cho hay (Vô du lợi). Thôi thì tìm nơi nào tá túc, để mà chờ thời. Như vậy chẳng danh giá gì, nhưng cũng không có lỗi (Vãng vô cữu. Tiểu lận). Vãng là tiến lên, cầu hợp với Thượng Lục. Thượng Lục đây chính là một người bè bạn, nhưng không thân thiết lắm. Cầu hợp với Thượng, không có lỗi, vì Thượng cũng vui lòng chấp nhận. Tượng viết: Vãng vô cữu. Thượng tốn dã.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 大 吉 . 無 咎 .
象 曰 . 大 吉 無 咎 . 位 不 當 也 .
Cửu tứ.
Đại cát. Vô cữu.
Tượng viết:
Đại cát vô cữu. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Qui mô cho rộng, cho to,
Hành vi tốt đẹp, hết lo lỗi lầm.
Tượng rằng: Qui mô cho rộng, cho to.
Hành vi tốt đẹp, hết lo lỗi lầm.
Tượng rằng: Qui mô cho rộng, cho to,
Hành vi tốt đẹp, hết lo lỗi lầm.
Tốt lành, rồi sẽ êm dầm,
Là vì ngôi vị có phần dở dang.
Hào Cửu tứ chính là một đại công thần, dưới thì được dân thuận theo, trên thì được vua tin cậy. Ngồi ngôi vị trọng thần, thật hết sức khó xử. Phải ăn ở sao cho vẹn chữ trung, thì mới được hay lành. Vì thế mới nói: Đại cát. Vô cữu. Phải Đại cát rồi mới Vô cữu. Cái khó xử của vị đại thần này là tuy tài đức siêu việt, nhưng địa vị lại dưới vị quân vương. Thế là có tài lãnh đạo lại không ở ngôi lãnh đạo. Vì thế Tượng viết: Đại cát vô cữu. Vị bất đáng dã.
Hào Cửu tứ quẻ Tụy cũng tương tự như Hào Cửu tứ quẻ Tùy, Dịch kinh luôn khuyên những trọng thần phải bắt chước Châu Công, Y Doãn, chứ đừng theo thói Đổng Trác, Tào Tháo.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五. 萃 有 位 . 無 咎 . 匪 孚 . 元 永 貞 . 悔 亡 .
象 曰 . 萃 有 位 . 志 未 光 也 .
Cửu ngũ.
Tụy hữu vị. Vô cữu. Phỉ phu. Nguyên vĩnh trinh. Hối vong.
Tượng viết:
Tụy hữu vị. Chí vị quang dã.
Dịch.
Tụ dân mà có vị ngôi,
Mới mong tránh được đơn sai, lỗi lầm.
Ví như dân chửa tin lòng,
Thì mình càng phải ra công tu trì,
Sao cho đáng mặt trị vì,
Tấc lòng minh chính, chẳng hề đơn sai.
Hay sao hay mãi mới hay,
Rồi ra sẽ chẳng còn ai phàn nàn.
Tượng rằng: Tụ dân đã có vị ngôi,
Thế mà còn có những người chửa tin.
Nếu người tin chẳng trọn niềm,
Chí mình chưa được vẹn tuyền quang minh.
Hào Cửu ngũ là bậc quân vương, ở ngôi vị lãnh đạo. Đức thịnh, Vị tôn, tất nhiên mọi người sẽ qui phục (Tụy hữu vị. Vô cữu). Nếu còn có người chưa phục, thì mình hãy chau dồi đức độ của đấng quân vương, hãy theo đúng đường lối của đấng quân vương, hãy thực thi ba tôn chỉ: Nguyên, Vĩnh, Trinh
- Nguyên là vị quân chủ có đức độ, tài ba
- Vĩnh là phải mưu đồ những công trình trường cửu cho dân.
- Trinh là thực thi chánh đạo.
Được như vậy, khỏi cần hối hận, phàn nàn (Nguyên vĩnh trinh. Hối vong). Tượng Truyện bình rằng: Tuy mình có ngôi vị, nhưng ý chí, đức độ mình chưa lan tỏa khắp nơi, nên người chưa tin.
Tượng viết: Tụy hữu vị. Chí vị quang dã. Đời vua Thuấn, có giặc Miêu không chịu thần phục, vua bèn truyền quảng thi văn đức, lại cho múa ca vũ hai bên sân rồng. Bảy tuần sau rợ Miêu qui phục. (Kinh Thư, Đại Vũ)
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 齍 咨 涕 洟,無 咎 .
象 曰 . 齍 咨 涕 洟 . 未 安 上 也 .
Thượng Lục.
Tế tư thế di. Vô cữu.
Tượng viết:
Tế tư thế di. Vị an thượng dã.
Dịch.
Thở than xùi xụt, vắn dài,
Thôi đừng tính chuyện trách người làm chi.
Tượng rằng: Xùi xụt, thở than,
Vì sao mà chẳng được an, được lành.
Hào Thượng Lục: Người trên mà không có tư cách, sẽ không qui tụ được người. Vì thế nên mới phải khóc lóc, than van. Sở dĩ Thượng Cửu phải than khóc như vậy là vì ở ngôi trên, mà chẳng được yên. Tượng viết: Tế tư thế di. Vị an thượng dã. Đầu đời nhà Đông Hán, giặc Xích Mi tôn Bồn Tử lên làm vua. Bồn Tử tuy là giòng tôn thất, nhưng mới 15 tuổi, lại đang đi chăn dê, nên chẳng hiểu gì quốc chính, được bá quan mang về tung hô vạn tuế, nhưng cũng chẳng biết cai trị ra sao. Làm vua chưa được 1 năm, thiên hạ càng ngày càng loạn, trong cung cấm cũng đói khát thiếu thốn. Bồn Tử ngày đêm khóc lóc, sau lại đem ngọc ấn trao trả các quan, để xin về làng lánh nạn. Các quan không chịu, ép phải tiếp tục làm vua. Sau này, vua Quang Võ đem quân về đánh dẹp, Bồn Tử và các quan thấy thế đánh không lại bèn xin hàng. Quang Võ thuận cho, và cũng không nỡ giết, lại còn phong vương tước cho Bồn Tử. Thật đúng là có vị ngôi, mà chẳng có tài đức, thời cũng chẳng nên cơm cháo gì.
ÁP DỤNG QUẺ TỤY VÀO THỜI ĐẠI
Muốn lập nước, lập đảng, ta phải có chủ thuyết chính đáng, phải có tài ba, đức độ, đường lối rõ rệt, và biết mưu đồ lợi ích trường cửu cho dân.
*Muốn tụ hợp một số người, để phản đối chính quyền hay chủ nhân, hoặc cấp lãnh đạo của họ, mà nay ta gọi là biểu tình, thì ta phải có lý do chính đáng; người cầm đầu phải là người có uy tín, có nhiệt tâm, và là người được nhiều người tin cậy. Hành động luôn phải ôn hoà, thì sự thành công có phần dễ dàng hơn.
*Thấp hơn nữa là muốn gây dựng một xí nghiệp, chẳng những ta phải thành thạo về ngành chuyên môn của xí nghiệp, mà còn phải rành về cách quản trị xí nghiệp nữa.
*Phải là người trọng tín nghĩa, có thành tín, chứ không thể gặp ai cũng hứa hẹn đủ điều, rồi sau lại phủi tay rũ sạch. Có tín nghĩa, thành tín thì thiên hạ mới có thể tin cậy mình mà góp công, góp của, hợp tác với mình được.
*Phải biết xã giao giỏi, biết nhún nhường, tuy biết mình giỏi nhưng không kiêu ngạo, để đối nội thì thu phục được nhân tâm, khiến nhân viên dưới quyền mình sẽ hết lòng tận tụy hy sinh, chuyên cần trong mọi công việc với mình; như vậy sẽ có nhiều nhân tài đến giúp mình. Khi đã phát đạt, thì phải biết trọng thưởng, hậu đãi cho những người đã có công, đã góp sức và cộng tác với mình, chứ không nên vắt chanh bỏ vỏ, họ chưa già đã bắt về hưu non, để tuyển người mới, giá lương sẽ thấp hơn. Như vậy, không hợp thiên lý, khó vững bền.
Đối ngoại, giỏi mà nhún nhường, không kiêu ngạo, sẽ nhiều bạn, ít thù, và khi cần khuếch trương lớn, sự mời mọc người góp công, góp của, sẽ thành công dễ dàng hơn nhiều. Do vậy mà người Trung Hoa, một dân tộc nổi tiếng về thương mại, thường khi người cha là chủ 1 xí nghiệp lớn, nếu muốn truyền lại cho con, thường bắt người con phải chịu cực khổ, làm công việc từ dưới đi lên, để mai sau người con sẽ thành thạo mọi công chuyện, và để giảm bớt tính kiêu ngạo của loài người; và thành tín là bài học đầu của họ.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
4 TRẠCH SƠN HÀM
TRẠCH SƠN HÀM
Hàm Tự Quái
咸 序 卦
Hữu thiên địa, nhiên hậu hữu vạn vật. 有 天 地, 然 後 有 萬 物
Hữu vạn vật, nhiên hậu hữu nam nữ. 有 萬 物, 然 後 有 男 女
Hữu nam nữ, nhiên hậu hữu phu phụ. 有 男 女, 然 後 有 夫 婦
Hữu phu phụ, nhiên hậu hữu phụ tử. 有 夫 婦, 然 後 有 父 子
Hữu phụ tử, nhiên hậu hữu quân thần. 有 父 子, 然 後 有 君 臣
Hữu quân thần, nhiên hậu hữu thượng hạ. 有 君 臣, 然 後 有 上 下
Hữu thượng hạ, nhiên hậu lễ nghĩa hữu sở thố. 有 上 下, .然 後 禮 儀 有 所 錯
Hàm Tự Quái
Thoạt tiên có Đất có Trời
Rồi ra vạn vật vạn loài mới sinh.
Loài sinh, nam nữ phân trình,
Có nam, có nữ, sẽ sinh vợ chồng.
Vợ chồng nối kết giải đồng,
Vợ chồng, nên mới có giòng cha con.
Quân thần, do đó, tiếp luôn,
Rồi ra trên dưới, kém hơn, phân trình.
Dưới, trên, lễ nghĩa sẽ sinh,
Tôn ti, đẳng cấp mới thành lễ nghi.
Dịch Kinh rất trọng Âm Dương. Đầu Thượng Kinh để hai quẻ Kiền Khôn. Đầu Hạ Kinh để hai quẻ Hàm Hằng.
- Kiền Khôn ở Thượng Kinh còn tách rời nhau để định vị (Kiền Khôn định vị).
Nhưng ở Hạ Kinh, Sơn (Dương), Trạch (Âm) hòa hợp nhau (Sơn trạch thông khí) để thành quẻ Hàm; Phong (Âm) Lôi (Dương) tăng cường lẫn nhau (Phong lôi tương thác) để thành quẻ Hằng.
- Ở Thượng Kinh, Kiền Khôn là khí hóa chi thủy (khí trời đất bắt đầu biến hóa) thời Thoán Truyện quẻ Kiền lại có 4 chữ Phẩm vật lưu hình.
- Ở Hạ Kinh, Hàm là hình hóa chi thủy (hình hài bắt đầu biến hóa) thời lại có 4 chữ nhị khí cảm ứng. Ý muốn nói Hình và Khí không hề lìa nhau:
Thoán Truyện quẻ Kiền đề cập đến chữ Tính; Thoán Truyện quẻ Hàm nói đến chữ Tình; Thoán Truyện quẻ Phục nói đến Thiên địa chi tâm; Thoán Truyện quẻ Hàm nói đến Nhân tâm. Thế là tính tình không hề xa nhau, Trời người chẳng hề xa nhau, hình khí chẳng hề xa nhau, Âm Dương chẳng hề xa nhau.
Ngoài trời đất, Âm Dương có hòa hài, thì vạn vật mới sinh. Trong nhân quần, Âm Dương có hòa hài thì nhân luân mới có cơ bền vững, xã hội mới có cơ thanh bình.
Ngoài vũ trụ, Âm Dương là đất trời, trong nhân quần, Âm Dương là nam nữ. Vũ trụ là một từ trường bao la, nhân quần là một từ trường rộng lớn. Vạn vật hấp dẫn, cảm ứng nhau không ngừng, nên mới có được ngày nay.
Hàm có hai nghĩa: 1. Là cảm ứng. 2. Là phổ quát.
Cảm ứng phải bằng tâm tình, vì thế chữ Hàm 咸 thêm chữ Tâm 心 là chữ Cảm 感. Cảm ứng bằng tư tình thì không phổ quát, muốn phổ quát phải hư tâm, phải rũ bỏ tư tình, nên chữ Cảm 感 bỏ chữ Tâm 心 đi thành chữ Hàm 咸.
Quẻ Hàm trên là quẻ Đoài ☱, dưới là quẻ Cấn ☶. Đoài là vui thích; Cấn là vững vàng, là thành thực, là thành khẩn.
Đem lòng thành khẩn, thành thực mà cảm người, người sẽ vui lòng đáp ứng. Ta và người cảm ứng lẫn nhau, hòa thuận với nhau thì việc gì cũng thông suốt.
I. Thoán.
Thoán Từ.
咸 . 亨,利 貞,取 女 吉。
Hàm. Hanh. Lợi trinh. Thủ nữ cát.
Dịch.
Lẽ trời cảm ứng mới hay,
Cảm mà chính đáng, lợi nay mới nhiều.
Ví như thiếu nữ mình yêu,
Mình mà lấy được là điều mắn may.
Muốn cảm ứng với nhau cho hay, cho lợi, phải dựa trên nền tảng đạo lý, công chính. Vì thế Thoán Từ nói Hàm hanh. Lợi trinh. Trai gái yêu nhau, thương nhau mà lấy nhau, rồi ra cuộc sống sẽ đẹp đẽ; Thoán Từ tiếp: Thủ nữ cát.
Thoán truyện. Thoán viết:
彖 曰:咸,感 也 . 柔 上 而 剛 下,二 氣 感 應 以 相 與,止 而 說,男 下 女,是 以 亨 利 貞,取 女 吉 也 . 天 地 感 而 萬 物 化 生,聖 人 感 人 心 而 天 下 和 平 . 觀 其 所 感,而 天 地 萬 物 之 情 可 見 矣 .
Hàm. Cảm dã. Nhu thượng nhi cương hạ. Nhị khí cảm ứng dĩ tương dự. Chỉ nhi duyệt. Nam há nữ. Thị dĩ hanh lợi trinh. Thủ nữ cát dã. Thiên địa cảm nhi vạn vật hoá sinh. Thánh nhân cảm nhân tâm nhi thiên hạ hoà bình. Quan kỳ sở cảm. Nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hĩ.
Dịch. Thoán viết:
Hàm là cảm ứng lẽ thường,
Mềm trên, cứng dưới, đôi đường cảm nhau.
Âm Dương nhị khí tương cầu,
Chân thành vui thỏa, trước sau mới là.
Trai tơ nhượng bộ gái tơ,
Nam cầu, nữ ứng, bây giờ mới hay.
Cảm cầu hợp lẽ chính ngay,
Cảm mà chính đáng, lợi nay mới nhiều.
Ví như thiếu nữ mình yêu,
Mình mà lấy được là điều mắn may.
Đất trời rung cảm hoà hài,
Cho nên vạn vật muôn loài hoá sinh.
Thánh nhân cảm hóa sinh linh,
Làm cho thiên hạ hòa bình âu ca.
Xem chiều cảm ứng hiệp hòa,
Đất trời, muôn vật, tìm ra ý tình.
Thoán Truyện định nghĩa chữ Hàm là cảm ứng. Muốn cảm ứng, Âm nhu phải ở trên, Dương cương phải ở dưới: Dương cảm Âm ứng, Dương xướng Âm hòa, nhị khí tương giao, thời Âm Dương mới hòa hợp. Vì thế Thoán Truyện mới nói: Nhu thượng (Đoài là Âm nhu) nhi cương hạ (Cấn là Dương cương); nhị khí tương ứng dĩ tương dự.
Áp dụng vào nhân quần, ta thấy định luật cảm ứng của đất trời cũng hoạt động mạnh mẽ. Trai gái tự nhiên hấp dẫn nhau, mà sự hấp dẫn mạnh nhất, sự cảm ứng mạnh nhất là ở nơi thiếu nam và thiếu nữ. Có cảm ứng, có thương yêu mới tính chuyện vợ chồng sau này. Nếu người con trai mà thành khẩn thương yêu, người con gái sẽ cảm động, sẽ vui vẻ mà đáp ứng. Vả trâu đi tìm cọc, chứ cọc không đi tìm trâu, nên trong bước đầu cuộc tình ái, người con trai phải đi bước trước, phải ngỏ lời trước, phải tỏ tình trước, như vậy mới đẹp đẽ.
Thoán Truyện viết: Chỉ nhi duyệt. Nam há nữ. Thị dĩ hanh. Tuy nhiên tình duyên, hay cảm ứng cũng đặt trên nền tảng đạo lý, sự minh chính, mới tốt, mới lợi. Xưa nay những tuồng trên bộc trong dâu khó đem lại một kết cuộc đẹp đẽ. Lấy nhau phải vì thương yêu nhau, phải có chính nghĩa, chính đạo, muốn gây dựng cho nhau một đời sống đẹp đẽ, hạnh phúc, thì cuộc hôn nhân mới tốt đẹp. Vì thế Thoán Truyện nói tiếp: Lợi trinh. Thủ nữ cát.
Sau đó Thoán Truyện bàn đến tầm quan trọng của sự cảm ứng, của sự hòa hài trong vũ trụ, cũng như trong nhân quần. Vạn vật cũng như con người không thể sống riêng rẽ.
Vì thế người xưa mới nói: Cô Âm tắc bất sinh, cô Dương tắc bất trưởng, cố thiên địa phối dĩ Âm Dương. Nam dĩ nữ vi thất, nữ dĩ nam vi gia; cố nhân sinh ngẫu dĩ phu phụ. Âm Dương hòa nhi hậu vũ trạch giáng; phu phụ hòa nhi hậu gia đạo thành. Tạm dịch:
Cô Âm không thể sản sinh,
Cô Dương không thể hoa vinh, xương phồn.
Cho nên trời đất đôi đàng,
Hòa hài chẳng có quải gàng khi nao
Trai thì tìm gái tất giao,
Gái mong chắp mối tơ đào cùng trai.
Cho nên từ có loài người,
Gái trai phối ngẫu nên đôi vợ chồng.
Âm Dương trời đất hòa đồng,
Rồi ra vũ trạch non sông ơn nhờ.
Vợ chồng chắp nối duyên tơ,
Rồi ra, gia đạo có cơ vững vàng.
Dịch Kinh cho rằng nhờ có khí trời, khí đất hòa hài, nên vạn vật mới có thể hóa sinh, trưởng dưỡng; nhờ ảnh hưởng Thánh nhân cảm hóa tâm hồn con người, nên nhân loại mới được hòa bình thái thịnh. (Thiên địa cảm nhi vạn vật hoá sinh. Thánh nhân cảm nhân tâm nhi thiên hạ hoà bình). Nói cách khác, đất trời không hòa hài, xã hội sẽ tan vỡ.
Thoán còn cho rằng: Cứ xem vạn vật cảm ưng ra sao, sẽ thấy tâm địa, ý tình của chúng (Quan kỳ sở cảm. Nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hĩ.) Lẽ trời là: Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Người ưa vật chất sẽ rung cảm dễ dàng vì những vấn đề tinh thần. Cho nên nhìn xem muôn loài ưa thích những gì, rung cảm trước những loại giá trị gì, sẽ xác định được căn cơ của chúng, và thấy được bộ mặt thực của chúng.
Tóm lại Hàm là hòa hài, cảm ứng, để đi đến chỗ phổ quát đại đồng. Hàm là hòa hài cảm ứng; mà cảm ứng là một định luật phổ quát của vũ trụ. Trời đất cảm ứng, Âm Dương cảm ứng, Trai gái cảm ứng, dưới trên cảm ứng. Do đó thánh nhân có thể cảm hóa nhân tâm để đem an ninh lại cho thiên hạ.
Hàm là cảm ứng; nên Hào sơ ứng với Hào tứ; Hào nhị ứng với Hào ngũ; Hào tam ứng với Hào lục, nhất nhất đều là Dương cảm, Âm ứng. Cảm ứng hòa điệu sẽ đem hạnh phúc, ấm êm, thanh bình cho trần thế.
II. Đại Tượng Truyện
象 曰:山 上 有 澤 . 咸 . 君 子 以 虛 受 人 .
Tượng viết:
Sơn thượng hữu trạch. Hàm. Quân tử dĩ hư thụ nhân.
Dịch. Tượng rằng
Hồ trên đỉnh núi là Hàm,
Hiền nhân mở rộng tâm xoang đón người.
Hư tâm đối xử với đời.
(Hư tâm nên mới thảnh thơi hòa đồng.)
Đỉnh núi có rỗng, có trũng thì mới chứa được nước, mới có được hồ nước ở trên. Người quân tử phải trống lòng, mới cảm thông được với mọi người.
Trình Tử cho rằng Hư ở đây là Vô tư, Vô ngã. Có Vô tư, Vô ngã mới hàm chứa được vô biên; bằng như lòng đã có thiên kiến, tư tình, sẽ trở nên hẹp lượng.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Các Hào đều bàn về lẽ cảm ứng, bàn về các cung cách ảnh hưởng tới tha nhân, có nông, có sâu, có mạnh, có yếu; có lúc hợp thời, có lúc không hợp thời; có khi bao quát, có khi bị giới hạn; mình có thể ảnh hưởng đến người khác bằng tâm thần, hoặc bằng môi miệng.
1. Hào Sơ Lục.
初 六:咸 其 拇 .
象 曰:咸 其 拇,志 在 外 也 .
Sơ Lục. Hàm kỳ mẫu.
Tượng viết:
Hàm kỳ mẫu. Chí tại ngoại dã.
Dịch.
Sơ Lục. Cảm ngón cái chân,
Tượng rằng: Cảm ngón cái chân,
Nghĩa là đã có để tâm tới ngoài.
Hào Sơ: Muốn ảnh hưởng đến người, cần phải có nội công, nội lực dồi dào; cần phải làm chi cũ thể để gây ảnh hưởng đối với người. Vì vậy Hào Sơ cho rằng: mới có ý muốn gây ảnh hưởng đối với người mà chưa làm được việc gì cụ thể bên ngoài, thì chưa gây được ảnh hưởng bao lăm. Như ngón chân cái mấp máy, thời làm sao di chuyển được cái chân.
Tóm lại, Hào Sơ cho rằng: Ảnh hưởng lúc này còn quá yếu, chưa có tác dụng nào đáng kể.
2. Hào Lục nhị.
六 二: 咸 其 腓,凶,居 吉 .
象 曰: 雖 凶,居 吉,順 不 害 也 .
Lục nhị. Hàm kỳ phì. Hung. cư cát.
Tượng viết:
Tuy hung. Cư cát. Thuận bất hại dã.
Dịch.
Bắp chân cảm động xấu thay,
Ở yên, rồi mới được hay, được lành.
Tượng rằng: Tuy vội chẳng hay,
Ở yên sẽ thuận luật trời, hại chi.
Hào Hai cho rằng: Muốn gây ảnh hưởng nhất là đối với người trên, phải có thời cơ. Khi người trên chưa vời mình, mà mình cầu cạnh để gây ảnh hưởng, để tác động họ, là làm một công chuyện chẳng hay. Cần phải biết ở yên, chờ khi người trên có lời cầu mình đã; lúc ấy lời lẽ, hành động mình mới có thể có ảnh hưởng lớn đối với họ.
3. Hào Cửu tam.
九 三: 咸 其 股,執 其 隨,往 吝.
象 曰: 咸 其 股,亦 不 處 也 . 志 在 隨 人,所 執 下 也 .
Cửu tam. Hàm kỳ cổ. Chấp kỳ tuỳ. Vãng lận.
Tượng viết.
Hàm kỳ cổ. Diệc bất xử dã. Chí tại tuỳ nhân. Sở chấp hạ dã.
Dịch.
Cửu tam cảm vế, cảm đùi,
Theo người hành sự, tiếc thôi có ngày.
Tượng rằng: Cảm ở vế đùi,
Cũng chưa giữ được vẻ người thanh cao.
Theo người hành sự lao nhao,
Đi theo hạ cấp, tránh sao tiếng hèn.
Hào Ba bàn tiếp thêm rằng: Muốn gây ảnh hưởng, muốn cảm hóa người khác, trước tiên mình phải là người có nhân cách, biết tự trọng.
Nhược bằng mình chạy theo thị hiếu, thị dục của tha nhân, để thỏa mãn họ, hoặc mình để cho ngoại cảnh, ngoại nhân, dục vọng sai sử, như vậy chẳng hóa ra hèn hạ lắm sao.
4. Hào Cửu tứ.
九 四: 貞 吉 悔 亡,憧 憧 往 來,朋 從 爾 思 .
象 曰: 貞 吉 悔 亡,未 感 害 也 . 憧 憧 往 來,未 光 大 也 .
Cửu tứ. Trinh cát hối vong. Đồng đồng vãng lai. Bằng tòng nhĩ tư.
Tượng viết.
Trinh cát hối vong. Vị cảm hại dã. Đồng đồng vãng lai. Vị quang đại dã.
Dịch.
Cảm người một cách tự nhiên,
Mới hay, mới tốt, hết niềm ăn năn.
Còn như cuống quít, lăng xăng,
Bạn bè cảm ứng, công năng chưa đầy.
Tượng rằng:
Quang minh, khinh khoát một lòng,
Mới hay, mới tốt, mới không phàn nàn.
Đó là cảm ứng đàng hoàng,
Tình riêng chưa có quải gàng lẽ công.
Còn như cuống quít long tong
Bạn bè cảm ứng, đừng hòng quang minh.
Hào cửu tứ là chủ Hào. Ba hào dưới đều mượn những phần thân thể ở nơi chân.
- Hào Sơ nói cảm ở ngón chân cái.
- Hào Nhị nói cảm ở bắp chân.
- Hào Tam nói cảm ở vế đùi.
Duy Hào Tứ này nói cảm bằng tâm hồn. Thực ra Hào Tứ không dùng chữ Tâm một cách rõ rệt, nhưng trong Hào tứ có chữ Tư, trong Tiểu Tượng có chữ Cảm, cả hai đều có bộ Tâm. Hào Tứ cho rằng: Muốn gây ảnh hưởng cho sâu rộng, muốn cảm hóa được mọi người cho sâu rộng, phải theo chính lý, chính đạo, phải gạt bỏ tư tâm. Vì thế Hào Tứ nói: Trinh cát hối vong.
