Tượng hào vs tượng quẻ

Hỏi đáp, luận giải về các môn gieo quẻ: Lục nhâm, Thái Ất, Lục hào, Mai hoa ...
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem quẻ: Lục nhâm, Thái ất, Lục hào, Mai hoa... Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức Dịch lý.
Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

1 CẤN VI SƠN
BÁT THUẦN CẤN

Cấn Tự Quái
艮 序 卦
Vật bất khả dĩ chung động.
物 不 可 以 終 動 .
Chỉ chi.
止 之 .
Cố thụ chi dĩ Cấn.
故 受 之 以 艮 .
Cấn giả chỉ dã.
艮 者 止 也 .

Cấn Tự Quái
Vật nào chuyển động mãi đây.
Động rồi cũng sẽ có ngày dừng chân.
Cho nên lấy Cấn mà ngăn.
Cấn là ngưng nghỉ, là dừng chẳng đi.

Cấn là núi, là ngưng nghỉ, là dừng lại. Sau quẻ Chấn tiếp theo quẻ Cấn, vì sự đời động mãi, cũng có lúc phải ngưng, biến dịch mãi cũng có lúc phải kết thúc.
Quẻ Cấn này nếu hiểu theo nghĩa đen, thì ngớ ngẩn hết sức, nhưng nếu chúng ta dùng cái nhìn toàn bích để nhìn vào quẻ, nếu chúng ta hiểu Huyền nghĩa của quẻ, thì quẻ Cấn trở thành một quẻ rất cao siêu.
Trước hết, nếu ta có cái nhìn toàn bích, ta sẽ nhận ra rằng: Dịch Trung Hoa có 2 vòng Dịch Tiên Thiên (Phục Hi), và Dịch Hậu thiên (Văn Vương). Khoa chiêm tinh học Âu Châu cũng có 2 cách nhận định về vòng Hoàng Đạo. Đem đối chiếu, ta sẽ thấy tương quan như sau:
1. Vòng Dịch Tiên Thiên gồm 8 quẻ của Phục Hi, là Kiền, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn, sau biến thành 64 quẻ, và vòng Hoàng Đạo 1 (Tiên Thiên) của Tây phương. Ở 2 bản đồ phía dưới, ta thấy chu kỳ biến dịch chia làm 2 chặng:
a. Chặng 1 từ Cấu đến Khôn (hay Tốn đến Khôn), hoặc từ Cự giải đến Nhân mã. Đó là giai đoạn tán của vũ trụ và thoái hóa của con người. Thiệu tử cho rằng Cấu là đầu chặng đường, để con người ra đi, thăm thú Động nguyệt (ngoại cảnh vật chất). Macrobe thì cho rằng Cự giải là cửa người (La porte des hommes).
b. Chặng 2 từ Phục đến Kiền, hay từ cung Ma Yết đến cung Song tử. Đó là giai đoạn tụ của vũ trụ, giai đoạn tiến hóa của con người (évolution).
Thiệu tử cho rằng Phục là khi con người thấy được Thiên địa chi tâm, tức là khởi đầu chặng đường qui căn, phản bản. Macrobe cho rằng Ma Yết là cửa Thần minh (La porte des Dieux)


Vòng Dịch Hậu Thiên của Văn Vương, gồm 8 quẻ: Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, và Vòng Hoàng Đạo 2 của Tây Phương.


Văn Vương cho rằng con người phải biến thiên theo hướng đi của mặt trời. Cuộc biến thiên bắt đầu từ quẻ Chấn, tức là bắt đầu từ lúc sơ sinh, và kết thúc bằng quẻ Cấn, tức là ngưng nghỉ nơi chí thiện. Vì thế Thuyết Quái Truyện nói: Vạn vật xuất hồ Chấn... Cấn. Vạn vật chi sở thành chung nhi sở thành thủy dã. Như vậy, con người có khác nào 1 vì vương tử, cùng với mặt trời đi tuần thú muôn phương, rồi lại trở về cung điện cũ.
Theo vòng Hoàng Đạo, thì sự tiến hóa sẽ đi từ cung Bạch Dương, và kết thúc bằng cung Song ngư. Ông Sénard viết: Song ngư là cung thứ 12, và là cung sau chót của vòng Hoàng đạo. Đó là Thiên đỉnh, tức là giao điểm của cuộc sống phù sinh và đời sống hằng cửu (M. Sénard, Le Zodiaque. p. 446).
Đó là giai đoạn chót của đời sống huyền đồng. Delacroix viết: Tiểu ngã bị hủy diệt... và được thay thế bằng 1 nhân cách mới, với một lối cảm nghĩ và hành động mới... Tâm thần con người bị thay đổi, ngã chấp khởi thủy bị tiêu diệt; thay vào đó thấy thể hiện một tâm thức mới, quảng đại hơn; phàm cách được tan biến trong thiên thể. Thiên thể thay thế cho phàm thể cũ.
II. Thoán.
Thoán từ:
艮 . 艮 其 背 . 不 獲 其 身 . 行 其 庭 . 不 見 其 人 . 無 咎 .
Cấn. Cấn kỳ bối. Bất hoạch kỳ thân. Hành kỳ đình.
Bất kiến kỳ nhân. Vô cữu.
Dịch.
Cấn là dừng lại sau lưng,
Dừng nơi chí thiện, quên thân, quên người.
Bản thân mà đã quên rồi,
Trong sân đi lại, quên người lỗi chi.
Trong con người, mọi bộ phận đều động, duy cái lưng thường bất động. Động thường hay làm ác. Tĩnh thì mới chí thiện; cho nên nói: Cấn kỳ bối, là muốn nói: Chỉ ư chí thiện. Do lòng tư dục, con người mới phân nhân, ngã. Dẹp được lòng tư dục rồi, thời chỉ thấy thiên lý, thấy đạo lý, không còn phân nhân, ngã nữa. Thế chính là Bất hoạch kỳ thân. Hành kỳ đình. Bất kiến kỳ nhân vậy.

Thoán Truyện:
彖 曰 . 艮 . 止 也 . 時 止 則 止 . 時 行 則 行 . 動 靜 不 失 其 時 . 其 道 光 明 . 艮 其 止 . 止 其 所 也 . 上 下 敵 應 . 不 相 與 也 . 是 以 不 獲 其 身 . 行 其 庭 不 見 其 人 . 無 咎 也 .
Cấn. Chỉ dã. Thì chỉ tắc chỉ. Thì hành tắc hành. Động tĩnh bất thất kỳ thì. Kỳ đạo quang minh. Cấn kỳ chỉ. Chỉ kỳ sở dã. Thượng hạ địch ứng. Bất tương dữ dã. Thị dĩ bất hoạch kỳ thân. Hành kỳ đình. Bất kiến kỳ nhân. Vô cữu dã.
Dịch. Thoán rằng:
Cấn là ngừng nghỉ, thôi đi,
Nghỉ khi nên nghỉ, làm khi nên làm.
Tùy thời động tĩnh, mới ngoan,
Thế thời đạo mới huy quang, rạng ngời.
Cấn là dừng lại nghỉ ngơi.
Dừng chân đứng lại, đúng nơi mới tình.
Dưới, trên, ứng đối phân minh,
Nhưng mà không có tương tranh, tương thừa.
Thế nên, thân cũng như sơ,
Mình, người, ta vẫn hững hờ như không.
Thân mình coi nhẹ lông hồng.
Ngoài sân đi lại, chẳng trông thấy người.
Mình, người, quên lãng cả đôi,
Thế nên mới được êm xuôi, vẹn toàn.

Thoán giải thích: Cấn là ngưng lại. Biết ngưng, khi đáng ngưng, biết hành động khi đáng hành động. Động, Tĩnh không lỗi thời, như vậy mới là sáng suốt. Khi chưa tới mức chí thiện, thời phải cố gắng tiến tới, và chỉ ngưng nghỉ khi đã tới mức chí thành, chí thiện. Cấn là ngưng. Ngưng đúng nơi, đúng chỗ, là lý tưởng nhất.
Như Văn Vương, khi làm vua thời nhân; lúc làm bầy tôi thì kính, lúc làm cha thời từ, lúc làm con thời hiếu, khi giao tiếp với người thì giữ tín nghĩa (Xem Đại học, chương III ). Như vậy, quẻ Cấn dạy ta phải cố sống một cuộc đời lý tưởng, xử sự sao cho lý tưởng, và chỉ ngưng nghỉ khi đạt tới lý tưởng. Mà lý tưởng con người là phối Thiên, là đạt Thiên đức, Thiên vị. Quẻ Cấn, quẻ trong, quẻ ngoài đều giống nhau, các Hào đều không có ứng dữ, như vậy đã đạt thế trung hòa. Thế là nhị thể giống in nhất thể, trong ngoài là một, không còn phân biệt mình và người, không còn tương đối, tương đãi. Áp dụng vào nơi con người, thời đó là tình trạng thuần nhất đại đồng, phổ quát, nhĩ ngã bất phân.
Vì thế Thoán viết: Thượng hạ địch ứng. Bất tương dữ dã. Thị dĩ bất hoạch kỳ thân. Hành kỳ đình. Bất kiến kỳ nhân. Vô cữu dã.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 兼 山 . 艮 . 君 子 以 思 不 出 其 位 .
Tượng viết.
Kiêm sơn. Cấn. Quân tử dĩ tư bất xuất kỳ vị.
Dịch.
Cấn là núi mọc chập chùng,
Quântử cư vị, chứ không ra ngoài.
Tượng Truyện dạy người quân tử không nên mua việc, chuốc lấy tần phiền vào người. Ngược lại, phải lo sao cho đức xứng kỳ vị, và bao giờ cũng cư xử đúng với nghĩa lý, với lý tưởng, và hợp với hoàn cảnh mình đang sống. Như vậy lòng mới bình thản, và mới có thì giờ, mới có khả năng suy tư và tu đạo.
Con người phải luôn hành xử theo đúng nhân cách, phải dừng lại nơi thiên chân, nơi lương năng, lương tri, nơi bản thể tuyệt đối. Lo gì, nghĩ gì, cũng không nên ra ngoài vấn đề ấy. Con người phải luôn bảo toàn Đạo tâm, Thiên tâm, Thiên tính. Đừng có rời khỏi địa vị cao quí ấy, thế là biết nơi Chí thiện để dừng chân lại (Phỏng theo Lưu nhất Minh, Chu Dịch Xiển Chân).
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 艮 其 趾 . 無 咎 . 利 永 貞 .
象 曰 . 艮 其 趾 . 未 失 正 也 .
Sơ Lục.
Cấn kỳ chỉ. Vô cữu. Lợi vĩnh trinh.
Tượng viết:
Cấn kỳ chỉ. Vị thất chính dã.
Dịch.
Ngón chân vừa đụng, đã ngừng,
Một lòng minh chính, chưa từng đơn sai,
Ai người bắt bẻ, chê bai,
Luôn luôn minh chính, vậy thời lỗi chi.
Tượng rằng:
Ngón chân vừa đụng, đã ngừng,
Một lòng minh chính, chưa từng đơn sai.

Hào Sơ Lục. Vừa động ngón chân đã biết ngưng (Cấn kỳ chỉ), tức như nói dục tình vừa máy động, đã biết dừng lại, như vậy thời chẳng lỗi. Đây tức là trạng thái một tâm hồn không xa lìa Thiên chân. Nhưng trạng thái này cần được kéo dài, mới hay, mới lợi (Lợi vĩnh trinh). Tượng giải rằng: Dừng nơi ngón chân là chưa mất sự chính đính vậy (Cấn kỳ chỉ. Vị thất chính dã).

2. Hào Lục nhị.
六 二 . 艮 其 腓 . 不 拯 其 隨 . 其 心 不 快 .
象 曰 . 不 拯 其 隨 . 未 退 聽 也 .
Lục nhị.
Cấn kỳ phỉ. Bất chủng kỳ tùy. Kỳ tâm bất duyệt.
Tượng viết:
Bất chửng kỳ tùy. Vị thoái thính dã..
Dịch.
Ngừng mà ngừng mỗi bắp chân,
Ngăn trên không được, nên tâm còn phiền.
Tượng rằng:
Ngăn trên không được, buồn sao,
Vì trên, đâu có dễ nào chịu nghe.

Hào Lục nhị. Cấn kỳ phỉ là ngưng nơi bắp chân, nghĩa là mình chỉ kiềm chế được mình. Bất chửng nghĩa là mình chưa kiềm chế được người trên. Kỳ tùy nghĩa là mình còn là kẻ tùy tòng, chưa phải là cấp lãnh đạo, chỉ huy, vì thế nên Kỳ tâm bất duyệt, tức là lòng chẳng sung sướng. Tượng Truyện bình rằng: Mình không kiềm chế được người trên vì người trên đâu chịu nhượng bộ để nghe lời mình (Bất chửng kỳ tùy. Vị thoái thính dã). Đức Khổng lúc làm quan, tuy là đức độ, nhưng cũng không ngăn nổi Lỗ Định Công và Quí Hoàn Tử mê đắm nữ sắc.
Mạnh Tử khi thuyết lý với Tề Tuyên Vương, cũng phải tùy hứng của Tề tuyên Vương. Tề tuyên Vương nói: Ta có tật ưa của cải, Mạnh Tử cũng nhân đó mà nói: Xưa ông Công Lưu cũng ưa của cải vv... Tề tuyên Vương nói: Ta có tật ưa sắc đẹp, Mạnh tử cũng phải nhân đó mà nói: Xưa ông Thái Công cũng hiếu sắc, ông yêu vợ mình vv...(Mạnh Tử Lương huệ Vương Hạ, 5 ). Rút cục, Mạnh Tử cũng không cảm hóa được Tề Tuyên Vương, và phải bỏ nước Tề mà đi.
Khổng Tử cũng gặp trường hợp tương tự . Ngài bỏ Lỗ sang Vệ, tưởng sẽ cảm hóa được Vệ Linh Công. Nhưng thay vì hỏi ngài về đạo lý, Vệ Linh Công lại hỏi ngài về trận mạc (LN. 15, 1). Rồi khi đức Khổng nói về đạo lý, thì Vệ Linh Công lại lơ đãng, ngó lên trời xem nhạn bay. (Xem Khổng tử thế gia, năm đức Khổng 59 tuổi).

3. Hào Cửu tam.
九 三 . 艮 其 限 . 列 其 夤 . 厲 薰 心 .
象 曰 . 艮 其 限 . 危 薰 心 也 .
Cửu tam.
Cấn kỳ hạn. Liệt kỳ dần. Lệ huân tâm.
Tượng viết :
Cấn kỳ hạn. Nguy huân tâm dã.
Dịch.
Ngừng mà ngừng chỗ ngang hông,
Ngang hông như đứt, nóng lòng, nóng gan.

Sự tĩnh lãng tâm hồn phải đến một cách tự nhiên, chứ không phải một cách gượng gạo, gò ép. Không phải ngồi thộn người ra (Cấn kỳ hạn.), mà tâm hồn trở nên tĩnh lãng. Trái lại, những phương pháp tập luyện quá đáng, chỉ làm hỏng xương sống, làm cháy tâm can. Thật là nguy hiểm (Liệt kỳ dần. Lệ huân tâm). Hạn là ngang lưng, Liệt là làm đứt, Dần là xương sống, Huân là thiêu đốt, Tâm là tâm can. Tượng cũng bình rằng: Bức bách cơ thể để cho tâm hồn được tĩnh lãng, là việc nguy hiểm, nó sẽ thiêu đốt tâm can (Cấn kỳ hạn. Nguy huân tâm dã).
Hào này làm ta liên tưởng đến những người luyện võ công không đúng phương pháp, nên đã bị Tẩu hỏa nhập ma, hay những người cố gắng dồn ép dục tình, nên đã sinh bệnh tật.

4. Hào Lục tứ .
六 四 . 艮 其 身 . 無 咎 .
象 曰 . 艮 其 身 . 止 諸 躬 也 .
Lục tứ.
Cấn kỳ thân. Vô cữu.
Tượng viết:
Cấn kỳ thân. Chỉ chư cung dã.
Dịch:
Ngừng mà ngừng được cái mình,
Thế thời lầm lỗi, còn sinh đường nào.
Tượng rằng:
Ngừng được cái mình,
Tức là giữ được tâm tình hẳn hoi.
Nơi trên đầu quẻ, Thoán từ nói: Cấn kỳ bối. Bất hoạch kỳ thân. Đó là giai đoạn vong thân, vong ngã. Hào lục tứ đây chưa đạt tới tình trạng siêu việt ấy, vì hãy còn biết có Thân, có Mình. Tuy nhiên, Lục tứ đã kiềm chế được mình, kiềm chế được dục tình. Như vậy, cũng đã hay rồi (Cấn kỳ thân. vô cữu).
Tượng viết: Cấn kỳ thân. Chỉ chư cung dã. Tượng cho rằng: Lục tứ đã kiềm chế được mình, đã điều khiển được mình.

5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 艮 其 輔 . 言 有 序 . 悔 亡 .
象 曰 . 艮 其 輔 . 以 中 正 也 .
Lục ngũ.
Cấn kỳ phụ. Ngôn hữu tự. Hối vong.
Tượng viết:
Cấn kỳ phụ. Dĩ trung chính dã.
Dịch.
Ngừng mà ngừng được cái hàm,
Nói năng chừng mực, phàn nàn, khỏi lo.
Tượng rằng: Ngừng được cái hàm,
Con đường trung chính vẹn toàn, mới hay.
Lục ngũ khuyên nên giữ mồm miệng (Cấn kỳ phụ). Khuyên nên ăn nói cho đường hoàng, nghĩa lý (Ngôn hữu tự). Như vậy, mới tránh được lỗi lầm (Hối vong).
Người xưa, rất cẩn trọng trong lời ăn, tiếng nói. Khi đức Khổng vào thăm miếu của tổ tiên nhà Châu là Hậu Tắc, Ngài thấy ở trước thềm bên phải, có một người vàng, trên mình có khắc mấy lời đại khái như sau:
Đây là tượng một người xưa.
Lời ăn, tiếng nói, đắn đo, giữ gìn.
Gương xưa, ta cũng nên xem,
Nói năng cẩn trọng, hãy nên lo lường.
Rườm lời, sẽ lắm nhiễu nhương.
Ôm đồm nhiều việc, lòng thường xuyến xao.
Tượng viết: Cấn kỳ phụ. Dĩ trung chính dã. Giữ được mồm miệng, thế là đã theo được đường trung chính vậy.

6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 敦 艮 . 吉 .
象 曰 . 敦 艮 之 吉 . 以 厚 終 也 .
Thượng Cửu.
Đôn Cấn. Cát.
Tượng viết:
Đôn Cấn chi cát. Dĩ trung chính dã.
Dịch.
Ngừng mà ngừng nghỉ đàng hoàng,
Thời hay, thời tốt muôn vàn còn chi.
Tượng rằng: Ngừng nghỉ đàng hoàng,
Cuối cùng, đầy đặn, chững chàng mới hay.
Ngưng nghỉ, mà ở chỗ đầy đặn, hẳn hoi mới tốt. Cấn là sự thành tựu của vạn vật, dĩ nhiên là phải hay, phải tốt. Cho nên Hào Thượng Cửu của quẻ Cấn cũng phải hay, phải đẹp.
Theo sự nhận xét của Hồ văn Phong, Hào thượng Lục của quẻ Cấn, đem lại cho chúng ta một nguồn hy vọng lớn lao: Là tới lúc chung cuộc lịch sử, con người sẽ đạt tới hoàn mỹ, và sự biến thiên của vũ trụ cũng kết thúc trong sự hoàn mỹ. Lúc ấy mọi người sẽ được thỏa thuê, mãn nguyện (Bí, Tổn). Đạo trời sẽ phổ quát khắp nơi (Đại Súc). Mọi người sẽ được phúc khánh (Di). Thật đúng như lời Tượng Truyện: Lúc nào cũng đầy đặn, chững chàng (Đôn Cấn chi cát. Dĩ hậu chung dã).
ÁP DỤNG QUẺ CẤN VÀO THỜI ĐẠI

Quẻ Cấn dạy ta phải biết dừng chân cho đúng lúc, tức là có ý muốn nói: Con người sinh ra ở đời phải biết tiến hóa về mọi mặt. Chẳng những Tiến hóa cho bản thân mình, mà còn tiến hóa để làm lợi ích cho nhân quần xã hội nữa. Nhưng tới đúng lúc nào đó, thì phải ngưng.
A-Trước tiên, vì ta là người, nên ta bị vật chất chi phối, nên ta phải tranh đấu để có lợi danh. Từ nhỏ, còn ở học đường, ta đã phải chăm chỉ học hành, để khỏi thua sút chúng bạn, để cho cha mẹ và thầy giáo được vui lòng. Cha mẹ ta luôn ở cạnh ta, để giáo dục ta về mọi mặt, mong sao cho ta nên người tốt và hữu dụng mai sau. Lớn lên, vì nhu cầu vật chất gia tăng, rồi theo thiên nhiên, ta phải tạo dựng gia đình của riêng ta, nên ta cần phải có tiền để chi dụng, do đó ta phải cố gắng tranh đua để sao cho có danh và lợi. Nhưng điều quan trọng là: Cách tạo ra danh, lợi đó phải cho minh chính, dù ở địạ vị, hoàn cảnh nào cũng vậy. Một người thợ ngay thẳng, đáng kính trọng hơn một ông quan tòa tham nhũng. Một người làm thương mại ngay thẳng, thì dù nhỏ bé đến đâu, cũng có giá trị hơn một người đầu cơ, tích trữ hoặc gian thương, làm hại dân, hại nước.
Trên đường Lợi Danh, ta phải biết dừng chân đúng lúc. Ví dụ: khi thấy muốn thành công trong một công việc nào đó, mà phải làm người khác thiệt hại, thì ta phải dừng ngay. Nếu ta là người biết suy tư, thì ta sẽ nhận thấy: Cuộc đời là sân khấu, mà ta là diễn viên. Lên sân khấu, mà không đóng nổi vai trò của mình, thì quả thật là diễn viên dở vậy. Mỗi vai trò mình đóng, đó là 1 kiếp luân hồi, nay nếu mình làm sai, hoặc quá đáng, chắc chắn sẽ bị quả báo, không sớm thì muộn vậy. Ví dụ: Một người làm con bất hiếu, làm sao mong sinh được con cái hiếu đễ. Một người chuyên đi lừa đảo người khác, làm sao giữ được của ấy làm giầu, làm sao tránh khỏi bị thiên hạ chê cười.
Tóm lại, những công việc ta làm, những lợi danh ta có, không những hữu ích cho cá nhân, gia đình ta, mà phải lợi ích cho nhân quần, xã hội nữa.
B- Sau này, khi tóc đã hoa râm, tức đã quá nửa cuộc đời, thì ta phải biết tiếnhóa chính bản thân ta. Ta phải tiến về bản thể thần minh của ta. Bản thể thần minh này, ai cũng có. Nếu ở nơi người quá tham vật dục, thì nó bị sẽ lu mờ. Nhưng, nếu biết tỉnh ngộ, mà dừng chân lại kịp thời, rồi tu trì, ăn năn, làm việc thiện, để bù đắp lại, may ra còn kịp. Để tâm suy tư, ta sẽ nhận thấy đời sống hiện đại của ta đang tiến về phía thần minh. Ví dụ:
Nhờ sự tiếnhóa của khoa học, ta có thể dùng điện thoại mà nói với ngưởi khác, dù xa cách trùng dương, một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn là ta muốn giao tiếp với thần minh. Một cuốn băng VIDEO nhỏ bé. cũng thâu được hết sự việc của một triều đại, chiếu lên hình ảnh to nhỏ được như ý muốn. Máy bay giúp con người vượt qua muôn dặm, v.v... Nhưng đồng thời, khoa học đã chế tạo ra khí cụ chiến tranh ghê gớm như bom nguyên tử, khinh khí, hơi ngạt, vi trùng, v.v... như vậy còn tai hại hơn Trời giáng bệnh dịch xuống cho nhân loại. Tiếc rằng, Khoa Học tiến quá nhanh, mà Đạo đức lại thụt lùi, tạo ra biết bao gia đình khổ não, dở khóc, dở cười.
Chúng ta, là những người đọc Dịch, nếu để tâm suy tư thì sẽ hiểu Dịch dễ dàng, và nếu tất cả mọi người, trong hành động nhiều ít đều có Dịch, thì Đạo đức sẽ theo kịp Khoa Học vậy. Và theo tôi, (tác giả viết bài này), NGÀY TẬN THẾ KHÔNG PHẢI LÀ NGÀY NHÂN LOẠI BỊ TIÊU DIỆT, MÀ LÀ NHÂN LOẠI ĐÃ TIẾN HÓA VỀ MỌI MẶT ĐỂ LÊN BẰNG THẦN MINH.
Sự tận thế đó, theo tôi chỉ là ám chỉ con người của vật dục, xấu xa, tội lỗi, ngu dốt, không còn duy trì, bành trướng được nữa, vì con người của khôn ngoan, tài giỏi, đạo đức, đã dần dần lấn át, thay thế nó. Khoa học tiến nhanh, là để đáp ứng nhu cầu cho con người, vì con người sinh sản quá nhanh, nhưng đến một lúc nào đó con người sẽ sinh sản có chừng mực, hoặc sinh sản tùy theo ý mình muốn, và tuổi thọ sẽ tăng lên (vì khôn ngoan hơn, nên biết giữ gìn hơn). Lúc ấy hạt giống Đạo Đức trong con người sẽ nẩy mầm và phát triển nhanh chóng để theo kịp với Khoa Học.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

2 SƠN HỎA BÍ
Bí Tự Quái
賁 序 卦
Hạp giả hợp dã.
嗑 者 合 也
Vật bất khả dĩ cẩu hợp nhi dĩ.
物 不 可 以 苟 合 而 已
Cố thụ chi dĩ Bí.
故 受 之 以 賁
Bí giả sức dã.
賁 者 飾 也

Bí Tự Quái
Phệ Hạp là hợp đã đành,
Hợp, đâu là phải mặc tình nhố nhăng,
Cho nên quẻ Bí theo chân.
Bí là trang sức, vẻ văn rỡ ràng.

Quẻ Bí bàn về văn vẻ của Bản thể, bàn về Thiên văn và Nhân văn. Ta sẽ đem Dịch mà giải Thiên văn, Nhân văn một cách đại cương, vắn tắt.
Thiên văn Trung Hoa (khái niệm). Trên Trời thì Thái Cực, hay Tuyệt Đối Thể trở thành Thiên Hoàng = Thượng đế, ngự ở toà Bắc Thần, làm khu nữu (tâm điểm của vòng tròn) cho muôn vì tinh tú, còn Vòng Dịch, có thể tượng trưng được bằng vòng Nhị Thập Bát tú bên ngoài.
Như vậy chỉ có Bắc Thần là trục, còn cả bầu trời và muôn vì tinh tú đều xoay tròn xung quanh.
Sau khi nói đại khái về Thiên văn, ta quay về quẻ Bí.
Bí là văn vẻ bên ngoài, tinh quang trời (Ly), lẩn sau lớp màn vạn hữu (Cấn), làm cho vạn hữu bừng sáng lên. Có chất tức là có văn, chất càng chói lọi tinh ròng, văn càng sáng sủa đẹp đẽ. Cái vẻ đẹp của Trời Đất, Nhân quần, Vạn Hữu, được phát sinh là do sự giao thoa của đủ mọi hạng, mọi loài:
-Tôn / Ti
-Đại / Tiểu
-Quang / Âm.
-Minh / Ám
-Chính / Tùy
-Trì / Tốc.
-Chủ / Tớ
-Hằng / Biến
-Kinh / Vĩ.
I. Thoán.
Thoán Từ.
賁:亨。 小 利 有 所 往。
Bí. Hanh. Tiểu lợi hữu du vãng.
Dịch. Thoán Từ:
Có văn, có vẻ cũng hay.
Cũng đôi chút lợi, cũng dầy công lao.
Ở trên trời, Văn sinh ra do sự giao thoa giữa các vì tinh thể. Giao thoa đúng cách, đúng điệu thì hay. Giao thoa lỗi phách, lạc cung thì dở.
Ở trong Nhân quần, nhân văn sinh ra là do sự giao thoa, sự hỗ tương ảnh hưởng giữa các tầng lớp con người. Sự giao thoa đúng cách, đúng điệu sẽ sinh ra mọi sự cát tường, sự giao thoa sai hướng, ngược chiều, sẽ sinh ra loạn ly, phân cách. Vì thế Thoán Từ cho rằng: Trông xem Thiên Văn sẽ biết chiều trời, biết trời biến hóa. Nhìn xem nhân văn, sẽ biết liệu chiều điểm xuyết cho Nhân quần ngày một thêm đẹp, thêm tươi. Tuy nhiên, luôn nhớ rằng: cái văn sức bên ngoài chỉ là tùy thuộc (Bí. Hanh. Tiểu lợi hữu du vãng).
Thoán Truyện.
彖 曰: 賁,亨﹔ 柔 來 而 文 剛,故 亨。分 剛 上 而 文 柔,故 小 利 有 攸 往。天 文 也﹔ 文 明 以 止,人 文 也。觀 乎 天 文,以 察 時 變﹔ 觀 乎 人 文,以 化 成 天 下。
Thoán viết:
Bí hanh. Nhu lai nhi văn Cương. Cố hanh. Phân Cương thượng nhi văn Nhu. Cố tiểu lợi hữu du vãng. Thiên văn dã. Văn minh dĩ chỉ. Nhân văn dã. Quan hồ thiên văn. Dĩ sát thời biến. Quan hồ nhân văn. Dĩ hóa thành thiên hạ.
Dịch. Thoán viết:
Có văn vẻ cũng hay, cũng lợi,
Nhu đến thêm phong thái cho Cương.
Cương lên tăng vẻ huy hoàng,
Cho Nhu thêm vẻ rỡ ràng, đẹp tươi,
Âu cũng được thêm đôi chút lợi,
Công trình âu thêm nổi, thêm hay.
Cương, Nhu đắp đổi vần xoay,
Vẻ Trời nhờ đó, đổi thay lần hồi.
Kìa, nền nếp vị ngôi đạo nghĩa,
Ấy chính là văn vẻ con người.
Thiên Văn để biết thời Trời
Nhân Văn để khiến cho đời thêm hay.
Nhân quần chỉ đẹp tươi, khi mà xã hội có trật tự, tôn ti, tùy theo tài đức; khi mà mọi người, trên, dưới hòa hợp theo đúng lý tưởng, nhân nghĩa; khi mà mọi người thỏa thuê vì số phận, vì địa vị của mình
Vạn hữu chỉ thực sự đẹp tươi, khi mà vật chất trở nên công cụ trang điểm cho tinh thần, khi mà vật chất là trang sức bên ngoài, mà tinh thần là thực chất bên trong
Ngược lại, Vạn hữu chỉ đẹp tươi, khi mà tinh thần làm cho vật chất trở nên rạng rỡ. Đã ở trong thế giới tương đối hữu hình, dĩ nhiên Tinh thần và Vật chất, Âm và Dương hỗ tương ảnh hưởng để sinh ra biến thái, cho nên nguyên có Chất cũng không được, mà nguyên có Văn cũng không xong. Cái khéo là đào luyện sao cho trong thì tinh ròng, ngoài thì văn vẻ, trang nhã mới là hoàn hảo. Luận Ngữ nói: Chất thắng văn thời quê mùa, Văn thắng chất thời xã giao bôi bác. Văn chất tương xứng mới là quân tử. (L. N.VI, 11)
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰: 山 下 有 火,賁﹔ 君 子 以 明 庶 政,無 敢 折 獄。
Tượng viết. Sơn hạ hữu hỏa. Bí. Quân tử dĩ minh thứ chính. Vô cảm chiết ngục.
Dịch. Tượng rằng:
Bí là lửa rực ven non,
Hiền nhân trang nhã, nhu khoan với người.
Việc thường nhã nhặn, xong xuôi.
Đến như hình án, âu thời uy nghiêm.
Tượng áp dụng cái văn vẻ, duyên dáng của Trời Đất ấy vào công việc thường xuyên của công bộc quốc gia, và cho rằng trong khi giải quyết các công việc thường nhật, cần phải vui tươi, hòa nhã với người. Khi nào phải xử những hình án nghiêm trọng, mới nên phô trương cái uy thế nghiêm ngặt.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện.
Hào đề cập đến cái văn vẻ, đẹp đẽ thực sự của con người:
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 : 賁 其 趾,舍 車 而 徒。
象 曰: 舍 車 而 徒,義 弗 乘 也。
Sơ Cửu. Bí kỳ chỉ. Xả xa nhi đồ.
Tượng viết:
Xả xa nhi đồ. Nghĩa phất thừa dã.
Dịch.
An phận dưới, lập thân tu đức.
Chẳng đi xe, đi đất cũng xong.
Tượng rằng:
Bỏ xe, đi đất vậy thôi,
Xe vô nhân nghĩa, ta thời chẳng đi.
Hào Sơ cho rằng: Cái văn vẻ, đẹp đẽ nhất của con người là theo được nghĩa lý. Cho nên làm trái mà được đi xe, không bằng làm phải mà đi bộ.

2. Hào Lục nhị.
六 二 : 賁 其 須。
象 曰: 賁 其 須,與 上 興 也。
Lục nhị. Bí kỳ tu.
Tượng viết:
Bí kỳ tu. Dữ thượng hưng dã.
Dịch.
Hào hai, râu đẹp vì cằm.
Tượng rằng: râu đẹp vì cằm.
Cố sao theo đúng tinh thần cấp trên.

Hào nhị cho rằng: Cái văn vẻ, đẹp đẽ chân thực của con người, phải phát xuất từ nội tâm, từ thực chất bên trong, từ sự thượng hạ hòa mục, chứ chẳng phải là do những sự giả tạo, phù phiếm bên ngoài. Ví như râu đẹp, nhưng đẹp chính là do khí huyết phương cương bên trong, và do bộ cằm, bộ mặt đẹp đẽ.

3. Hào Cửu tam.
九 三 : 賁 如 濡 如,永 貞 吉。
象 曰: 永 貞 之 吉,終 莫 之 陵 也。
Cửu tam. Bí như nhu như. Vĩnh trinh cát.
Tượng viết:
Vĩnh trinh chi cát. Chung mạc chi lăng dã.
Dịch.
Cửu tam văn vẻ, rỡ ràng.
Mà lòng giữ trọn cương thường, mới hay.
Tượng rằng:
Cương thường trọn vẹn, mới hay.
Cuối cùng, sẽ chẳng bị ai khinh nhờn.
Cái văn vẻ thuần nhã, thanh lịch bên ngoài, luôn luôn phải được bảo đảm bằng sự minh chính bên trong mới tốt.

4. Hào Lục tứ.
六 四 : 賁 如 皤 如,白 馬 翰 如,匪 寇 婚 媾。
象 曰: 六 四,當 位 疑 也。 匪 寇 婚 媾,終 無 尤 也。
Lục tứ. Bí như ba như. Bạch mã hàn như. Phỉ khấu hôn cấu.
Tượng viết:
Lục tứ đáng vị. Nghi dã. Phỉ khấu hôn cấu. Chung vô vưu dã.
Dịch. Hào Lục tứ.
Ngoài văn vẻ, mà trong thuần phác,
Văn vẻ ưa, đạo đức cũng ưa.
Khát khao đức hạnh sớm trưa,
Bạch câu nếu có, băng qua mấy hồi,
Nếu không bị chia phôi, gàng quải,
Đạo và ta sẽ mãi tất giao.
Tượng rằng: Lục tứ đáng ngôi,
Tuy còn nghi hoặc, tới lui chưa dành,
Nếu không gàng quải, yến oanh.
Đạo Trời phối hợp, tốt lành mấy mươi.
Hào tư mô tả nỗi niềm một người có văn vẻ bên ngoài, nhưng không ham chuộng cái văn vẻ ấy, mà lòng chỉ luôn ước mơ về với cái bản thể thuần phác bên trong, muốn lâng lâng thoát được vòng cương toả của ngoại cảnh, cưỡi thần mã về cùng Chí đạo.

5. Hào Lục ngũ.
六 五 : 賁 于 丘 園,束 帛 戔 戔,吝,終 吉。
象 曰: 六 五 之 吉,有 喜 也。
Lục ngũ. Bí vu khâu viên. Thúc bạch tiên tiên. Lận. Chung cát.
Tượng viết:
Lục ngũ chi cát. Hữu hỷ dã,
Dịch.
Hiền nhân trang nhã điền viên,
Vài ba tấm lụa, nhỏ nhen xá nào.
Thật là tiết kiệm, đến điều.
Đơn thuần, rút cuộc có nhiều cát hanh.
Tượng rằng: Kiệm, phúc mới hay,
Là vui cho nước, là may cho đời.
Hào ngũ cho rằng: Càng ở ngôi vị cao quí, lại càng phải tìm lấy cái vẻ đẹp đẽ cao quí của một đời sống thuần phác, giản dị, ưa thực chất, không ưa phù phiếm, cần kiệm chẳng chuộng xa hoa.

6. Hào Thượng Cửu.
上 九 : 白 賁,無 咎。
象 曰: 白 賁 無 咎,上 得 志 也。
Thượng cửu. Bạch bí. Vô cữu.
Tượng viết:
Bạch bí vô cữu. Thượng đắc chí dã.
Dịch.
Rồi ra ngọc trắng, gương trong,
Trắng trong, thấu suốt, mới mong tinh tuyền.
Tượng rằng:
Trắng trong, thấu suốt tinh tuyền,
Người trên vậy đã phỉ nguyền ước mong.
Hào Thượng cửu cho rằng: Cái đẹp đẽ nhất, cái văn vẻ nhất, chính là sự thuần phác của bản thể. Con người mà hiểu được như vậy, mà quay về được với gốc, với nguồn như vậy thực là không ai có thể chê trách được.
ÁP DỤNG QUẺ BÍ VÀO THỜI ĐẠI

Khi tôi soạn tới phần Áp dụng của quẻ Bí, là một quẻ liên quan nhiều ít đến Thiên Văn, thì nước Hoa Kỳ bị sôi động bởi 1 vấn đề Thiên Văn nóng hổi: Đó là: Các Hành Tinh có người hay không? Báo Time ra ngày 19 tháng 8 năm 1996, đã đăng tải rằng, cách đó một tuần, cơ quan Hàng Không NASA, trong một cuộc họp báo truyền thanh tại Washington, đã đem trình bày một cục vẫn thạch, tức là một cục đá rơi từ Hỏa Tinh xuống đất, (cách đây khoảng 13,000 năm), xuống vùng Allan Hills ở Nam Cực. Cục đá này gọi là ALH84001, nặng 4,2 pounds, tức là to bằng 1 củ khoai tây. Các nhà Khoa Học nhìn vào trong đó, thấy có những dấu vết vật lý, hoá học của sự sống. Nghĩa là thấy dấu vết của những con vi trùng tí hon, sống cách đây khoảng 4 tỉ năm. Báo Science trong tuần này, cũng đứng ra đăng những hình chụp chứng minh rằng những hình như con sâu nhìn thấy trong mảnh đá đó, có thể là những sinh vật xưa. Tổng Thống Hoa Kỳ Clinton tuyên bố: Ngày nay hòn đá 84001 nói với chúng ta, qua nhiều tỉ năm, và nhiều triệu dặm. Nó còn cho biết có thể có sự sống. Nếu sự khám phá trên mà đúng, thì thật là một cái nhìn ngỡ ngàng vào Vũ Trụ, mà Khoa Học đã đem lại cho chúng ta. Nói thế, có nghĩa là cách đây 3,6 tỉ năm, Hỏa tinh đã từng có nước, có vi trùng sống trong những kẹt nhỏ của Hỏa Tinh. Nhưng sau đó, thì biển và không khí đã biến mất trên Hỏa Tinh. Đã có một vẫn thạch rớt xuống từ Hỏa Tinh, và bắn xuống trái đất.
Ông DANIEL GOLDIN, người điều hành NASA cho biết cuộc họp báo đã làm ông hết sức xúc động, như muốn nín thở. Ông DAVID MCKAY, trưởng phái đoàn NASA cho biết còn thấy dấu vết của chất hóa học hữu cơ gọi là PAHS. Và nhóm ông đã mất 2 năm rưỡi trời mới đi đến kết luận là xưa đã có sự sống trên Hỏa Tinh.
Các nhà Thần Học cũng bị xúc động không kém. Chúng ta nên nhớ các đạo Giáo lớn Âu Châu xưa nay tin rằng chỉ có Trái Đất mới có Sinh Vật. Báo LOS ANGELES TIMES ngày 17 tháng 8 năm 1996, đã đăng bài nói rằng: Các nhà Thần học sợ hãi, khi thấy có thể có người trên Hỏa Tinh. tuy nhiên, họ nói ngày nay không còn là thế kỷ 16, khi Giáo Hội cấm đoán Copernicus và Galileo không được giảng dạy là Trái Đất không phải là trung tâm vũ trụ.
Nếu chúng ta nhìn vấn đề bao quát hơn, ta thấy dân Mỹ từ năm 1947, đã có luận điệu khác. Trong một cuộc thăm dò dư luận của báo Newsweek hồi đầu tháng 7 vừa qua, thì có 48% dân Mỹ tin rằng người Hành Tinh & Đĩa Bay là có thật, và có 29% tin rằng đã có nhiều người tiếp xúc được với người Hành Tinh; 48% dân Mỹ cho rằng: chính phủ đã bưng bít vấn đề.
Nhiều người Mỹ tin rằng: đĩa bay còn có cứ địa 51, nằm trên một khoảng xa lộ 375 ở Tiểu Bang NEVADA.
Năm 1947, báo chí loan tin có một đĩa bay rớt xuống nước Mỹ, và đã được chính phủ Mỹ đem về cất dấu ở cứ địa đó. Hồi tháng 4 năm 1966, thống đốc Tiểu Bang NEVADA đã chính thức đổi tên Xa Lộ 375 thành Xa Lộ EXTRATERRESTRIAL (Xa lộ Hành tinh), và nay thành phố Rachel ở Nevada đã trở thành thánh địa của Giáo phái ĐĨA BAY. Chúng ta nên biết rằng sự sống chỉ có thể có được trên các Hành Tinh mà thôi.
Và chúng ta cũng biết Thái Dương Hệ, trừ Trái Đất mà chúng ta đang sống, còn có 8 hành tinh. Đó là Kim (Venus), Mộc (Jupiter), Thủy (Mercure), Hỏa (Mars), Thổ (Saturne), Uranus, Neptune, Pluto. Ngày nay, người ta tìm được 3 Hành Tinh khác: một ở ngôi sao 47 trong chòm sao Ursa Major = Đại Hùng Tinh; hành tinh 2 là ở ngôi sao 70 trong chòm sao Virgo = Xử Nữ; hành tinh 3 ở ngôi sao 52 trong chòm sao Pegasus = Thiên Mã.
Tóm lại, chuyện người Hành Tinh xuống là chuyện xa vời. Nên ta hãy yên trí, đừng bận tâm đến nó.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

3 SƠN THIÊN ĐẠI SÚC

Đại Súc Tự Quái
大 畜 序 卦
Hữu Vô Vọng
有 無 妄
Nhiên hậu khả Súc.
然 後 可 畜
Cố thụ chi dĩ Đại Súc.
故 受 之 以 大 畜

Đại Súc Tự quái
Hết lầm, nhân đức theo thời chứa chan,
Cho nên Đại Súc tiếp hàng.