Trình Tử giải chữ Trinh đây là: Trinh chính; Trung Khê Trương thị giải là: Theo lẽ thiên nhiên, trinh nhất chưa phôi pha tư cảm, tư dục, thời mới hay mới tốt. Còn khi mà đã Đồng đồng vãng lai, tư lự, suy tính, cầu cạnh; lo lấy lòng người này, lo o bế người kia thì cái sức cảm ứng của mình nó giảm đi nhiều. Chỉ có một số bạn bè của mình sẽ hưởng ứng mà thôi. Vì thế mới nói: Bằng tòng nhĩ tư. Phàm chưng, làm việc gì mà cứ để cho lòng khinh khoát hồn nhiên không cầu cạnh, thì ảnh hưởng mới mạnh. Càng mở rộng lòng, ảnh hưởng càng mạnh; trời đất đã theo đường lối ấy, vì trời đất chính là vô tâm, không hề tây vị riêng tư ai. (Xem Hệ Từ hạ - chương 5.)
5. Hào Cửu ngũ.
九 五: 咸 其 脢,無 悔 .
象 曰: 咸 其 脢,志 末 也 .
Cửu ngũ. Hàm kỳ mỗi. Vô hối.
Tượng viết.
Hàm kỳ mỗi. Chí mạt dã.
Dịch.
Cảm mà ở gáy ở vai,
Tuy không thấm thía, thoát bài ăn năn.
Tượng rằng: Cảm ở gáy vai,
Nghĩa là cảm vật, hợt hời chẳng sâu.
Hào năm, Trình Tử giải rằng: Mỗi là thịt lưng, ở sau tâm, mà chẳng thấy tâm. Nghĩa là nếu quên được tư tâm, không cứ rằng nhìn thấy mới thích, thì sẽ đi đúng được lối chính đáng của bậc nhân quân, vì vậy không có gì đáng trách. Tống bản Thập Tam Kinh đại khái giải rằng: Mỗi ở trên tim và dưới miệng. Cảm ứng bằng tâm thần dĩ nhiên là sâu xa nhất, cảm ứng bằng gáy vai, dĩ nhiên là nông cạn hơn, cảm ứng bằng môi miệng lại càng hời hợt hơn nữa. Như vậy cảm ứng bằng gáy vai, ám chỉ một sự cảm ứng nông cạn, hẹp hòi, tuy không đáng trách, nhưng tỏ ra đương sự không phải là người có khí phách bao lăm. (Chí mạt dã)
6. Hào Thượng lục.
上 六: 咸 其 輔,頰 舌 .
象 曰: 咸 其 輔,頰 舌,滕 口 說 也 .
Thượng lục. Hàm kỳ phụ. Giáp thiệt.
Tượng viết.
Hàm kỳ phụ. Giáp thiệt. Đằng khẩu thuyết dã.
Dịch.
Cảm bằng miệng lưỡi mép môi
Tượng rằng: Cảm bằng miệng lưỡi mép môi
Ấy là khua múa, chuốt lời cho hay.
Thượng lục đề cập đến cách cảm hóa con người bằng miệng lưỡi; đó là đường lối tầm thường của tiểu nhân, nữ tử, của Tô tần, Trương Nghi (Xem Dịch Kinh Lai Chú). Thaánh nhân không mấy chuộng đường lối này.
ÁP DỤNG QUẺ HÀM VÀO THỜI ĐẠI
Ngày nay có một số thanh niên ít nghĩ tới hôn nhân, vì tôn thờ chủ nghĩa cá nhân, hoặc vì không tin tìm được một tình yêu chân thành. Nhưng họ đã nhầm, vì ở đời không có gì quí hơn có một mái ấm gia đình, có người bạn đời, để chia vui sẻ ngọt với mình. Có vài đứa con để quấn quít, vui đùa lúc trẻ và để khỏi cô quạnh lúc tuổi già.
Muốn có tình yêu chân thành của người yêu, và của con cái, thì mình phải tự xét mình, xem mình có thành khẩn mà dành cho họ một tình yêu chân thành của mình không?
Để ca tụng hạnh phúc lứa đôi, Anatole France, một văn sĩ người Pháp, nói rằng: Người vợ là một tình nhân của chồng khi chàng còn trẻ, là người bạn đời khi tuổi chàng đã cao, là người điều dưỡng cho chàng trong tuổi già. Vậy ở tuổi nào người đàn ông cũng có lý do để lấy vợ. (Thế Kỷ 21, trang 52, số 83, tháng 3, năm 1996.)
Tóm lại, hạnh phúc không là của riêng ai, nhưng người nào biết hưởng, mới được hưởng. và hạnh phúc ở trong tầm tay mình đấy thôi.
TRẠCH SƠN HÀM
Hàm Tự Quái
咸 序 卦
Hữu thiên địa, nhiên hậu hữu vạn vật. 有 天 地, 然 後 有 萬 物
Hữu vạn vật, nhiên hậu hữu nam nữ. 有 萬 物, 然 後 有 男 女
Hữu nam nữ, nhiên hậu hữu phu phụ. 有 男 女, 然 後 有 夫 婦
Hữu phu phụ, nhiên hậu hữu phụ tử. 有 夫 婦, 然 後 有 父 子
Hữu phụ tử, nhiên hậu hữu quân thần. 有 父 子, 然 後 有 君 臣
Hữu quân thần, nhiên hậu hữu thượng hạ. 有 君 臣, 然 後 有 上 下
Hữu thượng hạ, nhiên hậu lễ nghĩa hữu sở thố. 有 上 下, .然 後 禮 儀 有 所 錯
Hàm Tự Quái
Thoạt tiên có Đất có Trời
Rồi ra vạn vật vạn loài mới sinh.
Loài sinh, nam nữ phân trình,
Có nam, có nữ, sẽ sinh vợ chồng.
Vợ chồng nối kết giải đồng,
Vợ chồng, nên mới có giòng cha con.
Quân thần, do đó, tiếp luôn,
Rồi ra trên dưới, kém hơn, phân trình.
Dưới, trên, lễ nghĩa sẽ sinh,
Tôn ti, đẳng cấp mới thành lễ nghi.
Dịch Kinh rất trọng Âm Dương. Đầu Thượng Kinh để hai quẻ Kiền Khôn. Đầu Hạ Kinh để hai quẻ Hàm Hằng.
- Kiền Khôn ở Thượng Kinh còn tách rời nhau để định vị (Kiền Khôn định vị).
Nhưng ở Hạ Kinh, Sơn (Dương), Trạch (Âm) hòa hợp nhau (Sơn trạch thông khí) để thành quẻ Hàm; Phong (Âm) Lôi (Dương) tăng cường lẫn nhau (Phong lôi tương thác) để thành quẻ Hằng.
- Ở Thượng Kinh, Kiền Khôn là khí hóa chi thủy (khí trời đất bắt đầu biến hóa) thời Thoán Truyện quẻ Kiền lại có 4 chữ Phẩm vật lưu hình.
- Ở Hạ Kinh, Hàm là hình hóa chi thủy (hình hài bắt đầu biến hóa) thời lại có 4 chữ nhị khí cảm ứng. Ý muốn nói Hình và Khí không hề lìa nhau:
Thoán Truyện quẻ Kiền đề cập đến chữ Tính; Thoán Truyện quẻ Hàm nói đến chữ Tình; Thoán Truyện quẻ Phục nói đến Thiên địa chi tâm; Thoán Truyện quẻ Hàm nói đến Nhân tâm. Thế là tính tình không hề xa nhau, Trời người chẳng hề xa nhau, hình khí chẳng hề xa nhau, Âm Dương chẳng hề xa nhau.
Ngoài trời đất, Âm Dương có hòa hài, thì vạn vật mới sinh. Trong nhân quần, Âm Dương có hòa hài thì nhân luân mới có cơ bền vững, xã hội mới có cơ thanh bình.
Ngoài vũ trụ, Âm Dương là đất trời, trong nhân quần, Âm Dương là nam nữ. Vũ trụ là một từ trường bao la, nhân quần là một từ trường rộng lớn. Vạn vật hấp dẫn, cảm ứng nhau không ngừng, nên mới có được ngày nay.
Hàm có hai nghĩa: 1. Là cảm ứng. 2. Là phổ quát.
Cảm ứng phải bằng tâm tình, vì thế chữ Hàm 咸 thêm chữ Tâm 心 là chữ Cảm 感. Cảm ứng bằng tư tình thì không phổ quát, muốn phổ quát phải hư tâm, phải rũ bỏ tư tình, nên chữ Cảm 感 bỏ chữ Tâm 心 đi thành chữ Hàm 咸.
Quẻ Hàm trên là quẻ Đoài ☱, dưới là quẻ Cấn ☶. Đoài là vui thích; Cấn là vững vàng, là thành thực, là thành khẩn.
Đem lòng thành khẩn, thành thực mà cảm người, người sẽ vui lòng đáp ứng. Ta và người cảm ứng lẫn nhau, hòa thuận với nhau thì việc gì cũng thông suốt.
I. Thoán.
Thoán Từ.
咸 . 亨,利 貞,取 女 吉。
Hàm. Hanh. Lợi trinh. Thủ nữ cát.
Dịch.
Lẽ trời cảm ứng mới hay,
Cảm mà chính đáng, lợi nay mới nhiều.
Ví như thiếu nữ mình yêu,
Mình mà lấy được là điều mắn may.
Muốn cảm ứng với nhau cho hay, cho lợi, phải dựa trên nền tảng đạo lý, công chính. Vì thế Thoán Từ nói Hàm hanh. Lợi trinh. Trai gái yêu nhau, thương nhau mà lấy nhau, rồi ra cuộc sống sẽ đẹp đẽ; Thoán Từ tiếp: Thủ nữ cát.
Thoán truyện. Thoán viết:
彖 曰:咸,感 也 . 柔 上 而 剛 下,二 氣 感 應 以 相 與,止 而 說,男 下 女,是 以 亨 利 貞,取 女 吉 也 . 天 地 感 而 萬 物 化 生,聖 人 感 人 心 而 天 下 和 平 . 觀 其 所 感,而 天 地 萬 物 之 情 可 見 矣 .
Hàm. Cảm dã. Nhu thượng nhi cương hạ. Nhị khí cảm ứng dĩ tương dự. Chỉ nhi duyệt. Nam há nữ. Thị dĩ hanh lợi trinh. Thủ nữ cát dã. Thiên địa cảm nhi vạn vật hoá sinh. Thánh nhân cảm nhân tâm nhi thiên hạ hoà bình. Quan kỳ sở cảm. Nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hĩ.
Dịch. Thoán viết:
Hàm là cảm ứng lẽ thường,
Mềm trên, cứng dưới, đôi đường cảm nhau.
Âm Dương nhị khí tương cầu,
Chân thành vui thỏa, trước sau mới là.
Trai tơ nhượng bộ gái tơ,
Nam cầu, nữ ứng, bây giờ mới hay.
Cảm cầu hợp lẽ chính ngay,
Cảm mà chính đáng, lợi nay mới nhiều.
Ví như thiếu nữ mình yêu,
Mình mà lấy được là điều mắn may.
Đất trời rung cảm hoà hài,
Cho nên vạn vật muôn loài hoá sinh.
Thánh nhân cảm hóa sinh linh,
Làm cho thiên hạ hòa bình âu ca.
Xem chiều cảm ứng hiệp hòa,
Đất trời, muôn vật, tìm ra ý tình.
Thoán Truyện định nghĩa chữ Hàm là cảm ứng. Muốn cảm ứng, Âm nhu phải ở trên, Dương cương phải ở dưới: Dương cảm Âm ứng, Dương xướng Âm hòa, nhị khí tương giao, thời Âm Dương mới hòa hợp. Vì thế Thoán Truyện mới nói: Nhu thượng (Đoài là Âm nhu) nhi cương hạ (Cấn là Dương cương); nhị khí tương ứng dĩ tương dự.
Áp dụng vào nhân quần, ta thấy định luật cảm ứng của đất trời cũng hoạt động mạnh mẽ. Trai gái tự nhiên hấp dẫn nhau, mà sự hấp dẫn mạnh nhất, sự cảm ứng mạnh nhất là ở nơi thiếu nam và thiếu nữ. Có cảm ứng, có thương yêu mới tính chuyện vợ chồng sau này. Nếu người con trai mà thành khẩn thương yêu, người con gái sẽ cảm động, sẽ vui vẻ mà đáp ứng. Vả trâu đi tìm cọc, chứ cọc không đi tìm trâu, nên trong bước đầu cuộc tình ái, người con trai phải đi bước trước, phải ngỏ lời trước, phải tỏ tình trước, như vậy mới đẹp đẽ.
Thoán Truyện viết: Chỉ nhi duyệt. Nam há nữ. Thị dĩ hanh. Tuy nhiên tình duyên, hay cảm ứng cũng đặt trên nền tảng đạo lý, sự minh chính, mới tốt, mới lợi. Xưa nay những tuồng trên bộc trong dâu khó đem lại một kết cuộc đẹp đẽ. Lấy nhau phải vì thương yêu nhau, phải có chính nghĩa, chính đạo, muốn gây dựng cho nhau một đời sống đẹp đẽ, hạnh phúc, thì cuộc hôn nhân mới tốt đẹp. Vì thế Thoán Truyện nói tiếp: Lợi trinh. Thủ nữ cát.
Sau đó Thoán Truyện bàn đến tầm quan trọng của sự cảm ứng, của sự hòa hài trong vũ trụ, cũng như trong nhân quần. Vạn vật cũng như con người không thể sống riêng rẽ.
Vì thế người xưa mới nói: Cô Âm tắc bất sinh, cô Dương tắc bất trưởng, cố thiên địa phối dĩ Âm Dương. Nam dĩ nữ vi thất, nữ dĩ nam vi gia; cố nhân sinh ngẫu dĩ phu phụ. Âm Dương hòa nhi hậu vũ trạch giáng; phu phụ hòa nhi hậu gia đạo thành. Tạm dịch:
Cô Âm không thể sản sinh,
Cô Dương không thể hoa vinh, xương phồn.
Cho nên trời đất đôi đàng,
Hòa hài chẳng có quải gàng khi nao
Trai thì tìm gái tất giao,
Gái mong chắp mối tơ đào cùng trai.
Cho nên từ có loài người,
Gái trai phối ngẫu nên đôi vợ chồng.
Âm Dương trời đất hòa đồng,
Rồi ra vũ trạch non sông ơn nhờ.
Vợ chồng chắp nối duyên tơ,
Rồi ra, gia đạo có cơ vững vàng.
Dịch Kinh cho rằng nhờ có khí trời, khí đất hòa hài, nên vạn vật mới có thể hóa sinh, trưởng dưỡng; nhờ ảnh hưởng Thánh nhân cảm hóa tâm hồn con người, nên nhân loại mới được hòa bình thái thịnh. (Thiên địa cảm nhi vạn vật hoá sinh. Thánh nhân cảm nhân tâm nhi thiên hạ hoà bình). Nói cách khác, đất trời không hòa hài, xã hội sẽ tan vỡ.
Thoán còn cho rằng: Cứ xem vạn vật cảm ưng ra sao, sẽ thấy tâm địa, ý tình của chúng (Quan kỳ sở cảm. Nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hĩ.) Lẽ trời là: Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Người ưa vật chất sẽ rung cảm dễ dàng vì những vấn đề tinh thần. Cho nên nhìn xem muôn loài ưa thích những gì, rung cảm trước những loại giá trị gì, sẽ xác định được căn cơ của chúng, và thấy được bộ mặt thực của chúng.
Tóm lại Hàm là hòa hài, cảm ứng, để đi đến chỗ phổ quát đại đồng. Hàm là hòa hài cảm ứng; mà cảm ứng là một định luật phổ quát của vũ trụ. Trời đất cảm ứng, Âm Dương cảm ứng, Trai gái cảm ứng, dưới trên cảm ứng. Do đó thánh nhân có thể cảm hóa nhân tâm để đem an ninh lại cho thiên hạ.
Hàm là cảm ứng; nên Hào sơ ứng với Hào tứ; Hào nhị ứng với Hào ngũ; Hào tam ứng với Hào lục, nhất nhất đều là Dương cảm, Âm ứng. Cảm ứng hòa điệu sẽ đem hạnh phúc, ấm êm, thanh bình cho trần thế.
II. Đại Tượng Truyện
象 曰:山 上 有 澤 . 咸 . 君 子 以 虛 受 人 .
Tượng viết:
Sơn thượng hữu trạch. Hàm. Quân tử dĩ hư thụ nhân.
Dịch. Tượng rằng
Hồ trên đỉnh núi là Hàm,
Hiền nhân mở rộng tâm xoang đón người.
Hư tâm đối xử với đời.
(Hư tâm nên mới thảnh thơi hòa đồng.)
Đỉnh núi có rỗng, có trũng thì mới chứa được nước, mới có được hồ nước ở trên. Người quân tử phải trống lòng, mới cảm thông được với mọi người.
Trình Tử cho rằng Hư ở đây là Vô tư, Vô ngã. Có Vô tư, Vô ngã mới hàm chứa được vô biên; bằng như lòng đã có thiên kiến, tư tình, sẽ trở nên hẹp lượng.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Các Hào đều bàn về lẽ cảm ứng, bàn về các cung cách ảnh hưởng tới tha nhân, có nông, có sâu, có mạnh, có yếu; có lúc hợp thời, có lúc không hợp thời; có khi bao quát, có khi bị giới hạn; mình có thể ảnh hưởng đến người khác bằng tâm thần, hoặc bằng môi miệng.
1. Hào Sơ Lục.
初 六:咸 其 拇 .
象 曰:咸 其 拇,志 在 外 也 .
Sơ Lục. Hàm kỳ mẫu.
Tượng viết:
Hàm kỳ mẫu. Chí tại ngoại dã.
Dịch.
Sơ Lục. Cảm ngón cái chân,
Tượng rằng: Cảm ngón cái chân,
Nghĩa là đã có để tâm tới ngoài.
Hào Sơ: Muốn ảnh hưởng đến người, cần phải có nội công, nội lực dồi dào; cần phải làm chi cũ thể để gây ảnh hưởng đối với người. Vì vậy Hào Sơ cho rằng: mới có ý muốn gây ảnh hưởng đối với người mà chưa làm được việc gì cụ thể bên ngoài, thì chưa gây được ảnh hưởng bao lăm. Như ngón chân cái mấp máy, thời làm sao di chuyển được cái chân.
Tóm lại, Hào Sơ cho rằng: Ảnh hưởng lúc này còn quá yếu, chưa có tác dụng nào đáng kể.
2. Hào Lục nhị.
六 二: 咸 其 腓,凶,居 吉 .
象 曰: 雖 凶,居 吉,順 不 害 也 .
Lục nhị. Hàm kỳ phì. Hung. cư cát.
Tượng viết:
Tuy hung. Cư cát. Thuận bất hại dã.
Dịch.
Bắp chân cảm động xấu thay,
Ở yên, rồi mới được hay, được lành.
Tượng rằng: Tuy vội chẳng hay,
Ở yên sẽ thuận luật trời, hại chi.
Hào Hai cho rằng: Muốn gây ảnh hưởng nhất là đối với người trên, phải có thời cơ. Khi người trên chưa vời mình, mà mình cầu cạnh để gây ảnh hưởng, để tác động họ, là làm một công chuyện chẳng hay. Cần phải biết ở yên, chờ khi người trên có lời cầu mình đã; lúc ấy lời lẽ, hành động mình mới có thể có ảnh hưởng lớn đối với họ.
3. Hào Cửu tam.
九 三: 咸 其 股,執 其 隨,往 吝.
象 曰: 咸 其 股,亦 不 處 也 . 志 在 隨 人,所 執 下 也 .
Cửu tam. Hàm kỳ cổ. Chấp kỳ tuỳ. Vãng lận.
Tượng viết.
Hàm kỳ cổ. Diệc bất xử dã. Chí tại tuỳ nhân. Sở chấp hạ dã.
Dịch.
Cửu tam cảm vế, cảm đùi,
Theo người hành sự, tiếc thôi có ngày.
Tượng rằng: Cảm ở vế đùi,
Cũng chưa giữ được vẻ người thanh cao.
Theo người hành sự lao nhao,
Đi theo hạ cấp, tránh sao tiếng hèn.
Hào Ba bàn tiếp thêm rằng: Muốn gây ảnh hưởng, muốn cảm hóa người khác, trước tiên mình phải là người có nhân cách, biết tự trọng.
Nhược bằng mình chạy theo thị hiếu, thị dục của tha nhân, để thỏa mãn họ, hoặc mình để cho ngoại cảnh, ngoại nhân, dục vọng sai sử, như vậy chẳng hóa ra hèn hạ lắm sao.
4. Hào Cửu tứ.
九 四: 貞 吉 悔 亡,憧 憧 往 來,朋 從 爾 思 .
象 曰: 貞 吉 悔 亡,未 感 害 也 . 憧 憧 往 來,未 光 大 也 .
Cửu tứ. Trinh cát hối vong. Đồng đồng vãng lai. Bằng tòng nhĩ tư.
Tượng viết.
Trinh cát hối vong. Vị cảm hại dã. Đồng đồng vãng lai. Vị quang đại dã.
Dịch.
Cảm người một cách tự nhiên,
Mới hay, mới tốt, hết niềm ăn năn.
Còn như cuống quít, lăng xăng,
Bạn bè cảm ứng, công năng chưa đầy.
Tượng rằng:
Quang minh, khinh khoát một lòng,
Mới hay, mới tốt, mới không phàn nàn.
Đó là cảm ứng đàng hoàng,
Tình riêng chưa có quải gàng lẽ công.
Còn như cuống quít long tong
Bạn bè cảm ứng, đừng hòng quang minh.
Hào cửu tứ là chủ Hào. Ba hào dưới đều mượn những phần thân thể ở nơi chân.
- Hào Sơ nói cảm ở ngón chân cái.
- Hào Nhị nói cảm ở bắp chân.
- Hào Tam nói cảm ở vế đùi.
Duy Hào Tứ này nói cảm bằng tâm hồn. Thực ra Hào Tứ không dùng chữ Tâm một cách rõ rệt, nhưng trong Hào tứ có chữ Tư, trong Tiểu Tượng có chữ Cảm, cả hai đều có bộ Tâm. Hào Tứ cho rằng: Muốn gây ảnh hưởng cho sâu rộng, muốn cảm hóa được mọi người cho sâu rộng, phải theo chính lý, chính đạo, phải gạt bỏ tư tâm. Vì thế Hào Tứ nói: Trinh cát hối vong.
Trình Tử giải chữ Trinh đây là: Trinh chính; Trung Khê Trương thị giải là: Theo lẽ thiên nhiên, trinh nhất chưa phôi pha tư cảm, tư dục, thời mới hay mới tốt. Còn khi mà đã Đồng đồng vãng lai, tư lự, suy tính, cầu cạnh; lo lấy lòng người này, lo o bế người kia thì cái sức cảm ứng của mình nó giảm đi nhiều. Chỉ có một số bạn bè của mình sẽ hưởng ứng mà thôi. Vì thế mới nói: Bằng tòng nhĩ tư. Phàm chưng, làm việc gì mà cứ để cho lòng khinh khoát hồn nhiên không cầu cạnh, thì ảnh hưởng mới mạnh. Càng mở rộng lòng, ảnh hưởng càng mạnh; trời đất đã theo đường lối ấy, vì trời đất chính là vô tâm, không hề tây vị riêng tư ai. (Xem Hệ Từ hạ - chương 5.)
5. Hào Cửu ngũ.
九 五: 咸 其 脢,無 悔 .
象 曰: 咸 其 脢,志 末 也 .
Cửu ngũ. Hàm kỳ mỗi. Vô hối.
Tượng viết.
Hàm kỳ mỗi. Chí mạt dã.
Dịch.
Cảm mà ở gáy ở vai,
Tuy không thấm thía, thoát bài ăn năn.
Tượng rằng: Cảm ở gáy vai,
Nghĩa là cảm vật, hợt hời chẳng sâu.
Hào năm, Trình Tử giải rằng: Mỗi là thịt lưng, ở sau tâm, mà chẳng thấy tâm. Nghĩa là nếu quên được tư tâm, không cứ rằng nhìn thấy mới thích, thì sẽ đi đúng được lối chính đáng của bậc nhân quân, vì vậy không có gì đáng trách. Tống bản Thập Tam Kinh đại khái giải rằng: Mỗi ở trên tim và dưới miệng. Cảm ứng bằng tâm thần dĩ nhiên là sâu xa nhất, cảm ứng bằng gáy vai, dĩ nhiên là nông cạn hơn, cảm ứng bằng môi miệng lại càng hời hợt hơn nữa. Như vậy cảm ứng bằng gáy vai, ám chỉ một sự cảm ứng nông cạn, hẹp hòi, tuy không đáng trách, nhưng tỏ ra đương sự không phải là người có khí phách bao lăm. (Chí mạt dã)
6. Hào Thượng lục.
上 六: 咸 其 輔,頰 舌 .
象 曰: 咸 其 輔,頰 舌,滕 口 說 也 .
Thượng lục. Hàm kỳ phụ. Giáp thiệt.
Tượng viết.
Hàm kỳ phụ. Giáp thiệt. Đằng khẩu thuyết dã.
Dịch.
Cảm bằng miệng lưỡi mép môi
Tượng rằng: Cảm bằng miệng lưỡi mép môi
Ấy là khua múa, chuốt lời cho hay.
Thượng lục đề cập đến cách cảm hóa con người bằng miệng lưỡi; đó là đường lối tầm thường của tiểu nhân, nữ tử, của Tô tần, Trương Nghi (Xem Dịch Kinh Lai Chú). Thaánh nhân không mấy chuộng đường lối này.
ÁP DỤNG QUẺ HÀM VÀO THỜI ĐẠI
Ngày nay có một số thanh niên ít nghĩ tới hôn nhân, vì tôn thờ chủ nghĩa cá nhân, hoặc vì không tin tìm được một tình yêu chân thành. Nhưng họ đã nhầm, vì ở đời không có gì quí hơn có một mái ấm gia đình, có người bạn đời, để chia vui sẻ ngọt với mình. Có vài đứa con để quấn quít, vui đùa lúc trẻ và để khỏi cô quạnh lúc tuổi già.
Muốn có tình yêu chân thành của người yêu, và của con cái, thì mình phải tự xét mình, xem mình có thành khẩn mà dành cho họ một tình yêu chân thành của mình không?
Để ca tụng hạnh phúc lứa đôi, Anatole France, một văn sĩ người Pháp, nói rằng: Người vợ là một tình nhân của chồng khi chàng còn trẻ, là người bạn đời khi tuổi chàng đã cao, là người điều dưỡng cho chàng trong tuổi già. Vậy ở tuổi nào người đàn ông cũng có lý do để lấy vợ. (Thế Kỷ 21, trang 52, số 83, tháng 3, năm 1996.)
Tóm lại, hạnh phúc không là của riêng ai, nhưng người nào biết hưởng, mới được hưởng. và hạnh phúc ở trong tầm tay mình đấy thôi.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
4 THỦY SƠN KIỂN
THỦY SƠN KIỂN
Kiển Tự Quái
蹇 序 卦
Khuê giả quai dã.