Quẻ Đại Súc đề cập đến 4 vấn đề:
1) Phải lo sao để trở nên một người uẩn súc về mọi phương diện: đạo đức, tài trí (Thoán & Tượng) (Uẩn súc).
2) Phải trọng hiền tài. Nuôi dưỡng hiền tài. (Súc= Súc dưỡng) (Thoán)
3) Người quân tử khi bị ngăn chặn, đừng vội tiến. (Súc = Súc chỉ) (Hào 1, 2, 3).
4) Phương pháp ngăn chặn tội ác (Hào 4, 5)(Súc chỉ).
Đại Súc gồm 3 nghĩa:
1) Súc tích, Uẩn súc. 2) Súc dưỡng. 3) Súc chỉ.
Thoán, Tượng bàn về Súc tích, Hào bàn về Súc chỉ.
I. Thoán.
Thoán Từ.
大 畜 . 利 貞 . 不 家 食 . 吉 . 利 涉 大 川 .
Đại súc. Lợi trinh. Bất gia thực. Cát. Lợi thiệp đại xuyên.
Dịch. Thoán Từ.
Đại Súc: Hàm súc rồi rào,
Lại còn chính đáng, thanh cao mới là.
Nếu đem thân giúp quốc gia,
Dẫu qua sông lớn, vẫn là điều hay.
Thoán Từ đại khái nói: Người quân tử muốn ra giúp đời, phải hàm tàng, uẩn súc đạo đức, học thức, tài trí, cho nhiều, cho hay mới là Đại Súc. Nói là uẩn súc, nhưng phải uẩn súc chính lý, chính đạo mới hay (Lợi trinh), chứ không phải uẩn súc dị đoan, tà thuyết.
Nhưng người đã súc tích, hàm tàng kinh luân, sử sách, có tài, có đức cao siêu, thời nên được dùng vào đại công, đại sự, giúp ích cho nước, cho dân, hưởng lộc thiên hạ mới hay. Vì thế mới nói: Bất gia thực cát. Những người đó sẽ là những người cứu nguy, cứu nạn cho thiên hạ mỗi khi cần đến (Lợi thiệp đại xuyên).
Thoán Truyện.
彖曰: 大 畜 . 剛 健 . 篤 實 輝 光 .日 新 其 德. 剛上 而 尚 賢 . 能 止 健 . 大 正 也. 不家 食 吉 . 養 賢 也. 利 涉 大 川 . 應 乎 天 也.
Thoán viết:
Đại Súc. Cương kiện. Đốc thực huy quang. Nhật tân kỳ đức. Cương thượng nhi thượng hiền. Năng chỉ kiện. Đại chính dã. Bất gia thực cát. Dưỡng hiền dã. Lợi thiệp đại xuyên. Ứng hồ Thiên dã.
Dịch. Thoán Truyện.
Thoán rằng: Dũng mãnh, cương kiên,
Trong thời hàm súc, ngoài thêm huy hoàng.
Đức hành, ngày một sửa sang,
Hiền lương một dạ nể nang, tôn vì.
Dừng nơi hoàn thiện, siêu vi,
Sắt son ngay chính, muôn bề thanh cao.
Tài đem giúp nước, mới hào,
Ơn vua, lộc nước, rồi rào lo chi.
Thành công, cứu nạn, phò nguy,
Như băng sông lớn, đúng y Mệnh Trời.
Thoán Truyện bình thêm rằng: những người hàm súc tài đức tới mức cao độ, như vậy ắt có một tâm thần cương kiên, thiết thạch, ắt có thực tài, thực đức, dến nỗi quang huy phát lộ cả ra ngoài (Cương kiện. Đốc thực huy quang), mỗi ngày lại thấy hiển lộ thêm đường nhân, nẻo đức (Nhật tân kỳ đức). Thoán còn dạy, phải tôn hiền, thượng hiền, cấp dưỡng cho những bậc hiền tài, vì họ là những bậc chính nhân, quân tử, đại minh, đại chính, hành động ứng hợp với Trời, sẽ ngăn chặn được những kẻ cường mãnh, sẽ giải nguy, cứu khốn được cho đất nước sau này (Cương thượng nhi thượng hiền. Năng chỉ kiện. Đại chính dã. Lợi thiệp đại xuyên. Ứng hồ Thiên dã).
II. Đại TượngTruyện.
象 曰 : 天 在 山 中 . 大 畜 . 君 子 以 多 識 前 言 往 行 . 以 畜 其 德 .
Tượng viết: Thiên tại sơn trung. Đại Súc. Quân tử dĩ đa chí tiền ngôn vãng hạnh.
Dĩ súc kỳ đức.
Dịch. Tượng rằng:
Đại Súc, núi có Trời trong,
Lời xưa, tích cũ, ghi lòng mới hay.
Việc xưa chất chứa dạ này,
Hiền nhân cố gắng chứa đầy đức nhân.
Đại Tượng khuyên người quân tử phải bắt chước núi, có ngọc ẩn, châu tàng, mà lo uẩn súc ngôn hạnh của Thánh Hiền, để mình trở nên một bậc đại trí, đại giác, đại đức, đại tài, làm vẻ vang cho đất nước.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
Ba Hào dưới thuộc Kiền (Cương kiện). bàn về thái độ của quân tử khi gặp ngăn trở, ngăn chặn.
Ba Hào trên thuộc Cấn (Chỉ). Ba Hào trên bàn ngược lại về cách ngăn chặn tội khiên.
1. Hào Sơ Cửu.
初 九: 有 厲 利 已 .
象 曰 . 有 厲 利 已 . 不 犯 災 也 .
Sơ Cửu. Hữu lệ. Lợi dĩ.
Tượng viết:
Hữu lệ lợi dĩ. Bất phạm tai dã.
Dịch.
Hào Sơ: Phía trước hiểm nguy,
Dừng chân đứng lại, có bề lợi hơn.
Tượng rằng:
Thấy nguy, dừng lại lợi hơn,
Ấy là chẳng chuốc nguy nan cho mình.
Người quân tử ở Hào Sơ là Dương cương đắc chính, thể Kiền nên muốn tiến lên, nhưng bị Lục tứ ngăn chặn. Nếu Sơ cố tiến lên sẽ gặp nguy (Hữu lệ), nên dừng lại mới hay (Lợi dĩ). Khi cần dừng lại để khỏi mang tai, mắc họa, thời nên dừng lại (Tượng viết: Hữu lệ lợi dĩ. Bất phạm tai dã).

2. Hào Cửu nhị.
九 二 : 輿 說 輻 .
象 曰 : 輿 說輻 . 中 無 尤 也 .
Cửu nhị. Dư thoát phúc.
Tượng viết:
Dư thoát phúc. Trung vô cữu dã.
Dịch.
Cửu nhị: Xe trút nhíp xe.
Tượng rằng: Xe trút nhíp xe.
Mình dừng đúng lúc, ai chê được nào.
Cửu nhị Dương cương đắc trung, tuy có thể tiến được, nhưng bị Cửu ngũ ngăn chặn. Cửu nhị biết thời cơ chưa thể tiến, nên tự ý rút nhíp bánh xe, dừng lại không đi lên vội, tri thời thức thế (Cửu nhị. Dư thoát phúc.) (Tượng viết: Dư thoát phúc. Trung vô cữu dã.)

3. Hào Cửu tam.
九 三 . 良 馬 逐 . 利 艱 貞 .曰 閑 輿 衛 . 利 有 攸 往 .
象 曰 . 利 有 攸 往 . 上 合 志 也 .
Cửu tam. Lương mã trục. Lợi gian trinh. Nhật nhàn dư vệ. Lợi hữu du vãng.
Tượng viết:
Lợi hữu du vãng. Thượng hợp chí dã.
Dịch.
Cửu tam: Thỏa chí tang bồng,
Như đôi lương mã, vó tung dậm trường.
Nên phòng nguy hiểm, nhiễu nhương,
Rong xe cho khéo, đề phòng cho hay.
Ruổi rong như vậy, lợi thay.
Tượng rằng:
Ruổi rong mà lợi, mà hay,
Là vì trên muốn in tày như ta.
Hào Ba là Hào trên hết Nội quái, lại ứng với trên là Thượng Cửu, cũng là Dương Cương, đồng tâm, đồng đức với mình. Hào Ba ngụ ý rằng: Người quân tử tài đức song toàn, mà lại không bị ngăn chặn, lại gặp người trên đồng tâm, đồng chí, thời sẽ như tuấn mã ruổi rong dậm trường (Cửu tam. Lương mã trục). Tuy nhiên, đường đời gian nan, cần phải xử sự cho minh chính mới hay (Lợi gian trinh), lại phải gia ý đề phòng, chuẩn bị đối phó luôn với mọi hoàn cảnh, y như người rong xe đường trường, dự bị đủ đồ đi đường, khí giới phòng thân (Nhật nhàn du vệ. Lợi hữu du vãng). Sở dĩ mình hành động mà hay, mà lợi, chính là vì đã gặp người đồng tâm, đồng chí với mình. (Tượng viết: Lợi hữu du vãng. Thượng hợp chí dã).

4. Hào Lục tứ.
六 四 . 童 豕 之 牿 . 元 吉 .
象 曰 . 六 四 元 吉 . 有 喜 也 .
Lục tứ. Đồng ngưu chi cốc. Nguyên cát.
Tượng viết:
Lục tứ nguyên cát. Hữu hĩ dã.
Dịch.
Trâu non đã đóng gông sừng.
Đóng gông sừng sớm, đè chừng mới hay.
Tượng rằng:
Lục ngũ mà hay,
Thực là hạnh phúc, mắn may cho đời.
Hào Bốn bàn về phương pháp ngăn chặn tà ngụy, ngăn chặn ác nhân. Lục tứ tượng trưng cho một đại thần, trên thì phải ngăn tà tâm của vua, dưới phải ngăn ác nhân trong thiên hạ. Phàm muốn ngăn ác, phải ngăn ngay khi chúng chưa phát, cũng như muốn cho trâu khỏi húc, phải đóng gông sừng từ khi chúng còn non (Đồng ngưu chi cốc). Thế là phép trừng ác hiệu quả nhất (Nguyên cát). Như vậy người trên không hao tốn sức lực, người dưới không bị tổn thương. cả hai bên cùng vui vẻ cả (Tượng viết: Lục tứ nguyên cát. Hữu hỉ dã).

5. Hào Lục ngũ.
六 五 : 豶 豕 之 牙 . 吉 .
象 曰 : 六 五 之 吉 . 有 慶 也 .
Lục ngũ. Phần thỉ chi nha. Cát.
Tượng viết:
Lục ngũ chi cát. Hữu khánh dã.
Dịch.
Răng nanh lợn hoạn vẫn hay,
Hoạn rồi, lợn hết hăng say, cắn người.
Tượng rằng: Lục ngũ mà hay,
Thực là hạnh phúc, mắn may cho đời.
Chẳng những cấm ác, phải cấm từ khi chúng chưa phát, mà lại phải trừ đến nguyên nhân. Ví như con lợn có nanh, húc càn, cắn bậy. Ta làm hàng rào vây nó, hoặc trói nó, bẻ răng nó, thì tính hung hăng nó vẫn còn; nhưng nếu cứ để răng cho nó, nhưng đem hoạn nó đi, nó sẽ trở nên hiền lành. Vì thế nói: Phần thỉ chi nha. Cát.
Đối với con người cũng vậy, ngăn ngừa ác độc của họ, không phải bằng hình phạt, ngục tù, mà phải bằng giáo hóa. Phải cải cái tâm của họ, thay vì gông cùm, trăng trói họ. Tâm con người đã hoán cải, họ sẽ hết làm bậy. Mới hay trị ác có phương pháp, ác mới hết được, và như vậy dân mới được cải hóa, mới được phúc khánh. (Tượng viết: Lục ngũ chi cát. Hữu khánh dã).

6. Hào Thượng Cửu.
上 九 : 何 天 之 衢 . 亨 .
象 曰 : 何 天 之 衢 . 道 大 行 也 .
Thượng Cửu. Hà Thiên chi cù. Hanh.
Tượng viết:
Hà Thiên chi cù. Đạo đại hành dã.
Dịch.
Đường Trời rộng rãi là đây,
Đường Trời thảng đãng, mắn may quá chừng.
Tượng rằng:
Đường Trời rộng mở từ đây.
Là vì Thiên Đạo, tới ngày phổ thông.
Khi mọi người đã cải hóa rồi, khi đại đạo đã được thi hành rồi, thì cần chi phải ngăn chặn, chèn ép ai làm chi nữa. Hãy để cho mọi người mặc tình rong ruổi đường Trời (Hà Thiên chi cù. Hanh. Tượng viết: Hà Thiên chi cù hanh dã)
ÁP DỤNG QUẺ ĐẠI SÚC VÀO THỜI ĐẠI

Xưa, con đường duy nhất để góp mặt với đời là ta phải lầu thông kinh sử, đạo lý Thánh hiền. Mười năm đèn sách, nếu đường công danh mà hanh thông, thì sau khi đậu sẽ được bổ nhiệm làm quan, cai trị dân. Trong dân gian có 4 giai cấp: Sĩ, Nông, Công, Thương.
- Sĩ: là giai cấp cao nhất, là những người đức hạnh, học vấn, tài trí hơn người, khi đỗ ra nhà vua sẽ tùy theo sức học, thi đậu cao thấp, mà bổ nhiệm làm quan, cai trị dân.
- Nông: Thứ nhì là giai cấp làm ruộng. Giai cấp này là nòng cốt kinh tế cho quốc gia.
- Công: Kế đến là giai cấp thợ thuyền. Họ chỉ có những sáng kiến thô sơ, mục đích là tạo ra những sản phẩm, đáp ứng với nhu cầu của quần chúng.
-Thương: Giai cấp thương mại là giai cấp thấp nhất, họ chỉ buôn bán, trao đổi với nhau trong nước, ít người làm ăn có tính cách rộng lớn ra đến nước lân cận. Dù họ giầu có chăng nữa, họ cũng không được dân trọng như giai cấp sĩ phu. Do đó, những bậc cha mẹ luôn luôn lo đào tạo con mình, không những về học vấn, tài trí, mà còn về đạo đức nữa, để mai sau xứng đáng là bậc Cha mẹ dân.
Nay, con đường học vấn tung ra muôn ngả, giai cấp Sĩ phu không còn được quí trọng như xưa, Nông nghiệp không còn là nền kinh tế độc quyền. Giai cấp Thương Mại, vì có khi buôn bán với người ngoại quốc, nên cũng cần phải có đôi chút học thức, do đó giai cấp này được nâng cao hơn. Thêm vào, giai cấp Công nghệ, theo đà văn minh, khoa học ngày một tiến, các sinh viên phải đi du học, để thu thập tài năng, kinh nghiệm nơi nước người, những người này phải có học lực tương đương với ngành sĩ phu, thì mới mong thâu thái được nền học vấn xứ người. Ngày nay, hầu như không còn phân chia giai cấp như trước nữa, và các bậc cha mẹ đã bớt khắt khe với vấn đề dạy dỗ con cái, do đó đạo đức thụt lùi, đồng thời văn minh vật chất tiến lên vùn vụt. Các cử nhân, tiến sĩ, thạc sĩ của tất cả các ngành ra đời, nhưng những mảnh bằng đó chỉ có giá trị nghề nghiệp, lương bổng, mà không có giá trị về tinh thần đạo đức như xưa, do đó họ không được dân kính trọng như các bậc sĩ phu khi xưa.
Cũng có nhiều người trong số Khoa bảng ngày nay, họ cũng nhận thấy sự thiếu sót của mình, nên cũng cố gắng để thì giờ nghiên cứu, học hỏi thêm những cái hay, cái đẹp của người xưa, nhưng rất ít người theo kịp được đạo đức của người xưa, vì đà cám dỗ của văn minh vật chất quá mạnh.
Với sự phân tích trên, cho ta thấy nếu ngành giáo dục không mau mau cải tiến từ lớp mẫu giáo cho đến đại học, thì mai sau lớp trẻ sẽ khó răn dạy đến đâu, và sự thiếu căn bản đạo đức sẽ đưa nhân loại đến hậu quả như thế nào, khó ai đoán biết, đó là lý do về phương diện gia đình, nhiều cặp vợ chồng trẻ ngày nay không muốn sinh con.
Về phương diện Xã Hội, nếu nhà cầm quyền chuyên dùng hình phạt mà trị dân, thì dân sợ mà bớt phạm pháp, nhưng chẳng biết xấu hổ. Vậy muốn dẫn dắt dân, nhà cầm quyền phải dùng đức hạnh, lễ nghĩa, thì dân vừa biết xấu hổ, vừa được cảm hóa. Tóm lại, dân theo lễ nghĩa, thời nước sẽ thanh bình.
Sửa lần cuối bởi anhlinhmotminh vào lúc 03:09, 10/02/13 với 1 lần sửa.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

4 SƠN TRẠCH TỔN

Tổn Tự Quái
損 序 卦
Giải giả hoãn dã.
解 者 緩 也
Hoãn tất hữu sở thất.
緩 必 有 所 失
Cố thụ chi dĩ Tổn.
故 受 之 以 損

Tổn Tự Quái
Giải là cởi mở, ngõ hầu chơi ngơi;
Chơi ngơi mất mát hẳn rồi.
Cho nên Tổn mới có bài theo sau.

Tổn là hao tổn. Chữ Tổn theo Từ nguyên, một bên có chữ thủ là tay, một bên có chữ viên là tròn; cái gì đã viên mãn mà động tới, mà tiêu dùng, ắt sẽ hao tổn. Nhưng quẻ Tổn đây không có nghiã là hao tổn không, mà còn có nghĩa quan hệ khác nữa, đó là Tổn hạ, ích thượng; làm hao tổn dưới, mà có ích cho trên. Trong xã hội, ai là dưới? đó là dân. Ai là trên? đó là những người cầm quyền. Dân là gốc, là nền móng quốc gia; bới gốc, xới nền, để bù đắp cho ngọn, là một công việc tối ư nguy hiểm, nếu không biết cách mà hành động cho hay, cho khéo, thời quốc gia, xã hội sẽ lung lay, suy sụp. Quẻ Tổn cốt ý dạy ta phương cách tổn dân, mà không làm hại cho dân, mà không làm hại cho nền an ninh của quốc gia, xã hội.
Tại sao gọi là Tổn. Có bốn lý do:
1- Theo Tự Quái, gặp thời giải đãi, bình an, người ta nghỉ xả hơi quá nhiều, nên mới sinh ra tổn thất, vì thế sau Quẻ Giải mới đến Quẻ Tổn.
2- Tổn dưới là Đoài, là hồ, trên là Cấn, là Sơn; hồ sâu để cho núi cao; hồ bốc hơi lên để nhuận trạch cho cỏ cây trên núi; thế là tổn hạ, ích thượng.
3- Quẻ dưới là Đoài cũng là vui, vả lại ba Hào dưới đều ứng với ba Hào trên. Người dưới vui mà hưởng ứng, phục vụ người trên, đó là tổn hạ, ích thượng.
4- Quẻ Tổn do Quẻ Thái mà thành. Hào Cửu tam của Quẻ Thái vốn cương, lên đổi chỗ cho Hào Thượng Lục là ích thượng, nhu hạ cương hoán vị cho Thượng nhu, thế là tổn hạ. Đã phải tổn hạ, ích thượng thì sự thái thịnh cũng suy giảm đi phần nào. Cổ nhân cảnh cáo một cách thật tế nhị vậy.
I. Thoán.
Thoán từ:
損. 有 孚. 元 吉. 無 咎. 可 貞. 利 有 攸 往. 曷 之 用. 二 簋 可 用 享.
Tổn. Hữu phu. Nguyên cát. Vô cữu. Khả trinh. Lợi hữu du vãng.
Hạt chi dụng. Nhị quĩ khả dụng hưởng.
Dịch. Thoán từ.
Tổn là tỉnh giảm bớt đi,
Tổn mà thành khẩn, thôi thì rất hay.
Tổn mà hợp lẽ chính ngay,
Tổn sao cho khéo, khỏi sai, khỏi lầm.
Cứ đường lối ấy bền tâm,
Làm gì cũng được thập phần mắn may.
Tổn sao cho khéo léo đây?
Cơm xôi hai giỏ, lòng ngay dâng thần.