睽 者 乖 也.
Quai tất hữu nạn.
乖 必 有 難.
Cố thụ chi dĩ Kiển.
故 受 之 以 蹇.
Kiển giả nạn dã.
蹇 者 難 也.
Kiển Tự Quái
Khuê là gàng quải, xốn xang, chia lìa
Quải gàng, hoạn nạn sẽ kề.
Cho nên, Kiển mới theo Khuê xen vào.
Tất cả những sự chia ly, bế tắc trên đời này, thường sinh ra là do sự chia ly, gàng quải. Vì thế sau quẻ Khuê, tiếp đến quẻ Kiển. Kiển là bế tắc, gian nan, cho nên ở chữ, thì Kiển là khập khiễng; ở quẻ thì trên là Khảm, là nguy hiểm; dưới là Cấn, là núi, là dừng lại. Sự bế tắc của quẻ Kiển do đó mà suy ra, chẳng khác nào một người kẹt ở giữa gian nan, phía trước là nước sâu, là vực thẳm; phía sau là núi cao chót vót, khó vượt, khó trèo. Vì nguy nan như vậy, nên còn tắc nghẽn chưa thoát ra được. Sự đình trệ được tượng trưng bằng quẻ Cấn; sự hiểm nguy được bày vẽ bằng quẻ Khảm.
Trong Kinh Dịch có 4 quẻ nói về nguy hiểm:
- Khảm là nguy hiểm nói chung
- Truân là nguy hiểm còn ít, còn đang thời sơ khởi.
- Khốn là nguy hiểm đến cùng cực, không có cơ cứu vãn
- Kiển là nguy hiểm, là tạm thời bế tắc trong nguy hiểm, nhưng vẫn có cách thoát hiểm được.
Quẻ Kiển đại ý dạy rằng:
- Gặp nguy hiểm chớ nên liều lĩnh mà tiến lên.
- Phải biết nén lòng, chờ đợi cơ hội thuận tiện.
- Gặp nguy, đừng mua thêm cái khó vào người.
- Phải tìm người lãnh đạo có tài, đức mà cộng tác.
I. Thoán.
Thoán từ.
蹇. 利 西 南. 不 利 東 北. 利 見 大 人. 貞 吉.
Kiển. Lợi Tây Nam. Bất lợi Đông Bắc. Lợi kiến đại nhân. Trinh cát.
Dịch.
Kiển là gian hiểm, nguy nàn,
Đông Bắc bất lợi, Tây Nam hữu tình.
Gặp người tài đức, công minh,
Một niềm trinh chính, mới rành, mới hay.
Thoán từ cho rằng: thời kiển nạn hãy đi đường quang, chớ quàng đường rậm. Kiển. Lợi Tây Nam. Bất lợi Đông Bắc. Tây Nam là phương Khôn, là nơi bình địa, Đông Bắc là phương Cấn là nơi núi non chập chùng. Thoán từ lại khuyên nên gặp đại nhân, nên theo chính đạo mới may, mới tốt. Lợi kiến đại nhân. Trinh cát.
Thoán Truyện.
彖 曰. 蹇. 難 也 . 險 在 前 也 . 見 險 而 能 止. 知 矣 哉 . 蹇 利 西 南. 往 得 中 也 . 不 利 東 北. 其 道 窮也 . 利 見 大 人 . 往 有 功 也. 當 位 貞 吉. 以 正 邦 也. 蹇 之 時 用 大 矣 哉.
Thoán viết:
Kiển. Nạn dã. Hiểm tại tiền dã. Kiến hiểm nhi năng chỉ. Trí hỹ tai. Kiển lợi Tây Nam. Vãng đắc trung dã. Bất lợi Đông Bắc. Kỳ đạo cùng dã. Lợi kiến đại nhân. Vãng hữu công dã. Đáng vị trinh cát. Dĩ chính bang dã. Kiến chi thời dụng đại hỹ tai.
Dịch.
Kiển là gian hiểm, nguy nàn,
Trước mắt hiểm hóc, gian nan tơi bời.
Thấy nguy, dừng lại đi thôi,
Mới là sáng suốt, thức thời tri cơ.
Cơn nguy, đường dễ mới vô,
Tránh điều rắc rối, mới là thời trung.
Gặp đường hiểm trở, cũng xông,
Âu đành bế tắc, khốn cùng chẳng sai.
Nếu may, gặp được hiền tài,
Ra tay tế độ, có bài nên công.
Hợp ngôi, mà lại chính trung,
Theo đường minh chính, mới mong tốt lành.
Nước non sẽ bớt điêu linh,
Phù nguy, cứu nạn, mới tình, mới hay.
Thời nguy, dùng được mới tài.
Thoán Truyện trước hết định nghĩa Kiển là nguy nan, trắc trở, và cho biết lý do: nguy nan, trắc trở vì hiểm nguy đang ở trước mắt (Kiển nạn dã. Hiểm tại tiền dã). Thoán Truyện cũng dạy cách sử xự trong thời kỳ kiển nạn: làm sao cư xử cho hay, cho khéo, tránh được cho mình phiền lụy, đừng có nhảy vào nguy hiểm, vào những đường núi, đường cùng, trắc trở, gian nan (Kiển. Lợi Tây Nam. Vãng đắc trung dã. Bất lợi Đông Bắc. Kỳ đạo cùng dã). Gặp thời loạn ly, phải như con chim, biết tìm cây mà đậu; phải như con người, biết tìm chúa mà thờ.
Trong những thời nhiễu nhương, có rất nhiều người nhẩy ra để phiêu lưu, mưu đồ đại sự, nhưng chỉ có bậc đại nhân, có tài, có đức, có đạo lý, có chủ trương, mới có thể hoạch định ra được một đường lối hẳn hoi, để đem lại an bình cho đất nước. Vì thế đoán ra được anh hùng giữa trần ai, mới là hay, là lợi (Lợi kiến đại nhân. Vãng hữu công dã. Đáng vị trinh cát. Dĩ chính bang dã).
Trong thời kiển nạn, mà biết sử xự cho hay, cho khéo, mà biết đường lối phò nguy, tế kiển thì thực là cao siêu vậy. (Kiển chi thời dụng đại hỹ tai).
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 山 上 有 水. 蹇. 君 子 以 反 身 修 德.
Tượng viết:
Sơn thượng hữu thủy. Kiển. Quân tử dĩ phản thân tu đức.
Dịch.
Tượng rằng: Nước ở trên non,
Thế là kiển nạn, gian nan, cơ cầu.
Hiền nhân, quân tử, trước sau,
Quay về tu đức cho sâu, cho dầy.
Đại Tượng dạy chúng ta một bài học luân lý, một bài học xử thế. Khi bế tắc, khi bất đắc chí, phải làm gì?
- Than thân, trách phận ư? Không!
- Thất vọng, chán chường ư? Không!
- Làm liều, làm bậy ư? Không!
Trái lại, phải phản tỉnh, tu đức, lập thân. Tượng viết: Sơn thượng hữu thủy. Kiển. Quân tử dĩ lập thân tu đức.
Đó là một cách xử thế của Nho gia. Mạnh Tử viết: Người quân tử lúc đắc chí ra làm quan, thì chung sức cùng dân mà thi hành những đức nhân, nghĩa, lễ. Khi chẳng đắc chí thì ẩn dật mà tu thân hành đạo. (Mạnh Tử, Đằng văn Công chương cú hạ, tiết 2)
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六. 往 蹇. 來 譽.
象 曰. 往 蹇 來 譽. 宜 待 也.
Sơ lục:
Vãng Kiển. Lai dự.
Tượng viết:
Vãng Kiển lai dự. Nghi đãi dã.
Dịch.
Tiến lên sẽ gặp nguy tai,
Lui đi âu sẽ được đời khen lao.
Tượng rằng: Tiến lên sẽ gặp nguy nan,
Khen vì đã biết tính toan, chờ thời.
Hào Sơ Lục nói: Phàm sinh ra ở đời, cần phải biết:
- Tự lượng sức mình.
- Biết ước đạc được thời thế thuận, nghịch; hoàn cảnh dở, hay.
- Phải biết hành động cho hợp thời, hợp lý.
Ở đây Sơ Lục là một người âm nhu chi tài, tức là cũng chẳng giỏi giang là bao lăm, mà lại ở Hào Sơ, tức là ở địa vị thấp kém, và cũng không thích hợp với mình, hơn nữa lại gặp thời buổi nhiễu nhương, kiển nạn. Vậy thời phải làm gì? Dịch dạy, nên ở yên mà chờ thời, mới bảo toàn được danh tiết của mình, còn nếu múa may bừa phứa, thì chỉ tổ chiêu tai, rước hoạ vào mình. Vì thế mới nói: Vãng kiển. Lai dự. Tượng Truyện khuyên rõ hơn: Nghi đãi dã, là nên chờ đợi. Đó chính là thời mà Lã Vọng buông câu nơi Vị Thủy, chờ đợi một ngày mai tươi sáng.
2. Hào Lục nhị.
六 二. 王 臣 蹇 蹇. 匪 躬 之 故 .
象 曰. 王 臣 蹇 蹇. 終 無 尤 也.
Lục nhị.
Vương thần kiển kiển. Phỉ cung chi cố.
Tượng viết:
Vương thần kiển kiển. Chung vô vưu dã.
Dịch.
Công thần nguy thậm, nguy tai,
Quên mình vì nghĩa, bao nài tấm thân.
Tượng rằng: Thần tử lâm nguy,
Quên mình vì nước, lỗi gì nữa đâu.
Hào Lục nhị ở trong một hoàn cảnh khác. Đây chính là một công thần nắm trọng trách trong tay. Vậy một vương thần phải làm gì? khi gặp thời buổi nhiễu nhương, chập chùng, nguy hiểm chập chùng. Dịch dạy: Lúc ấy phải biết quên mình, vì dân, vì nước.
-Nguy cơ chập chùng, nên gọi là Vương thần kiển kiển. Vì nước quên mình, nên nói Phỉ cung chi cố. Không phải lúc ấy mình phải đội đá vá trời, phải làm những việc quá sức, quá trí mình. Trái lại, cứ lo cho tròn nhiệm vụ, còn thành, hay bại, chẳng khá quan tâm; mà cuối cùng cũng chẳng có ai đem thành, bại, mà luận anh hùng bao giờ. Vì thế Tiểu Tượng mới giải thích thêm: Vương thần kiển kiển. Chung vô vưu dã. Đó chính là Khổng Minh, chỉ biết cúc cung tận tụy, phục vụ cho tới mãn phần, còn thành, bại, dở, hay, không biết đâu mà dám nói trước.
3. Hào Cửu tam.
九 三. 往 蹇 來 反.
象 曰. 往 蹇 來 反. 內 喜 之 也.
Cửu tam:
Vãng kiển lai phản.
Tượng viết:
Vãng kiển lai phản. Nội hỉ chi dã.
Dịch.
Ra đi sẽ bị nguy nan,
Thời thôi, nên hãy lo toan quay về.
Tượng rằng: Đi sẽ nguy nan,
Thời thôi, nên hãy lo toan quay về.
Người thân âu sẽ thỏa thuê.
Cửu tam tuy là một người Dương cương chi tài, nhưng ở trong một hoàn cảnh nguy hiểm hết sức, vì Cửu tam ở sát ngay ngoại quái là quẻ Khảm. Cửu tam lại còn là Hào trên cùng của nội quái, thống lĩnh quần Âm ở dưới, như một người lãnh đạo, có trách nhiệm đối với những người thân thuộc mình.
Vậy lúc nguy nan, chưa thể nào vượt qua được, dầu mình có tài cũng chẳng nên ra đi, để nhẩy vào chỗ dầu sôi, lửa bỏng, hãy trở về với những người thân yêu của mình. Vì thế Dịch nói: Vãng kiển. Lai phản. Về cùng những người thân yêu mình, sẽ làm cho họ được hết băn khoăn, lo sợ và được vui sướng. Vì thế Tượng viết: Vãng kiển lai phản. Nội hỉ chi dã.
4. Hào Lục tứ.
六 四. 往 蹇 來 連.
象 曰. 往 蹇 來 連. 當 位 實 也.
Lục tứ.
Vãng kiển lai liên.
Tượng viết:
Vãng kiển lai liên. Đáng vị thật dã.
Dịch.
Ra đi sẽ bị nguy nan,
Thời nên quay lại kết đoàn với nhau.
Tượng rằng: Đi sẽ nguy nan,
Thời nên quay lại kết đoàn với nhau.
Thực tài xứng vị bảnh bao.
Hào Lục tứ nói: Trong thời nguy nan, đã đành không thể tiến liều, nhưng cũng không thể một thân, một mình mà giải quyết được thiên hạ sự. Cho nên phải liên kết với những người tài đức, rồi ra mới có hy vọng phò nguy, tế kiển được. Hào từ nói: Vãng kiển lai liên chính là vì vậy. Muốn liên kết với người tài đức, mình phải hết lòng thành khẩn, trung thực, lại cũng phải đáng vị, đáng ngôi. Vì thế Tiểu Tượng mới viết: Vãng kiển lai liên. Đáng vị thật dã.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五. 大 蹇 朋 來.
象 曰. 大 蹇 朋 來. 以 中 節 也.
Cửu ngũ.
Đại kiển bằng lai.
Tượng viết:
Đại kiển bằng lai. Dĩ trung tiết dã.
Dịch.
Quốc quân gặp buổi đại nàn,
Bạn bè kéo đến lo toan, phù trì.
Tượng rằng: Bạn bè kéo đến phò nguy,
Là vì tiết liệt, đoan nghi mọi bề.
Hào Cửu ngũ: Một vị quốc quân, dầu gặp bước kiển nan, nguy cơ, cũng không thể nào trốn tránh trách nhiệm được. Phải đem thân đứng mũi, chịu sào, ra tay liệu lý, không quản khó nhọc với gian nguy.
Nếu mình có tài, có đức, lại một lòng vì dân, vì nước, làm chi mà chẳng tìm ra được người phụ bật. Thành Thang đã gặp Y Doãn; Võ vương đã gặp Lã Vọng; Lưu Bị đã gặp Khổng Minh; Đường Túc Tôn đã gặp Quách Tử Nghi chả hạn. Làm sao có được hiền tài phụ bật? Tượng viết: Phải cư xử cho phải đạo. Đại kiển. Bằng lai dĩ trung tiết dã.
Trong Kinh Dịch, các Hào tương ứng với nhau, quan trọng nhất là Nhị và Ngũ, cho nên Hào hai nói Vương thần là chỉ Vương thần của Ngũ; Hào năm nói Bằng Lai là chỉ Hào Lục nhị...
Chỉ có nhị và ngũ là tương ứng, là vua tôi san sẻ hoạn nạn; còn 4 Hào khác đều không có trách nhiệm trực tiếp. Bằng lai là bạn, đến hợp với nhị để cứu nạn, như vậy mọi Hào đều đồng lao cộng tác mà phò nguy.
Từ dưới lên trên, gọi là vãng; từ trên xuống dưới gọi là lai. Nói Bằng lai, phải hiểu là Hào Lục tứ, Cửu tam đều đến để hợp sức với nhị để tiếp ứng cho ngũ...
Xem như vậy, ta thấy khi bình giải Dịch được tự do phát biểu ý kiến mình, miễn sao cho nó hợp lý.
6. Hào Thượng Lục.
上 六. 往 蹇 來 碩. 吉. 利 見 大 人.
象 曰. 往 蹇 來 碩. 志 在 內 也. 利 見 大 人. 以 從 貴 也.
Thượng Lục.
Vãng kiển lai thạc. Cát. Lợi kiến đại nhân.
Tượng viết:
Vãng kiển lai thạc. Chí tại nội dã. Lợi kiến đại nhân. Dĩ tòng quí dã.
Dịch.
Ra đi sẽ gặp nguy nan,
Về cùng hiền đức kết đoàn, mới may.
Đại nhân gặp được thời hay.
Tượng rằng: Đi sẽ nguy nan,
Về cùng hiền đức hiệp đoàn, mới may.
Vì lòng mến chuộng hiền tài,
Vì lòng vẫn hướng về người trong đây.
Đại nhân gặp được thời hay,
Quí nhân những muốn có ngày được theo.
Hào Thượng Lục ví như một người ẩn sĩ, đã đứng ngoài cuộc phong trần, thế sự. Tuy nhiên gặp lúc quốc gia đại nạn, quân vương lâm nguy, không thể nhắm mắt, làm ngơ. Thượng Lục tuy không đủ tài mà thay đổi thời cuộc, nhưng Thượng Lục có thể cầu viện được với những bậc anh tài, (Lai thạc), để cùng nhau đến gặp vị quân vương (Lợi kiến đại nhân), giải quyết những khó khăn đang mắc phải.
Chỉ duy có Hào Thượng Lục này được chữ Cát, vì lúc này vận kiển nạn đã đến hồi kết cuộc, sắp có thể được giải nạn. Hán Quang Võ, đang khi hưng binh phục quốc, có lần đã bị vây ở Côn Dương. Quang Võ đương đầu với một tương giặc có kỳ tài là Cự Vô Bá, có Tụ thú Bài có thể hóa ra hùm beo, voi, gấu, để đánh quân Hán. May Quang Võ gặp được Nghiêm tử Lăng. Nghiêm tử Lăng khuyên được đồ đệ mình là Mã Viện, là tướng duy nhất phá được Tụ thú Bài.
Nhờ Nghiêm tử Lăng và Mã Viện mà Quang Võ giết được Cự Vô Bá chiếm được Côn Dương, và nhờ đó khôi phục được nghiệp nhà Hán.
Nghiêm tử Lăng tức là Hào Thượng Lục ở đây. Đến cầu Mã Viện tức là Lai thạc, cùng nhau đi cầu Quang Võ, tức là Lợi kiến đại nhân. Giải toả được thành Côn Dương cho nên là Cát. Thế là Thượng Lục, tuy lánh trần, mà chí vẫn tại nội, vẫn biết kính hiền, trọng hiền, và vẫn biết theo người sang cả, giúp người có chân thiên mạng để phò nguy, cứu hiểm. Vì thế Tiểu Tượng viết: Vãng kiển lai thạc. Chí tại nội dã. Lợi kiến đại nhân. Dĩ tòng quí dã.
ÁP DỤNG QUẺ KIỂN VÀO THỜI ĐẠI
Đại Tượng quẻ Kiển đưa ra một bài toán rất ly kỳ. Dịch hỏi: Khi mình gặp nguy, kẹt giữa núi và sông, lại bị què đôi chân, thì phải giải quyết sao? Dịch trả lời: Phải quay về nội tâm tu đức. Thực là một cái nhìn siêu việt, cho đến nay, chúng ta cũng không giải quyết được như vậy.
Hán Chung Ly tiên ông kể là lúc còn sinh thời ngài từng làm nguyên soái, nhưng đã bại trận. Vì xấu hổ, nên không dám về triều, vào núi tu tiên, nên đã thành tiên. Thực ra Hán Trung Ly đã làm theo lời khuyên của quẻ Kiển trong Kinh Dịch
Ngày Nay, áp dụng theo thời đại, ta phải làm sao?
- Nếu ta bị thất bại về vấn đề vợ con, thì ta phải cố tìm hiểu do đâu mà ra. Nếu vì lỗi lầm của ta, thì ta phải cố gắng sửa đổi lại, đừng đổ tại vợ con, nghề nghiệp làm ta chán nản nên sinh ra như vậy.
-Nếu ta bị thất bại vì công việc làm ăn, thì phải biết dừng chân lại, phải biết tìm người giỏi, người tốt mà cộng tác với họ, hoặc tìm phương tiện để hoá giải nó như quảng cáo, sửa chữa những lỗi mình mắc phải: Ví dụ như hàng xấu mà bán giá cao, ăn nói thô lỗ với khách hàng vv... Như vậy, mọi sự hiểm nguy sẽ được hoá giải. Còn như khi muốn tạo dựng một cơ sở kinh doanh mới, phải tìm người giỏi để cộng tác với mình, ta cũng nên suy xét cẩn thận.
* Cơ sở kinh doanh về Mậu Dịch, thì phải tìm những người ngoại giao giỏi, có thành tín, khiêm nhường, vui vẻ, luôn tươi cười với khách hàng. Hàng hóa luôn phải kiểm soát, phẩm chất phải tốt, phải giữ uy tín với khách hàng. Lời nói phải đúng với việc làm, ngay thẳng, thật thà.
* Cơ sở kinh doanh về phát minh, sáng chế, thì nên tìm trong những mầm non ưu tú, mới tốt nghiệp, mà trau dồi cho họ theo đường lối sản xuất của mình, thì tốt hơn. Phải đối xử với họ một cách rộng rãi, bảo đảm cho họ một đời sống an toàn về mọi mặt. Luôn phải nhớ họ là
những người mang lợi đến cho mình, nên phải đối với họ như chân tay mình vậy. Phải có đạo đức trong việc dùng người, thì cơ nghiệp của mình mới vững bền.
- Nếu cá nhân mình, chẳng may bị tàn phế, vì bất cứ một lý do nào đó, thì đừng than oán làm gì. Vì khổ sở, oán than cũng chẳng mang lợi ích gì cho ta, mà trái lại nó còn mang lại sự đau đớn về tinh thần thêm cho ta mà thôi.
Hãy coi cái xác mình chỉ là hình thức bề ngoài, là giả tạo, là cái túi đựng phân và máu mủ. Hãy dốc hết tinh thần đi tìm đạo lý, sẽ thấy đời mình cao siêu hơn nhiều, ý nghĩa hơn nhiều. Đó là điều mà quẻ Kiển muốn dạy ta vậy.
THỦY SƠN KIỂN
Kiển Tự Quái
蹇 序 卦
Khuê giả quai dã.
睽 者 乖 也.
Quai tất hữu nạn.
乖 必 有 難.
Cố thụ chi dĩ Kiển.
故 受 之 以 蹇.
Kiển giả nạn dã.
蹇 者 難 也.
Kiển Tự Quái
Khuê là gàng quải, xốn xang, chia lìa
Quải gàng, hoạn nạn sẽ kề.
Cho nên, Kiển mới theo Khuê xen vào.
Tất cả những sự chia ly, bế tắc trên đời này, thường sinh ra là do sự chia ly, gàng quải. Vì thế sau quẻ Khuê, tiếp đến quẻ Kiển. Kiển là bế tắc, gian nan, cho nên ở chữ, thì Kiển là khập khiễng; ở quẻ thì trên là Khảm, là nguy hiểm; dưới là Cấn, là núi, là dừng lại. Sự bế tắc của quẻ Kiển do đó mà suy ra, chẳng khác nào một người kẹt ở giữa gian nan, phía trước là nước sâu, là vực thẳm; phía sau là núi cao chót vót, khó vượt, khó trèo. Vì nguy nan như vậy, nên còn tắc nghẽn chưa thoát ra được. Sự đình trệ được tượng trưng bằng quẻ Cấn; sự hiểm nguy được bày vẽ bằng quẻ Khảm.
Trong Kinh Dịch có 4 quẻ nói về nguy hiểm:
- Khảm là nguy hiểm nói chung
- Truân là nguy hiểm còn ít, còn đang thời sơ khởi.
- Khốn là nguy hiểm đến cùng cực, không có cơ cứu vãn
- Kiển là nguy hiểm, là tạm thời bế tắc trong nguy hiểm, nhưng vẫn có cách thoát hiểm được.
Quẻ Kiển đại ý dạy rằng:
- Gặp nguy hiểm chớ nên liều lĩnh mà tiến lên.
- Phải biết nén lòng, chờ đợi cơ hội thuận tiện.
- Gặp nguy, đừng mua thêm cái khó vào người.
- Phải tìm người lãnh đạo có tài, đức mà cộng tác.
I. Thoán.
Thoán từ.
蹇. 利 西 南. 不 利 東 北. 利 見 大 人. 貞 吉.
Kiển. Lợi Tây Nam. Bất lợi Đông Bắc. Lợi kiến đại nhân. Trinh cát.
Dịch.
Kiển là gian hiểm, nguy nàn,
Đông Bắc bất lợi, Tây Nam hữu tình.
Gặp người tài đức, công minh,
Một niềm trinh chính, mới rành, mới hay.
Thoán từ cho rằng: thời kiển nạn hãy đi đường quang, chớ quàng đường rậm. Kiển. Lợi Tây Nam. Bất lợi Đông Bắc. Tây Nam là phương Khôn, là nơi bình địa, Đông Bắc là phương Cấn là nơi núi non chập chùng. Thoán từ lại khuyên nên gặp đại nhân, nên theo chính đạo mới may, mới tốt. Lợi kiến đại nhân. Trinh cát.
Thoán Truyện.
彖 曰. 蹇. 難 也 . 險 在 前 也 . 見 險 而 能 止. 知 矣 哉 . 蹇 利 西 南. 往 得 中 也 . 不 利 東 北. 其 道 窮也 . 利 見 大 人 . 往 有 功 也. 當 位 貞 吉. 以 正 邦 也. 蹇 之 時 用 大 矣 哉.
Thoán viết:
Kiển. Nạn dã. Hiểm tại tiền dã. Kiến hiểm nhi năng chỉ. Trí hỹ tai. Kiển lợi Tây Nam. Vãng đắc trung dã. Bất lợi Đông Bắc. Kỳ đạo cùng dã. Lợi kiến đại nhân. Vãng hữu công dã. Đáng vị trinh cát. Dĩ chính bang dã. Kiến chi thời dụng đại hỹ tai.
Dịch.
Kiển là gian hiểm, nguy nàn,
Trước mắt hiểm hóc, gian nan tơi bời.
Thấy nguy, dừng lại đi thôi,
Mới là sáng suốt, thức thời tri cơ.
Cơn nguy, đường dễ mới vô,
Tránh điều rắc rối, mới là thời trung.
Gặp đường hiểm trở, cũng xông,
Âu đành bế tắc, khốn cùng chẳng sai.
Nếu may, gặp được hiền tài,
Ra tay tế độ, có bài nên công.
Hợp ngôi, mà lại chính trung,
Theo đường minh chính, mới mong tốt lành.
Nước non sẽ bớt điêu linh,
Phù nguy, cứu nạn, mới tình, mới hay.
Thời nguy, dùng được mới tài.
Thoán Truyện trước hết định nghĩa Kiển là nguy nan, trắc trở, và cho biết lý do: nguy nan, trắc trở vì hiểm nguy đang ở trước mắt (Kiển nạn dã. Hiểm tại tiền dã). Thoán Truyện cũng dạy cách sử xự trong thời kỳ kiển nạn: làm sao cư xử cho hay, cho khéo, tránh được cho mình phiền lụy, đừng có nhảy vào nguy hiểm, vào những đường núi, đường cùng, trắc trở, gian nan (Kiển. Lợi Tây Nam. Vãng đắc trung dã. Bất lợi Đông Bắc. Kỳ đạo cùng dã). Gặp thời loạn ly, phải như con chim, biết tìm cây mà đậu; phải như con người, biết tìm chúa mà thờ.