Tổn dân thực ra là một lẽ dĩ nhiên. Mạnh Tử nói: Có người làm việc bằng tâm trí, có kẻ làm việc bằng tay chân. Người làm việc bằng tâm trí thì cai trị dân chúng; kẻ làm việc bằng tay chân thì chịu quyền điều khiển. Kẻ chịu quyền điều khiển có phận sự cung cấp cho bề trên. Người cai trị dân chúng, cần được dân chúng phụng dưỡng. Đó là lẽ thông thường trong thiên hạ vậy. (Mạnh Tử, Đằng Văn Công Thượng, 4).
Nhưng Tổn dân, bắt dân đóng góp tài nguyên, nhân lực, vật lực, xương máu khi cần thiết, người xưa vốn coi là một chuyện bất đắc dĩ. Mình phải hết sức thành khẩn, để cho dân tin tưởng được rằng mình không có ý sách nhiễu, hay đối xử tàn nhẫn với họ; phải giải thích cho dân biết sự đóng góp của họ là cần thiết cho sự tồn tại của quốc gia, như vậy sẽ hay, sẽ lợi, mà mọi sự sẽ tốt đẹp.
Thoán: Tổn. Hữu phu. Nguyên cát. Vô cữu. Khả trinh. Lợi hữu du vãng.
Hữu phu là có lòng thành khẩn. Đã thành khẩn rồi, mọi sự sẽ tốt đẹp (Nguyên cát), sẽ không ai trách móc được mình (Vô cữu); như vậy mới có thể thi hành lâu dài được (Khả trinh), và công cuộc mới có cơ tiến triển được (Lợi hữu du vãng).
Làm thế nào mà chứng minh được lòng thành khẩn đó? Thưa, hãy tỉnh giảm mọi thứ sa hoa, phù phiếm bên ngoài, không được tiêu sài phí phạm. Ngay đến những khi hành lễ cũng phải tỉnh giảm chi phí đến mức tối đa. Vài giỏ cơm lúc ấy cũng đủ dâng thần. Đó là cách tùy thời xử thế. Khi nước nghèo, dân túng, nỡ nào bắt dân đóng góp nhiều để mà chi dùng phí phạm sao?
Hạt chi dụng. Nhị quĩ khả dụng hưởng? Hạt chi dụng là một câu hỏi như Làm thế nào?. Nhị quĩ là hai giỏ xôi. Hưởng là dâng cúng thần minh. Tóm lại lòng thành khẩn tối cần trong trường hợp này. Tử Hạ nói: Người quân tử (làm quan), trước phải được lòng dân tin phục, sau mới sai khiến họ làm lụng. Nếu họ chưa tin mình, mà mình vội khiến họ làm lụng, ắt họ ngỡ rằng mình khắc bạc đối với họ. (Luận Ngữ, Tử Trương XIX,10)

Thoán Truyện.
彖 曰. 損. 損 下 益 上. 其 道 上 行. 損 而 有 孚. 元 吉. 無 咎. 可 貞. 利 有 攸 往. 曷 之 用 . 二 簋 可 用 享 . 二 簋 應 有 時. 損 剛 益 柔 有 時. 損 益 盈 虛. 與 時 偕 行.
Thoán viết:
Tổn. Tổn hạ ích thượng. Kỳ đạo thượng hành. Tổn nhi hữu phu. Nguyên cát. Vô cữu. Khả trinh. Lợi hữu du vãng. Hạt chi dụng. Nhị quĩ khả dụng hưởng. Nhị quĩ ưng hữu thời. Tổn cương ích nhu hữu thời. Tổn ích doanh hư. Dữ thời giai hành.
Dịch.
Thoán rằng: Tổn dưới, ích trên,
Đó là chiều hướng đi lên ở đời.
Tổn mà hợp lẽ với trời,
Tổn mà thành khẩn, thôi thời rất may.
Tổn mà hợp lẽ chính ngay,
Tổn sao cho khéo, khỏi sai khỏi lầm.
Cứ đường lối ấy bền tâm,
Làm gì cũng được thập phần mắn may.
Tổn sao cho khéo léo đây?
Cơm xôi hai giỏ, lòng ngay dâng thần.
Cơm xôi hai giỏ hiến dâng,
Tùy thời tỉnh giảm, chước châm rạch ròi.
Bù mềm, bớt cứng tùy thời,
Tùy thời thêm bớt, đầy vơi nhịp nhàng.

Thoán Truyện định nghĩa Tổn là Tổn dưới, ích trên. Chu Hi giải là Bác dân, phụng quân, tức lấy của dân mà cung phụng quân vương. Đó là bổn phận người dưới đối với người trên (Kỳ đạo thượng hành).
Thoán Truyện tiếp đó chỉ nhắc lại những lời trong Thoán từ Tổn nhi hữu phu... nhị quĩ khả dụng hưởng. Tuy nhiên, Đức Khổng sợ người sau hiểu lầm rằng lễ nghi văn sức bên ngoài luôn luôn phải giảm thiểu cho đến mức tối đa, nên phải thêm Nhị quĩ ưng hữu thời. Tỉnh giảm lễ vật, cũng phải có thời. Sang thì dâng nhiều, túng thì dâng lễ ít; cái đó tùy sự giầu nghèo của gia đình, của đất nước mà thôi. Ngay đến chuyện bắt dân đóng góp, cũng phải có thời.
Tổn cương ích nhu hữu thời. Mạnh Tử viết: Nếu chính phủ chẳng đoạt mất thì giờ cấy gặt của những gia đình làm ruộng trăm mẫu, thì những nhân khẩu trong nhà ấy chẳng đến nỗi đói khổ. (Bá mẫu chi điền. Vật đoạt kỳ thì. Sổ khẩu chi gia khả dĩ vô cơ hỹ.) (Mạnh Tử, Lương Huệ Vương chương cú thượng, 3). Tóm lại, cái gì cũng phải tùy thời, phải biết đắp đổi. Khi đáng tổn dân thì tổn dân, khi đáng ích dân, thì ích dân. Khi doanh mới nên tổn, khi hư thời nên ích. Tổn ích doanh hư. Dữ thời giai hành.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 山 下 有 澤. 損. 君 子 以 懲 忿 窒 欲.
Tượng viết:
Sơn hạ hữu trạch. Tổn. Quân tử dĩ trừng phẫn trất dục.
Dịch. Tượng rằng:
Tổn là dưới núi có hồ,
Giận lo đè nén, dục lo ngăn ngừa.
Hiền nhân, quân tử hãy lo...
Quẻ Tổn dạy người quân tử 1 bài học làm tổn. Trong người có thiên lý và nhân dục. Thiên lý không thể tổn, chỉ có nhân dục mới nên tổn. Núi thì cương, gợi nên sự cứng cỏi, nóng giận nơi con người; hồ thì vui gợi nên dục tình nơi con người. Vậy người quân tử phải luôn luôn nén giận, diệt dục. Dục tình dẹp đi, tâm sẽ thanh; phẫn nộ diệt đi, trí sẽ tĩnh. Tâm thanh, trí tĩnh, thì thần sẽ phát lộ, và thiên lương sẽ triển dương.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Hào từ và Tiểu Tượng Truyện dạy người dưới cũng như người trên phải tổn kỷ ích nhân, tổn kỷ tòng nhân thế nào cho hay, cho lợi.
*Người dưới đã đành nên giúp đỡ người trên, nhưng chỉ giúp khi mình đã xong công việc, giúp mà không tổn hại cho mình (Hào Sơ).
*Giúp mà không mất phẩm giá của mình (Hào nhị).
*Tổn là Tổn hữu dư, giảm bất túc để đi đến chỗ đồng tâm nhất trí (Hào tam).
*Người trên phải giảm tổn nết hư, tật xấu của mình (Hào tứ).
*Phải giảm tổn sự cao ngạo của mình, để biết khuất kỷ hạ hiền, nghe theo đường hay, lối phải (Hào ngũ).
*Vả người trên nếu có phương sách hay đem dạy dân, đem áp dụng cho dân nhờ, thì đó là không làm tổn hại cho mình, mà vẫn làm ích cho người vậy (Hào Thượng Cửu).

1. Hào Sơ Cửu.
初 九. 已 事 遄 往. 無 咎. 酌 損 之.
象 曰. 已 事 遄 往. 尚 合 志 也.
Sơ Cửu.
Dĩ sự chuyên vãng. Vô cữu. Chước tổn chi.
Tượng viết:
Dĩ sự chuyên vãng. Thượng hợp chí dã.
Dịch. Tượng rằng:
Việc mình xuôi xắn cả rồi,
Nên đi mau mắn giúp người bên trên.
Muốn cho trong ấm, ngoài êm,
Thì nên tỉnh giảm tần phiền, tốn hao.
Tượng rằng: Việc đã xong rồi,
Ra đi mau mắn giúp người có sao.
Có chi lầm lỗi đâu nào,
Rồi ra trên dưới thấp, cao một lòng.

Người dưới khi đã làm xong công việc mình (Dĩ sự), thời nên đi giúp người trên một cách mau lẹ (thuyên vãng), như vậy không có lỗi gì (Vô cữu). Và người trên cũng nên châm chước, liệu lý sao cho khỏi tổn hại thái quá (Chước tổn chi). Chữ Chước tổn chi Wilhelm bình rằng: Người trên phải châm chước, đừng để thiệt hại cho người dưới. Mình giúp đỡ người trên, người trên sẽ biết ơn mình; thế là dưới trên thông cảm, dưới trên một lòng. Vì thế Tượng viết: Dĩ sự thuyên vãng. Thượng hợp chí dã.
Trong Kinh Thi (nơi Thiên Đại Nhã) có chép rằng: khi vua Văn Vương muốn cất lên toà Linh Đài, ngài phái người đến đo địa cuộc, và sắp đặt. Dân chúng đều đến giúp công, chẳng mấy ngày mà cất xong vậy. Lúc mới khởi sự cất, Văn Vương phán với dân chúng rằng: các ngươi chẳng cần làm gấp. Thế mà bá tánh kéo đến làm giúp, dường như bầy con phụng sự cha mẹ...Vua Văn Vương đã dùng sức dân mà cất đài, đào hồ, thế mà dân lấy làm vui sướng. Cho nên họ gọi đài của vua là Linh Đài, hồ của vua là Linh Chiểu. Họ lại vui vì trong vườn vua có cá, có rùa. Những vị vua đời xưa, hằng chia sớt sự vui của mình với dân, cho nên hưởng sự khoái lạc một cách đích đáng vậy.

2. Hào Cửu nhị.
九 二. 利 貞. 征 凶. 弗 損 益 之.
象 曰. 九 二 利 貞. 中 以 為 志 也.
Cửu nhị.
Lợi trinh. Chinh hung. Phất tổn ích chi.
Tượng viết:
Cửu nhị lợi trinh. Trung dĩ vi chí dã.
Dịch.
Một lòng ngay chính, mới hay,
Ra gì bợ đỡ, tối ngày xoăn xoe.
Mình không hao hớt, ê chề,
Mà người vẫn lợi, mọi bề mới hay.
Tượng rằng: Cửu nhị chính hay,
Là vì ghi tạc dạ này chữ trung.

Tượng viết: Người dưới là người cộng tác với người trên, chứ không phải làm tôi tớ người trên. Vậy phải giữ phẩm giá mình trong khi giúp đỡ người trên, như vậy mới hay, mới lợi (Lợi trinh). Bằng mình luồn cúi họ, để cho họ sai chi, làm nấy, không kể chi đến lương tâm, phẩm giá mình thì thực là một điều hung hoạ (Chinh hung). Mình làm ích cho người, mà không tổn hại đến phẩm giá mình mới phải (Phất tổn ích chi). Cho nên người dưới cố sao xử cho hay, cho phải, như vậy mới lợi, mới hay. Lợi, hay vì mình giữ được toàn phẩm cách, mà người trên vẫn được ích lợi.
Tượng viết: Cửu nhị lợi trinh. Trung dĩ vi chí dã. Nhờ có Vương Đức tiến cử, Lịch Sanh vào ra mắt Bái Công. Lúc ấy Bái Công ngồi trên giường, ngay hai chân ra, rồi khiến hai thị nữ rửa chân cho mình. Lịch Sanh bước vào xá chớ không lạy, và hỏi Bái Công rằng: Túc hạ muốn giúp Tần mà đánh chư hầu, hay là giúp chư hầu mà đánh Tần?. Bái Công thấy Lịch Sanh đã già cả rồi mà lời ăn nói còn cứng cỏi, thì mắng rằng: Đồ học trò khốn, thiên hạ bị Tần hà khắc đã lâu, nên ta vâng mệnh Hoài Vương đi phía Tây lộ đánh Tần, đặng giết đứa vô đạo ấy, ta há trở lại giúp Tần sao?. Lịch Sanh nói: Túc hạ đã muốn đánh Tần, để diệt đứa vô đạo, ấy là muốn dấy nghĩa binh đặng phục thiên hạ đó, sao lại kiêu ngạo, lên mặt trưởng giả, vô lễ lắm vậy; nếu như vậy ắt người hiền sĩ đi hết, có ai lo chung với, thì có đủ chi mà thu phục thiên hạ đặng? Bái Công nghe nói bèn thôi rửa chân, vội vã gài giải áo, mời Lịch Sanh lên ngồi trên, rồi tạ rằng: Tôi chẳng dè tiên sinh đến thình lình, nên lỗi việc nghinh tiếp, xin tiên sanh chớ chấp. Sau Lịch Sanh giúp Bái Công dụ hàng Trần Đồng, để Trần Đồng dâng cho Bái Công quận Trần Lưu, và lương thảo, binh mã, lại tiến cử Trương Lương với Bái Công. Thế là Lịch Sanh giúp người trên mà vẫn giữ được phẩm giá mình vậy.

3. Hào Lục tam.
六 三. 三 人 行. 則 損 一 人. 一 人 行. 則 得 其 友.
象 曰. 一 人 行. 三 則 疑 也.
Lục tam.
Tam nhân hành. Tắc tổn nhất nhân. Nhất nhân hành. Tắc đắc kỳ hữu.
Tượng viết:
Nhất nhân hành. Tam tắc nghi dã.
Dịch.
Ba người đi, bớt một người,
Một người đi, ắt có đôi bạn bè.
Tượng rằng: Một đi sẽ có bạn bè,
Ba đi sẽ có hiềm nghi xen vào.

Quẻ Tổn nguyên do quẻ Thái mà sinh. Quẻ Thái trên có tam Âm, dưới có tam Dương. Cửu tam quẻ Thái hoán vị với Thượng Lục quẻ Thái để thành quẻ Tổn, như vậy dưới chỉ còn hai Dương, trên chỉ còn hai Âm, thay vì ba Âm, ba Dương khi trước. Thế là Tam nhân hành. Tắc tổn nhất nhân. Hào tam, Hào Lục hoán vị với nhau, nhưng Âm, Dương tương ứng, cho nên y như một người đi thì lại gặp được bạn. Thế là Nhất nhân hành. tắc đắc kỳ hữu. Đó là lời giải thích của Trình Tử. James Legge cho rằng: Hào này quả là tối nghĩa quá chừng. Những lời giải đáp của Trình Tử cũng chẳng thỏa đáng là bao. Ta không nên đi sâu vào những khúc mắc của Hào này, ta chỉ đặt câu hỏi: Hào này dạy ta bài học thực tế gì? Ta thấy ngay rằng Hào này dạy ta nên tổn hữu dư, bổ bất túc. Hào Ba vốn tượng trưng cho nhà quyền quí, giầu có; những phú hào, trưởng giả trong dân, trong nước. Khi cần đòi hỏi dân đóng góp tiền tài, thóc gạo, phải nghĩ khai thác lớp người này, nhiều hơn là khai thác lớp người cùng đinh, lê thứ.
Tượng viết: Nhất nhân hành. Tam tắc nghi dã. (Một người đi được bè bạn, ba người đi sinh nghi ngờ). Trình Tử giải là nên Tổn kỳ dư (Bớt chỗ thừa). Hệ Từ đưa ra ý tưởng phải làm sao đi đến chỗ hợp nhất, nhất trí. (Xem Hệ từ hạ, chương V).
Hội các ý lại, ta luận rằng: Chỉ nên giảm tổn cái hữu dư, chỉ nên đòi hỏi sự đóng góp của những người dư thừa, và cốt sao giữ cho trong nước được đồng tâm, nhất trí, khỏi nghi kỵ lẫn nhau.

4. Hào Lục tứ.
六 四 . 損 其 疾 . 使 遄 有 喜 . 無 咎 .
象 曰 . 損 其 疾 . 亦 可 喜 也 .
Lục tứ.
Tổn kỳ tật. Sử thuyên hữu hỷ. Vô cữu.
Tượng viết:
Tổn kỳ tật. Diệc khả hỉ dã.
Dịch.
Giảm điều khiếm khuyết, lỗi lầm,
Càng nhanh, càng khiến đáng mầng, đáng vui.
Vậy thời chẳng lỗi, chẳng sai.
Tượng rằng: Giảm bớt lỗi lầm,
Khiến cho người dưới cũng mừng, cũng vui.

Lục tứ chính là địa vị của một vị quan lớn. Làm quan, ở ngôi trên mà biết lo, giảm bớt tật xấu mình (Tổn kỳ tật), sẽ khiến mọi người thích đến với mình (Sử thuyên), vui lòng cộng tác với mình (hữu hỷ), như vậy thời có lỗi chi đâu. (Vô cữu). Người trên mà biết hối quá, biết giảm thiểu tật hư, nết xấu của mình, thật là một điều đáng mừng vậy. Tượng viết: Tổn kỳ tật. diệc khả hỷ dã.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 或 益 之 . 十 朋 之 龜 弗 克 違 . 元 吉 .
象 曰 . 六 五 元 吉 . 自 上 佑 也 .
Lục ngũ.
Hoặc ích chi. Thập bằng chi qui phất khắc vi. Nguyên cát.
Tượng viết:
Lục ngũ nguyên cát. Tự thượng hựu dã.
Dịch.
Khi cần tăng ích cho mình.
Bạn bè kéo đến, tận tình giúp cho.
Rùa thiêng bói chẳng ngược ta,
Trời người không ngược, hóa ra tốt lành.
Tượng rằng: Lục ngũ tốt lành,
Là vì đã được cao xanh hộ trì.

Hào Lục ngũ này các lời bình không giống nhau. Trình Tử cho rằng: Ở vào thời Tổn, Lục ngũ ở ngôi tôn, mà vẫn biết trung thuận, biết quên mình mà nghe những lời chỉ bảo của hiền nhân (Cửu nhị). Được như vậy, thì thiên hạ ai chẳng đem hết tâm lực (tổn kỷ) mà làm ích cho mình. Nếu mình muốn tăng ích về chuyện gì (Hoặc ích chi), thì chúng bạn sẽ kéo đến giúp (Thập bằng chi qui phất khắc vi). Khi mọi người đã giúp mình, khi công luận đã tán trợ mình, thời rùa bói cũng không đi ngược lại mình được (Chúng nhân chi công luận tất hợp hồ chính lý, tuy qui sách bất năng vi). Chữ Bằng theo Từ nguyên tự điển là đơn vị tiền tệ khi xưa: 5 vỏ sò là một Bằng, Bối là vỏ sò (Ngũ Bối vi Bằng). Kinh Thi nói: Tích ngã bách bằng (Tạ ơn trăm bằng) (xem Kinh Thi, Tiểu Nhã, Thanh thanh giả nga, câu 3). Có người hiểu Bằng là đơn vị đo lường, và hiểu Thập bằng chi qui là con rùa nặng 10 bằng.

6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 弗 損 益 之 . 無 咎 . 貞 吉 . 利 有 攸 往 . 得 臣 無 家 .
象 曰 . 弗 損 益 之 . 大 得 志 也 .
Thượng Cửu.
Phất tổn ích chi. Vô cữu. Trinh cát. Lợi hữu du vãng. Đắc thần vô gia.
Tượng viết:
Phất tổn ích chi. Đại đắc chí dã.
Dịch.
Đã không giảm bớt, lại thêm.
Ích nhân âu sẽ ấm êm mọi vành.
Chính ngay, vả lại tốt lành,
Làm gì cũng được lợi hanh đủ điều.
Rồi ra dân phục, dân yêu,
Rộng dung khắp nước, nên kêu không nhà.
Tượng rằng: Không bớt, lại thêm,
Thế là đã được phỉ nguyền, thỏa thuê.

Hào Thượng Cửu: Chữ Phất tổn ích chi đây có thể hiểu 2 cách:
1. Không làm hao tổn cho dân, mà làm ích cho dân.
2. Không làm hao tổn cho mình, mà vẫn làm ích được cho dân. Giải cả 2 cách đều xuôi.
Người trên mà được như vậy, thời chẳng có lỗi chi, mà lại được ngay lành (Vô cữu. Trinh cát). Rồi ra làm gì cũng hay, cũng lợi; chúng dân sẽ qui phục mình (đắc thần), nhà ai cũng là nhà mình (Vô gia).
Tượng viết: Phất tổn ích chi. Đại đắc chí dã. Không làm dân hao tổn mà chỉ lo làm ích cho dân; làm ích cho dân mà riêng mình không thiệt hại gì, thì đó là sự thỏa thích lớn của người quân tử vậy.
Hào Thượng Cửu này có những chữ Vô cữu. Trinh cát. Lợi hữu du vãng giống như Thoán từ. Lại có chữ Phất tổn ích chi tức là muốn nhấn mạnh lại một lần nữa rằng: Tổn dân là một câu chuyện bắt đắc dĩ, cho nên người trên phải lo làm lợi cho dân, chứ đừng nghĩ làm tổn hại cho dân; được như vậy mới là cách cai trị lý tưởng.
ÁP DỤNG QUẺ TỔN VÀO THỜI ĐẠI

Cai trị không phải lúc nào cũng mang lại được phúc lợi cho dân, mà có khi cũng phải làm thiệt hại cho dân, bắt dân đóng góp. Nhưng cái gì cũng phải thời thôi.
Ở Mỹ, vấn đề thuế má thật là chu đáo. Dân đóng thuế theo tỷ lệ của lương bổng, được minh định rõ ràng. Còn chuyện bắt dân làm tạp dịch, hầu như không xảy ra, trừ khi mình đã làm điều gì phạm pháp, khiến đến nỗi như vậy.
Mỗi khi xem TV, tôi thấy dân chúng xưa bị quân sĩ ùa vào nhà bắt dân đi làm tạp dịch như: xây cung điện, đắp đê điều, và dân bị đánh đập thật thảm thương. Thật sự khi xưa, có lúc họ đã coi dân như cỏ rác. Mạnh Tử nói với Tề Tuyên vương: Vua mà coi dân như tay, chân; thì dân sẽ coi vua như bụng dạ. Vua mà coi dân như chó ngựa, thì dân sẽ coi vua như kẻ qua đường. Vua mà coi dân như bùn rác, dân sẽ coi vua như người thù (Mạnh tử. Ly Lâu chương cú hạ, 3).
Cứ nhìn cách người trên đối xử với người dưới, sẽ biết mình trị dân hay, hay dở. Người dân không nên tìm cách trốn thuế, nhà nước nếu không trông vào thuế má của dân, thì lấy gì mà sống, mà lo an ninh cho dân vv...
Tất cả là sự công bằng và sự hòa hài.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

5 HỎA TRẠCH KHUÊ
Khuê Tự Quái
睽 序 卦
Gia đạo cùng tất quai
家 道 窮 必 乖
Cố thụ chi dĩ Khuê
故 受 之 以 睽
Khuê giả quai dã.
睽 者 乖 也

Khuê Tự Quái
Gia Nhân bàn chuyện nhân gia.
Nhà không khéo trị, hoá ra quải gàng.
Cho nên, Khuê mới ló dàng.
Khuê là gàng quải, xốn xang, chia lìa.

Khuê là chia rẽ, là chống đối nhau, là không hợp tác với nhau. Sự chia rẽ, sự bất hợp tác ấy đã được hình hiện trong quẻ Khuê. Quẻ Khuê, trên có Ly là Hỏa; dưới có Đoài là Trạch, là hồ. Lửa thời bay lên, nước hồ thì lắng xuống, như vậy có bao giờ hợp tác cùng nhau được.
Quẻ Khuê, trên có Ly là con gái giữa, dưới có Đoài là con gái út. Hai chị em, tuy sống bên nhau, mà tâm sự mỗi người gửi một phương, ước mơ của mỗi người đi một ngả, có bao giờ hợp với nhau đâu.
I. Thoán.
Thoán từ.
睽. 小 事 吉.
Khuê. Tiểu sự cát.
Dịch. Thoán từ.
Gặp thời Khuê quải chia ly.
Làm công chuyện nhỏ, dễ bề hanh thông.
Thoán từ nói: Khi mà nhân tâm đã ly tán, thì dĩ nhiên không thực hiện được đại công, đại sự. Lúc ấy chỉ nên làm những việc thường, việc nhỏ, mới nên công.

Thoán Truyện.
彖 曰. 睽. 火 動 而 上. 澤 動 而 下. 二 女 同 居. 其 志 不 同 行. 說 而 麗 乎 明. 柔 進 而 上 行. 得 中 而 應 乎 剛. 是 以 小 事 吉. 天 地 睽. 而 其 事 同 也. 男 女 睽. 而 其 志 通 也. 萬 物 睽. 而 其 事 類 也. 睽 之 時 用 大 矣 哉.
Thoán viết:
Khuê. Hỏa động nhi thượng. Trạch động nhi hạ. Nhị nữ đồng cư. Kỳ chí bất đồng hành. Duyệt nhi lệ hồ minh. Nhu tấn nhi thượng hành. Đắc trung nhi ứng hồ cương. Thị dĩ tiểu sự cát. Thiên địa Khuê. Nhi kỳ sự đồng dã. Nam nữ Khuê. Nhi kỳ chí thông dã. Vạn vật Khuê. Nhi kỳ sự loại dã. Khuê chi thời dụng đại hỹ tai.
Dịch. Thoán Truyện.
Khuê là đôi ngả phân kỳ,
Lửa thì bay bốc, hồ thì lắng sâu.
Chị em tuy ở với nhau,
Nhưng mà chí hướng gót đầu chia phôi.
Vui nương ánh sáng cho vui,
Mềm mà thẳng tiến, để trồi lên cao.
Đắc trung, lại cứng ứng vào,
Cho nên tiểu sự thế nào cũng hay.
Đất trời, đôi ngả phân phôi,
Nhưng mà công việc, thời thôi một vành.
Gái trai, đôi ngả phân trình,
Nhưng mà ý chí, tâm tình cảm thông.
Muôn loài cách biệt giống giòng,
Nhưng mà công việc cũng không quải gàng
Sự đời ngang trái dở dang,
Mà dùng nên chuyện, ấy trang hiền tài.

Sở dĩ còn làm được những công trình nhỏ, là vì con người tuy chia rẽ, nhưng chưa đến nỗi xấu. Họ vẫn còn biết ưa chuộng, và còn thích bám víu vào những gì quang minh, đẹp đẽ (Duyệt nhi lệ hồ minh). Họ vẫn còn ao ước muốn vươn lên (Nhu tiến nhi thượng hành).
Lục ngũ vẫn còn đắc trung, và vẫn ứng được với Cửu nhị là Dương cương (Đắc trung nhi ứng hồ cương).
Cũng như nói: thời Khuê quải, chia ly, tuy vẫn có minh quân, hiền thần, nhưng đôi đàng còn cách trở, chưa gặp gỡ được nhau. Vì thế nên tạm thời hãy thi hành những công chuyện nhỏ đã (Thị dĩ tiểu sự cát).
Thường ra, thì sự chia ly, chống đối sẽ sinh ra bế tắc. Nhưng trong trời đất này, nhiều khi sự chia ly, chỉ là một sự phân cực của toàn thể duy nhất. Như vậy chia ly, phải hiểu là phân công, để dễ bề tác thành một đại công, đại sự. Trời đất, nam nữ, vạn vật, tưởng chừng như chia rẽ, chống đối nhau, mà kỳ thực luôn hợp tác nhau để sáng tạo và biến hóa, để cho vũ trụ ngày thêm thành toàn. (Duyệt nhi lệ hồ minh. Nhu tiến nhi thượng hành. Đắc trung nhi ứng hồ cương. Thị dĩ tiểu sự cát).
Cho nên sống trong một thế giới tưởng chừng như bị gàng quải, chia phôi, trong một vũ trụ mông mênh, muôn đường, muôn ngả, muôn nước, muôn nhà, mà tìm ra được mối manh hướng đạo, tìm ra được điểm tương đồng, mà có thể lợi dụng được mọi hoàn cảnh, mọi tình thế, để hoàn thiện mình, chẳng phải là cái hay sao? (Thiên địa Khuê. Nhi kỳ sự đồng dã. Nam nữ Khuê. Nhi kỳ chí thông dã. Vạn vật Khuê. Nhi kỳ sự loại dã. Khuê chi thời dụng đại hỹ tai).
Tóm lại, Thoán Truyện dạy ta hai bài học:
1. Gặp thời Khuê quải, phân kỳ, nhân tâm ly tán, người quân tử không nên sốt ruột, hãy thực hiện những công trình nhỏ đã, như vậy mới là biết thời.
2. Người quân tử phải biết lợi dụng mọi hoàn cảnh ngang trái, đối nghịch nhau để mà hoàn thiện mình. Như vậy mới tài, mới khéo.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰. 上 火 下 澤. 睽. 君 子 以 同 而 異.
Tượng viết:
Thượng hỏa hạ trạch. Khuê. Quân tử dĩ đồng nhi dị.
Dịch. Tượng rằng:
Lửa trên hồ nước là Khuê.
Ngoài đồng, trong dị, vốn lề hiền nhân.
Nước và lửa không hề pha trộn với nhau được; ngay khi kề cận nhau mà thể chất đôi bên cũng chẳng hề bao giờ chung lộn. Người quân tử cũng vậy, đừng bao giờ để cho trần ai, tục lụy làm hoen ố tâm can. Trong khi giao tiếp với những hạng phàm phu, tục tử, vẫn phải luôn luôn giữ cho tròn phẩm hạnh cao khiết của mình. Người quân tử tu đạo, tuy bề ngoài vẫn hòa đồng với người, nhưng kỳ thực, phẩm cách và chí hướng bên trong hết sức khác người. (Thượng hỏa hạ trạch. Khuê. Quân tử dĩ đồng nhi dị.)
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九. 悔 亡. 喪 馬 勿 逐 . 自 復 . 見 惡 人 . 無 咎.
象 曰. 見 惡 人 . 以 辟 咎 也 .
Sơ Củu:
Hối vong. Táng mã vật trục. Tự phục. Kiến ác nhân. Vô cữu.
Tượng viết:
Kiến ác nhân. Dĩ tỵ cữu dã.
Dịch. Sơ Cửu.
Khuê ly nhưng vẫn chẳng sao,
Ngựa đi mặc ngựa, sức nào săn ne?
Ngựa đi, rồi ngựa lại về,
Ác nhân dẫu gặp, ai chê được nào?
Tượng rằng: Gặp cả ác nhân,
Cốt sao tránh khỏi ăn năn, phàn nàn.

Trong thời Khuê ly, gàng quải, nhân tâm ly tán, mình vẫn tránh được lỗi lầm để khỏi phải phàn nàn về sau. Lúc ấy, bè bạn ta có thể bỏ ta, ta cũng không nên níu kéo họ lại mà chi. Cứ để họ tự do ra đi. Sau này thời thế đổi thay, họ sẽ tự ý trở lại. Cũng y như ngựa mình chạy đi, không cần đuổi theo, nó sẽ trở về (Táng mã vật trục. Tự phục). Lúc ấy quanh ta đầy kẻ ác nhân, ta không thể nào tránh né họ được. Vậy thì cứ đường hoàng mà gặp họ (Kiến ác nhân. Vô cữu). Chẳng những ta không có lỗi, mà đó còn là cách lánh được họa hoạn nữa. Vì thế Tượng viết: Kiến ác nhân. Dĩ tị cữu dã.
2. Hào Cửu nhị.
九 二. 遇 主 于 巷. 無 咎.
象 曰. 遇 主 于 巷. 未 失 道 也.
Cửu nhị.
Ngộ chủ vu hạng. Vô cữu.
Tượng viết:
Ngộ chủ vu hạng. Vị thất đạo dã.
Dịch.
Đường quê gặp chúa, không sao,
Tượng rằng: Gặp chúa đường quê,
Cũng chưa mất đạo, mất lề chúa tôi.
Gặp thời ly loạn như vậy, vua tôi nhiều khi lạc nhau. Nếu mà còn có thể liên lạc được cách này, cách kia được với nhau vẫn là nên. Lúc ấy cần phải quyền biến, không cần quá thủ lễ (Ngộ chủ vu hạng. Vô cữu) (Gặp chủ tại ngỏ hẹp, cũng chẳng có lỗi gì). Lúc ấy lòng thành khẩn hơn là lễ nghi bên ngoài (Ngộ chủ vu hạng. Vị thất đạo dã).

3. Hào Lục tam.
六 三. 見 輿 曳. 其 牛 掣. 其 人 天 且 劓. 無 初 有 終.
象 曰. 見 輿 曳. 位 不 當 也. 無 初 有 終. 遇 剛 也.
Lục tam.
Kiến dư duệ. Kỳ ngưu xiết. Kỳ nhân thiên thả tỵ. Vô sơ hữu chung.
Tượng viết:
Kiến dư duệ. Vị bất đáng dã. Vô sơ hữu chung. Ngộ cương dã.
Dịch.
Thấy xe bị kéo, bị giằng,
Thấy trâu bị cản, bị ngăn, bị cầm.
Người thời mũi lặc, trán xâm,
Dở dang buổi trước, êm dầm buổi sau.
Tượng rằng: Thấy xe bị kéo, bị giằng,
Là vì địa vị dở trăng, dở đèn.
Trước nguy, sau sẽ ấm êm,
Là vì sẽ gặp kẻ quyền oai phong.

Lục tam tương ứng với Thượng Cửu, muốn hội ngộ cùng Thượng Cửu. Nhưng Lục tam là một Hào Âm, lọt giữa hai Hào Dương là Nhị và Tứ. Nhị và Tứ hết sức tìm cách trù trì, lôi kéo, ngăn trở không cho Tam gặp Thượng Cửu. Như vậy có khác gì cái xe muốn tiến lên, mà đằng sau bị kéo, đằng trước bị ngăn đâu. Hơn nữa, Lục tam lại còn bị Thượng Cửu nghi ngờ là đã có lòng kia khác. Lục tam như vậy còn bị tổn thương đến cả danh dự nữa, có khác nào một người đã bị thích tự vào trán, lại còn bị cắt mũi nữa. Tuy nhiên, nếu Lục tam nhất quyết một lòng về với Thượng Cửu, thời sau sẽ được như nguyện. Vì thế Hào từ nói: Lục tam. Kỳ ngưu xệ. Kỳ nhân thiên thả tỵ. Vô sở hữu chung.
Tượng Truyện bình rằng: Sở dĩ có sự níu kéo ngăn trở như vậy, là vì Lục tam đang ở trong một hoàn cảnh dở dang. Tuy nhiên lúc đầu thì khó khăn, nhưng sau đắc ý, vì sẽ gặp được Thượng Cửu. Tượng viết: Kiến dư duệ. Vị bất đáng dã. Vô sở hữu chung. Ngộ cương dã.
Hào Lục tam này làm ta liên tưởng tới thời Tam Quốc, có Quan Vân Trường (Quan Công) muốn bỏ Tào, để tìm về Lưu Hoàng Thúc (Lưu Bị) mà đã gặp biết bao trắc trở. Nào là Tào Tháo dâng tiền tài, nữ sắc, công danh để mong làm chuyển lòng đấng anh hùng; nào là khi ra đi phải đương đầu với 5 tướng giữ ải; thoát chết mấy phen, mới vượt được qua sông Hoàng Hà. Lúc gặp được Trương Phi, thời lại bị Trương Phi muốn giết, và xỉ vả cho là đã hàng Tào. Mãi sau, Ngài mới minh oan được, và phơi bầy ra được tấm lòng trung trinh tiết liệt... Cuối cùng, Ngài đã được như nguyện là gặp mặt Lưu Hoàng Thúc, để nối tiếp nghĩa đào viên.
4. Hào Cửu tứ.
九 四. 睽 孤 . 遇 元 夫 . 交 孚 . 厲 . 無 咎.
象 曰. 交 孚 無 咎 . 志 行 也.
Cửu tứ:
Khuê cô. Ngộ nguyên phu. Giao phu. Lệ. Vô cữu.
Tượng viết:
Giao phu vô cữu. Chí hành dã.
Dịch.
Thời Khuê một bóng, một mình,
Gặp người đồng chí tâm thành kết giao.
Tuy nguy, nhưng cũng không sao,
Sự tình như thế, ai nào trách ta.
Tượng rằng: Chân thành, giao kết lỗi chi,
Rồi ra ý nguyện có khi thành toàn.

Hào Cửu tứ nói: Trong thời Khuê quải, mình đang cô đơn mà gặp được người đồng tâm, đồng chí, thì dẫu nguy nan, vẫn không có gì đáng chê trách (Khuê cô. Ngộ nguyên phu). Gặp người đồng tâm, đồng chí với mình là đem lòng thành khẩn mà đối đãi với nhau. Mà có gặp được người đồng tâm, đồng chí, thì mới có thể thực hiện được chí lớn của mình (Giao phu. Lệ. Vô cữu).
Hào này làm chúng ta nhớ đến Lưu, Quan, Trương gặp gỡ nhau, trong buổi nhiễu nhương, gây nên bởi giặc Khăn Vàng. Ba người khởi nghĩa từ vườn đào nhà Trương Phi, mà sau đã thực hiện được chí cả, là cùng nhau hưởng lộc vương hầu, trong một giang sơn rộng lớn là Ba Thục. Tượng viết: Giao phu vô cữu. Chí hành dã.

5. Hào Lục ngũ.
六 五. 悔 亡. 厥 宗 噬 膚. 往 何 咎.
象 曰. 厥 宗 噬 膚. 往 有 慶 也.
Lục ngũ.
Hối vong. Quyết tông phệ phu. Vãng hà cữu.
Tượng viết:
Quyết tông phệ phu. Vãng hữu khánh dã.
Dịch.
Ăn năn thôi hết từ đây,
Cùng người tông tộc từ nay kết đoàn.
Nghi ngờ, chia rẽ dẹp tan,
Như cắn thịt mỏng, dễ dàng khó chi.
Cùng nhau cất bước lên đi,
Cùng nhau tiến bước, có gì lỗi đâu.
Tượng rằng: Dẹp lòng nghi kỵ họ hàng,
Như cắn thịt mỏng, dễ dàng khó chi.
Cùng nhau cất bước lên đi,
Rồi ra sẽ gặp mọi bề mắn may.

Hào Lục ngũ bàn về cảnh hợp trong thời ly. Lục ngũ là quân, Cửu nhị là thần. Thần một lòng tôn quân, cố đi tìm để gặp, vì thế Hào Cửu nhị nói: Ngộ chủ vu hạng. Còn quân thì một lòng thương mến thần; vì thế Hào Cửu ngũ dùng chữ Quyết tông là họ hàng của mình; dùng tiếng họ hàng để chỉ thần tử để tỏ tình thân.
Vua mà được thần tử cố bám víu lấy mình, một dạ trung thành với mình như vậy, thì sự tương hợp giữa vua tôi dễ dàng như cắn vào thịt mềm. Vì thế nói: Quyết tông phệ phu. Có được những người theo mình trung thành như vậy, thì còn gì mà phải phàn nàn, làm gì cũng chẳng lo lầm lỗi nữa. Vì thế Hào từ mới nói: Hối vong và Vãng hà cữu.
Tiểu Tượng Truyện bình thêm rằng: được những người tâm phúc trung thành như vậy, mà đi dẹp loạn, phò nguy, cứu nước, thì còn lo gì không thành công. Tượng viết: Quyết tông phệ phu. Vãng hữu khánh dã.
Vào thời Khuê ly, mà có những người quyết tông phệ phu, ấy là trường hợp Lưu Bị có Quan Vân Trường, khi lưu lạc vẫn quyết tâm; một khi đã biết Hoàng Thúc ở nơi nào, thì không kể ngàn dậm, vạn dậm, phải cho ông tới theo ngay. Có Khổng Minh, nguyện đem hết sức khuyển mã, báo đáp ân tình. Có Triệu Tử Long, một thương, một ngựa mà dám xông vào chỗ trăm vạn quân Tào để cứu vợ con của chủ... Chính nhờ những người như vậy, mà sau này Lưu Bị mới hưng bang, lập quốc được.

6. Hào Thượng Cửu.
上 九. 睽 孤. 見 豕 負 涂. 載 鬼 一 車. 先 張 之 弧. 后 說 之 弧.
匪 寇 婚 媾. 往 遇 雨 則 吉.
象 曰. 遇 雨 之 吉. 群 疑 亡 也.
Thượng Cửu.
Khuê cô. Kiến thỉ phụ đồ. Tải quỉ nhất xa. Tiên trương chi hồ.
Hậu thoát chi hồ. Phỉ khấu hôn cấu. Vãng ngộ vũ tắc cát.
Tượng viết:
Ngộ vũ chi cát. Quần nghi vong dã.
Dịch.
Thời Khuê sống cảnh cô đơn,
Thấy người, tưởng lợn đội bùn nhớp nhơ.
Một xe chở quỉ, chở ma,
Dương cung toan giết oan gia cho rồi.
Nhưng rồi cung lại buông xuôi,
Tưởng đâu giặc cướp, hóa người tình thân.
Rồi ra kết ngãi Châu Trần.
Mưa rơi, tẩy sạch bụi trần hiềm nghi.
Cùng nhau cất gót ra đi,
Rồi ra muôn việc thỏa thuê, tốt lành,
Tượng rằng: Gió mưa mà tốt, mà lành,
Vì bao nghi kỵ, nay thành sạch không.

Hào Thượng Cửu: Vào thời Khuê, người ta hay nghi kỵ lẫn nhau, và trở nên cô đơn, không dám bắt tay thân thiện với người. Thấy người nghi muôn điều xấu, trông người bằng cặp mất nghi kỵ, thù địch, tưởng người như con lợn đội bùn, như một xe chở toàn ma quỉ, muốn mang cung lên bắn chết quách cho rồi. Sau mới biết mình lầm, nên mới hạ cung xuống. Người mà khi nãy tưởng là giặc cướp, lại là người thân tình của mình, lúc ấy mới hể hả, bắt tay đoàn kết, và tình thế trở nên êm ả, như trời đang oi bức mà đổ trận mưa rào. Vì thế Hào Thượng Cửu mới nói: Khuê cô. Kiến thỉ phụ đồ. Tải quỉ nhất xa. Tiên trương chi hồ. Hậu thoát chi hồ. Phỉ khấu hôn cấu. Vãng ngộ vũ tắc cát.
Đó chính là trường hợp Trương Phi khi thấy Quan Công, tìm về cùng Lưu Bị, lại ngỡ Quan Công đã hàng Tào, về để bắt mình, đã lớn tiếng xỉ mạ, và đòi đâm chết Quan Công. Sau này, khi nghe Quan Công kể lại đầu đuôi, tình cảnh, mới oà lên khóc, và cúi lạy Quan Công... Lúc ấy thì mọi hiềm nghi đã hết. Tượng viết: Ngộ vũ chi cát. Quần nghi vong dã.
ÁP DỤNG QUẺ KHUÊ VÀO THỜI ĐẠI

Ta có thể gọi sự nghi ngờ hay nghi kỵ là một chứng bệnh rất nguy hiểm, mà phần đông chúng ta không nhiều thì ít đều mắc phải. Nơi đây, ta phân tích nó dưới vài khía cạnh thông thường mà ta hay gặp.
Trong gia đình, sự nghi ngờ thường hay xảy ra giữa những cặp vợ chồng trẻ, nhất là nếu người vợ duyên dáng, hấp dẫn, hoặc người chồng có địa vị, đẹp trai, ăn nói bạt thiệp, vui vẻ. Chỉ cần bắt gặp người vợ, hay chồng của mình trò chuyện thân mật với người khác phái, là lòng đã thấy khó chịu, nổi cơn ghen, và bắt đầu nghi ngờ chồng hay vợ mình có tình ý gì với người kia không? mà chính thực ra người vợ hay người chồng đó không hề có chút tình ý gì với người kia cả.
Tôi có biết một cặp vơ chồng, khoảng trên 40 tuổi. Cách đây khoảng 10 năm, đó là một cặp vợ chồng rất lý tưởng. Người vợ trông duyên dáng, ăn nói dễ thương, ai trông thấy cô ấy cũng phải có cảm tình; còn người chồng thì cao lớn, hoạt bát. Người chồng rất yêu và chiều vợ. Nhưng một hôm, người vợ thật thà kể cho chồng nghe là trong sở cô hiện đang làm, có một người rất mê cô ấy. Thế là bắt đầu từ ngày đó, người chồng bắt đầu nghi ngờ vợ mình, bắt đầu kiểm soát giờ giấc đi làm, đi chợ vv... của vợ, khiến người vợ không còn một chút tự do nào. Cô này cũng rất yêu chồng, nên hết sức nhịn nhục. Nhưng ngày qua, tháng lại, bệnh ghen quái đản này cứ theo đà tăng lên, đến nỗi bất kỳ ai khen cô ấy, cũng là cái cớ để người chồng nghi ngờ mà dằn vặt, hành hạ vợ mình. Bây giờ, tình trạng chắc không còn cơ cứu vãn được nữa. Hỏi lỗi tại ai? Theo tôi, quí vị nào chót bị mắc chứng bệnh này, thì:
1) Đừng nên lấy vợ vội vàng, nếu chưa hiểu rõ người bạn gái ấy, có phải là người mà mình có thể tin tưởng được không?
2) Đừng nên lấy vợ đẹp, trong lúc mình không đủ khả năng để làm vừa lòng họ.
3) Hãy tìm một người nhan sắc trung bình, nhưng có nhiều đức tính, cần nhất mình yêu họ, và họ cũng phải thành thật yêu mình.
4) Luôn luôn phải sáng suốt, không nên ghen bừa bãi, chỉ tổ làm mất phẩm giá mình.
Ngoài xã hội, bệnh hay nghi ngờ cũng cản trở ta rất nhiều trong công cuộc làm ăn. Đã có bệnh này, thì dù mua bán gì cũng sợ người ta gạt mình rồi, thì làm sao có thể làm ăn đại qui mô được.
Bên cạnh nhà tôi, là nhà của một bà Mỹ già. Khi xưa khu vực chỗ tôi ở, chỉ có mình gia đình chúng tôi là người Việt Nam, nhưng nay đã có nhiều gia đình Việt Nam khác tới ở. Bà Mỹ này, ít âu nay trở nên khó tính, lúc nào bà cũng nghĩ là bà bị những người Việt Nam mới tới, phá bà, cho trẻ con gọi điện thoại phá giấc ngủ của bà, hoặc ném đá vào nhà bà. Mà sự thật, họ đều thương hại bà, vì bà sống cô đơn. Tôi đã giải thích cho bà nghe nhiều lần là dân tộc tôi có truyền thống là coi người xóm giềng như anh, chị em, và những cú điện thoại phá phách đó là do trẻ con ở ngoài phá mà thôi. Nhưng bà không chịu nghe tôi, bà đi đập cửa những nhà bà nghi rồi la ó om sòm. Tội nghiệp bà đã tự phá những tình cảm mà người chung quanh đã dành cho bà.
Bệnh này thật không thuốc chữa, nó làm cho người có bệnh, không bao giờ cảm thấy mình là người có hạnh phúc, nhẹ thì ta chỉ cảm thấy phiền não ngay lúc đó, nặng thì nó hành hạ, đeo đẳng ta, khiến ta khổ sở, chẳng để ta yên.
Tóm lại, muốn trừ nó, ta phải có lòng khoan dung đại độ, chớ nên nhìn bề ngoài mà xét đoán người khác, và nên nhìn người khác qua cặp kính mầu hồng, chứ đừng nhìn họ qua cặp kính mầu đen.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

6 THIÊN TRẠCH LÝ

Lý Tự Quái
履 序 卦
Vật Súc nhiên hậu hữu Lễ
物 畜 然 后 有 禮
Cố thụ chi dĩ Lý
故 受 之 以 履

Lý Tự Quái
Chế kiềm, rồi mới có ngày lễ nghi.
Cho nên, Lý hiện đoan nghê,
Lý là lễ phép, (dễ bề thái khang).

Lý theo Từ nguyên là đôi giầy, theo nghĩa thông thường là bước, là đi. Quẻ Lý trên có Kiền là Trời, là quang minh, cương kiện, bao la, thuần túy, chí thiện; dưới có Đoài là vực, vui, hòa duyệt, Âm nhu. Quẻ Lý có phảng phất âm hưởng như chữ Lễ, nên Lý cũng là Lễ.
Quẻ Lý đứng đầu trong 9 quẻ bàn về cách tu nhàn, tích đức trong Hệ Từ.
I. Thoán.
Thoán Từ.
履:履 虎 尾 . 不 咥 人 . 亨 .
Lý: Lý hổ vĩ. Bất khiết nhân. Hanh.
Dịch.
Lý dẵm đuôi hùm, hùm chẳng cắn.
Hùm chẳng cắn người, mới hanh thông.
Các nhà bình giảng thường chú trọng đến mấy chữ: Lý hổ vĩ bất khiết nhân = Lý dẵm đuôi hùm, hùm chẳng cắn.
Người thời cho rằng; Kiền là hùm, Đoài theo sau là đuôi, người thời cắt nghĩa theo lối bàng thông, mà cho rằng Khôn là hùm (Kiền bàng thông Khôn). Người thời cho rằng Hào Cửu Ngũ nơi quẻ Kiền mới đúng là hùm. Còn như: dẵm đuôi hùm, mà hùm chẳng cắn, thì giải rằng: nếu mình hiền lành, tử tế mà gặp người hung hãn, thì họ cũng chẳng làm hại được mình. Ngạn nhữ có câu: Hung quyền bấ đả tiếu diện (Tay hung chẳng đánh mặt cười).
Nhưng theo tôi (tác giả), Dịch đã tóm quẻ Lý bằng một chữ Lễ. Như vậy, quẻ Lý tóm tắt lại cả Lễ và bộ Lễ Ký.
Trong Kinh Thư, thiên Quân Nha, Mục Vương than thở với Thừa Tướng Quân Nha rằng: Trị muôn dân thiệt là khó, làm cho ta lo lắng như dẵm trên duôi hổ, như bước trên băng xuân.

Thoán Truyện. Thoán viết:
履 . 柔 履 剛 也 . 說 而 應 乎 乾 . 是 以 履 虎 尾 . 不 咥 人 . 亨 . 剛 中 正 . 履 帝 位 而 不 疚 . 光 明 也 .
Lý. Nhu lý cương dã. Duyệt nhi ứng hồ Kiền. Thị dĩ lý hổ vĩ.
Bất khiết nhân hanh. Cương trung chính. Lý đế vị nhi bất cứu.
Quang minh dã.
Dịch. Thoán rằng:
Lý là mềm dẵm cứng,
Vui thuận theo dễ ứng với trời.
Thế là tuy dẵm trúng đuôi,
Mà hùm chẳng có cắn ngưòi, mới may.
Cương cường, trung chính, thẳng ngay,
Bước lên đế vị, lòng này tuyết băng.
Quang minh, băng tuyết, một lòng.

Quẻ Lý dạy ta phải tìm ra những định tắc thiên nhiên chi phối công cuộc thần thánh hóa bản thân. Ta sinh ra ở đời , có mục tiêu chính yếu và tối hậu là bước lên con Đường Trời đó. Muốn như vậy, phải vui thuận theo ý Trời.
Trời muốn ta trở thành Thần minh, mà Thần minh thời trí tuệ sáng suốt, thông minh. Muốn trở nên thông tuệ, ta quyế tâm học hỏi, triền miên suy tư, biết tập trung tinh thần, hồi quang phản chiếu. Người bước vào con đường Hiền thánh, phải nhân từ, khoan quảng, phải rộng lượng, bao dung. Tóm lại, Lý là thần thánh hóa bản thân, vui theo những định luật thiên nhiên của tam tài (Trời, Đất, Người), để thực hiện định mệnh cao sang của con người là Phản bản, Hoàn Nguyên, là phối Thiên, phối Mệnh. Thế tức là:
Nghĩa nhân làm hán, làm hài,
Uy nghi, trang trọng, đường trời bước lên.
Lễ là những quy tắc, đường lối, phương pháp, giúp ta cải thiện tâm thần, để trở thành thần thánh.
Tào Thăng bình giải quẻ Lý như sau: Luật chi phối nơi tâm gọi là Lễ, thực thi áp dụng vào đời sống thường nhật của mình gọi là Lý. Muốn tổ chức quốc gia, muốn quy định hành vi nhân sự, không gì hay hơn Lễ...
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết:
象 曰 . 上 天 下 澤 . 履 . 君 子 以 辨 上 下 . 安 民 志 .
Thượng thiên hạ trạch. Lý. Quân tử dĩ biện thượng hạ. Định nhân chí.
Dịch.
Tượng rằng:
Lý là hồ ở dưới trời,
Hiền nhân, trên, dưới, rạch ròi biện phân.
Thấp, cao, quý, tiện, định phần.
Để cho dân chúng xa, gần, tin theo.

Nơi quẻ Lý, lẽ tôn, ti (Kiền = tôn, Đoài = ti), đã trình hiện. Người quân tử phải nhận định được rằng trong trời đất, cũng như trong nhân gian, cần phải minh định lẽ tôn ti, trật tự. Cho nên, khi trị dân, trị nước, phải tùy tài, tùy sức, tùy lực của mỗi người mà định tôn ti, cao hạ, để trên ra trên, dưới ra dưới, có như vậy dân chí sẽ đưọc ổn định.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
Các Hào dạy như Mạnh Tử rằng: lúc đắc chí (làm quan, tướng, vua), thời cùng chung súc với dân, mà thi hành những đức (Nhân, Lễ, Nghĩa). Khi chẳng đắc, ẩn dật mà tu thân, hành đạo.
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 素 履 . 往 無 咎 .
象 曰 . 素 履 之 往 . 獨 行 愿 也 .
Sơ Cửu. Tố lý vãng. Vô cữu.
Tượng viết:
Tố lý chi vãng. Độc hành nguyện dã.
Dịch.
Tố Lý đơn sơ, sống ở đời,
Chẳng ai phiền lụy, chẳng ai cưòi,
Tượng rằng: vui sống đơn sơ,
Âm thầm thực hiện ước mơ của mình.

Hào Sơ dạy phải Tố Lý, đó là phải theo đúng lương tâm mà hành sự, giữ lòng lúc nào cũng tuyết băng. Chữ Tố ở đâu có thể hiểu 2 cách:
a) Tố là nguyên tố hay nguyên tính, tức là Bản Nhiên Chi Tính = Thiên Tính.
b) Tố là Tố kỳ vi nhị hành, bất nguyện hồ kỳ ngoại, như Thuấn, khi còn ăn rau nơi Lịch Sơn, như Nhan Hồi, bầu nước, giỏ cơm trong ngõ hẹp, mà vẫn vui cùng đạo lý.
Dịch để 2 chữ Tố Lý trong Hào Sơ, có ý muốn nói rằng: Lễ trọng ở chỗ tinh thần cao khiết, không phải ở những hành ngơi bên ngoài.
Luận Ngữ cũng viết: Tử Hạ hỏi Đức Khổng: Xin ngài giải nghĩa cho rõ những câu trong Kinh Thi:
Nụ cười hoa nở trên môi,
Long lanh đôi mắt, đẹp tươi yêu kiều.
Trên khung vải trắng mỹ miều,
Vẽ nên cảnh sắc khinh phiêu tuyệt vời.

Đức Khổng đáp: Trước khi vẽ phải có một khung vải trắng đã. Tủ Hạ xin tiếp lời: thế là làm người, trước phải trung tín, rồi sau mới giữ Lễ phải không? Đức Khổng đáp: trò Thương (tên Tử Hạ) này phát khởi được ý ta.
Nói thế nghĩa là Lễ là đường lối để tu thân, để cải thiện, đẻ thần thánh hóa con người. Lễ là đồ trang sức của tâm hồn, chứ không phải là lụa là, vàng ngọc bên ngoài.

2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 履 道 坦 坦 . 幽 人 貞 吉 .
象 曰 . 幽 人 貞 吉 . 中 不 自 亂 也 .
Cửu nhị. Lý đạo thản thản. U nhân trinh cát.
Tượng viết:
U nhân trinh cát. Trung bất tự loạn dã.
Dịch.
Cửu nhị. Thênh thang trên đường đạo,
Âm thầm vui sống thế mà hay,
Tượng rằng: Thầm lặng mà hay,
Là vì phiền loạn, lòng này chẳng vương.
Hào Cửu nhị tiếp ý Hào Sơ, dạy con người đi trên con đường phẳng phiu, thảng đãng của Đạo trời.
3. Hào Lục tam.
六 三 . 眇 能 視 . 跛 能 履 . 履 虎 尾 . 咥 人 . 凶 . 武人為于大君 .
象 曰 . 眇 能 視 . 不 足 以 有 明 也 . 跛 能 履 . 不 足 以 與 行 也 .
跌 人 之 凶 .
Lục tam. Diểu năng thị. Bí năng lý. Lý hổ vĩ. Khiết nhân hung.
Vũ nhân vi vu đại quân.
Tượng viết:
Diểu năng thị. Bất túc dĩ hữu minh dã. Bí năng lý. Bất túc dữ hành dã.
Khiết nhân chi hung. Vị bất đáng dã. Vũ nhân vi vu đại quân. Chí cương dã.
Dịch.
Lục tam: chột thấy, què đi,
Vận sui, hổ cắn, chỉ vì dẵm đuôi.
Võ biền mà muốn trị đời.
Tượng rằng: Chột thấy, thấy ra chi,
Què đi thất thểu, phải đâu đi.
Ngất ngưỡng ngồi cao, không tài đức,
Như hổ cắn người, thế mới nguy.
Võ biền mà muốn trị vì,
Tính tình hung hãn, còn gì nguy hơn.

Trị đân là sửa dân, làm cho dân theo được chính đạo, chính nghĩa. Đó là công việc của những hiền nhân,quân tử, của những con người có khối óc tinh tế, hiểu biết sâu xa về tâm lý con người, chứ không phải là phạm vi của những kẻ vũ phu bạo hổ bằng hà. Những kẻ vũ phu làm chính trị. có khác nào chột thấy què đi đâu, chỉ tổ hại dân, hại nước.

4. Hào Cửu Tứ.
九 四 . 履 虎 尾 . 愬 愬 . 終 吉 .
象 曰 . 愬 愬 終 吉 . 志 行 也 .
Cửu Tứ. Lý hổ vĩ. Tố tố chung cát.
Tượng viết:
Tố tố chung cát. Chí hành dã.
Dịch. Cửu tứ.
Đuôi hùm đà chót dẵm,
Cố sức lo lường, rút cuộc hay.
Tượng rằng: Lo lắng, sau hay,
Hay vì thực hiện được ngay chí mình.

Hào Cửu tứ đề cập đến nỗi lo âu của một hiền tài như Y Doãn, Phó Duyệt khi phải trị dân, giáo hóa dân. Người xưa cho rằng muốn trị người, trước tiên mình phải ngay chính. Cho nên trị dân là dạy dân đường nhân, nẻo đức, rồi lại phải lấy chính lề lối sống của mình mà làm gương cho dân. Vì thế, nên trị dân tuy khó, tuy nguy, nhưng đem lại cho mình niềm vui, vì chính là cơ hội để thực thi lý tưởng bình sinh chi chí của mình.

5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 夬 履 . 貞 厲 .
象 曰 . 夬 履 貞 厲 . 位 正 當 也 .
Cửu ngũ. Quyết lý. trinh lệ.
Tượng viết:
Quyết lý trinh lệ. vi, chính đáng dã.
Dịch.
Cửu ngũ phải sao cho cương quyết,
Vừa bền gan, vùa biết nguy cơ,
Tượng rằng: cương quyết, bền gan,
Nguy cơ, vả biết lo toan đề phòng,
Xứng ngôi, xứng vị, thung dung.

Quý Khương Tử đại phu nước Lỗ, hỏi đức Khổng Tử về chính sự (tức là về cách cai trị). Đức Khổn tử đáp: Chữ Chính là do chính trực mà ra. Cai trị tức là săn sóc cho dân trở nên ngay chính. Nay Đại Phu là bậc cầm đầu trong dân chúng, mà tự mình chính đính, thì cò ai dám ăn ở bất chính. Nếu quan Đại Phu là bậc thừa hành, mà đã phải băn khoăn lo lắng như vậy, thì vị quân vương ở trên cầm trịch, phải quyết đoán các hành động, các các cư xử, phản ứng của muôn dân, thời lại càng phải lo lắng biết chừng nào. Vì vậy Mục Vương mới nói: Lòngười trẫm ưu tư như dẵm trên đuôi hổ, như bước trên băng xuân.

6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 視 履 考 祥 . 其 旋 元 吉 .
象 曰 . 元 吉 在 上,大 有 慶 也 .
Thượng Cửu. Thị lý khảo tường. Kỳ tuyền nguyên cát.
Tượng viết:
Nguyên cát tại thượng. Đại hữu khánh dã.
Dịch.
Hào Thượng Cửu, hành vi xét lại,
Xem thế nào là phải, là hay ,
Hay là toàn vẹn trong, ngoài,
Hay là vạn sự ở đời thành công.
Tượng rằng: Hay đến kỳ cùng,
Mới là trọn vẹn đáng mừng, đáng vui.

Hào Thượng Cửu cho rằng phải luôn luôn kiểm điểm lại đường lối, hành vi, sao cho mọi sự toàn vẹn từ đầu đến đuôi, như vậy mới là thực hay, thực tốt. Bước trên đường nhân nẻo đức, mà không bước đến cùng, đến cực, không đi đến đầu, đến đuôi, thì làm sao mà thành đại công đại nghiệp, làm sao mà phúc khánh, cửu trường.
ÁP DỤNG QUẺ LÝ VÀO THỜI ĐẠI

Lễ khác với pháp luật. Lễ là định luật thiên nhiên, là luật của Trời, là ý Trời. Pháp luật là luật Nhân tạo, mà các đạo giáo, chính thể, các quốc gia lập ra để bắt người dưới quyền mình tuân giữ. Lễ quy định những gì hay, người gì phải cho con người, làm cho con người trở nên có nhân cách, nhân vị, trở nên hoàn hảo. Căn bản chính là do nơi thân và tâm mình. Nếu mình không hoàn hảo trước, mà lại đòi hỏi người dưới phải hoàn hảo, thiệt là khó vậy. Vi người trên đối với người dưới như cây đối với bóng, như là nguồn đối với các nhánh sông. Cây cong mà lại đòi bóng thẳng, nguồn đục mà lại đòi nhánh trong, thì không thể có được vậy.
Nếu bậc phụ huynh có nhân cách đủ để cảm hóa người, thì con em mình sẽ dễ dạy hơn, dễ trở nên ngay chính hơn. Lễ đem lại cho mình một đời sống chính đáng, mang lại cho quốc gia, xã hội một quang cảnh hạnh phúc, đầm ấm, hòa hợp. Đem áp dụng định tắc thiên nhiên này vào đời sống xã hội, Khổng Giáo đã quy định bổn phận cho mọi hạng người, trong mọi tầng cấp xã hội như sau:
1. Vua phải nhân từ (Quân nhân): người cầm đầu nước phải thương dân như con, phải lo cho dân được cơm no, áo ấm, phải lo dạy dỗ dân.
2. Tôi phải trung (thần trung): Các quan hay các viên chức trong chính quyền phải hết sức cộng tác với vị quốc quân để lo việc cho nước nhà.
3. Cha phải khoan từ (phụ từ): Cha dạy cho con nên từ tốn khuyên bảo, chớ lấy quyền mà đè nén con.
4. Con phải hiếu thảo (tử hiếu). Con phải vâng lời cha mẹ, chăm sóc cha mẹ lúc tuổi già.
5. Anh phải hẳn hoi (huynh lương). Anh phải ngay thẳng, thật thà, để các em noi gương.
6. Em phải kính thuận (đệ đễ). Em phải nhường nhịn anh, không được ăn nói hỗn hào với anh.
7. Chồng phải đường hoàng (phu nghĩa); Chồng không nên rượu chè, cò bạc, trai gái, nghiện hút.
8. Vợ phải nhu thuận (phụ thính): vợ phải ăn nói dịu dàng, và nghe theo chồng.
9. Người lớn phải thi ân (trưởng huệ). Người trên phải tỏ ra rộng rãi, sẵn lòng giúp đờ người dưới.
10. Kẻ nhỏ phải vâng phục (Ấu thuận). Người dưới phải vâng theo lời người trên.
Đó là Thập Nghĩa.
- Lễ chi phối mọi hành vi, cử chỉ, những cách giao tiếp của con người. Lễ không cho phép ta đi quá trớn, quá giới hạn, mực thước đã quy định; không cho phép xâm phạm quyền lợi người khác; vũ nhục, khinh, khi, sàm sỡ với người khác.
- Lễ là những định luật tự nhiên, giúp con người sống xứng đáng với danh nghĩa con người, sống hòa hợp, đoàn kết với mọi người.
- Lễ quy định những gì hay, những gì phải lo cho con người. Có Lễ, thì gia đình, xã hội, thế giới chúng ta sẽ cải thiện, và sự thanh bình, hoan lạc tự nhiên sẽ đến với chúng ta.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

7 PHONG TRẠCH TRUNG PHU

Trung Phu Tự Quái
中 孚 序 卦
Tiết nhi tín chi.
節 而 信 之
Cố thụ chi dĩ Trung Phu.
故 受 之 以 中 孚

Trung Phu Tự Quái
Có chừng, có mực, rõ rồi.
Mực chừng, tiết độ, người người sẽ tin
Trung Phu, vì thế tiếp thêm.

Sau quẻ Tiết là quẻ Trung Phu, vì lẽ đã lập ra tiết chế, kỷ cương, thì trên dưới đều phải thực thi áp dụng, như vậy mới vẹn tín nghĩa. Trung Phu có nhiều nghĩa:
1. Trung Phu được hiểu là sự Tín thành. Các nhà bình giải cho rằng Trung Phu dạy ta thủ tín, tức dạy ta giữ chữ tín.
2. Trung Phu được hiểu là sự Tinh thành, tức là một trạng thái tâm thần siêu việt, sống động, hùng dũng tuyệt vời, có năng lực cảm hóa được vạn hữu.
Người xưa nói: Tinh thành sở chí, kim thạch vi khai. Nghĩa là: Đạt tới tinh thành, đá vàng sẽ mở.
Nơi quẻ Trung Phu, ta thấy trên có quẻ Tốn là phía Đông, là mùa Xuân. Dưới có quẻ Đoài là phía Tây, là mùa Thu. Tốn cũng có nghĩa là gỗ. Gỗ cần được kim đẽo gọt, mới thành khí cụ hữu dụng. Đoài cũng có nghĩa là kim.
Quẻ Trung Phu có:
- Hai Hào 3, 4 là Âm ở giữa chỉ sự hư linh bất muội. Hào 2, 5 đều là Dương chỉ sự minh chính, tinh thuần.
Muốn đạt tới trạng thái Trung Phu, trạng thái Tinh thành, tâm hồn chúng ta phải hư linh, không để cho dục tình phát động, và son sắt, không để cho ngoai cảnh lôi cuốn.
Thánh hiền đạt được mức tinh thành, sẽ sai khiến được vạn hữu. Thánh kinh Công giáo viết: Nếu ngươi có đức tin bằng hạt cải, ngươi có thể bảo núi này: hãy rời đi nơi khác, và nó sẽ rời đi. Và chẳng có gì mà ngươi không làm được. (Xem Mat, 17, 19; Luc 17, 6). Các Thánh hiền Á đông xưa nay cũng đã dùng sức mạnh này mà hàng long, phục hổ.
I. Thoán.
Thoán từ.
中 孚 . 豚 魚 吉 . 利 涉 大 川 . 利 貞 .
Trung Phu. Đồn ngư cát. Lợi thiệp đại xuyên. Lợi trinh.
Dịch.
Trung Phu là nghĩa tín thành,
Làm cho vạn vật an lành, mới hay.
Cá, heo còn cảm đức dày,
Thời cho sông rộng, sóng dầy vẫn qua,
Vượt sông vẫn lợi mới là,
Một niềm trung chính, lợi cơ mới nhiều.
Khi lòng đã tinh thành, sẽ cảm động được đến những loài vật hạ đẳng như heo. cá. Lúc ấy dầu có phải vượt gian hiểm cũng không sao, trái lại vẫn hay, vẫn lợi.

Thoán Truyện. Thoán viết.
彖 曰 . 中 孚 . 柔 在 內 而 剛 得 中 . 說 而 巽 . 孚 乃 化 邦 也 . 豚 魚 吉 . 信 及 豚 魚 也 . 利 涉 大 川 . 乘 木 舟 虛 也 . 中 孚 以 利 貞 . 乃 應 乎 天 也 .
Trung phu. Nhu tại nội nhi cương đắc trung. Duyệt nhi tốn. Phu nãi hóa bang dã. Đồn ngư cát. Tín cập đồn ngư dã. Lợi thiệp đại xuyên. Thừa mộc chu hư dã. Trung Phu dĩ lợi trinh. Nãi ứng hồ thiên dã.
Dịch.
Trung Phu mềm ở bên trong,
Cứng ngoài, vả lại đắc trung, mới tài.
Vui hòa, tốn thuận với người,
Tinh thành sẽ đổi được đời, được dân.
Cá, heo phúc trạch thấm nhuần,
Cá, heo mà cũng thừa ân tín thành.
Vượt sông, mà vẫn lợi hanh,
Thuyền không, chèo lái mặc tình thỏa thuê.
Trung trinh, sau trước vẹn bề,
Đạo Trời ứng hợp, việc gì cũng hay.

Thoán Truyện, trước hết nhìn theo hình dáng quẻ Trung phu, mà giải quẻ Trung phu. Quẻ Trung phu có 2 Hào Âm ở giữa, thế là Nhu tại nội. Lại có Hào Cửu nhị và Cửu ngũ dương cương đắc trung, nên nói: Nhi cương đắc trung. Các nhà bình giải cho rằng: đó là trạng thái của một tâm hồn hư linh, không bị vật dục chia phối, ngoại dụ lôi cuốn. Quẻ Trung phu dưới có quẻ Đoài là duyệt; trên có quẻ Tốn là thuận, cho nên Thoán nói Duyệt nhi Tốn.
Nếu người trên từ tốn, khéo xử, thuận theo người dưới; nếu người dưới vui vẻ vâng phục người trên; nếu đôi đàng mà thành khẩn đối xử với nhau, thì quốc gia sẽ đi đến chỗ hóa thành thịnh trị. Thoán tiếp: Phu nãi hóa bang dã.
Thứ đến, Thoán Truyện giải thích lời lẽ của Thoán từ, cho rằng Tinh thành mà hay, mà lợi, chính là vì đã có thể cảm được đến cả những loại vật hạ đẳng như heo, như cá (Đồn ngư cát. Tín cập đồn ngư dã). Lúc đã có lòng tinh thành, dẫu có gặp nguy biến cũng không sao. Cuối cùng Thoán Truyện nghị luận rằng: Nếu mình mà tinh thành theo được chính lý, chính đạo, thì sẽ cảm ứng được với trời. Thế tức là: Chí thành cảm thần vậy.
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết.
象 曰 . 澤 上 有 風 . 中 孚 . 君 子 以 議 獄 緩 死 .
Trạch thượng hữu phong. Trung phu. Quân tử dĩ nghị ngục hoãn tử.
Dịch. Tượng rằng:
Trung Phu gió lộng mặt hồ,
Trị dân, quân tử phải lo, phải lường.
Án mình xét xử cho tường,
Chém người chớ vội, phải nương, phải chờ.

Gió thổi mặt hồ là Trung phu. Người quân tử phải lo bình nghị hình án cho sáng suốt, và đừng nên vội vàng xử tử người. Đem lòng chí thành mà đối với dân, dĩ nhiên là phải thương dân. Lòng thương xót của nhà cầm quyền, không những là đối với chúng dân lương thiện, mà còn phải phổ cập cho đến những người bị tù tội, hình án nữa. Thánh hiền xưa rất lưu tâm đến vấn đề hình án. Trong Đại Tượng của 64 quẻ Dịch, có 5 quẻ nói về hình án, đó là quẻ: Phệ Hạp, Bí, Phong, Lữ, Trung phu. Dị Sử thị khi bình Truyện Oan Ngục trong Liễu Trai có viết: Xử án là nhiệm vụ đầu tiên của người làm quan. Bồi đắp hoạ phúc hay diệt mất lẽ Trời, đều do đấy mà ra, không thể không thận trọng.
-Vội vã, táo bạo trong việc xử án, tức là làm trái với lẽ cầu hòa của trời.
-Để việc dây dưa không xét xử cho chúng, cũng là làm thương tổn đến cái mạng của người dân.
Thế cho nên, một vụ kiện hại bằng mấy vụ mất mùa. Xây một cái thành, tất mấy mươi nhà phá sản, như thế há sao không cẩn thận được? Ta thường cho rằng kẻ làm quan mà biết dè dặt, không quá lạm trong văn án, tức là đức đã dầy lắm rồi (Xem Liễu Trai chí dị, Nguyễn Hoạt dịch, quyển 11, trang 65).
Lễ ký, Thiên Vương Chế, đã cho ta thấy rõ sự thận trọng của người xưa về hình án. Một vụ hình án, trước khi phán quyết, đã phải qua bao nhiêu tòa, xem đi, xét lại. Mới đầu nơi Quan Sử (lục sự), kế Quan chính (quan án trong mỗi phủ), rồi Đại Tư Khấu (Tổng trưởng Tư pháp), Tam công (3 quan Thượng thư xét xử lại), cuối cùng mới đệ lên Vua. Vua xét rồi mới tuyên án phạt. Như vậy là hết sức cẩn trọng, và không dám tuyên án hấp tấp.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Đặc biệt trong phần giải thích các Hào, tôi (tác giả) muốn hiểu Trung phu là Tinh thành, thay vì hiểu Trung phu là Thủ tín.

1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 虞 吉 . 有 他 不 燕 .
象 曰 . 初 九 虞 吉 . 志 未 變 也 .
Sơ Cửu.
Ngu cát. Hữu tha bất yến.
Tượng viết:
Sơ Cửu ngu cát. Chí vị biến dã.
Dịch.
Chưa tin, cân nhắc mới hay,
Tin rồi, đừng có đổi thay dễ dàng.
Nếu mà đi trái lối đường,
Rồi ra sẽ thấy tâm xoang bồi hồi.
Tượng rằng:
Hào Sơ cân nhắc mà hay,
Là vì tâm trí chưa thay, chưa rời.

Sơ Cửu. Muốn đạt tới Tinh thành, cần phải biết đề phòng, ngăn chặn tà tâm, dục vọng và giữ lấy tấm lòng sắt son của mình (Ngu cát). Nếu có tà niệm, tạp niệm (Hữu tha), tự nhiên chúng ta sẽ bất định, bất an (Bất yến). Nếu ta giữ được như vậy, mọi sự sẽ tốt lành, vì lòng ta vẫn tinh tuyền chưa bị ngoại cảnh làm biến đổi (Sơ Cửu ngu cát. Chí vị biến dã).

2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 鳴 鶴 在 陰 . 其 子 和 之 . 我 有 好 爵 . 吾 與 爾 靡 之 .
象 曰 . 其 子 和 之 . 中 心 愿 也 .
Cửu nhị.
Minh hạc tại âm. Kỳ tử họa chi. Ngã hữu hảo tước. Ngô dữ nhi mỹ chi.
Tượng viết:
Kỳ tử hòa chi. Trung tâm nguyện dã.
Dịch.
Hạc kêu khuất nẻo đâu đây,
Mẹ kêu, con hát, cả bầy hòa minh.
Ta đây có rượu thần linh,
Ta đem ta xẻ, ta dành cho ai.
Tượng rằng:
Hạc con ứng tiếng kêu theo,
Là vì trong dạ tin yêu, chí tình.

Hào Cửu nhị nói lên lẽ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Hạc kêu nơi khuất nẻo, vẫn có hạc con hoạ lại (Minh hạc tại âm. Kỳ tử họa chi). Ta có rượu ngon, vẫn có người đến chia xẻ với ta. Ta hay, thời ảnh hưởng sẽ dần lan ra xa mãi (Ngã hữu hảo tước. Ngô dữ nhi mỹ chi).
Khi mình đạt mức tinh thành, sẽ ảnh hưởng đến người, ảnh hưởng ấy sẽ hết sức tự nhiên, sẽ được người chấp nhận một cách thực tình, không gò bó, miễn cưỡng (Kỳ tử hòa chi. Trung tâm nguyện dã).

3. Hào Lục tam.
六 三 . 得 敵 . 或 鼓 或 罷 . 或 泣 或 歌 .
象 曰 . 可 鼓 或 罷 . 位 不 當 也 .
Lục tam.
Đắc địch. Hoặc cổ hoặc bãi. Hoặc khấp hoặc ca.
Tượng viết:
Hoặc cổ hoặc bãi. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Để người mặc sức cuốn lôi,
Lúc thời vồ vập, lúc thời bỏ bê.
Lúc thời khóc lóc ủ ê,
Lúc thời hát xướng, đam mê, vui đùa.
Tượng rằng:
Khi vồ vập, lúc bỏ bê.
Là vì địa vị có bề dở dang.

Lục tam. Những người không có lòng tinh thành, không có sức mạnh tinh thần, sẽ đua đòi chúng bạn (Đắc địch), sống một cuộc đời phù phiếm, hốt hỉ, hốt nộ, lúc hứng khởi, lúc mất tinh thần (Hoặc cổ hoặc bãi); lúc khóc lóc, lúc ca xoang (Hoặc khấp hoặc ca). Đó là đời sống của đại đa số quần chúng.
Thánh kinh Công giáo cũng đã nói: Ta biết sánh thế hệ này với ai? Nó giống như một bầy trẻ ở những nơi công cộng, đang kêu la cùng chúng bạn. Ta đã thổi sáo, sao chúng bay không nhẩy múa; ta đã hát bài bi ai, sao chúng bay không đấm ngực than van? (Mat, 11, 16 - 17).
Sống như vậy đâu xứng đáng? (Hoặc cổ hoặc bãi. Vị bất đáng dã).

4. Hào Lục tứ.
六 四 . 月 几 望 . 馬 匹 亡 . 無 咎 .
象 曰. 馬 匹 亡 . 絕 類 上 也
Lục tứ.
Nguyệt cơ vọng. Mã thất vong. Vô cữu.
Tượng viết:
Mã thất vong. Tuyệt loại thượng dã.
Dịch.
Vầng trăng sắp sửa tới rằm,
Ngựa quên bầu bạn, lỗi lầm chi đâu.
Tượng rằng:
Ngựa quên bầu bạn, cặp kè,
Tuyệt tình đồng loại, theo về với trên.

Lục tứ là một trọng thần, gần gũi quân vương. Ở vào địa vị này, phải đem hết lòng tinh thành, chân thực mà thờ vua.
- Phải khiêm cung, đừng có mong quá thịnh mãn (Nguyệt cơ vọng).
- Phải như vầng trăng chưa tròn mới hay; thần tử mà như vầng trăng tròn, tức là muốn cạnh tranh, đối địch với vua. Mà muốn đối địch với vua, tức là chiêu lấy tai hoạ.. Lại không được hợp bầy, kết đảng, phải một lòng vì vua như con ngựa hay, khi kéo xe trên đường trường, chỉ biết ruổi rong, đến nỗi quên cả những con ngựa bạn (Mã thất vong. Vô cữu).
Tượng nhắc lại: người ở ngôi trọng thần, phải biết quên bầy bạn, một lòng phục vụ quân vương (Mã thất vong. Tuyệt loại thượng dã).

5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 有 孚 攣 如 . 無 咎 .
象 曰 . 有 孚 攣 如 . 位 正 當 也 .
Cửu ngũ.
Hữu phu luyến như. Vô cữu.
Tượng viết:
Hữu phu luyến như. Vị chính đáng dã.
Dịch.
Lấy lòng thành tín cảm dân,
Khát khao, ràng buộc lỗi lầm khỏi lo.
Tượng rằng:
Lấy lòng thành tín cảm dân,
Khát khao ràng buộc, đáng phần xứng ngôi.
Ở ngôi Cửu ngũ, đấng quân vương phải biết đem dạ chí thành để cảm thông thiên hạ. Được vậy, muôn dân sẽ gắn bó để phục vụ mình (Hữu phu luyến như. Vô cữu). Bậc quân vương mà xử sự được như vậy, thực là khéo léo, tốt đẹp, và xứng đáng (Hữu phu luyến như. Vị chính đáng dã).

6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 翰 音 登 于 天 . 貞 凶 .
象 曰 . 翰 音 登 于 天 . 何 可 長 也 .
Thượng Cửu.
Hàn âm đăng vu thiên. Trinh hung.
Tượng viết:
Hàn âm đăng vu thiên. Hà khả trường dã.
Dịch.
Gà kêu tưởng thấu đến trời,
Khăng khăng tưởng thế, thế thời chẳng hay.
Tượng rằng:
Gà kêu đòi thấu đến trời,
Làm sao có thể lâu dài được đâu.
Thượng Cửu. Gà mà muốn kêu thấu tận trời sao được? Hoa hoét, loè loẹt bên ngoài, mà không có thực chất tinh thành bên trong, làm sao mà hay được?
Không tinh thành làm sao mong cảm hoá được người? Gà muốn kêu thấu trời, làm sao mà đến được? Không tinh thành, làm sao cảm hóa người khác về lâu, về dài được? (Hàn âm đăng vu thiên. Hà khả trường dã).
ÁP DỤNG QUẺ TRUNG PHU VÀO THỜI ĐẠI

Quẻ Trung Phu có hai cách giải: Thứ nhất, con người sinh ra đời, phải biết giữ chữ tín, nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy tức một lời nói ra bốn ngựa không theo kịp.
Đúng vậy, ra đời muốn buôn bán hay làm gì cũng vậy, ta cần phải giữ chữ Tín, nghĩa là khi đã nói hoặc đã hứa với ai điều gì, thì phải giữ lời, chứ đừng bạ đâu hứa đấy, hứa cho đẹp lòng người nghe lúc đó, sau rồi lại chối hoặc nuốt lời, không thực hiện đúng lời hứa, điều này người quân tử, hoặc đàng hoàng, đứng đắn không bao giờ làm.
Thứ hai, là dạy con người phải tiến đến chỗ Tinh hoa hoàn thiện, tức là phải tiến đến chỗ tinh thành. Ai trong chúng ta, cũng đã có mầm mộng thần linh sẵn có trong con người. Nhưng ít người hay biết chuyện đó, và ít người làm cho mầm mộng thần linh đó triển dương được tới chỗ tinh hoa, hoàn thiện.
Tinh thành là ta phải có lòng thành khẩn một cách sáng suốt. Làm việc hay xử sự gì, thì phải chuyên tâm, nhất trí làm cho được việc đó và phải làm một cách sáng suốt. Muốn đạt tới trạng thái Tinh thành, tâm hồn ta phải hư linh, không để cho dục tình phát động, không để cho ngoại cảnh chi phối. Muốn tiến tới chỗ tinh hoa, hoàn thiện, phải biết tẩy rửa tâm hồn cho sạch mọi lỗi lầm, phải biết hiếu sinh, phải biết thương yêu đồng loại, phải biết thương dân như con. Vì thế quẻ Trung Phu dạy phải thận trọng về hình án.
Những người đạt tới Tinh thành, có thể hàng long, phục hổ, sai khiến vạn vật. Thánh Francois d' Assise xưa đã thu phục được lang sói, đã giảng đạo cho cá nghe vv... thật là phi thường
Một đấng quân vương mà có lòng Tinh thành, phải thương dân như con đỏ. Trung Hoa, về đời nhà Đường, sau loạn An Lộc Sơn, rất nhiều người bị bắt oan. Vua Đường Túc Tôn sai Tô Kỳ đi trọng nhậm Lư Châu ở phiá Tây Bắc để thanh tra các việc hình án. Trước khi Tô Kỳ đi, vua có dụ rằng: Nhân dân đều là con đỏ của triều đình, vì đói rét hay vì ngu dốt mà phạm tội, trẫm rất lấy làm thương xót. Vậy trừ những kẻ cùng hung, cực ác ra, còn thảy đều nên khoan thứ, khiến cho chúng được có dịp sửa mình. Khanh ra đó, nên thể theo ý Trẫm, cứu vớt lấy hàng vạn lương dân. (Xem Trung Bắc chủ nhật, số Tết Quí Mùi (1943). Các vua nhân đức như Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang vv... đều thương dân như con cả. Ở nước ta, có vua Lê Thánh Tôn cũng thương dân như con vậy.
Ta đừng nói rằng: chuyện con người sinh ra là để tiến tới hoàn thiện, là một điều không tưởng, vì xưa nay mấy ai làm được như vậy. Sở dĩ như vậy, vì xưa nay ít sách vở bàn về chuyện này mà thôi. Con người sinh ra, không thể mãi sống vô định hướng, mà chúng ta cần phải vạch cho đồng loại một hướng đi nghĩa lý.
Nếu con người sinh ra không phải để tiến hóa, thì để làm gì ? Để sinh con, đẻ cái, để sống một cuộc đời lo nhiều hơn là bình thản, hay để nuôi con cho chúng thành danh, thành tài, rồi sau đó sẽ ra sao?. Nếu ta cứ đặt ra những câu hỏi như vậy, chúng ta sẽ đi vào vòng luẩn quẩn hết sức là vô lý. Ta thấy Dịch, khi thì dạy ta những bài học thấp như sống cần phải thích ứng với hoàn cảnh, khi thì dạy ta những bài học rất cao, như là con người sinh ra phải tiến tới Tinh thành hoàn thiện. Còn ba quẻ nữa là hết Kinh Dịch, mà nay đưa ra vấn đề là Con người phải tiến đến Tinh Hoa, thật là quá đẹp đẽ.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

8 PHONG SƠN TIỆM


Tiệm Tự Quái
漸 序 卦
Cấn giả chỉ dã.
艮 者 止 也
Vật bất khả dĩ chung chỉ.
物 不 可 以 終 止
Cố thụ chi dĩ Tiệm.
故 受 之 以 漸
Tiệm giả, tiến dã.
漸 者 進 也

Tiệm Tự Quái
Cấn là ngưng nghỉ, là dừng chẳng đi.
Vật ngưng, rồi lại suy di.
Cho nên quẻ Tiệm hẹn kỳ tiến lên.
Tiệm là tiến mãi, tiến lên.

Tiệm là tiến, nhưng mà tiến có tuần tiết, thứ đệ, lớp lang, trật tự. Quẻ Tiệm đến sau quẻ Cấn, vì lẽ Trời, ngưng lại động, lại tiến. Tiệm là tiến từ từ, có tuần, có tiết, chứ không đốt giai đoạn. Trong quẻ này, Thánh nhân đã đề cao nguyên lý ấy bằng nhiều cách:
1. Tiệm là cây mọc trên núi, cây mọc trên núi dĩ nhiên là mọc chậm hơn cây mọc dưới đồng bằng.
2. Thoán Từ đề cập tới chuyện cô gái về nhà chồng.
Người Trung Hoa xưa nay rất thận trọng về việc cưới xin. Muốn cưới vợ phải có đủ sáu lễ sau đây:
1. Nạp thái. 2. Vấn danh. 3. Nạp cát. 4. Nạp trưng. 5. Thỉnh kỳ. 6. Thân nghinh.
Thế là muốn cưới vợ, phải có kỳ, có hạn, có lễ nghi đường hoàng, phải tuần tự nhi tiến, chứ không phải chuyện vơ bèo, gạt tép, đốt giai đoạn.
3. Tượng nói về công trình tích lũy nhân đức, cải thiện phong tục, đó cũng là một công trình lâu lai, trường cửu.
4. Hào Từ lấy chim Hồng, để mô tả sự tiến có tuần tự, tuần tiết. Chim hồng là một loài chim viễn xứ, cứ mùa lá rụng thì bay về Nam, cứ lúc băng tan thì trở về Bắc. Thế là hành xử có tuần tiết. Lúc bay thì có thứ tự, con nhớn bay trước, con nhỏ theo sau, có lớp lang hẳn hoi, Thế là hành xử có thứ tự.
Sáu Hào lại mô tả con chim Hồng tiến từ thấp, lên cao nguyên. Như vậy bài học của quẻ này thật là rõ ràng.
- Ở đời muốn nên công, đừng có vội vàng, đừng có đốt giai đoạn.
- Cưới xin mà vội vàng, chồng vợ sẽ chẳng ra gì.
- Công danh mà mau được, thời là thứ công danh do sự luồn cúi, cầu cạnh, mua bán.
- Của cải mà mau được, là thứ của cải phi nhân, phi nghĩa. Tiến cho có tuần tiết, trật tự sẽ bảo toàn được lễ nghĩa, liêm sỉ.
I. Thoán.
漸 . 女 歸 吉 . 利 貞 .
Thoán từ.
Tiệm. Nữ qui cát. Lợi trinh.
Dịch.
Tiệm là tuần tự bước lên,
Dần dà như gái về bên nhà chồng.
Hợp thời, hợp lẽ thung dung,
Mới mong ích lợi, mới mong tốt lành.
Ở đời những công chuyện quan hệ, đều phải tuần tự nhi tiến, mới tránh được mọi tệ hại. Mà việc cần phải tiến cho tuần tự, cho cẩn thận, cho đúng lễ nghi nhất, là việc cưới xin, vì quân tử chi đạo, tạo đoan hồ phu phụ. Cưới gả có đường hoàng, chững chạc, có đủ nạp thái, vấn danh, dạm hỏi, treo cưới, thì tình phu phụ sau này mới vững bền.

Thoán Truyện. Thoán viết:
彖 曰 . 漸 之 進 也 . 女 歸 吉 也 . 進 得 位 . 往 有 功 也 . 進 以 正 . 可 以 正 邦 也 . 其 位 剛 . 得 中 也 . 止 而 巽 . 動 不 窮 也 .
Tiệm chi tiến dã. Nữ qui cát dã. Tiến đắc vị. Vãng hữu công dã. Tiến dĩ chính. Khả dĩ chính bang dã. Kỳ vị. Cương đắc trung dã. Chỉ nhi tốn. Động bất cùng dã.
Dịch. Thoán rằng:
Tiệm là tuần tự bước lên.
Hay, lành như gái về bên nhà chồng.
Tiệm mà ngôi vị thung dung,
Thế là làm đã nên công phỉ tình.
Tiến mà chính trực, liên minh,
Chính dân, chính nước, âu đành có phen.
Ở ngôi cao trọng bên trên,
Một niềm trung chính, cương kiên mới là.
Thung dung, thư thái, ôn hòa,
Tiến trình hoạt động bao la chẳng cùng.

Thoán Truyện một lần nữa lại nhấn mạnh đến chuyện tiến phải có thứ bậc, tuần tiết y như gái về nhà chồng, phải có đủ dạm hỏi cưới xin mới tốt.(Tiệm chi tiến dã. Nữ qui cát dã). Trong công cuộc tuyển lựa nhân tài, để trị dân, trị nước, cũng phải có những sự thử thách, tuyển lựa cho hẳn hoi. Người sĩ phu phải leo dần lên các bậc thang danh vọng, mà điều cần nhất là tài đức phải xứng kỳ vị, như vậy xã hội mới tránh được mọi tệ đoan, nhũng loạn.
Kẻ sĩ tuần tự tiến lên như trên, sẽ tránh được nạn mua dân, bán nước, tránh được nạn đầu cơ chính trị, luồn lọt cửa trước, cửa sau, mất hết giá trị con người. Vì thế, nói tiến lên mà xứng ngôi, xứng vị, đã có đủ kinh nghiệm, đủ tài đức để giữ địa vị, để làm nhiệm vụ được giao phó, thời làm việc mới có hiệu năng (Tiến đắc vị. Vãng hữu công dã). Tiến lên, mà phải lẽ, phải đạo, nghĩa là người có tài, có đức, mới lên được những địa vị lãnh đạo, thì dĩ nhiên nước sẽ có kỷ cương trật tự, người trên sẽ là người xứng mặt, xứng ngôi (Tiến dĩ chính. Khả dĩ chính bang dã). Nếu cứ theo đường lối ấy mà tiến, thời khi lên đến cấp lãnh đạo, sẽ là những người hoàn hảo, và địa vị sẽ được vững chãi (Kỳ vị. Cương đắc trung dã). Tâm trí họ sẽ bình tĩnh, thái độ họ sẽ từ tốn, cho nên khi hành xử, họ sẽ không bị vấp vướng, bế tắc. (Chỉ nhi tốn. Động bất cùng dã).
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 山 上 有 木 . 漸 . 君 子 以 居 賢 德 . 善 俗 .
Tượng viết:
Sơn thượng hữu mộc. Tiệm. Quân tử dĩ cư hiền đức thiện tục.
Dịch. Tượng rằng:
Tiệm là trên núi có cây,
Cho nên quân tử ăn ngay, ở lành.
Mình mà nhân đức, tinh thành.
Rồi ra sẽ khiến nhân tình thuần lương.
Cây mọc trên núi, mọc chậm chạp, nhưng khi đã lên cao, thời ảnh hưởng đến phong cảnh cả vùng. Người quân tử cũng theo đó mà bắt chước. Tu nhân, tích đức cho ngày một hoàn hảo hơn, và cải thiện cho phong hóa ngày một thuần mỹ hơn. Tục ngữ có câu: Kiến tha lâu cũng có ngày đầy tổ, hoặc Nước chẩy đá mòn. Tất cả, đều nói lên được sự tiệm tăng, tiệm tiến.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Sáu Hào nhấn mạnh, cần phải tiến dần dà từ dưới mà lên
- Lúc ở địa vị thấp, đừng lo buồn (Hào Sơ).
- Khi có địa vị, đừng ăn không, ngồi rồi. (Hào 2).
- Đừng dùng những trò ma giáo mà tiến lên.(Hào3)
- Ở địa vị cao, phải từ tốn, nhũn nhặn, mới thoát hiểm. (Hào 4)
- Ở địa vị lãnh đạo quốc gia, phải có hiền tài phụ bật, mới giúp ích được cho đời. (Hào 5)
- Ở điạ vị thánh hiền, nên treo gương cho đời (Hào 6)
Sáu Hào đều dùng chim Hồng thủ tượng, vì chim Hồng là loài chim đi về có tuần tiết, khi bay thì có đoàn ngũ, có thứ tự. Có người còn thêm rầng chim Hồng là loài chim có tình nghĩa, con trống mà chết đi, thời con mái ở vậy, cho nên hợp với đề tài.

1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 鴻 漸 于 干 . 小 子 厲 . 有 言 . 無 咎 .
象 曰 . 小 子 之 厲 . 義 無 咎 也 .
Sơ Lục.
Hồng tiệm vu can. Tiểu tử lệ. Hữu ngôn. Vô cữu.
Tượng viết:
Tiểu tử chi lệ. Nghĩa vô cữu dã.
Dịch.
Chim hồng dần tiến đến bờ.
Tiểu nhân sợ hải, xuýt xoa than phiền,
Tuy là dang dở, chưa yên,
Nhưng không đến nỗi tội khiên, lỗi lầm.

Sơ Lục bản chất Âm nhu, ở dưới chót quẻ, trên lại không có người ứng dữ. Như vậy, chẳng tiến được là bao. Y như chim Hồng, vừa đáp xuống bến nước là chỗ thấp nhất của bờ biển (Hồng tiệm vu can). Người quân tử khi còn ở địa vị thấp, không than thở, nhưng tiểu nhân thì bồn chồn, phàn nàn. Tuy vậy cũng chẳng có gì đáng trách. (Tiểu tử lệ. Hữu ngôn. Vô cữu.)
Tượng Truyện bình rằng: Tiểu nhân ở cấp dưới, chưa tiến được thời lo buồn, lấy làm nguy hại, nhưng thực ra xét theo nghĩa lý thì chẳng có gì đáng trách (Tiểu tử chi lệ. Nghĩa vô cữu dã).

2. Hào Lục nhị.
六 二 . 鴻 漸 于 磐 . 飲 食 衎 衎 . 吉 .
象 曰 . 飲 食 衎 衎 . 不 素 飽 也 .
Lục nhị.
Hồng tiệm vu bàn. Ẩm thực khản khản. Cát.
Tượng viết:
Ẩm thực khản khản. Bất tố bão dã.
Dịch.
Chim Hồng dần tới thạch bàn,
Uống ăn vui vẻ, bình an tốt lành.
Tượng rằng: Vui vẻ uống ăn,
No nê, không phải một thân một mình.

Hào Lục nhị : ẩm đắc trung chính, tiến lại có Cửu ngũ ứng dữ, tượng như một vị công thần, ở vào một địa vị vững như bàn thạch, y thức như chim Hồng đã đậu trên bàn thạch (Hồng tiệm vu bàn).
Chim Hồng vui vẻ uống ăn, nhưng không ăn uống một mình, mà chia sẻ ngọt bùi cùng nhau (Ẩm thực khản khản. Cát). Người quân tử, khi ở địa vị công thần, há lại thua chim Hồng, há lại vinh thân, phì gia sao? Vì thế Tượng Truyện tiếp lời mà khuyên người quân tử, không nên vì không có bổng lộc nhà vua, mà không lo gì cho đất nước.(Ẩm thực khản khản. Bất tố bảo dã).

3. Hào Cửu tam.
九 三 . 鴻 漸 于 陸 . 夫 征 不 復 . 婦 孕 不 育 . 凶 . 利 御 寇 .
象 曰 . 夫 征 不 復 . 離 群 丑 也 . 婦 孕 不 育 . 失 其 道 也 .
利 用 御 寇 . 順 相 保 也 .
Cửu tam.
Hồng tiệm vu lục. Phu chinh bất phục. Phu dựng bất dục.
Hung. Lợi ngự khấu.
Tượng viết:
Phu chinh bất phục. Ly quần xú dã. Phụ dựng bất dục.
Thất kỳ đạo dã. Lợi dụng ngự khấu. Thuận tương bảo dã.
Dịch.
Chim Hồng đến tới cao nguyên,
Chồng đi, đi mải nên quên cả về.
Vợ thời cũng chẳng ra gì.
Đẻ con, chẳng dám tính bề nuôi con,
Nếu mà sớm biết thiệt hơn,
Cải tà, qui chính, vẫn còn là hay.
Tượng rằng:
Chồng đi, đi mãi quên về,
Nghĩa là muối mặt, bỏ bê thân tình.
Vợ sinh, mà bỏ con mình,
Thế là trái với đạo hành nhân luân.
Biết điều cải quá, tự tân,
Thi hành chính nghĩa, thân nhân lưỡng toàn.
Chim Hồng (ngỗng trời) vốn là một loài chim nước, nay lại lên cao nguyên, như vậy là không phải (Hồng tiệm vu lục). Đó là tình cảnh một người có tài (dương Hào), nhưng bất trung (tam là bất trung), sốt ruột muốn đốt giai đoạn mà tiến lên. Tuy trên, không có người đường hoàng nâng đỡ (Thượng Cửu không ứng với Cửu tam), nhưng cố tình kết cấu với những người có quyền thế mình gặp (Lục tứ) một cách hết sức bừa bãi. Đó là những hạng người vì quyền thế, vì công danh, mà có thể quên họ hàng, bè bạn.
Họ vì lợi quên nghĩa, có mới nới cũ, chẳng theo đạo lý, cho nên vợ họ cũng là thứ vợ lang chạ, đẻ con ra mà chẳng dám nuôi (Phu chinh bất phục. Phụ dựng bất dục). Thế là một phường mèo mả gà đồng, làm sao mà hay, mà tốt được (Hung). Cho nên bài học của Hào này, là đừng vì lòng ham muốn tiến lên mà làm điều xằng bậy, phi lý, phi nghĩa, như vậy mới hay(Lợi ngự khấu).
Trình tử cho rằng: Cái gì đến một cách phi lý thì gọi là khấu, và ngự khấu là theo chính, lánh tà.
Tượng Truyện giải: Chồng đi chẳng về là bỏ bầy, bỏ bạn. Phu chinh bất phục. Ly quần xú dã. Vợ có mang mà chẳng dám nuôi, là làm điều sái với đạo lý (Phụ dựng bất dục. Thất kỳ đạo dã). Lợi dụng ngự khấu là phải theo chính đạo, mới bảo toàn được mình và người. Thế là Tượng Truyện cũng muốn nói lên rằng: Đừng vì lòng ham danh, cầu tiến mà bỏ đạo lý, bỏ tình nghĩa. Hãy theo chính đạo, mới bảo toàn đuợc mình, được người (Lợi dụng ngự khấu. Thuận tương bảo dã).

4. Hào Lục tứ.
六 四 . 鴻 漸 于 木 . 或 得 其 桷 . 無 咎 .
象 曰 . 或 得 其 桷 . 順 以 巽 也 .
Lục tứ.
Hồng tiệm vu mộc. Hoặc đắc kỳ giốc. Vô cữu.
Tượng viết:
Hoặc đắc kỳ giốc. Thuận dĩ tốn dã.
Dịch.
Chim Hồng dần tiến tới cây,
Nếu mà gặp được cành ngay, khỏi phiền.
Rồi ra mới hết tội khiên.
Tượng viết: May gặp cành ngay,
Thế là khéo xử, khéo xoay hợp thời.
Lục tứ là hoàn cảnh của chim Hồng đậu trên cành cây cao. Chân chim Hồng có màng như chân vịt, nên có tài bơi dưới nước, mà vụng đậu trên cây. Tuy nhiên, nếu đậu cành thẳng cũng không sao. Ý nói rằng kẻ sĩ, được địa vị cao, nhưng nếu một lòng trung quân, tôn kính bề trên, thì cao mà vẫn không nguy (Ngự Án). Vì thế Tượng viết: Hoặc đắc kỳ giốc. Thuận dĩ tốn dã.

5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 鴻 漸 于 陵 . 婦 三 歲 不 孕 . 終 莫 之 勝 . 吉 .
象 曰 . 終 莫 之 勝 . 吉 . 得 所 愿 也 .
Cửu ngũ.
Hồng tiệm vu lăng. Phụ tam tuế bất dựng. Chung mạc chi thắng. Cát.
Tượng viết:
Chung mạc chi thắng cát. Đắc sở nguyện dã.
Dịch.
Chim Hồng dần tới non cao,
Ba năm, vợ chẳng lần nào sinh con.
Rồi ra cản trở sạch trơn,
Rồi ra sẽ được vuông tròn, hẳn hoi.
Tượng rằng: Cản trở sạch trơn,
Thế là tốt đẹp, nhơn nhơn phỉ tình.

Cửu ngũ là chim Hồng đã lên đậu trên đỉnh núi (Hồng tiệm vu lăng). Đó là một ông vua có đức (Dương cương), đắc trung, đắc chính, dưới lại có hiền thần phụ bật. Dẫu có kẻ dèm pha, gàng quải, thì cũng chỉ chia rẽ nhất thời, rồi ra quân thần cũng sẽ hoà hợp với nhau. Thế là Âm Dương hoà hợp, mọi điều phúc khánh sẽ do đấy phát sinh. Chẳng khác nào vợ từ ba năm nay không thai nghén, kể từ nay sẽ tha hồ cưu mang, tha hồ cúc dục (Phụ tam tuế bất dựng). Mới hay, tà chẳng thể thắng chính, những lời dèm pha, ly gián rút cuộc cũng chẳng đi đến đâu (Chung mạc chi thắng. Cát). Thế là cuối cùng, thời đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, thỏa thuê nguyện ước (Đắc sở nguyện dã).

6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 鴻 漸 于 逵 . 其 羽 可 用 為 儀 . 吉 .
象 曰 . 其 羽 可 用 為 儀 . 吉 . 不 可 亂 也 .
Thượng Cửu.
Hồng tiệm vu quì. Kỳ vũ khả dụng vi nghi. Cát.
Tượng viết:
Kỳ vũ khả dụng vi nghi cát. Bất khả loạn dã.
Dịch.
Chim Hồng dẫn tới đường trời,
Lông Hồng có thể hành ngơi, trang hoàng
Tốt lành, đẹp đẽ mọi đàng.
Tượng rằng:
Lông Hồng có thể hành ngơi,
Hay vì trật tự, chẳng lơi, chẳng loàn.

Hào Thượng Cửu chính là: Cánh Hồng bay bổng tuyệt vời (Hồng tiệm vu quì). Chính bản viết là chữ Lục, nhưng thường đọc là Quì, nghĩa là đường mây. Đây ám chỉ một bậc Thánh Hiền bay vút trên chín tầng mây đạo đức, không còn dính líu sự duyên. Tuy nhiên, các ngài còn có chỗ sở dung, là vẫn có thể treo gương sáng cho đời soi, như lông chim Hồng rớt xuống, vẫn có thể làm hành ngơi, trang điểm cho các loại cờ mao, cờ tinh, cờ đạo vv... Các vị Thánh Hiền có thể làm gương cho đời, vì các ngài khinh khoát, siêu nhiên, không gì làm loạn tâm, loạn trí được (Kỳ vũ khả dụng vi nghi cát. Bất khả loạn dã).
ÁP DỤNG QUẺ TIỆM VÀO THỜI ĐẠI

Vào đời, bất cứ làm chuyên gì cũng phải tiến hành một cách tuần tự, thì kết quả sẽ vững vàng hơn, kinh nghiệm sẽ rồi rào hơn. Ví như, một người học lái xe, nếu tay lái chưa vững, mà đã đỗ, thì dễ bị tai nạn.
Nếu ta thấy một người thợ sửa chữa một cái gì đó, mà làm quá nhanh, thì ta phải coi chừng, vì nó sẽ cẩu thả tạm bợ, lấy có, lấy rồi mà thôi. Nhưng phải biết phân biệt, sự làm cẩn thận, và sự làm chậm chạp vì lười biếng, hay vì bản tính chậm chạp.
Đi học, mà không chịu học cẩn thận, chăm chỉ, lại dùng thủ đoạn để lấy điểm cao, thì khi tốt nghiệp, mảnh bằng cũng không giúp ta được bao nhiêu.
Ra đời, mà ham làm giàu quá nhanh, sẽ dễ đi vào con đường bất chính. Nếu may mà thoát khỏi lưới pháp luật, thì tâm tư lúc nào cũng lo lắng, không yên.
Tóm lại, bất cứ làm việc gì, cũng nên làm cẩn thận, giải quyết việc gì cũng nên tuần tự xét suy, xem sự việc đó khởi đầu tự đâu mà ra, thì việc khó đến đâu ta cũng có thể giải quyết được.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

Hình ảnh
Đầu trang

daotuanphuong
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 201
Tham gia: 13:30, 30/04/11

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Gửi bài gửi bởi daotuanphuong »

chúc mừng năm mới cả nhà nhé :D
Được cảm ơn bởi: anhlinhmotminh
Đầu trang

Trả lời bài viết