Trong những thời nhiễu nhương, có rất nhiều người nhẩy ra để phiêu lưu, mưu đồ đại sự, nhưng chỉ có bậc đại nhân, có tài, có đức, có đạo lý, có chủ trương, mới có thể hoạch định ra được một đường lối hẳn hoi, để đem lại an bình cho đất nước. Vì thế đoán ra được anh hùng giữa trần ai, mới là hay, là lợi (Lợi kiến đại nhân. Vãng hữu công dã. Đáng vị trinh cát. Dĩ chính bang dã).
Trong thời kiển nạn, mà biết sử xự cho hay, cho khéo, mà biết đường lối phò nguy, tế kiển thì thực là cao siêu vậy. (Kiển chi thời dụng đại hỹ tai).
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 山 上 有 水. 蹇. 君 子 以 反 身 修 德.
Tượng viết:
Sơn thượng hữu thủy. Kiển. Quân tử dĩ phản thân tu đức.
Dịch.
Tượng rằng: Nước ở trên non,
Thế là kiển nạn, gian nan, cơ cầu.
Hiền nhân, quân tử, trước sau,
Quay về tu đức cho sâu, cho dầy.
Đại Tượng dạy chúng ta một bài học luân lý, một bài học xử thế. Khi bế tắc, khi bất đắc chí, phải làm gì?
- Than thân, trách phận ư? Không!
- Thất vọng, chán chường ư? Không!
- Làm liều, làm bậy ư? Không!
Trái lại, phải phản tỉnh, tu đức, lập thân. Tượng viết: Sơn thượng hữu thủy. Kiển. Quân tử dĩ lập thân tu đức.
Đó là một cách xử thế của Nho gia. Mạnh Tử viết: Người quân tử lúc đắc chí ra làm quan, thì chung sức cùng dân mà thi hành những đức nhân, nghĩa, lễ. Khi chẳng đắc chí thì ẩn dật mà tu thân hành đạo. (Mạnh Tử, Đằng văn Công chương cú hạ, tiết 2)
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六. 往 蹇. 來 譽.
象 曰. 往 蹇 來 譽. 宜 待 也.
Sơ lục:
Vãng Kiển. Lai dự.
Tượng viết:
Vãng Kiển lai dự. Nghi đãi dã.
Dịch.
Tiến lên sẽ gặp nguy tai,
Lui đi âu sẽ được đời khen lao.
Tượng rằng: Tiến lên sẽ gặp nguy nan,
Khen vì đã biết tính toan, chờ thời.
Hào Sơ Lục nói: Phàm sinh ra ở đời, cần phải biết:
- Tự lượng sức mình.
- Biết ước đạc được thời thế thuận, nghịch; hoàn cảnh dở, hay.
- Phải biết hành động cho hợp thời, hợp lý.
Ở đây Sơ Lục là một người âm nhu chi tài, tức là cũng chẳng giỏi giang là bao lăm, mà lại ở Hào Sơ, tức là ở địa vị thấp kém, và cũng không thích hợp với mình, hơn nữa lại gặp thời buổi nhiễu nhương, kiển nạn. Vậy thời phải làm gì? Dịch dạy, nên ở yên mà chờ thời, mới bảo toàn được danh tiết của mình, còn nếu múa may bừa phứa, thì chỉ tổ chiêu tai, rước hoạ vào mình. Vì thế mới nói: Vãng kiển. Lai dự. Tượng Truyện khuyên rõ hơn: Nghi đãi dã, là nên chờ đợi. Đó chính là thời mà Lã Vọng buông câu nơi Vị Thủy, chờ đợi một ngày mai tươi sáng.
2. Hào Lục nhị.
六 二. 王 臣 蹇 蹇. 匪 躬 之 故 .
象 曰. 王 臣 蹇 蹇. 終 無 尤 也.
Lục nhị.
Vương thần kiển kiển. Phỉ cung chi cố.
Tượng viết:
Vương thần kiển kiển. Chung vô vưu dã.
Dịch.
Công thần nguy thậm, nguy tai,
Quên mình vì nghĩa, bao nài tấm thân.
Tượng rằng: Thần tử lâm nguy,
Quên mình vì nước, lỗi gì nữa đâu.
Hào Lục nhị ở trong một hoàn cảnh khác. Đây chính là một công thần nắm trọng trách trong tay. Vậy một vương thần phải làm gì? khi gặp thời buổi nhiễu nhương, chập chùng, nguy hiểm chập chùng. Dịch dạy: Lúc ấy phải biết quên mình, vì dân, vì nước.
-Nguy cơ chập chùng, nên gọi là Vương thần kiển kiển. Vì nước quên mình, nên nói Phỉ cung chi cố. Không phải lúc ấy mình phải đội đá vá trời, phải làm những việc quá sức, quá trí mình. Trái lại, cứ lo cho tròn nhiệm vụ, còn thành, hay bại, chẳng khá quan tâm; mà cuối cùng cũng chẳng có ai đem thành, bại, mà luận anh hùng bao giờ. Vì thế Tiểu Tượng mới giải thích thêm: Vương thần kiển kiển. Chung vô vưu dã. Đó chính là Khổng Minh, chỉ biết cúc cung tận tụy, phục vụ cho tới mãn phần, còn thành, bại, dở, hay, không biết đâu mà dám nói trước.
3. Hào Cửu tam.
九 三. 往 蹇 來 反.
象 曰. 往 蹇 來 反. 內 喜 之 也.
Cửu tam:
Vãng kiển lai phản.
Tượng viết:
Vãng kiển lai phản. Nội hỉ chi dã.
Dịch.
Ra đi sẽ bị nguy nan,
Thời thôi, nên hãy lo toan quay về.
Tượng rằng: Đi sẽ nguy nan,
Thời thôi, nên hãy lo toan quay về.
Người thân âu sẽ thỏa thuê.
Cửu tam tuy là một người Dương cương chi tài, nhưng ở trong một hoàn cảnh nguy hiểm hết sức, vì Cửu tam ở sát ngay ngoại quái là quẻ Khảm. Cửu tam lại còn là Hào trên cùng của nội quái, thống lĩnh quần Âm ở dưới, như một người lãnh đạo, có trách nhiệm đối với những người thân thuộc mình.
Vậy lúc nguy nan, chưa thể nào vượt qua được, dầu mình có tài cũng chẳng nên ra đi, để nhẩy vào chỗ dầu sôi, lửa bỏng, hãy trở về với những người thân yêu của mình. Vì thế Dịch nói: Vãng kiển. Lai phản. Về cùng những người thân yêu mình, sẽ làm cho họ được hết băn khoăn, lo sợ và được vui sướng. Vì thế Tượng viết: Vãng kiển lai phản. Nội hỉ chi dã.
4. Hào Lục tứ.
六 四. 往 蹇 來 連.
象 曰. 往 蹇 來 連. 當 位 實 也.
Lục tứ.
Vãng kiển lai liên.
Tượng viết:
Vãng kiển lai liên. Đáng vị thật dã.
Dịch.
Ra đi sẽ bị nguy nan,
Thời nên quay lại kết đoàn với nhau.
Tượng rằng: Đi sẽ nguy nan,
Thời nên quay lại kết đoàn với nhau.
Thực tài xứng vị bảnh bao.
Hào Lục tứ nói: Trong thời nguy nan, đã đành không thể tiến liều, nhưng cũng không thể một thân, một mình mà giải quyết được thiên hạ sự. Cho nên phải liên kết với những người tài đức, rồi ra mới có hy vọng phò nguy, tế kiển được. Hào từ nói: Vãng kiển lai liên chính là vì vậy. Muốn liên kết với người tài đức, mình phải hết lòng thành khẩn, trung thực, lại cũng phải đáng vị, đáng ngôi. Vì thế Tiểu Tượng mới viết: Vãng kiển lai liên. Đáng vị thật dã.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五. 大 蹇 朋 來.
象 曰. 大 蹇 朋 來. 以 中 節 也.
Cửu ngũ.
Đại kiển bằng lai.
Tượng viết:
Đại kiển bằng lai. Dĩ trung tiết dã.
Dịch.
Quốc quân gặp buổi đại nàn,
Bạn bè kéo đến lo toan, phù trì.
Tượng rằng: Bạn bè kéo đến phò nguy,
Là vì tiết liệt, đoan nghi mọi bề.
Hào Cửu ngũ: Một vị quốc quân, dầu gặp bước kiển nan, nguy cơ, cũng không thể nào trốn tránh trách nhiệm được. Phải đem thân đứng mũi, chịu sào, ra tay liệu lý, không quản khó nhọc với gian nguy.
Nếu mình có tài, có đức, lại một lòng vì dân, vì nước, làm chi mà chẳng tìm ra được người phụ bật. Thành Thang đã gặp Y Doãn; Võ vương đã gặp Lã Vọng; Lưu Bị đã gặp Khổng Minh; Đường Túc Tôn đã gặp Quách Tử Nghi chả hạn. Làm sao có được hiền tài phụ bật? Tượng viết: Phải cư xử cho phải đạo. Đại kiển. Bằng lai dĩ trung tiết dã.
Trong Kinh Dịch, các Hào tương ứng với nhau, quan trọng nhất là Nhị và Ngũ, cho nên Hào hai nói Vương thần là chỉ Vương thần của Ngũ; Hào năm nói Bằng Lai là chỉ Hào Lục nhị...
Chỉ có nhị và ngũ là tương ứng, là vua tôi san sẻ hoạn nạn; còn 4 Hào khác đều không có trách nhiệm trực tiếp. Bằng lai là bạn, đến hợp với nhị để cứu nạn, như vậy mọi Hào đều đồng lao cộng tác mà phò nguy.
Từ dưới lên trên, gọi là vãng; từ trên xuống dưới gọi là lai. Nói Bằng lai, phải hiểu là Hào Lục tứ, Cửu tam đều đến để hợp sức với nhị để tiếp ứng cho ngũ...
Xem như vậy, ta thấy khi bình giải Dịch được tự do phát biểu ý kiến mình, miễn sao cho nó hợp lý.
6. Hào Thượng Lục.
上 六. 往 蹇 來 碩. 吉. 利 見 大 人.
象 曰. 往 蹇 來 碩. 志 在 內 也. 利 見 大 人. 以 從 貴 也.
Thượng Lục.
Vãng kiển lai thạc. Cát. Lợi kiến đại nhân.
Tượng viết:
Vãng kiển lai thạc. Chí tại nội dã. Lợi kiến đại nhân. Dĩ tòng quí dã.
Dịch.
Ra đi sẽ gặp nguy nan,
Về cùng hiền đức kết đoàn, mới may.
Đại nhân gặp được thời hay.
Tượng rằng: Đi sẽ nguy nan,
Về cùng hiền đức hiệp đoàn, mới may.
Vì lòng mến chuộng hiền tài,
Vì lòng vẫn hướng về người trong đây.
Đại nhân gặp được thời hay,
Quí nhân những muốn có ngày được theo.
Hào Thượng Lục ví như một người ẩn sĩ, đã đứng ngoài cuộc phong trần, thế sự. Tuy nhiên gặp lúc quốc gia đại nạn, quân vương lâm nguy, không thể nhắm mắt, làm ngơ. Thượng Lục tuy không đủ tài mà thay đổi thời cuộc, nhưng Thượng Lục có thể cầu viện được với những bậc anh tài, (Lai thạc), để cùng nhau đến gặp vị quân vương (Lợi kiến đại nhân), giải quyết những khó khăn đang mắc phải.
Chỉ duy có Hào Thượng Lục này được chữ Cát, vì lúc này vận kiển nạn đã đến hồi kết cuộc, sắp có thể được giải nạn. Hán Quang Võ, đang khi hưng binh phục quốc, có lần đã bị vây ở Côn Dương. Quang Võ đương đầu với một tương giặc có kỳ tài là Cự Vô Bá, có Tụ thú Bài có thể hóa ra hùm beo, voi, gấu, để đánh quân Hán. May Quang Võ gặp được Nghiêm tử Lăng. Nghiêm tử Lăng khuyên được đồ đệ mình là Mã Viện, là tướng duy nhất phá được Tụ thú Bài.
Nhờ Nghiêm tử Lăng và Mã Viện mà Quang Võ giết được Cự Vô Bá chiếm được Côn Dương, và nhờ đó khôi phục được nghiệp nhà Hán.
Nghiêm tử Lăng tức là Hào Thượng Lục ở đây. Đến cầu Mã Viện tức là Lai thạc, cùng nhau đi cầu Quang Võ, tức là Lợi kiến đại nhân. Giải toả được thành Côn Dương cho nên là Cát. Thế là Thượng Lục, tuy lánh trần, mà chí vẫn tại nội, vẫn biết kính hiền, trọng hiền, và vẫn biết theo người sang cả, giúp người có chân thiên mạng để phò nguy, cứu hiểm. Vì thế Tiểu Tượng viết: Vãng kiển lai thạc. Chí tại nội dã. Lợi kiến đại nhân. Dĩ tòng quí dã.
ÁP DỤNG QUẺ KIỂN VÀO THỜI ĐẠI
Đại Tượng quẻ Kiển đưa ra một bài toán rất ly kỳ. Dịch hỏi: Khi mình gặp nguy, kẹt giữa núi và sông, lại bị què đôi chân, thì phải giải quyết sao? Dịch trả lời: Phải quay về nội tâm tu đức. Thực là một cái nhìn siêu việt, cho đến nay, chúng ta cũng không giải quyết được như vậy.
Hán Chung Ly tiên ông kể là lúc còn sinh thời ngài từng làm nguyên soái, nhưng đã bại trận. Vì xấu hổ, nên không dám về triều, vào núi tu tiên, nên đã thành tiên. Thực ra Hán Trung Ly đã làm theo lời khuyên của quẻ Kiển trong Kinh Dịch
Ngày Nay, áp dụng theo thời đại, ta phải làm sao?
- Nếu ta bị thất bại về vấn đề vợ con, thì ta phải cố tìm hiểu do đâu mà ra. Nếu vì lỗi lầm của ta, thì ta phải cố gắng sửa đổi lại, đừng đổ tại vợ con, nghề nghiệp làm ta chán nản nên sinh ra như vậy.
-Nếu ta bị thất bại vì công việc làm ăn, thì phải biết dừng chân lại, phải biết tìm người giỏi, người tốt mà cộng tác với họ, hoặc tìm phương tiện để hoá giải nó như quảng cáo, sửa chữa những lỗi mình mắc phải: Ví dụ như hàng xấu mà bán giá cao, ăn nói thô lỗ với khách hàng vv... Như vậy, mọi sự hiểm nguy sẽ được hoá giải. Còn như khi muốn tạo dựng một cơ sở kinh doanh mới, phải tìm người giỏi để cộng tác với mình, ta cũng nên suy xét cẩn thận.
* Cơ sở kinh doanh về Mậu Dịch, thì phải tìm những người ngoại giao giỏi, có thành tín, khiêm nhường, vui vẻ, luôn tươi cười với khách hàng. Hàng hóa luôn phải kiểm soát, phẩm chất phải tốt, phải giữ uy tín với khách hàng. Lời nói phải đúng với việc làm, ngay thẳng, thật thà.
* Cơ sở kinh doanh về phát minh, sáng chế, thì nên tìm trong những mầm non ưu tú, mới tốt nghiệp, mà trau dồi cho họ theo đường lối sản xuất của mình, thì tốt hơn. Phải đối xử với họ một cách rộng rãi, bảo đảm cho họ một đời sống an toàn về mọi mặt. Luôn phải nhớ họ là
những người mang lợi đến cho mình, nên phải đối với họ như chân tay mình vậy. Phải có đạo đức trong việc dùng người, thì cơ nghiệp của mình mới vững bền.
- Nếu cá nhân mình, chẳng may bị tàn phế, vì bất cứ một lý do nào đó, thì đừng than oán làm gì. Vì khổ sở, oán than cũng chẳng mang lợi ích gì cho ta, mà trái lại nó còn mang lại sự đau đớn về tinh thần thêm cho ta mà thôi.
Hãy coi cái xác mình chỉ là hình thức bề ngoài, là giả tạo, là cái túi đựng phân và máu mủ. Hãy dốc hết tinh thần đi tìm đạo lý, sẽ thấy đời mình cao siêu hơn nhiều, ý nghĩa hơn nhiều. Đó là điều mà quẻ Kiển muốn dạy ta vậy.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
6 ĐỊA SƠN KHIÊM
ĐỊA SƠN KHIÊM
Khiêm Tự Quái
謙 序 卦
Hữu đại giả.
有 大 者
Bất khả dĩ doanh.
不 可 以 盈,
Cố thụ chi dĩ Khiêm.
故 受 之 以 謙
Khiêm Tự Quái
Có nhiều, chớ có ỷ mình tự kiêu.
Quẻ Khiêm vì vậy tiếp theo.
Quẻ Khiêm là một quẻ tốt nhất trong kinh Dịch. Toàn thể quẻ từ Thoán đến Hào, toàn thấy Hanh, thấy Cát, thấy Lợi. Mới hay Thánh Hiền trọng nhất sự khiêm cung.
Quẻ Khiêm thủ nghĩa ở Hào Cửu tam và ở hình dung của quẻ: một Hào Dương tức là Dương Cương chi tài, mà chịu khuất lấp dưới Hào Âm, siêu việt như núi non mà chịu ẩn mình trong lòng đất, quán thế hiền tài mà sống thầm lặng trong lòng dân, giúp ích cho đời mà không khoe khoang nửa lời, nửa tiếng.
Quẻ Khiêm cũng còn nói lên một định luật hằng cửu của trời đất:
- Cái gì thấp (Khôn= Đất) sẽ được đưa lên cao.
- Cái gì cao ( Cấn= Núi) sẽ bị hạ xuống thấp.
Ta thấy nơi quẻ Khiêm: Khôn là đất lại ở trên, Cấn là núi lại ở dưới. Tất cả quẻ Khiêm đều đề cao sự cần thiết và ích lợi của sự khiêm cung.
I. Thoán.
Thoán Từ.
謙:亨,君 子 有 終。
Khiêm. Hanh. Quân tử hữu chung.
Dịch.
Khiêm là khiêm tốn, mới hay.
Việc người quân tử có ngày thành công.
Thoán Từ chủ trương Khiêm tốn rồi ra sẽ đem lại sự thành công mỹ mãn.
Thoán Truyện.
謙,亨,天 道 下 濟 而 光 明,地 道 卑 而 上 行。天 道 虧 盈 而 益 謙,地 道 變 盈 而 流 謙,鬼 神 害 盈 而 福 謙,人 道 惡 盈 而 好 謙。謙 尊 而 光,卑 而 不 可 踰,君 子 之 終 也。
Thoán viết. Khiêm hanh. Thiên đạo hạ tế nhi quang minh. Địa đạo ti nhi thượng hành. Thiên đạo khuy doanh nhi ích Khiêm. Địa đạo biến doanh nhi lưu Khiêm. Quỷ thần hại doanh nhi phúc Khiêm. Nhân đạo ố doanh nhi hiếu Khiêm. Khiêm tôn nhi quang. Ti nhi bất khả du. Quân tử chi chung dã.
Dịch. Thoán Truyện
Thoán rằng: Khiêm tốn mới hay.
Trời kia giúp dưới, nên đầy quang minh,
Đất kia chốn thấp, phận đành,
Thấp nên mới có công trình vươn cao.
Trời làm vơi chốn rồi rào,
Mà thêm vào những chỗ nào khiêm cung.
Đất soi mòn, bớt cao phong,
Để cho lòng biển, lòng sông thêm dày,
Quỷ thần hại kẻ no đầy,
Mà đem phúc lại cho người khiêm cung.
Người thường ghét kẻ thừa dùng,
Còn người khiêm tốn thật lòng, thời ưa.
Trên khiêm, thì sáng mãi ra,
Dưới khiêm, ai kẻ hơn ta được nào,
Khiêm cung, giữ vẹn trước sau,
Rồi ra, quân tử gót đầu hanh thông.
-Trên trời, thời mặt trời lên tới đỉnh đầu sẽ phải xế bóng, có lặn xuống lòng trời, thì mới có cơ tiến thăng. Mặt trăng tròn rồi lại khuyết, có vơi rồi lại đầy.
-Dưới đất, núi non thường bị soi mòn, mà lòng biển, lòng sông thời được bồi đắp thêm mãi.
-Trên đời ta thấy thịnh rồi lại suy, suy rồi lại thịnh, các tầng lớp người thay nhau hưởng phú quý, hoặc nếm phong trần, Nhung lụa thường cũng có lúc sa cơ, áo vải vẫn làm nên sự nghiệp. Y thức như Trời, Đất ghen ghét kẻ tài danh, kiêu ngạo, mà phù trợ những kẻ khiêm cung, tự lực, tự cường. Ca vịnh Magnificat cũng có đoạn đại khái như sau:
Xô kẻ quyền uy xuống khỏi ngôi,
Đem người khiêm tốn tới Quỳnh đài.
Hồng ân, đói khổ ban rào rạt,
Bạc mệnh, giàu sang phận khiến xui...
Nhân tình cũng thường ghét kẻ kiêu căng, mà thương người khiêm tốn. Có khiêm cung, đường đời mới được hanh thông, và cuối cùng mới được giàu có.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 地 中 有 山,謙 ﹔ 君 子 以 裒 多 益 寡,稱 物 平 施。
Tượng viết:
Địa trung hữu sơn. Khiêm. Quân tử dĩ biều đa ích quả. Xứng vật bình thi.
Dịch. Tượng rằng:
Núi trong lòng đất là Khiêm,
Hiền nhân, nhiều bớt, ít thêm, mới là,
Những gì chênh lệch, quá đà,
Sửa sang, thêm bớt, cho vừa, cho cân.
Tượng Truyện cho rằng: Người quân tử khi trị dân cũng phải biết hạn chế quyền uy, giảm bớt tài sản của những kẻ sang giầu, đồng thời cũng phải biết nâng đỡ, khuyến khích những kẻ khó nghèo, ngu muội, như vậy mới giữ được thế quân bình cho xã hội.
III. Hào từ & Tiểu tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六. 謙 謙 君 子,用 涉 大 川,吉。
象 曰: 謙 謙 君 子,卑 以 自 牧 也。
Sơ Lục. Khiêm Khiêm quân tử. Dụng thiệp đại xuyên. Cát.
Tượng viết:
Khiêm Khiêm quân tử. Ti dĩ tự mục dã.
Dịch.
Quân tử khiêm cung, thế tốt rồi.
Vượt qua sông lớn dễ như chơi.
Tượng rằng: Quân tử khiêm nhường,
Nhún mình cốt để lo lường tu thân.
Các Hào bàn đến sự lợi ích của sự khiêm cung, cũng như phải khiêm cung thế nào cho hay, cho phải.
Hào Sơ bàn đến sự khiêm cung, nhũn nhặn của người quân tử, khi còn ở địa vị thấp; và cho rằng, nhờ sự khiêm cung ấy, sẽ lướt thắng được mọi sự khó khăn, sẽ dễ dàng tu thân, tu đạo.
2. Hào Lục nhị.
六 二. 鳴 謙,貞 吉。
象 曰: 鳴 謙 貞 吉,中 心 得 也。
Lục nhị. Minh Khiêm. Trinh cát.
Tượng viết:
Minh Khiêm trinh cát. Trung tâm đắc dã.
Dịch.
Lục nhị khiêm cung hiện ra ngoài,
Ôn tồn ăn nói, tốt mấy mươi.
Tượng rằng: Khiêm hiện ra ngoài,
Là vì trong đã đầy rồi, phát ra.
Hào hai dạy rằng: Khiêm cung phải làm sao cho thành khẩn, trung thực để sự khiêm cung ấy được thể hiện một cách tự nhiên vào lời ăn, tiếng nói.
3. Hào Cửu tam.
九 三. 勞 謙,君 子 有 終,吉。
象 曰: 勞 謙 君 子,萬 民 服 也。
Cửu tam. Lao Khiêm quân tử. Hữu chung. Cát.
Tượng viết:
Lao Khiêm quân tử. Vạn dân phục dã.
Dịch.
Công lao chất ngất, lại khiêm cung,
Quân tử làm nên việc đến cùng.
Lao Khiêm như vậy, có hay không.
Tượng rằng: Công lớn, lại Khiêm,
Làm cho dân chúng mọi miền, phục tuân.
Hào ba là Hào Dương duy nhất, lại cũng là chủ Hào, tượng trưng người quân tử công đức cao dầy với dân, với nước, mà vẫn khiêm cung một dạ, khiến cho mọi người phải khâm phục. Các nhà bình giải đã mang Hào này để tượng trưng cho vua Hạ Võ, hay Chu Công.
Hạ Võ ra tài trị thủy, đem thái thịnh lại cho chúng dân, mà vẫn không khoe công, cậy tài, cậy giỏi.
Chu Công trong thì phò ấu chúa, ngoài thì trị bình thiên hạ, mà vẫn một mực khiêm cung, một lòng vì vua, vì nước, không bao giờ để cho huyễn tượng công danh, lợi lộc lay chuyển được lòng trung nghĩa, sắt son. Lời lẽ này chẳng khác lời lẽ Thoán Từ bao nhiêu.
4. Hào Lục tứ.
六 四. 無 不 利,撝 謙。
象 曰: 無 不 利,撝 謙 ﹔ 不 違 則 也。
Lục tứ. Vô bất lợi. Vi Khiêm.
Tượng viết:
Vô bất lợi vi Khiêm. Bất vi tắc dã.
Dịch. Lục tứ:
Đức Khiêm hãy phát huy.
Rồi ra ích lợi chẳng thiếu gì.
Tượng rằng: Khiêm tốn cho hay,
Đừng Khiêm thái quá, phải tày phép khuôn.
Hào tứ dạy rằng: Khi ở vào bậc trọng thần, phải khiêm cung, thành khẩn, nhất là khi trên mình còn có một vì vua khiêm cung đức độ, dưới mình có một công thần quán chúng mà không kiêu ngạo, cậy mình. Khiêm cung nhưng đúng mực, không a dua, nịnh hót.
5. Hào Lục ngũ.
六 五. 不 富 以 其 鄰,利 用 侵 伐,無 不 利。
象 曰: 利 用 侵 伐,征 不 服 也。
Lục ngũ. Bất phú dĩ kỳ lân. Lợi dụng xâm phạt. Vô bất lợi.
Tượng viết:
Lợi dụng xâm phạt. Chinh bất phục dã.
Dịch.
Chẳng ỷ giầu sang, được láng giềng,
Có khi chinh phạt, vẫn là nên.
Tượng rằng: Chinh phạt cũng nên,
Để ai chưa phục. phục quyền mới hay.
Hào năm dạy rằng: Khiêm cung không phải là Nhu nhược, như ở ngôi vị quân vương mà có những dân man, di, Nhung, địch không chịu qui phục mình, thì cũng nên dùng đến uy vũ mà chinh thảo, như vua Thuấn đánh Miêu, vua Võ dẹp Hung Nô vậy.
6. Hào Thượng Lục.
上 六. 鳴 謙,利 用 行 師,征 邑 國。
象 曰: 鳴 謙,志 未 得 也。 可 用 行 師,征 邑 國 也。
Thượng Lục. Minh Khiêm. Lợi dụng hành sư. Chinh ấp quốc.
Tượng viết:
Minh Khiêm. Chí vị đắc dã. Khả dụng hành sư. Chinh ấp quốc dã.
Dịch.
Thượng Lục: Khiêm cung hiện ra ngoài.
Dẹp loạn khi cần, lợi hẳn thôi.
Tượng rằng: Khiêm hiện ra ngoài,
Ước nguyền chưa được vẹn mười thỏa thuê,
Tảo thanh trong xứ, ngoài quê,
Xuất sư chinh phạt, cũng khi phải dùng.
Hào Thượng Lục dạy thêm rằng: Khiêm cung nhưng phải khiêm cung cho lý sự, chứ không phải khiêm cung đến mức độ yếu mềm, hèn hạ. Khiêm cung nhưng lúc cần ra uy vũ, dẹp loạn, thì vẫn xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên.
ÁP DỤNG QUẺ KHIÊM VÀO THỜI ĐẠI
Bất cứ ở vào Thời đại nào, sự Khiêm cung cũng là một đức tính, mà mỗi người trong chúng ta đều nên có. Khiêm cung là cơ vi của sự tồn vong, suy thịnh.
Ở đời có cố gắng mới thành công, có thận trọng mới tránh được họa, có chịu thu phục lòng người, mới có nhân tài cộng tác. Cho nên tương lai chỉ để dành cho những người có lý tưởng để vươn lên, có mục phiêu để đạt tới, tức là cho những người còn thấy mình khuyết điểm chưa hoàn bị. Còn những người tự hào, tự mãn, sống kiêu sa, cao ngạo, tự thị, khinh người, thì thế nào cũng đi vào con đường suy bại.
Các Thánh Hiền xưa nay, không phân Đạo giáo, đều tôn trọng đức Khiêm cung.
Nếu chúng ta có đức Khiêm cung:
-Trong gia đình, thì cha mẹ vui lòng, anh em hòa thuận, vợ chồng êm ấm.
-Ngoài xã hội, thì được lòng người, dễ làm ăn hơn.
-Về phương diện Quốc gia, nếu người lãnh đạo mà có đức Khiêm cung, thì dễ thu phục lòng người, và sẽ có nhiều nhân tài tới cộng tác với mình hơn.
ĐỊA SƠN KHIÊM
Khiêm Tự Quái
謙 序 卦
Hữu đại giả.
有 大 者
Bất khả dĩ doanh.
不 可 以 盈,
Cố thụ chi dĩ Khiêm.
故 受 之 以 謙
Khiêm Tự Quái
Có nhiều, chớ có ỷ mình tự kiêu.
Quẻ Khiêm vì vậy tiếp theo.
Quẻ Khiêm là một quẻ tốt nhất trong kinh Dịch. Toàn thể quẻ từ Thoán đến Hào, toàn thấy Hanh, thấy Cát, thấy Lợi. Mới hay Thánh Hiền trọng nhất sự khiêm cung.
Quẻ Khiêm thủ nghĩa ở Hào Cửu tam và ở hình dung của quẻ: một Hào Dương tức là Dương Cương chi tài, mà chịu khuất lấp dưới Hào Âm, siêu việt như núi non mà chịu ẩn mình trong lòng đất, quán thế hiền tài mà sống thầm lặng trong lòng dân, giúp ích cho đời mà không khoe khoang nửa lời, nửa tiếng.
Quẻ Khiêm cũng còn nói lên một định luật hằng cửu của trời đất:
- Cái gì thấp (Khôn= Đất) sẽ được đưa lên cao.
- Cái gì cao ( Cấn= Núi) sẽ bị hạ xuống thấp.
Ta thấy nơi quẻ Khiêm: Khôn là đất lại ở trên, Cấn là núi lại ở dưới. Tất cả quẻ Khiêm đều đề cao sự cần thiết và ích lợi của sự khiêm cung.
I. Thoán.
Thoán Từ.
謙:亨,君 子 有 終。
Khiêm. Hanh. Quân tử hữu chung.
Dịch.
Khiêm là khiêm tốn, mới hay.
Việc người quân tử có ngày thành công.
Thoán Từ chủ trương Khiêm tốn rồi ra sẽ đem lại sự thành công mỹ mãn.
Thoán Truyện.
謙,亨,天 道 下 濟 而 光 明,地 道 卑 而 上 行。天 道 虧 盈 而 益 謙,地 道 變 盈 而 流 謙,鬼 神 害 盈 而 福 謙,人 道 惡 盈 而 好 謙。謙 尊 而 光,卑 而 不 可 踰,君 子 之 終 也。
Thoán viết. Khiêm hanh. Thiên đạo hạ tế nhi quang minh. Địa đạo ti nhi thượng hành. Thiên đạo khuy doanh nhi ích Khiêm. Địa đạo biến doanh nhi lưu Khiêm. Quỷ thần hại doanh nhi phúc Khiêm. Nhân đạo ố doanh nhi hiếu Khiêm. Khiêm tôn nhi quang. Ti nhi bất khả du. Quân tử chi chung dã.
Dịch. Thoán Truyện
Thoán rằng: Khiêm tốn mới hay.
Trời kia giúp dưới, nên đầy quang minh,
Đất kia chốn thấp, phận đành,
Thấp nên mới có công trình vươn cao.
Trời làm vơi chốn rồi rào,
Mà thêm vào những chỗ nào khiêm cung.
Đất soi mòn, bớt cao phong,
Để cho lòng biển, lòng sông thêm dày,
Quỷ thần hại kẻ no đầy,
Mà đem phúc lại cho người khiêm cung.
Người thường ghét kẻ thừa dùng,
Còn người khiêm tốn thật lòng, thời ưa.
Trên khiêm, thì sáng mãi ra,
Dưới khiêm, ai kẻ hơn ta được nào,
Khiêm cung, giữ vẹn trước sau,
Rồi ra, quân tử gót đầu hanh thông.
-Trên trời, thời mặt trời lên tới đỉnh đầu sẽ phải xế bóng, có lặn xuống lòng trời, thì mới có cơ tiến thăng. Mặt trăng tròn rồi lại khuyết, có vơi rồi lại đầy.
-Dưới đất, núi non thường bị soi mòn, mà lòng biển, lòng sông thời được bồi đắp thêm mãi.
-Trên đời ta thấy thịnh rồi lại suy, suy rồi lại thịnh, các tầng lớp người thay nhau hưởng phú quý, hoặc nếm phong trần, Nhung lụa thường cũng có lúc sa cơ, áo vải vẫn làm nên sự nghiệp. Y thức như Trời, Đất ghen ghét kẻ tài danh, kiêu ngạo, mà phù trợ những kẻ khiêm cung, tự lực, tự cường. Ca vịnh Magnificat cũng có đoạn đại khái như sau:
Xô kẻ quyền uy xuống khỏi ngôi,
Đem người khiêm tốn tới Quỳnh đài.
Hồng ân, đói khổ ban rào rạt,
Bạc mệnh, giàu sang phận khiến xui...
Nhân tình cũng thường ghét kẻ kiêu căng, mà thương người khiêm tốn. Có khiêm cung, đường đời mới được hanh thông, và cuối cùng mới được giàu có.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 地 中 有 山,謙 ﹔ 君 子 以 裒 多 益 寡,稱 物 平 施。
Tượng viết:
Địa trung hữu sơn. Khiêm. Quân tử dĩ biều đa ích quả. Xứng vật bình thi.
Dịch. Tượng rằng:
Núi trong lòng đất là Khiêm,
Hiền nhân, nhiều bớt, ít thêm, mới là,
Những gì chênh lệch, quá đà,
Sửa sang, thêm bớt, cho vừa, cho cân.
Tượng Truyện cho rằng: Người quân tử khi trị dân cũng phải biết hạn chế quyền uy, giảm bớt tài sản của những kẻ sang giầu, đồng thời cũng phải biết nâng đỡ, khuyến khích những kẻ khó nghèo, ngu muội, như vậy mới giữ được thế quân bình cho xã hội.
III. Hào từ & Tiểu tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六. 謙 謙 君 子,用 涉 大 川,吉。
象 曰: 謙 謙 君 子,卑 以 自 牧 也。
Sơ Lục. Khiêm Khiêm quân tử. Dụng thiệp đại xuyên. Cát.
Tượng viết:
Khiêm Khiêm quân tử. Ti dĩ tự mục dã.
Dịch.
Quân tử khiêm cung, thế tốt rồi.
Vượt qua sông lớn dễ như chơi.
Tượng rằng: Quân tử khiêm nhường,
Nhún mình cốt để lo lường tu thân.
Các Hào bàn đến sự lợi ích của sự khiêm cung, cũng như phải khiêm cung thế nào cho hay, cho phải.
Hào Sơ bàn đến sự khiêm cung, nhũn nhặn của người quân tử, khi còn ở địa vị thấp; và cho rằng, nhờ sự khiêm cung ấy, sẽ lướt thắng được mọi sự khó khăn, sẽ dễ dàng tu thân, tu đạo.
2. Hào Lục nhị.
六 二. 鳴 謙,貞 吉。
象 曰: 鳴 謙 貞 吉,中 心 得 也。
Lục nhị. Minh Khiêm. Trinh cát.
Tượng viết:
Minh Khiêm trinh cát. Trung tâm đắc dã.
Dịch.
Lục nhị khiêm cung hiện ra ngoài,
Ôn tồn ăn nói, tốt mấy mươi.
Tượng rằng: Khiêm hiện ra ngoài,
Là vì trong đã đầy rồi, phát ra.
Hào hai dạy rằng: Khiêm cung phải làm sao cho thành khẩn, trung thực để sự khiêm cung ấy được thể hiện một cách tự nhiên vào lời ăn, tiếng nói.
3. Hào Cửu tam.
九 三. 勞 謙,君 子 有 終,吉。
象 曰: 勞 謙 君 子,萬 民 服 也。
Cửu tam. Lao Khiêm quân tử. Hữu chung. Cát.
Tượng viết:
Lao Khiêm quân tử. Vạn dân phục dã.
Dịch.
Công lao chất ngất, lại khiêm cung,
Quân tử làm nên việc đến cùng.
Lao Khiêm như vậy, có hay không.
Tượng rằng: Công lớn, lại Khiêm,
Làm cho dân chúng mọi miền, phục tuân.
Hào ba là Hào Dương duy nhất, lại cũng là chủ Hào, tượng trưng người quân tử công đức cao dầy với dân, với nước, mà vẫn khiêm cung một dạ, khiến cho mọi người phải khâm phục. Các nhà bình giải đã mang Hào này để tượng trưng cho vua Hạ Võ, hay Chu Công.
Hạ Võ ra tài trị thủy, đem thái thịnh lại cho chúng dân, mà vẫn không khoe công, cậy tài, cậy giỏi.
Chu Công trong thì phò ấu chúa, ngoài thì trị bình thiên hạ, mà vẫn một mực khiêm cung, một lòng vì vua, vì nước, không bao giờ để cho huyễn tượng công danh, lợi lộc lay chuyển được lòng trung nghĩa, sắt son. Lời lẽ này chẳng khác lời lẽ Thoán Từ bao nhiêu.
4. Hào Lục tứ.
六 四. 無 不 利,撝 謙。
象 曰: 無 不 利,撝 謙 ﹔ 不 違 則 也。
Lục tứ. Vô bất lợi. Vi Khiêm.
Tượng viết:
Vô bất lợi vi Khiêm. Bất vi tắc dã.
Dịch. Lục tứ:
Đức Khiêm hãy phát huy.
Rồi ra ích lợi chẳng thiếu gì.
Tượng rằng: Khiêm tốn cho hay,
Đừng Khiêm thái quá, phải tày phép khuôn.
Hào tứ dạy rằng: Khi ở vào bậc trọng thần, phải khiêm cung, thành khẩn, nhất là khi trên mình còn có một vì vua khiêm cung đức độ, dưới mình có một công thần quán chúng mà không kiêu ngạo, cậy mình. Khiêm cung nhưng đúng mực, không a dua, nịnh hót.
5. Hào Lục ngũ.
六 五. 不 富 以 其 鄰,利 用 侵 伐,無 不 利。
象 曰: 利 用 侵 伐,征 不 服 也。
Lục ngũ. Bất phú dĩ kỳ lân. Lợi dụng xâm phạt. Vô bất lợi.
Tượng viết:
Lợi dụng xâm phạt. Chinh bất phục dã.
Dịch.
Chẳng ỷ giầu sang, được láng giềng,
Có khi chinh phạt, vẫn là nên.
Tượng rằng: Chinh phạt cũng nên,
Để ai chưa phục. phục quyền mới hay.
Hào năm dạy rằng: Khiêm cung không phải là Nhu nhược, như ở ngôi vị quân vương mà có những dân man, di, Nhung, địch không chịu qui phục mình, thì cũng nên dùng đến uy vũ mà chinh thảo, như vua Thuấn đánh Miêu, vua Võ dẹp Hung Nô vậy.
6. Hào Thượng Lục.
上 六. 鳴 謙,利 用 行 師,征 邑 國。
象 曰: 鳴 謙,志 未 得 也。 可 用 行 師,征 邑 國 也。
Thượng Lục. Minh Khiêm. Lợi dụng hành sư. Chinh ấp quốc.
Tượng viết:
Minh Khiêm. Chí vị đắc dã. Khả dụng hành sư. Chinh ấp quốc dã.
Dịch.
Thượng Lục: Khiêm cung hiện ra ngoài.
Dẹp loạn khi cần, lợi hẳn thôi.
Tượng rằng: Khiêm hiện ra ngoài,
Ước nguyền chưa được vẹn mười thỏa thuê,
Tảo thanh trong xứ, ngoài quê,
Xuất sư chinh phạt, cũng khi phải dùng.
Hào Thượng Lục dạy thêm rằng: Khiêm cung nhưng phải khiêm cung cho lý sự, chứ không phải khiêm cung đến mức độ yếu mềm, hèn hạ. Khiêm cung nhưng lúc cần ra uy vũ, dẹp loạn, thì vẫn xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên.
ÁP DỤNG QUẺ KHIÊM VÀO THỜI ĐẠI
Bất cứ ở vào Thời đại nào, sự Khiêm cung cũng là một đức tính, mà mỗi người trong chúng ta đều nên có. Khiêm cung là cơ vi của sự tồn vong, suy thịnh.
Ở đời có cố gắng mới thành công, có thận trọng mới tránh được họa, có chịu thu phục lòng người, mới có nhân tài cộng tác. Cho nên tương lai chỉ để dành cho những người có lý tưởng để vươn lên, có mục phiêu để đạt tới, tức là cho những người còn thấy mình khuyết điểm chưa hoàn bị. Còn những người tự hào, tự mãn, sống kiêu sa, cao ngạo, tự thị, khinh người, thì thế nào cũng đi vào con đường suy bại.
Các Thánh Hiền xưa nay, không phân Đạo giáo, đều tôn trọng đức Khiêm cung.
Nếu chúng ta có đức Khiêm cung:
-Trong gia đình, thì cha mẹ vui lòng, anh em hòa thuận, vợ chồng êm ấm.
-Ngoài xã hội, thì được lòng người, dễ làm ăn hơn.
-Về phương diện Quốc gia, nếu người lãnh đạo mà có đức Khiêm cung, thì dễ thu phục lòng người, và sẽ có nhiều nhân tài tới cộng tác với mình hơn.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
7 LÔI SƠN TIỂU QUÁ
LÔI SƠN TIỂU QUÁ
Tiểu Quá Tự Quái
小 過 序 卦
Hữu kỳ tín giả tất hành chi.
有 其 信 者 必 行 之
Cổ thụ chi dĩ Tiểu quá.
故 受 之 以 小 過
Tiểu Quá Tự Quái
Tin rồi, công việc tất nhiên thi hành.
Cho nên Tiểu Quá mới sinh.
Tiểu Quá là một trong những quẻ khó giải. Muốn giải ta cần phải hiểu rõ hai chữ Tiểu Quá nghĩa là gì?
a). Có người dựa theo Đại Tượng Truyện giải: Tiểu Quá là quá mức đôi chút.
b). Có người lại phân tách quẻ Tiểu Quá và cho rằng: Tiểu Quá trong có 2 Hào Dương, bên ngoài có 4 Hào Âm. Âm quá nhiều hơn Dương, mà Âm là Tiểu, nên gọi là Tiểu Quá. Thời Tiểu Quá là thời mà Tiểu nhân giữ các chức vụ then chốt, còn Quân tử thì giữ những vai trò phụ thuộc. Wilhelm khi dịch Tạp Quái, dịch Tiểu Quá là thời buổi Giao Thời (Transition). Tôi (Tác giả) thấy rằng hiểu Tiểu Quá là thời buổi giao thời, sẽ giúp ta hiểu quẻ Tiểu Quá dễ dàng hơn. Vì thời buổi giao thời đúng là thời kỳ mà:
Trời làm một trận lăng nhăng.
Ông lại xuống thằng, thằng lại lên ông.
Lúc đó tiểu nhân đắc thế, mà quân tử thất thời. Thời buổi giao thời cũng là thời buổi lắm chuyện nhố nhăng, quá mức, quá lạm. Gặp thời buổi này, giữ được mình toàn vẹn là hay, chứ đừng mong gì làm được đại công, đại sự. Đó là mấy ý chính của quẻ Tiểu Quá.
I. Thoán.
Thoán từ.
小 過 . 亨 . 利 貞 . 可 小 事 . 不 可 大 事 . 飛 鳥
遺 之 音 . 不 宜 上 宜 下 . 大 吉 .
Tiểu Quá. Hanh. Lợi trinh. Khả tiểu sự. Bất khả đại sự.
Phi điểu di chi âm. Bất nghi thượng nghi hạ. Đại cát.
Dịch.
Hào Âm nhiều quá hơn Dương,
Gọi là Tiểu Quá vẫn đường hanh thông.
Nếu mà minh chính một lòng,
Rồi ra nên lợi, sinh công dễ dàng.
Sức vừa, liệu việc tầm thường,
Chớ nên đại sự, đảm đương chuốc mòng.
Chim bay, để lại dư âm,
Cao tầm chẳng tới, thấp tầm mới bay.
Thế thời tốt đẹp lắm thay.
Sống trong thời buổi giao thời, ta vẫn có lối thoát, ta vẫn được lợi, được hay, nếu ta theo được chính lý, chính đạo (Tiểu quá. Hanh. Lợi trinh). Trong thời buổi này, chỉ nên làm chuyện những chuyện nhỏ, không nên làm chuyện lớn (Khả tiểu sự bất khả đại sự). Quẻ Tiểu Quá, giữa có 2 Hào Dương, như là mình chim; Trên dưới đều 2 Hào Âm như hai cánh chim; Toàn quẻ trông ngang như hình chim bay. Vì thế Thoán từ mới nói: Con chim bay nhắc nhủ ta bài học này là: Không nên vươn quá cao, mà chỉ nên ở dưới thấp (Phi điểu di chi âm. Bất nghi thượng nghi hạ). Như vậy, mới được an lành (Đại Cát).
Thoán Truyện. Thoán viết.
彖 曰 . 小 過 . 小 者 過 而 亨 也 . 過 以 利 貞 . 與 時 行 也 . 柔 得 中 . 是 以 小 事 吉 也 . 剛 失 位 而 不 中 . 是 以 不 可 大 事 也 . 有 飛 鳥 之 象 焉 . 有 飛 鳥 遺 之 音 . 不 宜 上 宜 下 . 大 吉 . 上 逆 而 下 順 也 .
Tiểu Quá. Tiểu giả quá nhi hanh dã. Quá dĩ lợi trinh. Dữ thời hành dã. Nhu đắc trung. Thị dĩ tiểu sự cát dã. Cương thất vị nhi bất trung. Thị dĩ bất khả đại sự dã. Hữu phi điểu chi tượng yên. Hữu phi điểu di chi âm. Bất nghi thượng nghi hạ. Đại cát. Thượng nghịch nhi hạ thuận dã.
Dịch. Thoán rằng:
Tiểu Âm mà quá hơn Dương,
Thế là Tiểu Quá, vẫn đường hanh thông.
Quá, nhưng minh chính một lòng,
Tùy thời xử thế, ung dung theo thời
Âm nhu, chốn giữa, chững ngôi,
Cho nên công việc nhỏ nhoi, tốt lành.
Dương cương, thất vị, chông chênh.
Kham sao được đại công trình, mà hay?
Quẻ trông mường tượng chim bay,
Chim bay, cánh vỗ đó đây xạc xào
Chẳng bay quá trớn, quá cao.
Theo bề thấp thỏi, thế nào cũng hay.
Cao là thế ngược, thế sai,
Thấp thời mới thuận, mới hay, mới lành.
Thoán giải thích: Tiểu Quá là những cái nhỏ quá mức mà vẫn hanh thông (Tiểu Quá. Tiểu giả quá nhi hanh dã). Lúc giao thời, mà vẫn theo được chính lý, chính đạo, mà vẫn thích ứng được với hoàn cảnh, thì mới hay, mới lợi. Có vậy mới là thức thời, mới là theo được đà thời gian (Quá dĩ lợi trinh. Dữ thì hành dã).
Phàm ở đời, tiểu nhân làm nên tiểu sự, quân tử làm nên đại sự. Nay tiểu nhân giữ các địa vị trọng yếu, then chốt, quân tử lại không có ngôi, có vị hẳn hoi. Như vậy, chỉ nên làm những chuyện nhỏ, đừng làm những chuyện lớn. (Nhu đắc trung. Thị dĩ tiểu sự cát dã. Cương thất vị nhi bất trung. Thị dĩ bất khả đại sự dã).
Quẻ Tiểu Quá gợi nên hình ảnh con chim bay, nó nhắc nhủ ta là trong thời buổi giao thời, không nên vươn cao quá, mà chỉ nên ở dưới thấp, mới là hợp lý (Hữu phi điểu chi tượng yên. Hữu phi điểu di chi âm. Bất nghi thượng nghi hạ. Đại cát. Thượng nghịch nhi hạ thuận dã).
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết.
象 曰 . 山 上 有 雷 . 小 過 . 君 子 以 行 過 乎 恭 .
喪 過 乎 哀 . 用 過 乎 儉 .
Sơn thượng hữu lôi. Tiểu Quá. Quân tử dĩ hành quá hồ cung.
Tang quá hồ ai. Dụng quá hồ kiệm.
Dịch. Tượng rằng:
Tiểu Quá, sấm động đầu non,
Hiền nhân quá mức, cũng còn có khi,
Quá khiêm trong lúc hành vi,
Quá sầu, khi gặp những kỳ tóc tang,
Quá ư cần kiệm, kỹ càng.
Tiêu pha, chẳng dám chuyện hoang phí tiền.
Tống Bản Thập Tam Kinh bình đại khái rằng:
Thường thì Sấm sinh từ đất, nay sinh trên núi (Lôi Sơn), thế là quá mức. Tiểu nhân thường hay quá mức, quá trớn trong hành vi, cử chỉ, hay cao ngạo, hay phung phí. Muốn sửa lỗi họ, người quân tử cần làm ngược lại, nhưng làm quá mức một chút, để cho họ thấy mà sửa mình. Cho nên người quân tử, có thể nhất thời, vì mục đích giáo hoá, nên trong hành động sẽ quá cung kính, trong tang lễ sẽ quá buồn rầu, trong tiêu dùng sẽ quá cần kiệm.
Ví dụ: Xưa Mạc Ngao có những cử chỉ cao ngạo, thì Chính khảo Phụ, vì muốn răn bảo, đã tỏ ra hết sức khiêm cung, đến nỗi đi đâu cũng nép vào ven tường. Hoặc như Tể Dư, muốn tỉnh giảm lễ để tang còn là một năm, thì Cao Sài khóc đến chảy máu mắt. Hoặc như trước đó, quân tử tiêu sài hết sức phung phí, vợ nọ con kia đầy dẫy, tân khách ra vào tấp nập, thì Án Anh, sau này có phản ứng ngược lại là suốt ba mươi năm, chỉ dùng một áo hồ cừu cũ. Như vậy, Chính Khảo Phụ đã hành quá hồ cung; Cao Sài đã tang quá hồ ai; và Án Anh đã dụng quá hồ kiệm với mục đích dạy đời.
Hoặc như hồi Trung Cổ ở bên Âu Châu, các giáo sĩ mải sống trong giầu sang, nhung lụa, thì thánh Francois d'Assise (1182 - 1226) đã lập ra một dòng khổ tu, cùng các đồng chí ngày ngày đi xin ăn để mà sống... Đó cũng chính là làm điều phải quá mức ít nhiều, để rung lên hồi chuông cảnh tỉnh.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 飛 鳥 以 凶 .
象 曰 . 飛 鳥 以 凶 . 不 可 如 何 也 .
Sơ Lục.
Phi điểu dĩ hung.
Tượng viết.
Phi điểu dĩ hung. Bất khả như hà dã.
Dịch.
Chim bay hứng chí, bay cao,
Bay lâu cao quá, thế nào cũng hung.
Tượng rằng:
Cao bay, sẽ gặp hoạ hung,
Hoạ hung thời chịu, biết chừng làm sao?
Sơ Lục là Hào Âm, lại ở chỗ thấp nhất, đáng lý là phải biết an phận, đàng này Sơ Lục cậy có Cửu tứ, tức là người trên quyền thế đỡ đầu, nên xông xáo hăm hở muốn vươn lên. Sự vội vàng hấp tấp, muốn đi quá trớn ấy sẽ đem lại cho đương sự nhiều phiền nhiễu, y như con chim chưa đủ lông, đủ cánh, đã đòi bay bổng. Không thức thời, tiến lên liều lĩnh, bừa phứa như vậy, đến nổi gặp hung hoạ, thời biết làm sao bây giờ (Phi điểu dĩ hung. Bất khả như hà dã).
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 過 其 祖 . 遇 其 妣 . 不 及 其 君 . 遇 其 臣 . 無 咎 .
象 曰 . 不 及 其 君 . 臣 不 可 過 也 .
Lục nhị.
Quá kỳ tổ. Ngộ kỳ tỷ. Bất cập kỳ quân. Ngộ kỳ thần. Vô cữu.
Tượng viết.
Bất cập kỳ quân. Thần bất khả quá dã.
Dịch.
Qua ông , để gặp cụ bà,
Theo vua chẳng được, ở ra phận thần.
Vậy thời chẳng có lỗi lầm.
Tượng rằng:
Chẳng mong theo kịp quốc quân
Giữ sao không quá phận thần, mới hay.
Lục nhị. Hào từ chia làm hai phần: Phần trên dạy xử sự cho hợp lẽ. Ví dụ: như vợ người cháu (Hào Lục nhị), khi vào lễ nơi tổ miếu, có thể đi qua nơi bài vị của ông Tổ (Hào Cửu tứ), mà đến van vái trước bài vị của bà cô Tổ (Hào Lục ngũ). Thế là Quá kỳ tổ. Ngộ kỳ tỉ. Còn như chính người cháu trai, thì phải đứng lễ về phía ông Tổ.
Phần dưới Hào này, dạy rằng: Bậc thần tử hãy nên biết thân phận mình, đừng nên đòi hỏi nhiều. Ví dụ như một thần tử (Lục nhị), muốn xin vào bệ kiên vua (Lục ngũ), để nhận mạng lệnh mà chẳng được, đành gặp một vị đại thần để nhận mạng lệnh cách gián tiếp. Thế là Bất cập kỳ quân. Ngộ kỳ thần. Cập là có ý muốn gặp, Ngộ là vô tình mà gặp, tình cờ mà gặp. Kinh Xuân Thu cũng phân biệt chữ Cập và chữ Ngộ như vậy.
Tượng Truyện nói rõ hơn, là thần tử không nên vượt quá phạm vi mình. Phải ăn ở sao cho vua ra vua, tôi ra tôi, mới khỏi lỗi lầm (Bất cập kỳ quân. Thần bất khả quá dã).
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 弗 過 防 之 . 從 或 戕 之 . 凶 .
象 曰 . 從 或 戕 之 . 凶 如 何 也 .
Cửu tam.
Phất quá phòng chi. Tòng hoặc tường chi. Hung.
Tượng viết.
Tòng hoặc tường chi. Hung như hà dã.
Dịch.
Chẳng lo, chẳng liệu đề phòng,
Nhỡ người hãm hại, họa hung đã đành.
Tượng rằng:
Chẳng lo, chẳng liệu đề phòng,
Nhỡ người hãm hại, họa hung vô chừng.
Cửu tam bị kẹt ở giữa một bày Âm, mà địa vị lại dở trăng, dở đèn (tam bất trung), cho nên phải hết sức gia ý đề phòng tiểu nhân. Nếu chẳng gia ý đề phòng (Phất quá phòng chi), mà lại còn đua đòi theo bầy tiểu nhân, thì trước sau cũng sẽ bị người hãm hại (Tòng hoặc tường chi). Như vậy là chẳng tốt (Hung).
Theo bày tiểu nhân để đến nỗi bị gia hại, xấu biết chừng nào (Tòng hoặc tường chi. Hung như hà dã).
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 無 咎 . 弗 過 遇 之 . 往 厲 必 戒 . 勿 用 永 貞 .
象 曰 . 弗 過 遇 之 . 位 不 當 也 . 往 厲 必 戒 . 終 不 可 長 也 .
Cửu tứ.
Vô cữu. Phất quá ngộ chi. Vãng lệ tất giới. Vật dụng vĩnh trinh.
Tượng viết.
Phất quá ngộ chi. Vị bất đáng dã.
Vãng lệ tất giới. Chung bất khả trường dã.
Dịch.
Tùy thời, xử thế cho hay,
Rồi ra mới khỏi đơn sai, lỗi lầm.
Thời nghi, thích hợp, vừa khăm,
Mà không quá trớn, lố lăng mới là.
Mưu đồ, sẽ gặp nguy cơ,
Phải nên thận trọng, đắn đo, suy lường.
Chớ nên cố chấp, thủ thường,
Phải nên quyền biến, đảm đương theo thời.
Tượng rằng:
Thời nghi, thích hợp vừa khăm,
Mà không quá trớn, lố lăng mới là,
Vị ngôi chẳng xứng, chẳng vừa,
Mưu đồ nguy hiểm, phải lo, phải lường.
Tiểu nhân đang lúc nhiễu nhương.
Làm sao quân tử có đường thịnh hưng ?
Cửu tứ là Dương Hào cư Âm vị , thế là tính cương, mà xử nhu, như vậy không có gì là quá, và cũng là hợp thời. Biết mình sống giữa bầy tiểu nhân, không thể làm gì được, nên cũng giả ngô, giả ngọng cho êm chuyện (Phất quá ngộ chi). Thế tức là: Phượng hoàng thất thế, phải theo đàn gà.
Sống vào thời buổi đảo điên, mà không thức thời, cứ tưởng mình có tài, có đức, là có có thể hoán chuyển được tình thế là lầm. Vì một con én làm sao làm nên được mùa xuân. Cho nên, nếu lo toan, sốc vác, tính chuyện đội đá, vá trời, sẽ gặp nguy lệ (Vãng lệ). Cho nên, cần phải đề cao cảnh giác (Tất giới), và đừng có đối xử cứng rắn với người (Vật dụng vĩnh trinh). Có như vậy, mới biết uyển chuyển theo thời.
Tượng Truyện giải rõ thêm rằng mình phải thích thời, khéo xử, không được đi quá trớn, quá mức (Bất quá ngộ chi), Bởi vì địa vị mình dở dang, bất xứng (Vị bất đáng dã). Nếu làm trái lại, thì không nên (Vãng lệ tất giới), và không thể lâu dài được (Bất khả trường dã).
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 密 云 不 雨 . 自 我 西 郊 . 公 弋 取 彼 在 穴 .
象 曰 . 密 云 不 雨 . 已 上 也 .
Lục ngũ.
Mật vân bất vũ. Tự ngã Tây giao. Công dặc thủ bỉ tại huyệt.
Tượng viết.
Mật vân bất vũ. Dĩ thượng dã.
Dịch.
Mây dầy, mà chẳng mưa rơi,
Mưa dầy, phủ kín cõi trời Tây ta.
Bắn chim trong động mới là,
Vương công bắn lấy, đem ra giúp đời.
Tượng rằng:
Mây dầy, mà chẳng mưa rơi,
Nghĩa là Âm đã cao ngôi quá chừng.
Lục ngũ. Sống trong buổi nhiễu nhương, giao thời, mà vị lãnh đạo không phải người tài cao, đức cả (Lục ngũ là Âm nhu chi tài), thì làm sao mà làm ơn, làm ích nhiều cho đời được, có khác nào như một áng mây dày, bồng bềnh bên phía trời Tây, không thành mưa rơi xuống mặt đất được (Mật vân bất vũ). Như vậy, hay hơn hết, là đi tìm hiền thần cộng tác. Mà hiền thần bây giờ còn ẩn náu nơi thôn dã, chưa xuất đầu lộ diện, phải khéo léo mới mời ra cộng tác được. Cầu được những bậc hiền tài này, cũng tỉ như bắn chim nấp trong hang động (Công dặc thủ bỉ tại huyệt).
Vua cũng không nên đi quá trớn. Vua mà quá trớn, thời như đám mây, bay quá cao, làm sao mà thành mưa được (Mật vân bất vũ. Dĩ thượng dã.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 弗 遇 過 之 . 飛 鳥 離 之 . 凶 . 是 謂 災 眚 .
象 曰 . 弗 遇 過 之 . 已 亢 也 .
Thượng Lục.
Phất ngộ quá chi. Phi điểu ly chi. Hung. Thị vị tai sảnh.
Tượng viết.
Phất ngộ quá chi. Dĩ kháng dã.
Dịch.
Quá chừng, chẳng biết thức thời,
Như chim vun vút, khung trời cao bay,
Thế là hung hoạ có ngày.
Rồi ra vạ gió, tai bay khôn chừng.
Tượng rằng:
Quá chừng, chẳng biết thức thời.
Là vì cao quá nóc rồi, còn chi ?
Thượng Lục là kẻ tiểu nhân được thời thế đưa đẩy lên ngôi vị cao. Vì đang đà say danh lợi, không thể kiềm chế được mình, nên đã đi quá trớn, không còn chịu theo lẽ phải (Phất ngộ), và làm những điều ngang chướng, quá quắt (quá chi). Họ sẽ gặp tai ương, y như con chim bay quá cao sẽ bị tai họa (Phi điểu ly chi. Hung. Thị vị tai sảnh).
Tất cả những điều dở dang, trái khoáy đã sinh ra chính là vì đương sự đã đi quá trớn (Phất ngộ quá chi. Dĩ kháng dã).
ÁP DỤNG QUẺ TIỂU QUÁ VÀO THỜI ĐẠI
Kể từ lúc tôi biết suy nghĩ điều hơn thiệt, đến nay thấm thoát đã 50 năm, lúc đó tôi còn nhớ là tôi chỉ là cô bé con, tuổi mới 13, và ngày hôm đó vào mùa xuân, khoảng 12 tháng 3 Âm lịch, là ngày đưa đám táng mẹ tôi. Mẹ tôi mất, tôi buồn lắm, nỗi buồn in sâu trong lòng tôi, đến nỗi bây giờ đã qua 50 năm, mà tôi còn nhớ rõ những hình ảnh để tôi viết bài này. Hôm ấy, lúc đầu vì còn nhỏ nên tôi được lên xe ngồi chung với người trong họ, để theo xe tang, nhưng khi đi đến khoảng hơn hai phần đường thì tôi xuống xe, và vượt từ từ lên nhập bọn chung với các anh, chị tôi, sát sau xe tang mẹ tôi. Tôi im lặng, lòng buồn khôn tả, đi theo xe chở người mẹ thân yêu, đã hy sinh suốt cuộc đời cho chồng con. Tôi bước theo mà người như mơ, như tỉnh, chợt tôi bừng tỉnh khi nghe tiếng các chị tôi khóc lớn, và nghe như có sự níu kéo ở gần tôi, tôi ngoảnh ra sau, thấy chị dâu trưởng của tôi, mặc sô gai như tôi, đang nằm lăn dưới đất, tóc tai rũ rượi, kêu khóc gọi mẹ tôi, và mọi người đang nâng chị dâu tôi dậy. Lúc đó, tôi bàng hoàng không hiểu tại sao chị dâu tôi lại thương mẹ tôi như vậy, vì cứ chốc chốc chị lại làm như vậy, làm khổ cho mấy người cứ phải ở bên cạnh chị, để nâng đỡ chị, mà tôi lúc ấy tuy còn nhỏ, nhưng cũng hiểu là chị không thương mẹ tôi nhiều như vậy. Sau này, tôi hỏi cô tôi về sự tại sao chị dâu tôi lại vừa khóc mẹ tôi, lại vừa lăn đường như vậy. Cô tôi trả lời vì tục lệ xưa, bắt người con dâu khi mẹ chồng chết phải lăn khóc như vậy.
Sau này, cách đó 48 năm, ở xứ Hoa Kỳ này, tôi lại đi dự một đám tang của một người bà con trong họ, (cũng người Việt Nam), thì tôi thấy khi bà cụ chết đi, thay vì mặc sô gai, hay mặc quần áo trắng thường, thì con cháu nội ngoại bà cụ, đã thuê đồ tang kiểu Âu Châu, ăn mặc sang, đẹp, như đi dự dạ hội, và không có cảnh u sầu khóc lóc như ngày xưa.
Vậy, thời gian đã thay đổi tập tục và con người quá nhiều, cả hai cảnh tượng trước và sau đó đều hơi quá đáng.
Và ai đã sống sau năm 1975, lúc Saigon đổi chủ, đã thấy cảnh hống hách của lũ tiểu nhân, mà dân lúc đó gọi chúng là tụi Cách mạng 30 (tức là ngày 30 Cộng Sản về, nó mới tự xưng là Cách mạng), và cảnh những nhà trí thức, khá giả, giả vờ túng thiếu, đi đạp xe xích lô, hoặc đi gánh rau muống để bán ngoài chợ. Thật là cảnh cười ra nước mắt. Những ai là người BắcViệt, nhất là dân Hà nội, đã sống trong cảnh gia đình khá giả, nho phong khi xưa, chắc còn nhớ là các bậc cha mẹ dạy con thật là nề nếp, cẩn thận. Đi ra đường, gặp ai dù quen thân hay quen sơ, đều phải chào hỏi lễ phép. Tiếng Cô, Cậu dùng để chào hỏi người ít tuổi hơn mình. Tiếng Ông, Bà dùng để chào hỏi người ngang mình, và mình xưng Tôi; nếu mình ít tuổi hơn họ thì mình xưng Con hay Cháu. Nếu người đó già cả khoảng trên 70 tuổi, thì phải dùng tiếng Cụ mà gọi người ta. Chỉ hơi quá đáng một chút, là ai có chút chức phận, thì người ngoài xưng họ là Quan lớn.
Sau 1945, Cộng Sản lên, muốn cho thân mật, họ đã dạy dân thay đổi danh từ Cô, Cậu, Ông, Bà ra Anh, Chị, và thay vì gọi người già cả là Cụ, họ thay thế bằng tiếng Chú, Bác, Cô, Dì vv... Nhưng các cán bộ, có một số cứ dùng danh từ Anh, Chị mà gọi những bậc đáng cha chú mình, nếu những người này là ở thành phần dân chúng.
Sau 1975, Cộng Sản vào Nam, đã nhập vào dân những tập tục thiếu lễ độ đối với các bậc trưởng thượng đó. Có nhiều người đã bị tiêm nhiễm, nên đã dùng danh từ Anh, Chị mà gọi những người trưởng thượng mà họ gặp, mặc dầu những người này đáng cha, chú họ. Trên đây là những điều mà quẻ Tiểu Quá muốn sửa. Gần đây, có một bài báo đăng tin bên Trung Cộng, chắc giới trí thức cũng thấy dân tộc mình đã sai lầm trong vấn đề xưng hô, nên họ đã ra lệnh sửa lại.
Bao giờ người Việt trở lại nề nếp cũ? tuy nhiên danh từ Quan lớn cũng phải hủy bỏ, vì đã quá kiểu cách.
LÔI SƠN TIỂU QUÁ
Tiểu Quá Tự Quái
小 過 序 卦
Hữu kỳ tín giả tất hành chi.
有 其 信 者 必 行 之
Cổ thụ chi dĩ Tiểu quá.
故 受 之 以 小 過
Tiểu Quá Tự Quái
Tin rồi, công việc tất nhiên thi hành.
Cho nên Tiểu Quá mới sinh.
Tiểu Quá là một trong những quẻ khó giải. Muốn giải ta cần phải hiểu rõ hai chữ Tiểu Quá nghĩa là gì?
a). Có người dựa theo Đại Tượng Truyện giải: Tiểu Quá là quá mức đôi chút.
b). Có người lại phân tách quẻ Tiểu Quá và cho rằng: Tiểu Quá trong có 2 Hào Dương, bên ngoài có 4 Hào Âm. Âm quá nhiều hơn Dương, mà Âm là Tiểu, nên gọi là Tiểu Quá. Thời Tiểu Quá là thời mà Tiểu nhân giữ các chức vụ then chốt, còn Quân tử thì giữ những vai trò phụ thuộc. Wilhelm khi dịch Tạp Quái, dịch Tiểu Quá là thời buổi Giao Thời (Transition). Tôi (Tác giả) thấy rằng hiểu Tiểu Quá là thời buổi giao thời, sẽ giúp ta hiểu quẻ Tiểu Quá dễ dàng hơn. Vì thời buổi giao thời đúng là thời kỳ mà:
Trời làm một trận lăng nhăng.
Ông lại xuống thằng, thằng lại lên ông.
Lúc đó tiểu nhân đắc thế, mà quân tử thất thời. Thời buổi giao thời cũng là thời buổi lắm chuyện nhố nhăng, quá mức, quá lạm. Gặp thời buổi này, giữ được mình toàn vẹn là hay, chứ đừng mong gì làm được đại công, đại sự. Đó là mấy ý chính của quẻ Tiểu Quá.
I. Thoán.
Thoán từ.
小 過 . 亨 . 利 貞 . 可 小 事 . 不 可 大 事 . 飛 鳥
遺 之 音 . 不 宜 上 宜 下 . 大 吉 .
Tiểu Quá. Hanh. Lợi trinh. Khả tiểu sự. Bất khả đại sự.
Phi điểu di chi âm. Bất nghi thượng nghi hạ. Đại cát.
Dịch.
Hào Âm nhiều quá hơn Dương,
Gọi là Tiểu Quá vẫn đường hanh thông.
Nếu mà minh chính một lòng,
Rồi ra nên lợi, sinh công dễ dàng.
Sức vừa, liệu việc tầm thường,
Chớ nên đại sự, đảm đương chuốc mòng.
Chim bay, để lại dư âm,
Cao tầm chẳng tới, thấp tầm mới bay.
Thế thời tốt đẹp lắm thay.
Sống trong thời buổi giao thời, ta vẫn có lối thoát, ta vẫn được lợi, được hay, nếu ta theo được chính lý, chính đạo (Tiểu quá. Hanh. Lợi trinh). Trong thời buổi này, chỉ nên làm chuyện những chuyện nhỏ, không nên làm chuyện lớn (Khả tiểu sự bất khả đại sự). Quẻ Tiểu Quá, giữa có 2 Hào Dương, như là mình chim; Trên dưới đều 2 Hào Âm như hai cánh chim; Toàn quẻ trông ngang như hình chim bay. Vì thế Thoán từ mới nói: Con chim bay nhắc nhủ ta bài học này là: Không nên vươn quá cao, mà chỉ nên ở dưới thấp (Phi điểu di chi âm. Bất nghi thượng nghi hạ). Như vậy, mới được an lành (Đại Cát).
Thoán Truyện. Thoán viết.
彖 曰 . 小 過 . 小 者 過 而 亨 也 . 過 以 利 貞 . 與 時 行 也 . 柔 得 中 . 是 以 小 事 吉 也 . 剛 失 位 而 不 中 . 是 以 不 可 大 事 也 . 有 飛 鳥 之 象 焉 . 有 飛 鳥 遺 之 音 . 不 宜 上 宜 下 . 大 吉 . 上 逆 而 下 順 也 .
Tiểu Quá. Tiểu giả quá nhi hanh dã. Quá dĩ lợi trinh. Dữ thời hành dã. Nhu đắc trung. Thị dĩ tiểu sự cát dã. Cương thất vị nhi bất trung. Thị dĩ bất khả đại sự dã. Hữu phi điểu chi tượng yên. Hữu phi điểu di chi âm. Bất nghi thượng nghi hạ. Đại cát. Thượng nghịch nhi hạ thuận dã.
Dịch. Thoán rằng:
Tiểu Âm mà quá hơn Dương,
Thế là Tiểu Quá, vẫn đường hanh thông.
Quá, nhưng minh chính một lòng,
Tùy thời xử thế, ung dung theo thời
Âm nhu, chốn giữa, chững ngôi,
Cho nên công việc nhỏ nhoi, tốt lành.
Dương cương, thất vị, chông chênh.
Kham sao được đại công trình, mà hay?
Quẻ trông mường tượng chim bay,
Chim bay, cánh vỗ đó đây xạc xào
Chẳng bay quá trớn, quá cao.
Theo bề thấp thỏi, thế nào cũng hay.
Cao là thế ngược, thế sai,
Thấp thời mới thuận, mới hay, mới lành.
Thoán giải thích: Tiểu Quá là những cái nhỏ quá mức mà vẫn hanh thông (Tiểu Quá. Tiểu giả quá nhi hanh dã). Lúc giao thời, mà vẫn theo được chính lý, chính đạo, mà vẫn thích ứng được với hoàn cảnh, thì mới hay, mới lợi. Có vậy mới là thức thời, mới là theo được đà thời gian (Quá dĩ lợi trinh. Dữ thì hành dã).
Phàm ở đời, tiểu nhân làm nên tiểu sự, quân tử làm nên đại sự. Nay tiểu nhân giữ các địa vị trọng yếu, then chốt, quân tử lại không có ngôi, có vị hẳn hoi. Như vậy, chỉ nên làm những chuyện nhỏ, đừng làm những chuyện lớn. (Nhu đắc trung. Thị dĩ tiểu sự cát dã. Cương thất vị nhi bất trung. Thị dĩ bất khả đại sự dã).
Quẻ Tiểu Quá gợi nên hình ảnh con chim bay, nó nhắc nhủ ta là trong thời buổi giao thời, không nên vươn cao quá, mà chỉ nên ở dưới thấp, mới là hợp lý (Hữu phi điểu chi tượng yên. Hữu phi điểu di chi âm. Bất nghi thượng nghi hạ. Đại cát. Thượng nghịch nhi hạ thuận dã).
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết.
象 曰 . 山 上 有 雷 . 小 過 . 君 子 以 行 過 乎 恭 .
喪 過 乎 哀 . 用 過 乎 儉 .
Sơn thượng hữu lôi. Tiểu Quá. Quân tử dĩ hành quá hồ cung.
Tang quá hồ ai. Dụng quá hồ kiệm.
Dịch. Tượng rằng:
Tiểu Quá, sấm động đầu non,
Hiền nhân quá mức, cũng còn có khi,
Quá khiêm trong lúc hành vi,
Quá sầu, khi gặp những kỳ tóc tang,
Quá ư cần kiệm, kỹ càng.
Tiêu pha, chẳng dám chuyện hoang phí tiền.
Tống Bản Thập Tam Kinh bình đại khái rằng:
Thường thì Sấm sinh từ đất, nay sinh trên núi (Lôi Sơn), thế là quá mức. Tiểu nhân thường hay quá mức, quá trớn trong hành vi, cử chỉ, hay cao ngạo, hay phung phí. Muốn sửa lỗi họ, người quân tử cần làm ngược lại, nhưng làm quá mức một chút, để cho họ thấy mà sửa mình. Cho nên người quân tử, có thể nhất thời, vì mục đích giáo hoá, nên trong hành động sẽ quá cung kính, trong tang lễ sẽ quá buồn rầu, trong tiêu dùng sẽ quá cần kiệm.
Ví dụ: Xưa Mạc Ngao có những cử chỉ cao ngạo, thì Chính khảo Phụ, vì muốn răn bảo, đã tỏ ra hết sức khiêm cung, đến nỗi đi đâu cũng nép vào ven tường. Hoặc như Tể Dư, muốn tỉnh giảm lễ để tang còn là một năm, thì Cao Sài khóc đến chảy máu mắt. Hoặc như trước đó, quân tử tiêu sài hết sức phung phí, vợ nọ con kia đầy dẫy, tân khách ra vào tấp nập, thì Án Anh, sau này có phản ứng ngược lại là suốt ba mươi năm, chỉ dùng một áo hồ cừu cũ. Như vậy, Chính Khảo Phụ đã hành quá hồ cung; Cao Sài đã tang quá hồ ai; và Án Anh đã dụng quá hồ kiệm với mục đích dạy đời.
Hoặc như hồi Trung Cổ ở bên Âu Châu, các giáo sĩ mải sống trong giầu sang, nhung lụa, thì thánh Francois d'Assise (1182 - 1226) đã lập ra một dòng khổ tu, cùng các đồng chí ngày ngày đi xin ăn để mà sống... Đó cũng chính là làm điều phải quá mức ít nhiều, để rung lên hồi chuông cảnh tỉnh.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 飛 鳥 以 凶 .
象 曰 . 飛 鳥 以 凶 . 不 可 如 何 也 .
Sơ Lục.
Phi điểu dĩ hung.
Tượng viết.
Phi điểu dĩ hung. Bất khả như hà dã.
Dịch.
Chim bay hứng chí, bay cao,
Bay lâu cao quá, thế nào cũng hung.
Tượng rằng:
Cao bay, sẽ gặp hoạ hung,
Hoạ hung thời chịu, biết chừng làm sao?
Sơ Lục là Hào Âm, lại ở chỗ thấp nhất, đáng lý là phải biết an phận, đàng này Sơ Lục cậy có Cửu tứ, tức là người trên quyền thế đỡ đầu, nên xông xáo hăm hở muốn vươn lên. Sự vội vàng hấp tấp, muốn đi quá trớn ấy sẽ đem lại cho đương sự nhiều phiền nhiễu, y như con chim chưa đủ lông, đủ cánh, đã đòi bay bổng. Không thức thời, tiến lên liều lĩnh, bừa phứa như vậy, đến nổi gặp hung hoạ, thời biết làm sao bây giờ (Phi điểu dĩ hung. Bất khả như hà dã).
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 過 其 祖 . 遇 其 妣 . 不 及 其 君 . 遇 其 臣 . 無 咎 .
象 曰 . 不 及 其 君 . 臣 不 可 過 也 .
Lục nhị.
Quá kỳ tổ. Ngộ kỳ tỷ. Bất cập kỳ quân. Ngộ kỳ thần. Vô cữu.
Tượng viết.
Bất cập kỳ quân. Thần bất khả quá dã.
Dịch.
Qua ông , để gặp cụ bà,
Theo vua chẳng được, ở ra phận thần.
Vậy thời chẳng có lỗi lầm.
Tượng rằng:
Chẳng mong theo kịp quốc quân
Giữ sao không quá phận thần, mới hay.
Lục nhị. Hào từ chia làm hai phần: Phần trên dạy xử sự cho hợp lẽ. Ví dụ: như vợ người cháu (Hào Lục nhị), khi vào lễ nơi tổ miếu, có thể đi qua nơi bài vị của ông Tổ (Hào Cửu tứ), mà đến van vái trước bài vị của bà cô Tổ (Hào Lục ngũ). Thế là Quá kỳ tổ. Ngộ kỳ tỉ. Còn như chính người cháu trai, thì phải đứng lễ về phía ông Tổ.
Phần dưới Hào này, dạy rằng: Bậc thần tử hãy nên biết thân phận mình, đừng nên đòi hỏi nhiều. Ví dụ như một thần tử (Lục nhị), muốn xin vào bệ kiên vua (Lục ngũ), để nhận mạng lệnh mà chẳng được, đành gặp một vị đại thần để nhận mạng lệnh cách gián tiếp. Thế là Bất cập kỳ quân. Ngộ kỳ thần. Cập là có ý muốn gặp, Ngộ là vô tình mà gặp, tình cờ mà gặp. Kinh Xuân Thu cũng phân biệt chữ Cập và chữ Ngộ như vậy.
Tượng Truyện nói rõ hơn, là thần tử không nên vượt quá phạm vi mình. Phải ăn ở sao cho vua ra vua, tôi ra tôi, mới khỏi lỗi lầm (Bất cập kỳ quân. Thần bất khả quá dã).
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 弗 過 防 之 . 從 或 戕 之 . 凶 .
象 曰 . 從 或 戕 之 . 凶 如 何 也 .
Cửu tam.
Phất quá phòng chi. Tòng hoặc tường chi. Hung.
Tượng viết.
Tòng hoặc tường chi. Hung như hà dã.
Dịch.
Chẳng lo, chẳng liệu đề phòng,
Nhỡ người hãm hại, họa hung đã đành.
Tượng rằng:
Chẳng lo, chẳng liệu đề phòng,
Nhỡ người hãm hại, họa hung vô chừng.
Cửu tam bị kẹt ở giữa một bày Âm, mà địa vị lại dở trăng, dở đèn (tam bất trung), cho nên phải hết sức gia ý đề phòng tiểu nhân. Nếu chẳng gia ý đề phòng (Phất quá phòng chi), mà lại còn đua đòi theo bầy tiểu nhân, thì trước sau cũng sẽ bị người hãm hại (Tòng hoặc tường chi). Như vậy là chẳng tốt (Hung).
Theo bày tiểu nhân để đến nỗi bị gia hại, xấu biết chừng nào (Tòng hoặc tường chi. Hung như hà dã).
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 無 咎 . 弗 過 遇 之 . 往 厲 必 戒 . 勿 用 永 貞 .
象 曰 . 弗 過 遇 之 . 位 不 當 也 . 往 厲 必 戒 . 終 不 可 長 也 .
Cửu tứ.
Vô cữu. Phất quá ngộ chi. Vãng lệ tất giới. Vật dụng vĩnh trinh.
Tượng viết.
Phất quá ngộ chi. Vị bất đáng dã.
Vãng lệ tất giới. Chung bất khả trường dã.
Dịch.
Tùy thời, xử thế cho hay,
Rồi ra mới khỏi đơn sai, lỗi lầm.
Thời nghi, thích hợp, vừa khăm,
Mà không quá trớn, lố lăng mới là.
Mưu đồ, sẽ gặp nguy cơ,
Phải nên thận trọng, đắn đo, suy lường.
Chớ nên cố chấp, thủ thường,
Phải nên quyền biến, đảm đương theo thời.
Tượng rằng:
Thời nghi, thích hợp vừa khăm,
Mà không quá trớn, lố lăng mới là,
Vị ngôi chẳng xứng, chẳng vừa,
Mưu đồ nguy hiểm, phải lo, phải lường.
Tiểu nhân đang lúc nhiễu nhương.
Làm sao quân tử có đường thịnh hưng ?
Cửu tứ là Dương Hào cư Âm vị , thế là tính cương, mà xử nhu, như vậy không có gì là quá, và cũng là hợp thời. Biết mình sống giữa bầy tiểu nhân, không thể làm gì được, nên cũng giả ngô, giả ngọng cho êm chuyện (Phất quá ngộ chi). Thế tức là: Phượng hoàng thất thế, phải theo đàn gà.
Sống vào thời buổi đảo điên, mà không thức thời, cứ tưởng mình có tài, có đức, là có có thể hoán chuyển được tình thế là lầm. Vì một con én làm sao làm nên được mùa xuân. Cho nên, nếu lo toan, sốc vác, tính chuyện đội đá, vá trời, sẽ gặp nguy lệ (Vãng lệ). Cho nên, cần phải đề cao cảnh giác (Tất giới), và đừng có đối xử cứng rắn với người (Vật dụng vĩnh trinh). Có như vậy, mới biết uyển chuyển theo thời.
Tượng Truyện giải rõ thêm rằng mình phải thích thời, khéo xử, không được đi quá trớn, quá mức (Bất quá ngộ chi), Bởi vì địa vị mình dở dang, bất xứng (Vị bất đáng dã). Nếu làm trái lại, thì không nên (Vãng lệ tất giới), và không thể lâu dài được (Bất khả trường dã).
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 密 云 不 雨 . 自 我 西 郊 . 公 弋 取 彼 在 穴 .
象 曰 . 密 云 不 雨 . 已 上 也 .
Lục ngũ.
Mật vân bất vũ. Tự ngã Tây giao. Công dặc thủ bỉ tại huyệt.
Tượng viết.
Mật vân bất vũ. Dĩ thượng dã.
Dịch.
Mây dầy, mà chẳng mưa rơi,
Mưa dầy, phủ kín cõi trời Tây ta.
Bắn chim trong động mới là,
Vương công bắn lấy, đem ra giúp đời.
Tượng rằng:
Mây dầy, mà chẳng mưa rơi,
Nghĩa là Âm đã cao ngôi quá chừng.
Lục ngũ. Sống trong buổi nhiễu nhương, giao thời, mà vị lãnh đạo không phải người tài cao, đức cả (Lục ngũ là Âm nhu chi tài), thì làm sao mà làm ơn, làm ích nhiều cho đời được, có khác nào như một áng mây dày, bồng bềnh bên phía trời Tây, không thành mưa rơi xuống mặt đất được (Mật vân bất vũ). Như vậy, hay hơn hết, là đi tìm hiền thần cộng tác. Mà hiền thần bây giờ còn ẩn náu nơi thôn dã, chưa xuất đầu lộ diện, phải khéo léo mới mời ra cộng tác được. Cầu được những bậc hiền tài này, cũng tỉ như bắn chim nấp trong hang động (Công dặc thủ bỉ tại huyệt).
Vua cũng không nên đi quá trớn. Vua mà quá trớn, thời như đám mây, bay quá cao, làm sao mà thành mưa được (Mật vân bất vũ. Dĩ thượng dã.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 弗 遇 過 之 . 飛 鳥 離 之 . 凶 . 是 謂 災 眚 .
象 曰 . 弗 遇 過 之 . 已 亢 也 .
Thượng Lục.
Phất ngộ quá chi. Phi điểu ly chi. Hung. Thị vị tai sảnh.
Tượng viết.
Phất ngộ quá chi. Dĩ kháng dã.
Dịch.
Quá chừng, chẳng biết thức thời,
Như chim vun vút, khung trời cao bay,
Thế là hung hoạ có ngày.
Rồi ra vạ gió, tai bay khôn chừng.
Tượng rằng:
Quá chừng, chẳng biết thức thời.
Là vì cao quá nóc rồi, còn chi ?
Thượng Lục là kẻ tiểu nhân được thời thế đưa đẩy lên ngôi vị cao. Vì đang đà say danh lợi, không thể kiềm chế được mình, nên đã đi quá trớn, không còn chịu theo lẽ phải (Phất ngộ), và làm những điều ngang chướng, quá quắt (quá chi). Họ sẽ gặp tai ương, y như con chim bay quá cao sẽ bị tai họa (Phi điểu ly chi. Hung. Thị vị tai sảnh).
Tất cả những điều dở dang, trái khoáy đã sinh ra chính là vì đương sự đã đi quá trớn (Phất ngộ quá chi. Dĩ kháng dã).
ÁP DỤNG QUẺ TIỂU QUÁ VÀO THỜI ĐẠI
Kể từ lúc tôi biết suy nghĩ điều hơn thiệt, đến nay thấm thoát đã 50 năm, lúc đó tôi còn nhớ là tôi chỉ là cô bé con, tuổi mới 13, và ngày hôm đó vào mùa xuân, khoảng 12 tháng 3 Âm lịch, là ngày đưa đám táng mẹ tôi. Mẹ tôi mất, tôi buồn lắm, nỗi buồn in sâu trong lòng tôi, đến nỗi bây giờ đã qua 50 năm, mà tôi còn nhớ rõ những hình ảnh để tôi viết bài này. Hôm ấy, lúc đầu vì còn nhỏ nên tôi được lên xe ngồi chung với người trong họ, để theo xe tang, nhưng khi đi đến khoảng hơn hai phần đường thì tôi xuống xe, và vượt từ từ lên nhập bọn chung với các anh, chị tôi, sát sau xe tang mẹ tôi. Tôi im lặng, lòng buồn khôn tả, đi theo xe chở người mẹ thân yêu, đã hy sinh suốt cuộc đời cho chồng con. Tôi bước theo mà người như mơ, như tỉnh, chợt tôi bừng tỉnh khi nghe tiếng các chị tôi khóc lớn, và nghe như có sự níu kéo ở gần tôi, tôi ngoảnh ra sau, thấy chị dâu trưởng của tôi, mặc sô gai như tôi, đang nằm lăn dưới đất, tóc tai rũ rượi, kêu khóc gọi mẹ tôi, và mọi người đang nâng chị dâu tôi dậy. Lúc đó, tôi bàng hoàng không hiểu tại sao chị dâu tôi lại thương mẹ tôi như vậy, vì cứ chốc chốc chị lại làm như vậy, làm khổ cho mấy người cứ phải ở bên cạnh chị, để nâng đỡ chị, mà tôi lúc ấy tuy còn nhỏ, nhưng cũng hiểu là chị không thương mẹ tôi nhiều như vậy. Sau này, tôi hỏi cô tôi về sự tại sao chị dâu tôi lại vừa khóc mẹ tôi, lại vừa lăn đường như vậy. Cô tôi trả lời vì tục lệ xưa, bắt người con dâu khi mẹ chồng chết phải lăn khóc như vậy.
Sau này, cách đó 48 năm, ở xứ Hoa Kỳ này, tôi lại đi dự một đám tang của một người bà con trong họ, (cũng người Việt Nam), thì tôi thấy khi bà cụ chết đi, thay vì mặc sô gai, hay mặc quần áo trắng thường, thì con cháu nội ngoại bà cụ, đã thuê đồ tang kiểu Âu Châu, ăn mặc sang, đẹp, như đi dự dạ hội, và không có cảnh u sầu khóc lóc như ngày xưa.
Vậy, thời gian đã thay đổi tập tục và con người quá nhiều, cả hai cảnh tượng trước và sau đó đều hơi quá đáng.
Và ai đã sống sau năm 1975, lúc Saigon đổi chủ, đã thấy cảnh hống hách của lũ tiểu nhân, mà dân lúc đó gọi chúng là tụi Cách mạng 30 (tức là ngày 30 Cộng Sản về, nó mới tự xưng là Cách mạng), và cảnh những nhà trí thức, khá giả, giả vờ túng thiếu, đi đạp xe xích lô, hoặc đi gánh rau muống để bán ngoài chợ. Thật là cảnh cười ra nước mắt. Những ai là người BắcViệt, nhất là dân Hà nội, đã sống trong cảnh gia đình khá giả, nho phong khi xưa, chắc còn nhớ là các bậc cha mẹ dạy con thật là nề nếp, cẩn thận. Đi ra đường, gặp ai dù quen thân hay quen sơ, đều phải chào hỏi lễ phép. Tiếng Cô, Cậu dùng để chào hỏi người ít tuổi hơn mình. Tiếng Ông, Bà dùng để chào hỏi người ngang mình, và mình xưng Tôi; nếu mình ít tuổi hơn họ thì mình xưng Con hay Cháu. Nếu người đó già cả khoảng trên 70 tuổi, thì phải dùng tiếng Cụ mà gọi người ta. Chỉ hơi quá đáng một chút, là ai có chút chức phận, thì người ngoài xưng họ là Quan lớn.
Sau 1945, Cộng Sản lên, muốn cho thân mật, họ đã dạy dân thay đổi danh từ Cô, Cậu, Ông, Bà ra Anh, Chị, và thay vì gọi người già cả là Cụ, họ thay thế bằng tiếng Chú, Bác, Cô, Dì vv... Nhưng các cán bộ, có một số cứ dùng danh từ Anh, Chị mà gọi những bậc đáng cha chú mình, nếu những người này là ở thành phần dân chúng.
Sau 1975, Cộng Sản vào Nam, đã nhập vào dân những tập tục thiếu lễ độ đối với các bậc trưởng thượng đó. Có nhiều người đã bị tiêm nhiễm, nên đã dùng danh từ Anh, Chị mà gọi những người trưởng thượng mà họ gặp, mặc dầu những người này đáng cha, chú họ. Trên đây là những điều mà quẻ Tiểu Quá muốn sửa. Gần đây, có một bài báo đăng tin bên Trung Cộng, chắc giới trí thức cũng thấy dân tộc mình đã sai lầm trong vấn đề xưng hô, nên họ đã ra lệnh sửa lại.
Bao giờ người Việt trở lại nề nếp cũ? tuy nhiên danh từ Quan lớn cũng phải hủy bỏ, vì đã quá kiểu cách.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
8 LÔI TRẠCH QUY MUỘI
LÔI TRẠCH QUY MUỘI
Quy Muội Tự Quái
歸 妹 序 卦
Tiệm giả tiến dã.
漸 者 進 也
Tiến tất hữu sở quy.
進 必 有 所 歸
Cố thụ chi dĩ Quy Muội.
故 受 之 以 歸 妹
Quy Muội Tự Quái
Tiến là tiến mãi, tiến lên.
Tiến nhưng có chốn, có miền hồi quy
Cho nên, Quy Muội tiếp kỳ...
Quy muội là gả em gái, hay cô gái về nhà chồng, mà không đủ lễ nghi cheo cưới. Quẻ Quy Muội này còn đề cập đến một tục lệ tối sơ của Trung Hoa xưa. Đó là một người quí tộc, có thể lấy một lúc vừa vợ, vừa nàng hầu. Nàng hầu có thể là em, hoặc cháu người vợ chính. Vì thế mà khi nhà giai hỏi vợ, thì bên nhà gái, lúc con gái mình vu quy, phải cho ít nhất là người con gái út theo chị, và một người cháu gái theo cô để phù dâu, và cũng để làm hầu thiếp sau này.
Song song với tục lệ này, còn có một tục lệ khác, là nhà vua có quyền lấy nhiều vợ và phi tần hơn. Trong quẻ Quy Muội, ta sẽ chỉ lưu ý đến tục lệ một người quí phái, vương tôn có thể lấy một lúc hai chị em và người cháu.
I. Thoán.
Thoán từ.
歸 妹 . 征 凶 . 無 攸 利 .
Quy muội. Chinh hung. Vô du lợi.
Dịch.
Quy muội, gái nhỏ vu quy,
Lạ lùng, bỡ ngỡ, làm gì cho đây.
Quẻ Quy Muội, trên là Chấn, là trưởng nam, dưới là Đoài, là thiếu nữ. Như vậy về đôi tuổi cũng chênh lệch, lại Đoài là duyệt, Chấn là động; lấy sự thỏa thích làm động cơ cho công việc làm, thì vợ chồng sẽ đi đến chỗ phóng túng dục tình, cho nên sẽ chẳng ra gì. Nhưng cũng có thể giải cách khác là Phận em, phận lẽ, không nên chuyên quyền, không nên tự quyết, mà nhất nhất phải tùy thuộc vào người vợ cả, chẳng vậy sẽ không ra gì. Vì thế nói: Chinh hung. Vô du lợi.
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰 . 歸 妹 . 天 地 之 大 義 也 . 天 地 不 交 . 而 萬 物 不 興 . 歸 妹 人 之 終 始 也 . 說 以 動 . 所 歸 妹 也 . 征 凶 . 位 不 當 也 . 無 攸 利 . 柔 乘 剛 也 .
Quy Muội. Thiên địa chi đại nghĩa dã. Thiên địa bất giao nhi vạn vật bất hưng. Quy muội. Nhân chi chung thủy dã. Duyệt dĩ động. Sở Quy muội dã. Chinh hung. Vị bất đáng dã. Vô du lợi. Nhu thừa cương dã.
Dịch.
Cảm tình Quy Muội, gái trai
Âm Dương phối ngẫu, luật trời xưa nay,
Đất trời gàng quải, đó đây,
Thế thời vạn vật, biết ngày nào sinh.
Gái trai, Quy muội chi tình,
Ấy là đầu cuối, mối manh con người.
Vui nên hành động buông xuôi,
Thế nên, gái mới theo trai ra về,
Làm gì, cũng sẽ ê chề,
Là vì chẳng được xứng bề, xứng ngôi.
Trăm điều, chẳng tốt, chẳng xuôi.
Là vì Nhu lại cưỡi chòi lên Cương.
Thoán Truyện đề cao sự phối ngẫu, và sánh cuộc hôn nhân giữa con người với sự hòa hài của trời đất (Quy Muội. Thiên địa chi đại nghĩa dã. Thiên địa bất giao nhi vạn vật bất hưng). Cho nên Hôn Lễ đối với con người hết sức là quan trọng. Vì thế Thoán viết tiếp Quy Muội nhân chi chung thủy dã.
Sách Quốc ngữ cũng viết: Hôn nhân họa phúc chi giai (Quốc ngữ, Chu Ngữ, đệ nhất). Hôn nhân là thềm, là bậc, là họa, phúc, vào nhà một vương tôn công tử.
Chu Hi giải quẻ Quy Muội, sở dĩ là chung thủy vì con người về nhà chồng là hết đời con gái, và bắt đầu đời của người mẹ (Quy giả nữ chi chung. Sinh dục giả nhân chi thủy). Chuyện vợ chồng dĩ nhiên là quan trọng. Nhưng vợ chồng lấy nhau cốt để sinh con đẻ cái, là cho giòng họ trở nên hùng tráng, vững bền, lại cũng cùng nhau tế tự tổ tiên, chứ không phải là để phóng túng dục tình. Trong gia đình, muốn ấm êm, phải có tôn ti, trật tự thì mọi sự mới êm đẹp.
Nếu mà vợ lấn át chồng, vợ lẽ đòi hơn vợ cả, thì chẳng làm gì nên chuyện. Cho nên:
- Vợ chồng phải tránh chuyện lấy thú vui làm hành động (Động dĩ duyệt. Sở Quy muội dã ).
- Ngôi vị trong gia đình mà dang dở, sẽ sinh họa hoạn (Chinh hung. Vị bất đáng dã).
-Tất cả những chuyện lăng loàn, vượt quyền, vượt vị sẽ gây nên hậu quả không hay (Vô du lợi. Nhu thừa cương dã).
II. Tượng.
Tượng viết:
象 曰 . 澤 上 有 雷 . 歸 妹 . 君 子 以 永 終 知 敝 .
Trạch thượng hữu lôi. Quy muội. Quân tử dĩ vĩnh chung chi tệ.
Dịch. Tượng rằng:
Quy muội sấm động mặt hồ,
Nhìn xa để biết hay ho, hư hèn.
Nhìn xa, trông rộng, mới nên.
Muốn biết một việc hay, dở, phải nhìn cho xa. Ví như thấy sự phối hợp bất chính, thì sẽ đoán được chung cuộc sẽ chẳng hay. Suy ra thì muôn sự đều như vậy. Hễ không đường hoàng, chính đáng, cuối cùng sẽ sinh tệ hại. Như vậy Tượng dạy ta, phải xét việc đời trên phương diện vĩnh cửu, luôn luôn phải tự hỏi xem công việc mình làm có ích lợi cho mình mãi không? hay cuối cùng sẽ có hại.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 歸 妹 以 娣 . 跛 能 履 . 征 吉 .
象 曰 . 歸 妹 以 娣 . 以 恆 也 . 跛 能 履. 吉 . 相 承 也 .
Sơ Cửu.
Quy Muội dĩ đệ. Bả năng lý. Chinh cát.
Tượng viết:
Quy muội dĩ đệ. Dĩ hằng dã. Bả năng lý. Cát. Tương thừa dã.
Dịch.
Phận em, phận lẽ vu quy,
Kiên trinh, hiền thục, vẹn bề trước sau.
Què mà đi được, chẳng sao.
Biết điều, biết xử, biết theo tốt lành.
Sơ Cửu mô tả một người em cùng về nhà chồng với chị, để làm phận lẽ, nếu không dám tự chuyên, biết khuôn xử hợp ý người vợ cả, thì mọi sự đều hay, chẳng khác nào người thọt chân mà vẫn đi lại được.
Xưa, thiên tử, chư hầu cưới vợ, thì lúc về nhà chồng, người vợ đích (vợ cả) bao giờ cũng mang theo em, cháu về theo để làm hầu thiếp. Đó là cái vinh dự cho người em.
Tượng Truyện cho rằng: Về nhà chồng mà chị dẫn em theo là chuyện thông thường, thông lệ (Quy Muội dĩ đệ. Dĩ hằng dã). Người em mà biết thuận thảo với người chị, thì cũng hay (Bả năng lý. Cát. Tương thừa dã).
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 眇 能 視 . 利 幽 人 之 貞 .
象 曰 . 利 幽 人 之 貞 . 未 變 常 也 .
Cửu nhị.
Diếu năng thị. Lợi u nhân chi trinh.
Tượng viết:
Lợi u nhân chi trinh. Vị biến thường dã.
Dịch.
Chột mắt, mà vẫn trông nhìn.
Con người hiền đức, trinh bền, vẫn hay.
Tượng rằng:
Con người trinh chính vẫn hay,
Đạo thường lẽ phải, chẳng hay, chẳng rời.
Cửu nhị tượng trưng người vợ hiền. Lục ngũ tượng trưng người chồng dở. Vợ hay mà chồng dở, cũng khó dựng được nghiệp lớn, như người một mắt chỉ trông được gần, không tinh tường bằng người có đủ hai mắt (Diếu năng thị). Gặp tình cảnh ấy, nếu biết im hơi lặng tiếng, một lòng chung thủy với chồng là hay nhất (Lợi u nhân chi trinh). Hào từ này cũng có thể giải thích là, người vợ cả hiền thục, nhưng không được chồng yêu, mà lại đi yêu người vợ lẽ kém tài, kém đức hơn mình. Tượng viết: Lợi u nhân chi trinh. Vị biến thường dã.
Những người đàn bà hiền thục, thời dầu gặp hoàn cảnh nào cũng không thay lòng, đổi dạ. Trinh liệt như vậy, nên mới đẹp đẽ.
3. Hào Lục tam.
六 三 . 歸 妹 以 須 . 反 歸 以 娣 .
象 曰 . 歸 妹 以 須 . 未 當 也 .
Lục tam.
Quy Muội dĩ tu. phản quy dĩ đệ.
Tượng viết:
Quy muội dĩ tu. Vị đáng dã.
Dịch.
Vu quy, có lúc nên chờ,
Không chờ, lấy lẽ mới ra thân hèn.
Tượng rằng:
Vu quy có lúc nên chờ,
Dở dang, nên hãy đắn đo chờ thời.
Hào Lục tam, Âm nhu, bất trung, bất chính, không khéo xử, không biết chờ thời (Quy muội dĩ tu), nên không được làm vợ chính, mà phải cam phận làm vợ lẽ, nàng hầu (Phản quy dĩ đệ). Tu đây được hiểu là chờ đợi.
Kiến An Khâu thị giải đại khái rằng: Lục tam vốn hèn hơn Cửu nhị, mà lại ngạo nghễ muốn trèo đèo, đòi lấn át Cửu nhị, tức là người vợ cả, như vậy ắt sẽ bị ruồng rẫy, cứ nên cam phận lẽ mọn của mình thì hơn. Tu đây được hiểu là người con gái ti tiện.
Tượng viết: Quy muội dĩ tu. Vị đáng dã. Tượng Truyện cho rằng tất cả những chuyện éo le, dang dở của Lục tam, đều là do sự cư xử không thích đáng mà ra. Nên Kiến An Khâu thị cho rằng: Hào Sơ dưới, biết phận hầu thiếp của mình, ở ăn phải đạo, thế là cư xử đúng vị. Hào tam, Nhu mà đòi lướt Cương, Tiện mà đòi vượt Quí, thế là cư xử không chính đáng.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 歸 妹 愆 期 . 遲 歸 有 時 .
象 曰 . 愆 期 之 志 . 有 待 而 行 也 .
Cửu tứ.
Quy muội khiên kỳ. Trì quy hữu thì.
Tượng viết:
Khiên kỳ chi chí. Hữu đãi nhi hành dã.
Dịch.
Vu quy, phải hoãn, phải chờ,
Từ từ, cho hợp thời cơ mới là.
Tượng rằng:
Có gan, khoan dãn đợi chờ,
Đợi chờ, cho gặp thời cơ mới làm.
Cửu tứ là người con gái hiền đức, biết tự trọng, nhưng vì không có chính ứng, nên nói rằng Khiên kỳ (Chậm về nhà chồng). Quy muội khiên kỳ. Nhưng nếu mình biết chờ đợi, rồi ra cũng lấy được chồng hay, chậm về nhà chồng, nhưng rồi cũng về nhà chồng (Trì quy hữu thì).
Tượng Truyện cho rằng: Cửu tứ chậm đi lấy chồng, không phải vì ế chồng, mà là có ý kén chồng tốt mới chịu lấy (Khiên kỳ chi chí. Hữu đãi nhi hành dã). Thế là:
Lộc còn ẩn bóng cây tùng .
Thuyền quyên đợi bóng anh hùng vãng lai.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 帝 乙 歸 妹 . 其 君 之 袂 . 不 如 其 娣 之 袂 良 . 月 几 望 . 吉 .
象 曰 . 帝 乙 歸 妹 . 不 如 其 娣 之 袂 良 也 . 其 位 在 中 . 以 貴 行 也 .
Lục ngũ.
Đế Ất quy muội. Kỳ quân chi duệ. Bất như kỳ đệ chi duệ lương.
Nguyệt cơ vọng. Cát.
Tượng viết:
Đế Ất quy muội. Bất như kỳ đệ chi duệ lương dã.
Kỳ vị tại trung. Dĩ quí hành dã.
Dịch.
Kìa vua Đế Ất gả em,
Nàng dâu, tay áo trông xem kém người,
Kém người lẽ mọn, tôi đòi.
Tôi đòi, lẽ mọn, trông ngoài sang hơn.
Vầng trăng xấp xỉ chưa tròn,
Vừa cao, vừa quí, vừa ngoan, vừa lành.
Tượng rằng: Đế Ất gả em,
Xuềnh xoàng áo xống, trông xem kém người.
Kém người phù tá, tôi đòi,
Xuềnh xoàng, dản dị, thế thời mới hay.
Vị cao, mà đức lại dày,
Trinh trung, nhu thuận ra người cao sang.
Lục ngũ bàn về chuyện vua Đế Ất gả em gái là Thái Tự cho vua Văn Vương. Đế Ất là vua giáp chót nhà Ân, trước vua Trụ. Đế Ất trị vì từ 1191 đến 1155 trước Công nguyên. Theo Trình Tử thì vua Đế Ất đã ra sắc chỉ quy định rằng công chúa mà lấy chồng, cũng phải vâng phục quyền chồng. Nàng dâu ở đây rất đức hạnh, không ưa trang điểm, nên phục sức có vẻ thua sút các nàng dâu đi theo phù dâu (Kỳ quân chi duệ. Bất như kỳ đệ chi duệ lương). Quân đây là nàng dâu, là vợ cả. Xưa vợ cả được gọi là Nữ quân hay Quân mẫu. Nàng lại khiêm cung, không dám lấn át chồng. Như vậy mới là ngoan (Nguyệt cơ vọng cát).
Tượng Truyện khen nàng dâu nhã nhặn, không ưa phục sức lộng lẫy, và cho rằng sở dĩ được vậy là vì địa vị đã cao, xử xự lại đúng mức, hành vi lại thanh quí (Đế Ất quy muội. Bất như kỳ đệ chi duệ lương dã. Kỳ vị tại trung. Dĩ quí hành dã).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 女 承 筐 無 實 . 士 囗 羊 無 血 . 無 攸 利 .
象 曰 . 上 六 無 實 . 承 虛 筐 也 .
Thượng Lục.
Nữ thừa khuông vô thực. Sĩ khuê dương vô huyết. Vô du lợi.
Tượng viết:
Thượng Lục vô thực. Thừa hư khuông dã.
Dịch.
Gái bưng một cái giỏ không,
Giai đem dê giết, máu hồng chẳng rơi.
Việc gì, cũng chẳng có lơi,
Việc gì cũng sẽ lôi thôi, chẳng toàn.
Tượng rằng: Thượng Lục rỗng lòng,
Thế là bưng cái giỏ không có đồ.
Xưa người vợ hiền, phải cộng tác với chồng để đồng tế lễ tiên tổ. Đó là một công chuyện hết sức hệ trọng, không thể làm hời hợt được. Những bà vợ không làm tròn bổn phận tế lễ tiên tổ, có thể bị chồng trả về cha mẹ vợ. (Xem Li Ki, Couvreur II, 197 ).
Hào Thượng Lục đây đề cập đến trường hợp cả hai vợ chồng đều lỗi bổn phận trong khi tế lễ. Vợ thì dâng giỏ không (Nữ thừa khuông vô thực), chồng thì chọc tiết dê không ra máu, (Sĩ khuê dương vô huyết). Như vậy là cặp vợ chồng hỏng (Vô du lợi), không ăn đời, ở kiếp với nhau được, cho nên thay vì dùng chữ Phu Phụ, Hào từ dùng chữ Sĩ, Nữ. Người vợ mà không làm tròn phận sự tế lễ, dâng giỏ không, thời chắc chẳng phải là một người có thể cùng chồng tính kế bách niên, giai lão (Thượng Lục vô thực. Thừa hư khuông dã). Quẻ Quy Muội đã làm sống lại cả một dĩ vãng xa xăm, với những phong tục đặc biệt, mà nay khảo sát đến, ta không khỏi bỡ ngỡ một cách thích thú.
ÁP DỤNG QUẺ QUI MUỘI VÀO THỜI ĐẠI
Chế độ đa thê trong quẻ Quy Muội đã quá lỗi thời, không phù hợp hiện tại. Ngày nay ta ở trong chế độ Một vợ, một chồng. Nhưng sự lo lắng về hôn nhân cho con cái, thì quẻ Quy muội cũng khiến ta nên suy nghĩ, để rút tỉa những cái khôn ngoan của người xưa, mà áp dụng dung hòa cho ngày nay. Xưa, con gái mới 12, 13 tuổi, cha mẹ đã lo dựng vợ, gả chồng, con cái có yên bề gia thất, thì cha mẹ mới coi như đã làm tròn bổn phận. Nhưng ngày nay, tiêm nhiễm theo văn minh Âu Mỹ, những thanh thiếu niên ý thức được những cái hay của nước người là làm việc chuyên cần, chịu khó, thì đều thành công trong xã hội, còn những người chỉ trông thấy sự tự do của họ thì bắt chước theo, nhưng đã đi quá trớn như:
- Tự do hôn nhân. Thay vì được lựa chọn người yêu như ý mình, thì họ yêu đương bừa bãi, không cân nhắc, không suy nghĩ; thậm chí bất chấp lời khuyên can của cha mẹ, của các bậc bề trên, nhiều khi còn cho ra đời những đứa con không cha, và chính bản thân mình không có ai muốn cưới hỏi đàng hoàng. Vậy thử hỏi các bậc cha mẹ, có ai thoát khỏi nỗi đau lòng, khi trông thấy con cái mình như vậy? Quẻ Quy Muội giúp ta suy nghĩ và cân nhắc về sự suy tính của trí tuệ người xưa, và biến đổi nó lại, để áp dụng cho thời đại ngày nay. Trong bài này, ta chỉ đề cập đến vấn đề hôn nhân, và giáo dục con cái mà thôi..
Khi xưa, ở Trung Hoa, nhà có nhiều con gái, cháu gái, sợ có nhiều người bị ế chồng, và khi đi lấy chồng là coi như phải xa nhà, mỗi khi muốn về thăm cha mẹ cũng khó khăn, phải được bố mẹ chồng hoặc chồng cho phép. Nếu gặp gia đình nhà chồng khắt khe, thì người nàng dâu đó rất cô đơn và khổ sở, nên xã hội phải đặt ra tục lệ như quẻ Quy Muội tả trên, cho em gái hoặc cháu gái cùng về nhà chồng, để làm hầu thiếp, để đỡ đần công việc, và chia xẻ ngọt bùi, cho cô dâu bớt cô đơn. Nhưng đồng thời, bậc cha mẹ cũng phải huấn luyện con gái mình, thành người hiền thục, khoan hồng, đại lượng, và các cô hầu thiếp đi theo cũng phải phục tùng, và thuận thảo, nếu ai làm trái ngược thì coi như mang tai họa đến cho nhà chồng. Do đó nhờ có sự giáo dục cẩn thận của cha mẹ, nên trên dưới một lòng.
Áp dụng vào ngày nay, thì cha mẹ nên để ý giáo dục con ngay từ lúc còn nhỏ, lo để ý tìm bạn cho con giao thiệp, trong đám con cháu của bè bạn mình, như vậy là mình phải dành chút thì giờ cuối tuần để lo giao thiệp, để dạy con làm công việc nội trợ, để đưa con đi chơi, để cho chúng thấy mình được cha mẹ thương yêu, lo lắng cho, chớ để cho con cái thấy mình bị cô đơn, không ai ngó ngàng tới, cả ngay bố mẹ chúng chỉ tối ngày lo làm tiền, mà không để ý gì đến chúng. Sự thật tiền thì ai cũng cần, nhưng con cái mình còn quan trọng hơn tiền. Như vậy con cái đã có tình yêu của cha mẹ đầy đủ, đã có bè bạn tốt, có giáo dục đầy đủ, thì sự sa đoạ cũng bớt đi nhiều, và như vậy việc Hôn nhân của chúng cũng làm ta bớt mệt óc, vì chúng có nhiều đối tượng tốt để so sánh, do đó cũng khó sa ngã. Và Tự Do Hôn Nhân là tự do lựa chọn, với sự hướng dẫn của các bậc phụ huynh, như vậy cũng làm cho ta yên trí và tin tưởng được phần nào.
LÔI TRẠCH QUY MUỘI
Quy Muội Tự Quái
歸 妹 序 卦
Tiệm giả tiến dã.
漸 者 進 也
Tiến tất hữu sở quy.
進 必 有 所 歸
Cố thụ chi dĩ Quy Muội.
故 受 之 以 歸 妹
Quy Muội Tự Quái
Tiến là tiến mãi, tiến lên.
Tiến nhưng có chốn, có miền hồi quy
Cho nên, Quy Muội tiếp kỳ...
Quy muội là gả em gái, hay cô gái về nhà chồng, mà không đủ lễ nghi cheo cưới. Quẻ Quy Muội này còn đề cập đến một tục lệ tối sơ của Trung Hoa xưa. Đó là một người quí tộc, có thể lấy một lúc vừa vợ, vừa nàng hầu. Nàng hầu có thể là em, hoặc cháu người vợ chính. Vì thế mà khi nhà giai hỏi vợ, thì bên nhà gái, lúc con gái mình vu quy, phải cho ít nhất là người con gái út theo chị, và một người cháu gái theo cô để phù dâu, và cũng để làm hầu thiếp sau này.
Song song với tục lệ này, còn có một tục lệ khác, là nhà vua có quyền lấy nhiều vợ và phi tần hơn. Trong quẻ Quy Muội, ta sẽ chỉ lưu ý đến tục lệ một người quí phái, vương tôn có thể lấy một lúc hai chị em và người cháu.
I. Thoán.
Thoán từ.
歸 妹 . 征 凶 . 無 攸 利 .
Quy muội. Chinh hung. Vô du lợi.
Dịch.
Quy muội, gái nhỏ vu quy,
Lạ lùng, bỡ ngỡ, làm gì cho đây.
Quẻ Quy Muội, trên là Chấn, là trưởng nam, dưới là Đoài, là thiếu nữ. Như vậy về đôi tuổi cũng chênh lệch, lại Đoài là duyệt, Chấn là động; lấy sự thỏa thích làm động cơ cho công việc làm, thì vợ chồng sẽ đi đến chỗ phóng túng dục tình, cho nên sẽ chẳng ra gì. Nhưng cũng có thể giải cách khác là Phận em, phận lẽ, không nên chuyên quyền, không nên tự quyết, mà nhất nhất phải tùy thuộc vào người vợ cả, chẳng vậy sẽ không ra gì. Vì thế nói: Chinh hung. Vô du lợi.
Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰 . 歸 妹 . 天 地 之 大 義 也 . 天 地 不 交 . 而 萬 物 不 興 . 歸 妹 人 之 終 始 也 . 說 以 動 . 所 歸 妹 也 . 征 凶 . 位 不 當 也 . 無 攸 利 . 柔 乘 剛 也 .
Quy Muội. Thiên địa chi đại nghĩa dã. Thiên địa bất giao nhi vạn vật bất hưng. Quy muội. Nhân chi chung thủy dã. Duyệt dĩ động. Sở Quy muội dã. Chinh hung. Vị bất đáng dã. Vô du lợi. Nhu thừa cương dã.
Dịch.
Cảm tình Quy Muội, gái trai
Âm Dương phối ngẫu, luật trời xưa nay,
Đất trời gàng quải, đó đây,
Thế thời vạn vật, biết ngày nào sinh.
Gái trai, Quy muội chi tình,
Ấy là đầu cuối, mối manh con người.
Vui nên hành động buông xuôi,
Thế nên, gái mới theo trai ra về,
Làm gì, cũng sẽ ê chề,
Là vì chẳng được xứng bề, xứng ngôi.
Trăm điều, chẳng tốt, chẳng xuôi.
Là vì Nhu lại cưỡi chòi lên Cương.
Thoán Truyện đề cao sự phối ngẫu, và sánh cuộc hôn nhân giữa con người với sự hòa hài của trời đất (Quy Muội. Thiên địa chi đại nghĩa dã. Thiên địa bất giao nhi vạn vật bất hưng). Cho nên Hôn Lễ đối với con người hết sức là quan trọng. Vì thế Thoán viết tiếp Quy Muội nhân chi chung thủy dã.
Sách Quốc ngữ cũng viết: Hôn nhân họa phúc chi giai (Quốc ngữ, Chu Ngữ, đệ nhất). Hôn nhân là thềm, là bậc, là họa, phúc, vào nhà một vương tôn công tử.
Chu Hi giải quẻ Quy Muội, sở dĩ là chung thủy vì con người về nhà chồng là hết đời con gái, và bắt đầu đời của người mẹ (Quy giả nữ chi chung. Sinh dục giả nhân chi thủy). Chuyện vợ chồng dĩ nhiên là quan trọng. Nhưng vợ chồng lấy nhau cốt để sinh con đẻ cái, là cho giòng họ trở nên hùng tráng, vững bền, lại cũng cùng nhau tế tự tổ tiên, chứ không phải là để phóng túng dục tình. Trong gia đình, muốn ấm êm, phải có tôn ti, trật tự thì mọi sự mới êm đẹp.
Nếu mà vợ lấn át chồng, vợ lẽ đòi hơn vợ cả, thì chẳng làm gì nên chuyện. Cho nên:
- Vợ chồng phải tránh chuyện lấy thú vui làm hành động (Động dĩ duyệt. Sở Quy muội dã ).
- Ngôi vị trong gia đình mà dang dở, sẽ sinh họa hoạn (Chinh hung. Vị bất đáng dã).
-Tất cả những chuyện lăng loàn, vượt quyền, vượt vị sẽ gây nên hậu quả không hay (Vô du lợi. Nhu thừa cương dã).
II. Tượng.
Tượng viết:
象 曰 . 澤 上 有 雷 . 歸 妹 . 君 子 以 永 終 知 敝 .
Trạch thượng hữu lôi. Quy muội. Quân tử dĩ vĩnh chung chi tệ.
Dịch. Tượng rằng:
Quy muội sấm động mặt hồ,
Nhìn xa để biết hay ho, hư hèn.
Nhìn xa, trông rộng, mới nên.
Muốn biết một việc hay, dở, phải nhìn cho xa. Ví như thấy sự phối hợp bất chính, thì sẽ đoán được chung cuộc sẽ chẳng hay. Suy ra thì muôn sự đều như vậy. Hễ không đường hoàng, chính đáng, cuối cùng sẽ sinh tệ hại. Như vậy Tượng dạy ta, phải xét việc đời trên phương diện vĩnh cửu, luôn luôn phải tự hỏi xem công việc mình làm có ích lợi cho mình mãi không? hay cuối cùng sẽ có hại.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 歸 妹 以 娣 . 跛 能 履 . 征 吉 .
象 曰 . 歸 妹 以 娣 . 以 恆 也 . 跛 能 履. 吉 . 相 承 也 .
Sơ Cửu.
Quy Muội dĩ đệ. Bả năng lý. Chinh cát.
Tượng viết:
Quy muội dĩ đệ. Dĩ hằng dã. Bả năng lý. Cát. Tương thừa dã.
Dịch.
Phận em, phận lẽ vu quy,
Kiên trinh, hiền thục, vẹn bề trước sau.
Què mà đi được, chẳng sao.
Biết điều, biết xử, biết theo tốt lành.
Sơ Cửu mô tả một người em cùng về nhà chồng với chị, để làm phận lẽ, nếu không dám tự chuyên, biết khuôn xử hợp ý người vợ cả, thì mọi sự đều hay, chẳng khác nào người thọt chân mà vẫn đi lại được.
Xưa, thiên tử, chư hầu cưới vợ, thì lúc về nhà chồng, người vợ đích (vợ cả) bao giờ cũng mang theo em, cháu về theo để làm hầu thiếp. Đó là cái vinh dự cho người em.
Tượng Truyện cho rằng: Về nhà chồng mà chị dẫn em theo là chuyện thông thường, thông lệ (Quy Muội dĩ đệ. Dĩ hằng dã). Người em mà biết thuận thảo với người chị, thì cũng hay (Bả năng lý. Cát. Tương thừa dã).
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 眇 能 視 . 利 幽 人 之 貞 .
象 曰 . 利 幽 人 之 貞 . 未 變 常 也 .
Cửu nhị.
Diếu năng thị. Lợi u nhân chi trinh.
Tượng viết:
Lợi u nhân chi trinh. Vị biến thường dã.
Dịch.
Chột mắt, mà vẫn trông nhìn.
Con người hiền đức, trinh bền, vẫn hay.
Tượng rằng:
Con người trinh chính vẫn hay,
Đạo thường lẽ phải, chẳng hay, chẳng rời.
Cửu nhị tượng trưng người vợ hiền. Lục ngũ tượng trưng người chồng dở. Vợ hay mà chồng dở, cũng khó dựng được nghiệp lớn, như người một mắt chỉ trông được gần, không tinh tường bằng người có đủ hai mắt (Diếu năng thị). Gặp tình cảnh ấy, nếu biết im hơi lặng tiếng, một lòng chung thủy với chồng là hay nhất (Lợi u nhân chi trinh). Hào từ này cũng có thể giải thích là, người vợ cả hiền thục, nhưng không được chồng yêu, mà lại đi yêu người vợ lẽ kém tài, kém đức hơn mình. Tượng viết: Lợi u nhân chi trinh. Vị biến thường dã.
Những người đàn bà hiền thục, thời dầu gặp hoàn cảnh nào cũng không thay lòng, đổi dạ. Trinh liệt như vậy, nên mới đẹp đẽ.
3. Hào Lục tam.
六 三 . 歸 妹 以 須 . 反 歸 以 娣 .
象 曰 . 歸 妹 以 須 . 未 當 也 .
Lục tam.
Quy Muội dĩ tu. phản quy dĩ đệ.
Tượng viết:
Quy muội dĩ tu. Vị đáng dã.
Dịch.
Vu quy, có lúc nên chờ,
Không chờ, lấy lẽ mới ra thân hèn.
Tượng rằng:
Vu quy có lúc nên chờ,
Dở dang, nên hãy đắn đo chờ thời.
Hào Lục tam, Âm nhu, bất trung, bất chính, không khéo xử, không biết chờ thời (Quy muội dĩ tu), nên không được làm vợ chính, mà phải cam phận làm vợ lẽ, nàng hầu (Phản quy dĩ đệ). Tu đây được hiểu là chờ đợi.
Kiến An Khâu thị giải đại khái rằng: Lục tam vốn hèn hơn Cửu nhị, mà lại ngạo nghễ muốn trèo đèo, đòi lấn át Cửu nhị, tức là người vợ cả, như vậy ắt sẽ bị ruồng rẫy, cứ nên cam phận lẽ mọn của mình thì hơn. Tu đây được hiểu là người con gái ti tiện.
Tượng viết: Quy muội dĩ tu. Vị đáng dã. Tượng Truyện cho rằng tất cả những chuyện éo le, dang dở của Lục tam, đều là do sự cư xử không thích đáng mà ra. Nên Kiến An Khâu thị cho rằng: Hào Sơ dưới, biết phận hầu thiếp của mình, ở ăn phải đạo, thế là cư xử đúng vị. Hào tam, Nhu mà đòi lướt Cương, Tiện mà đòi vượt Quí, thế là cư xử không chính đáng.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 歸 妹 愆 期 . 遲 歸 有 時 .
象 曰 . 愆 期 之 志 . 有 待 而 行 也 .
Cửu tứ.
Quy muội khiên kỳ. Trì quy hữu thì.
Tượng viết:
Khiên kỳ chi chí. Hữu đãi nhi hành dã.
Dịch.
Vu quy, phải hoãn, phải chờ,
Từ từ, cho hợp thời cơ mới là.
Tượng rằng:
Có gan, khoan dãn đợi chờ,
Đợi chờ, cho gặp thời cơ mới làm.
Cửu tứ là người con gái hiền đức, biết tự trọng, nhưng vì không có chính ứng, nên nói rằng Khiên kỳ (Chậm về nhà chồng). Quy muội khiên kỳ. Nhưng nếu mình biết chờ đợi, rồi ra cũng lấy được chồng hay, chậm về nhà chồng, nhưng rồi cũng về nhà chồng (Trì quy hữu thì).
Tượng Truyện cho rằng: Cửu tứ chậm đi lấy chồng, không phải vì ế chồng, mà là có ý kén chồng tốt mới chịu lấy (Khiên kỳ chi chí. Hữu đãi nhi hành dã). Thế là:
Lộc còn ẩn bóng cây tùng .
Thuyền quyên đợi bóng anh hùng vãng lai.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 帝 乙 歸 妹 . 其 君 之 袂 . 不 如 其 娣 之 袂 良 . 月 几 望 . 吉 .
象 曰 . 帝 乙 歸 妹 . 不 如 其 娣 之 袂 良 也 . 其 位 在 中 . 以 貴 行 也 .
Lục ngũ.
Đế Ất quy muội. Kỳ quân chi duệ. Bất như kỳ đệ chi duệ lương.
Nguyệt cơ vọng. Cát.
Tượng viết:
Đế Ất quy muội. Bất như kỳ đệ chi duệ lương dã.
Kỳ vị tại trung. Dĩ quí hành dã.
Dịch.
Kìa vua Đế Ất gả em,
Nàng dâu, tay áo trông xem kém người,
Kém người lẽ mọn, tôi đòi.
Tôi đòi, lẽ mọn, trông ngoài sang hơn.
Vầng trăng xấp xỉ chưa tròn,
Vừa cao, vừa quí, vừa ngoan, vừa lành.
Tượng rằng: Đế Ất gả em,
Xuềnh xoàng áo xống, trông xem kém người.
Kém người phù tá, tôi đòi,
Xuềnh xoàng, dản dị, thế thời mới hay.
Vị cao, mà đức lại dày,
Trinh trung, nhu thuận ra người cao sang.
Lục ngũ bàn về chuyện vua Đế Ất gả em gái là Thái Tự cho vua Văn Vương. Đế Ất là vua giáp chót nhà Ân, trước vua Trụ. Đế Ất trị vì từ 1191 đến 1155 trước Công nguyên. Theo Trình Tử thì vua Đế Ất đã ra sắc chỉ quy định rằng công chúa mà lấy chồng, cũng phải vâng phục quyền chồng. Nàng dâu ở đây rất đức hạnh, không ưa trang điểm, nên phục sức có vẻ thua sút các nàng dâu đi theo phù dâu (Kỳ quân chi duệ. Bất như kỳ đệ chi duệ lương). Quân đây là nàng dâu, là vợ cả. Xưa vợ cả được gọi là Nữ quân hay Quân mẫu. Nàng lại khiêm cung, không dám lấn át chồng. Như vậy mới là ngoan (Nguyệt cơ vọng cát).
Tượng Truyện khen nàng dâu nhã nhặn, không ưa phục sức lộng lẫy, và cho rằng sở dĩ được vậy là vì địa vị đã cao, xử xự lại đúng mức, hành vi lại thanh quí (Đế Ất quy muội. Bất như kỳ đệ chi duệ lương dã. Kỳ vị tại trung. Dĩ quí hành dã).
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 女 承 筐 無 實 . 士 囗 羊 無 血 . 無 攸 利 .
象 曰 . 上 六 無 實 . 承 虛 筐 也 .
Thượng Lục.
Nữ thừa khuông vô thực. Sĩ khuê dương vô huyết. Vô du lợi.
Tượng viết:
Thượng Lục vô thực. Thừa hư khuông dã.
Dịch.
Gái bưng một cái giỏ không,
Giai đem dê giết, máu hồng chẳng rơi.
Việc gì, cũng chẳng có lơi,
Việc gì cũng sẽ lôi thôi, chẳng toàn.
Tượng rằng: Thượng Lục rỗng lòng,
Thế là bưng cái giỏ không có đồ.
Xưa người vợ hiền, phải cộng tác với chồng để đồng tế lễ tiên tổ. Đó là một công chuyện hết sức hệ trọng, không thể làm hời hợt được. Những bà vợ không làm tròn bổn phận tế lễ tiên tổ, có thể bị chồng trả về cha mẹ vợ. (Xem Li Ki, Couvreur II, 197 ).
Hào Thượng Lục đây đề cập đến trường hợp cả hai vợ chồng đều lỗi bổn phận trong khi tế lễ. Vợ thì dâng giỏ không (Nữ thừa khuông vô thực), chồng thì chọc tiết dê không ra máu, (Sĩ khuê dương vô huyết). Như vậy là cặp vợ chồng hỏng (Vô du lợi), không ăn đời, ở kiếp với nhau được, cho nên thay vì dùng chữ Phu Phụ, Hào từ dùng chữ Sĩ, Nữ. Người vợ mà không làm tròn phận sự tế lễ, dâng giỏ không, thời chắc chẳng phải là một người có thể cùng chồng tính kế bách niên, giai lão (Thượng Lục vô thực. Thừa hư khuông dã). Quẻ Quy Muội đã làm sống lại cả một dĩ vãng xa xăm, với những phong tục đặc biệt, mà nay khảo sát đến, ta không khỏi bỡ ngỡ một cách thích thú.
ÁP DỤNG QUẺ QUI MUỘI VÀO THỜI ĐẠI
Chế độ đa thê trong quẻ Quy Muội đã quá lỗi thời, không phù hợp hiện tại. Ngày nay ta ở trong chế độ Một vợ, một chồng. Nhưng sự lo lắng về hôn nhân cho con cái, thì quẻ Quy muội cũng khiến ta nên suy nghĩ, để rút tỉa những cái khôn ngoan của người xưa, mà áp dụng dung hòa cho ngày nay. Xưa, con gái mới 12, 13 tuổi, cha mẹ đã lo dựng vợ, gả chồng, con cái có yên bề gia thất, thì cha mẹ mới coi như đã làm tròn bổn phận. Nhưng ngày nay, tiêm nhiễm theo văn minh Âu Mỹ, những thanh thiếu niên ý thức được những cái hay của nước người là làm việc chuyên cần, chịu khó, thì đều thành công trong xã hội, còn những người chỉ trông thấy sự tự do của họ thì bắt chước theo, nhưng đã đi quá trớn như:
- Tự do hôn nhân. Thay vì được lựa chọn người yêu như ý mình, thì họ yêu đương bừa bãi, không cân nhắc, không suy nghĩ; thậm chí bất chấp lời khuyên can của cha mẹ, của các bậc bề trên, nhiều khi còn cho ra đời những đứa con không cha, và chính bản thân mình không có ai muốn cưới hỏi đàng hoàng. Vậy thử hỏi các bậc cha mẹ, có ai thoát khỏi nỗi đau lòng, khi trông thấy con cái mình như vậy? Quẻ Quy Muội giúp ta suy nghĩ và cân nhắc về sự suy tính của trí tuệ người xưa, và biến đổi nó lại, để áp dụng cho thời đại ngày nay. Trong bài này, ta chỉ đề cập đến vấn đề hôn nhân, và giáo dục con cái mà thôi..
Khi xưa, ở Trung Hoa, nhà có nhiều con gái, cháu gái, sợ có nhiều người bị ế chồng, và khi đi lấy chồng là coi như phải xa nhà, mỗi khi muốn về thăm cha mẹ cũng khó khăn, phải được bố mẹ chồng hoặc chồng cho phép. Nếu gặp gia đình nhà chồng khắt khe, thì người nàng dâu đó rất cô đơn và khổ sở, nên xã hội phải đặt ra tục lệ như quẻ Quy Muội tả trên, cho em gái hoặc cháu gái cùng về nhà chồng, để làm hầu thiếp, để đỡ đần công việc, và chia xẻ ngọt bùi, cho cô dâu bớt cô đơn. Nhưng đồng thời, bậc cha mẹ cũng phải huấn luyện con gái mình, thành người hiền thục, khoan hồng, đại lượng, và các cô hầu thiếp đi theo cũng phải phục tùng, và thuận thảo, nếu ai làm trái ngược thì coi như mang tai họa đến cho nhà chồng. Do đó nhờ có sự giáo dục cẩn thận của cha mẹ, nên trên dưới một lòng.
Áp dụng vào ngày nay, thì cha mẹ nên để ý giáo dục con ngay từ lúc còn nhỏ, lo để ý tìm bạn cho con giao thiệp, trong đám con cháu của bè bạn mình, như vậy là mình phải dành chút thì giờ cuối tuần để lo giao thiệp, để dạy con làm công việc nội trợ, để đưa con đi chơi, để cho chúng thấy mình được cha mẹ thương yêu, lo lắng cho, chớ để cho con cái thấy mình bị cô đơn, không ai ngó ngàng tới, cả ngay bố mẹ chúng chỉ tối ngày lo làm tiền, mà không để ý gì đến chúng. Sự thật tiền thì ai cũng cần, nhưng con cái mình còn quan trọng hơn tiền. Như vậy con cái đã có tình yêu của cha mẹ đầy đủ, đã có bè bạn tốt, có giáo dục đầy đủ, thì sự sa đoạ cũng bớt đi nhiều, và như vậy việc Hôn nhân của chúng cũng làm ta bớt mệt óc, vì chúng có nhiều đối tượng tốt để so sánh, do đó cũng khó sa ngã. Và Tự Do Hôn Nhân là tự do lựa chọn, với sự hướng dẫn của các bậc phụ huynh, như vậy cũng làm cho ta yên trí và tin tưởng được phần nào.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ: