Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tử vi. Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tử vi. Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
-
- Chính thức
- Bài viết: 76
- Tham gia: 11:59, 27/05/11
TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả
Bác Tây Đô ơi, 2 bữa nay cháu có tìm hiểu về Cô Năm Hậu bên TGVH mà có lần Bác giới thiệu cho 1 bạn trên diễn đàn xem,cháu có thấy các clip của Cô quay lại khi giúp các người bệnh trừ tà, ma, vong hay kéo dài tay ra.... Cháu nữa tin nữa ngờ.... Nếu quả thật các vong, ma quỷ dễ nhập vào con người như vậy thì thật sự đáng sợ. Ở nhà cháu có thờ Phật, QUan Âm cũng đốt nhang, cúng bái đàng hoàng, thường xuyên liệu có tráh dc thứ ấy vào nhà kg Bác? Khi rảnh cháu thường niệm Nam mô A Di Đà Phật và Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát khi đi đường và trước khi ngủ vậy có tránh ma quỷ dc kg Bác?Sao xem xong các clip đó rùi cháu sợ quá, thà hok bít thì hơn... hichic.... Cháu đi làm về toàn 22h mấy hok hà, khu vưc xung quanh lại vắng nữa...
Được cảm ơn bởi: mp3
- Tây Đô đạo sĩ
- Bát đẳng
- Bài viết: 7976
- Tham gia: 19:37, 19/10/10
- Đến từ: Tây Đô
TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả
LÒNG LÀNH ĐỔI TƯỚNG THAY TÊN
Người thọ âm dương của trời đất và khí huyết của cha mẹ mà sanh ra, từ bực vua quan cho đến bực dân giả, cũng đều một cách in nhau cả.
Nhưng trong đó máy tạo có để một cái phân biệt khác nhau là cái tướng, bởi vậy nên người tuy đông, mà không ai giống ai hết.
Tướng ấy để định cho người: sang, hèn, giàu, khó, yểu, thọ, ngay, gian … Hễ hình hài mang lốt tướng nào, thì vận sự thành theo bực ấy, chớ không khi nào sai.
Hồi đời vua Vĩnh Lạc, nhà Minh bên Tàu, có một người tên là Trịnh Hưng Nhi côi cút một mình, không cha mẹ bà con chi hết.
Chàng bèn đến dinh quan Bộ lang là họ Vương, xin ở hầu sai khiến được nửa năm, thì ông thấy chàng mới 17 tuổi mà thật thà, siêng năng và cung kinh nên đem lòng thương, không cho làm việc nặng, để ở trên nhà khách lau dọn bàn ghế, và sai khiến trong khi có khách, hoặc trà nước, hoặc cơm rượu mà thôi.
Một ngày kia Phu nhân bịnh nặng, thuốc thang đã nhiều mà không thấy công hiệu, nên trong khi quan Bộ lang lo buồn, thình lình có khách là ông Viên thượng Bửu đến thăm.Nguyên ông này tên là Trung Triệt, làm chức Thượng bửu tư thừa là con của ông Viên Liễu Trang; cha con tướng thuật như thần, tại xứ Kinh kỳ ai cũng kính phục.
Khi chủ khách ngồi yên, ông Thượng Bửu ngó quan Bộ lang và nói rằng: “Ngài sao mà khí trệ, chắc là bưu quyến có bịnh không yên; nhưng cái tướng này không phải ở trong sanh ra, thật ở ngoài mà đến, hoặc có chỗ tránh được cũng chưa biết chừng!”.
Quan Bộ lang vẫn biết ông Thượng bửu là thần tướng, mà nay xem tướng mình lại đoán trúng việc nữa, nên ông muốn hỏi cho cặn kẽ, nhưng chưa kịp hỏi, kế Trịnh Hưng Nhi bưng khay trà lên cho hai ông uống, rồi trở xuống nhà sau.
Ông Thượng Bửu thấy Trịnh Hưng Nhi, bèn nói nhỏ với quan Bộ lang rằng: “trò nhỏ pha trà đó là người chi trong nhà?”
- Nó là đứa ở của tôi, mà ngài hỏi làm chi?
- Quý hiếm của ngài hay sanh bịnh hoạn, là bởi tại trò đó có cái tướng phòng chủ; nếu nó ở lâu với ngài thì sợ trong nhà phải hao người, vậy ngài cũng liệu mà cho nó ra khỏi nhà, thì tự nhiên bình an.
- Hèn chi từ khi nó đến ở với tôi tới nay ước được năm sáu tháng, mà trong nhà tôi đau ốm luôn luôn, không ngày nào toàn mạnh; nhưng nó tánh nết dễ thương, tôi đâu nỡ đuổi đi!
Khi ông Thượng Bửu ra về, quan Bộ lang đem lời ấy thuật lại, thì phu nhân nghe liền bảo ông mau cho nó đi.
Ông sợ trái ý vợ mà thêm bịnh, bất đắc dĩ ông phải kêu Hưng Nhi vào cho mười quan tiền, rồi bảo đi nơi khác mà ở.
Hưng Nhi khóc lóc mà thưa rằng: “Tôi không có khi nào dám trái ý chủ mà nỡ nào lại đuổi tôi?
Ông Bộ lang bèn đem việc ông Thượng Bửu xem tướng mà thuật lại, thì chàng biết thần tướng đã nói như vậy, không thể nào ở được, liền lạy ông bà rồi ra đi.
Quả nhiên khi chàng ra khỏi nhà, thì phu nhân bắt đầu mạnh dần, rồi từ ấy về sau, trong gia đình không ai bịnh hoạn nữa.
Kẻ trong nhà của quan Bộ lang thấy ông Thượng Bửu nói tướng của Hưng Như như vậy, thì đều giụm năm giụm bảy, luận nọ bàn kia một truyền mười, mười truyền trăm, trăm truyền ngàn, làm cho cả kinh thành, ai cũng hay biết việc ấy cả.
Chàng Hưng Nhi ra ngoài đường, lững đững không biết đi đâu, kế trời vừa tối, chàng vào trong am Quan Âm, nằm trước mái hiên, lăn qua trở lại, ngủ không được.
Chàng bèn than thở một mình rằng: “Người ta có cha mẹ bà con, lại giàu sang tướng tốt; còn mình đã tứ cố vô thân, lại có cái tướng hại chủ. Nay không tội mà bị đuổi thì ai còn chịu làm chủ mình nữa; chi bằng chết cho mát thân còn hơn”.
Chàng suy đi nghĩ lại như vậy rồi mỏn sức ngủ quên, bỗng thấy một người đàn bà, tay cầm nhánh lá, ở trong am bước ra đứng ngay trên đầu chàng.
Chàng bèn lật đật ngồi dậy, thì bà ấy lấy nhành lá chỉ ngay nơi mặt chàng mà nói rằng: “Con chớ nên tự tử vì con tuy có tướng xấu mà lòng con tốt, cũng có ngày kia con được nên thân”.
Bà ấy nói mấy lời như trên đó, liền bước vào trong am, kế Hưng Nhi giựt mình thức dậy, mới biết là điềm chiêm bao.
Sáng ngày, chàng nhớ điềm mộng ấy, không dám tính tới việc chết nữa, có lo tìm đến các dinh quan, hoặc các nhà giàu sang mà xin ở hầu hạ.
Nhưng đáng thương thay! Ai nấy nghe đến cái tên Hưng Nhi cũng đều làm ngơ, không chịu cho chàng ở cả. Chàng đi tối ngày cũng về am Quan Âm mà ngủ trọn nửa tháng trường như vậy.
Lúc ấy mười quan tiền của quan Bộ lang cho, thì chàng đã tiêu xài hết rồi, nên chàng bối rối trong lòng, biết tính làm sao mà độ nhựt cho qua ngày tháng.
Một đêm nọ, chàng nằm thao thức, mà nghĩ rằng: “Nửa tháng nay, mình đi cùng hết châu thành và chẳng có một người dung nạp, vậy mai đây mình phải ra khỏi châu thành mà tìm kiếm, họa may có gặp mối chăng!”.
Sáng ngày chàng thức dậy, vừa ra khỏi cửa thành, thì vừa muốn đi đại tiện; chàng liếc xem bốn phía, thấy nơi bờ hào thành có hai dãy cầu tiêu, dãy bên tả thì đàn ông tới lui không dứt; còn dãy bên hữu thì đàn bà cũng ra vào liên tiếp.
Chàng nhắm dãy bên tả đi vào, lựa một căn trống bước tới, liền ngồi đại tiện vừa xong rồi khi đứng dậy ngó lên nóc cầu tiêu, thấy một gói bằng vải đen móc tòn ten.
Chàng lấy làm lạ, liền với tay xách gói xuống, biết nặng mà chưa hiểu vật chi ở trong, bèn đem ra chỗ vắng vẻ mở lớp vải ở ngoài thì thấy có 300 lượng bạc gói trong 30 gói bằng giấy xanh.
Khi mới thấy bạc ấy, thì chàng mừng rỡ mà nói rằng: “Hay cho ta! Bữa nay hết tiền, may lại được bạc nhiều như thế, thì còn lo chi là nghèo và sợ chi là bị đuổi!”.
Chàng lại nghĩ rằng:
“Của này chắc là kẻ đi đại tiện mà bỏ quên, như người khách thương giàu có mà bỏ quên gói bạc này, dầu có mất đi nữa, thì họ còn bạc khác; ta có lấy luôn cũng không dại chi.
Chớ như người thiếu hụt phải đi vay mượn, hoặc bán đất vườn, để lo việc công danh hay là việc hoạn nạn, mà ta lấy đi thì hại cho gia đình và tánh mạng của người lắm.
Huống chi trời cho mạng ta cùng cực, làm đầy tớ cũng còn chưa yên lại phước đức đâu có mà hưởng của sẵn này?
Duy có đem trả lại cho người là phải; đã chẳng hổ với lương tâm, lại khỏi hại đến công việc của người, mà cũng không trái ý Trời nữa”.
Chàng Hưng Nhi nghĩ vậy, liền xách gói bạc đến gần cầu tiêu, lừa khi người ta không thấy, bèn moi đất vùi lấp gói bạc xuống, rồi ngồi gần một bên, chăm ngó vào cầu tiêu mãi, coi có ai đến kiếm hay không.
Chàng ngồi một chập lâu, bèn thấy một người đàn ông hơ hải chạy đến, vào căn cầu này qua căn cầu khác, luôn hết cả dãy cầu bên tả, rồi ra đứng ngoài, tay thì bứt tóc trên đầu, miệng thì nói rằng: “Thế này thì tôi phải chết, còn sống làm chi!”.
Hưng Nhi thấy người ấy hơ hải và nghe mấy lời than thở như thế, thì biết chắc là người đi kiếm gói bạc. Chàng liền lên tiếng kêu rằng: “Ớ anh kia! Có việc chi cần kíp, thì lại đây tỏ cho tôi rõ, họa may tôi có thể giúp đỡ được!”.
Người ấy nghe kêu liền chạy lại nói rằng:
“Em ôi! Thời vận của tôi thật xui! Nguyên chủ tôi giao bạc cho tôi đem đến Kinh mà lo sự thăng quan; hồi hôm tôi ngụ tại tiệm cơm gần cửa thành này mà vì phòng ngủ không có được chắc chắn nên tôi thức cả đêm, sáng ra tôi đến cầu tiêu này, lại móc gói bạc nơi cái đinh lớn, rồi khi đi tôi bỏ quên lại đó”.
Bây giờ tôi biết lấy chi mà lo việc cho chủ, và khi về biết dùng lời chi nói cho khỏi bị tội, nên tôi muốn liều mình tự vận cho rồi”.
Hưng Nhi hỏi rằng: “Chủ của anh làm quan chi? Còn anh là người chi của chủ, họ tên là gì, xin cho tôi biết, rồi tôi sẽ giúp cho”.
Người ấy nói:
“Chủ của tôi là Trịnh Hùng, làm quan Chỉ huy tại phủ Hoài an, còn tôi đây là họ Trương, chụ cho làm chức Đô Quản, và người ta thường kêu tôi là Trương đô quản, nếu em biết ai lấy gói bạc đó, thì nói giùm cho tôi xin lại, ơn ấy tôi không dám quên”.
Hưng Nhi lại hỏi rằng: “Gói bạc của anh được bao nhiêu và hình tích cái gói ra sao? Anh nói cho tôi nghe thử”.
Người ấy đáp rằng: “Ở ngoài gói bằng vải đen, còn trong gói có 300 lượng bạc gói bằng giấy xanh, mỗi gói là 10 lượng”.
Hưng Nhi cười rằng: “Chính em đây lượm được gói bạc ấy, nên ngồi đợi anh mà trả lại”.
Chàng nói vừa dứt lời, liền moi đất xách gói bạc lên mà đưa cho người ấy.
Đô Quản thấy gói bạc của mình, thì rất mừng rỡ, bèn mở ra đếm lại, y nguyên không thiếu một lượng nào, rồi đứng dậy vòng tay thưa rằng: “Em nhỏ người mà đức lớn, tôi xin kính lại 50 lạng mà đền ơn”.
Hưng Nhi nói rằng: “Nếu tôi muốn lấy gói bạc đó, thì tôi đã đem đi mất rồi, cần gì phải ngồi đây đợi anh làm chi. Xin anh chớ nên làm hư cho cái tâm thuật của em”.
Trương đô Quản hỏi rằng: “Em nhà cửa ở đâu, tên họ là chi, xin cho tôi biết, phòng sau tôi tìm đến mà đáp tình?”.
Em tên là Trịnh Hưng Nhi, 17 tuổi mồ côi từ thuở bé, không cha mẹ, không bà con, không nhà cửa chi hết. Em đương ở đày tớ cho quan Bộ lang, bị thầy tướng nói em có tướng hại chủ, nên bị đuổi đi hơn nửa tháng nay mà không chỗ nương tựa”.
Đô Quản nghe nói, thì động mối thương tâm bèn nói rằng:
“Em đương con cùng cực mà thấy của không tham thật là lòng dạ Thánh Hiền, dẫu người xưa cũng không bì kịp.
Thôi! Em không cần đi đâu làm chi cứ theo tôi vào quán ăn uống và nghỉ ở đó với tôi, đặng sáng ngày mai em giữ giùm hành lý còn tôi thì vào các dinh quan mà lo công việc, đến chừng xong rồi tôi sẽ dẫn em về Hoài An thưa cho chủ tôi biết.
Vả lại chủ tôi cũng đồng họ với em có lẽ em chắc được việc tốt. Dầu chủ tôi không dùng em, còn tôi đây làm chức Đô Quản có thể nuôi em năm ba năm cũng được”.
Hưng Nhi nghe nói rất mừng, kế hai người dắt nhau vào quán ăn uống nghỉ ngơi, sáng ngày Hưng Nhi ở nơi quán mà giữ đồ hành lý, còn Đô Quản thì vào Bộ binh lo việc thăng bổ cho chủ mình là Trịnh Hùng xong, rồi trở lại chỗ nghỉ mà dẫn Hưng Nhi về xứ.
Khi đến Hoài An thì Đô Quản để Hưng Nhi đứng ngoài cửa ngõ; còn chàng thì vào bẩm các việc tại Kinh cho chủ hay.
Quan chỉ huy nghe nói rất mừng, bèn thốt rằng:
“Nay ta được thăng chức Du kích Tướng quân là cũng nhờ người thông thạo mới được việc”.
Đô Quản bẩm rằng: “Không phải nhờ tôi; thiệt là nhờ vị cứu tinh! Nếu không có vị cứu tinh đó, thì chẳng những chủ đã không quan chức mà thôi, lại tánh mạng của tôi cũng không còn!”.
Ông Du kích hỏi rằng: “Vị cứu tinh nào đó?”
Đô Quản bèn đem việc mất bạc nhờ Hưng Nhi lượm được rồi trả lại, như vậy sao không thỉnh về cho ta đền ơn?”
Đô Quản bẩm rằng: “Tôi có dắt người về, nhưng còn đứng ngoài cửa ngõ”.
Ông Du kích lật đật ra ngoài nghinh tiếp, rồi dắt thẳng vào nhà khách mời ngồi, nhưng Hưng Nhi không dám cứ xin để cho chàng đứng hầu mà thôi. Sau chàng bị mời ép đôi ba phen, nên phải kéo lui cái ghế mà ngồi sụt ra sau.
Ông Du kích nhắm xem trạng mạo của Hưng Nhi biết không phải là người hạ tiện, liền nói rằng: “Nhà ngươi họ Trịnh, còn ta đây cũng họ Trịnh, tuổi gần năm mươi mà vợ chồng trơ trọi không con. Ta muốn nhận nhà ngươi làm con phòng ngày sau nối dòng cho họ Trịnh mà không biết nhà ngươi vui lòng chăng?”
Hưng Nhi bẩm rằng: “Phận tôi hèn hạ, nếu quan lớn thương tội cho ở để sai khiến, thì cái ơn ấy đã lớn lắm rồi, có đâu dám mong đến sự làm con!”.
Ông Du kích nói rằng: “Không phải như vậy đâu! Nhà ngươi là một vị ân nhân của ta mà lại là người khinh tài trọng nghĩa nữa; nếu ta lấy tiền của mà đền đáp thì nhà ngươi không chịu; còn mang ơn mà không báo thì ta là người gì?
Hưng Nhi nghe nói cạn lời thì chàng hết phương từ chối, liền cúi lạy ông mà kêu bằng cha.
Ông Du kích bèn cho mời phu nhân ra cho chàng lạy mà kêu bằng mẹ, rồi đặt tên chàng lại là Trịnh Hưng Bang.
Từ ấy về sau ai nấy ở trong xứ đó cũng kêu chàng bằng Công tử cả.
Nói qua Trịnh Hưng Bang thời tốt vận đỏ nên từ khi làm con của quan Du kích tướng quân, thì chàng xem sóc các việc trong ngoài, lại biết quạt nồng ấp lạnh, sớm viếng tối hầu, phải đạo một người con hiếu.
Quan Du kích thấy vậy vui mừng khôn xiết bèn đem hết 18 món võ nghệ chỉ dạy chẳng ít lâu, thì chàng đều tinh thông cả.
Ông lại rước thầy văn thật giỏi về dạy nữa, thì chàng cũng gắng chí học hành, xôi kinh nấu sử được vài năm đã thành ra một người văn võ kiêm toàn, thiên hạ thảy đều kính phục.
Sau nhân quan Du kích làm chức Tiên phong đi đánh giặc Sào hồ, thì Trịnh Hưng Bang cũng theo cha lập được nhiều công trận.
Quan nguyên soái thấy vậy đem lòng yêu mến, bèn phong chàng làm chức Chỉ huy rồi đến lúc yên giặc bang sư về triều, vua Vĩnh Lạc phong quan Du kích làm chức Điện tiền Đại tướng quân và phong cho Trịnh Hưng Bang chức Du kích tướng quân.
Từ ấy cha con đều ở tại Kinh sư mà cung chức.
Một ngày kia, Trịnh Hưng Bang sực nhớ lúc ở hầu hạ quan Bộ lang tuy chàng bị đuổi,
nhưng biết xét rằng, tại chủ nghe lời thầy tướng chớ không phải ở bạc tình với mình. Chàng bèn nghĩ rằng đã về ở gần nhà mà không đến thăm viếng thì sao phải là đạo làm người.
Khi chàng vừa đến dinh quan Bộ lang thì gia nhân chạy vào báo rằng: “Có quan Du kích đến viếng”.
Quan Bộ lang lật đật ra ngoài nghinh tiếp thẳng vào nhà khách rồi mời ngồi nhưng quan Du kích đứng vòng tay mà thưa rằng:
“Ngài là chủ còn tôi là tớ thì đâu dám ngồi đồng bàn, vậy tôi xin đứng hầu mà thôi”.
Quan Bộ lang nghe nói lạ như vậy, bèn hỏi rằng: “Sao quan Du kích lại xưng hô như thế, làm cho tôi xốn xang tấc lòng”.
Du kích thưa rằng: “Vậy chủ không nhớ tôi đây là Hưng Nhi sao?”
Quan Bộ lang nghe nói liền nhìn kỹ lại mới biết là thằng ở của mình đuổi thuở trước, chỉ khác vì mặc áo, mão rực rỡ mà thôi.
“Rỡ mình lạ vẽ cân đai,
Hãy còn hàm én mày ngài như xưa”.
Quan Bộ lang đứng dậy nắm tay quan Du kích mà xin lỗi rằng: “Khi đó tôi nghe lời Viên thượng Bửu, khiến cho tôi đắc tội cùng ngài, nay đã muộn rồi, ăn năn không kịp vậy xin ngài dung thứ cho tôi”.
Quan Du kích bèn thưa rằng: “Trăm việc đều tại Trời, không phải bởi người làm chủ. Nếu lâu nay tôi còn ở đây thì bây giờ tôi đâu có phát đạt; việc ấy là tôi nhờ lời nói của ông Thượng Bửu, nên tôi không phiền chủ chút nào và tôi cũng cám ơn ông Thượng Bửu nữa”.
Lúc ấy vừa có kẻ gia nhân vào báo rằng: “Có ông Thượng Bửu đến viếng thì hai người muốn thử ông, bèn nói nhỏ với nhau rồi dắt vào trong phòng mà sửa soạn.
Khi ông Thượng Bửu vào đến nhà khách, thì quan Bộ lang bước ra chào hỏi mời ngồi và bảo trẻ đem trà ra thết đãi, kế thấy Hưng Bang mặc đồ cũ của kẻ gia nhân tay bưng khay trà bước ra pha, rồi khoanh tay đứng hầu.
Ông Thượng Bửu thấy Hưng Bang bèn ngó xem một hồi rồi hỏi rằng: “Ngài này là người chi trong nhà, xin mời ngồi đây nói chuyện sao lại phải đứng như vậy?”
Quan Bộ lang nói: “Ngài không nhớ Hưng Nhi ở nhà tôi thuở trước mà ngài nói có tướng phòng chủ hay sao?”
Ông Thượng Bửu nghe nói, sực nhớ chuyện cũ năm xưa liền xem lại kỹ lưỡng mà đoán rằng:
“Ngài này thật quả giống Hưng Nhi năm trước, nhưng tướng xấu thuở ấy đã biến đi đâu mất rồi, nay lại hiện ra cái tướng quan võ, giàu sang gồm đủ.
Vả lại tướng ngày nay là bởi nhờ âm đức mà phát ra, tôi dám đoán chắc ngài có làm một việc âm đức chi, hoặc cứu người khỏi chết, hoặc xí được của rồi trả lại cho người, nên mới đổi được cái tướng tốt ấy”.
Trịnh Hưng Bang nghe nói mấy lời bèn khen rằng: “Phép xem tướng của ngài thật là thần diệu”.
Chàng bèn đem việc từ khi bị đuổi tới khi được bạc, rồi đến xứ Hoài An làm con của quan Chỉ huy từ trước đến sau thuật lại không sót một mảy.
Quan Bộ lang hỏi rằng: “Nếu vậy thì hình tướng của người ta cũng có lúc dời đổi hay sao?”
Ông Thượng Bửu nói: “Ngài không nhớ trong sách tướng có câu rằng: “Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sanh. Hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt” đó hay sao? (nghĩa là: lòng tốt tướng xấu, thì tướng theo lòng tốt mà hiện ra; còn tướng tốt lòng xấu, thì tướng theo lòng xấu mà tiêu mất).
Khi ấy quan Bộ lang liền dắt Trịnh Hưng Bang vào trong phòng mà thay áo mão như cũ, rồi đồng ra uống trà nói chuyện với ông Thượng Bửu.
Sau Trịnh Hưng Bang làm đến chức Đại tướng quân, có vợ sanh con đẻ cháu, nối dòng họ Trịnh, làm quan võ luôn luôn.
Đó là một tích người có lòng lành mà Phật trời đổi tướng bần cùng biến ra tướng phú quí. Cái lành ấy là thấy của không tham, cứu người khỏi chết mà được kết quả như vậy.
Theo sách: Gương nhân quả
Người thọ âm dương của trời đất và khí huyết của cha mẹ mà sanh ra, từ bực vua quan cho đến bực dân giả, cũng đều một cách in nhau cả.
Nhưng trong đó máy tạo có để một cái phân biệt khác nhau là cái tướng, bởi vậy nên người tuy đông, mà không ai giống ai hết.
Tướng ấy để định cho người: sang, hèn, giàu, khó, yểu, thọ, ngay, gian … Hễ hình hài mang lốt tướng nào, thì vận sự thành theo bực ấy, chớ không khi nào sai.
Hồi đời vua Vĩnh Lạc, nhà Minh bên Tàu, có một người tên là Trịnh Hưng Nhi côi cút một mình, không cha mẹ bà con chi hết.
Chàng bèn đến dinh quan Bộ lang là họ Vương, xin ở hầu sai khiến được nửa năm, thì ông thấy chàng mới 17 tuổi mà thật thà, siêng năng và cung kinh nên đem lòng thương, không cho làm việc nặng, để ở trên nhà khách lau dọn bàn ghế, và sai khiến trong khi có khách, hoặc trà nước, hoặc cơm rượu mà thôi.
Một ngày kia Phu nhân bịnh nặng, thuốc thang đã nhiều mà không thấy công hiệu, nên trong khi quan Bộ lang lo buồn, thình lình có khách là ông Viên thượng Bửu đến thăm.Nguyên ông này tên là Trung Triệt, làm chức Thượng bửu tư thừa là con của ông Viên Liễu Trang; cha con tướng thuật như thần, tại xứ Kinh kỳ ai cũng kính phục.
Khi chủ khách ngồi yên, ông Thượng Bửu ngó quan Bộ lang và nói rằng: “Ngài sao mà khí trệ, chắc là bưu quyến có bịnh không yên; nhưng cái tướng này không phải ở trong sanh ra, thật ở ngoài mà đến, hoặc có chỗ tránh được cũng chưa biết chừng!”.
Quan Bộ lang vẫn biết ông Thượng bửu là thần tướng, mà nay xem tướng mình lại đoán trúng việc nữa, nên ông muốn hỏi cho cặn kẽ, nhưng chưa kịp hỏi, kế Trịnh Hưng Nhi bưng khay trà lên cho hai ông uống, rồi trở xuống nhà sau.
Ông Thượng Bửu thấy Trịnh Hưng Nhi, bèn nói nhỏ với quan Bộ lang rằng: “trò nhỏ pha trà đó là người chi trong nhà?”
- Nó là đứa ở của tôi, mà ngài hỏi làm chi?
- Quý hiếm của ngài hay sanh bịnh hoạn, là bởi tại trò đó có cái tướng phòng chủ; nếu nó ở lâu với ngài thì sợ trong nhà phải hao người, vậy ngài cũng liệu mà cho nó ra khỏi nhà, thì tự nhiên bình an.
- Hèn chi từ khi nó đến ở với tôi tới nay ước được năm sáu tháng, mà trong nhà tôi đau ốm luôn luôn, không ngày nào toàn mạnh; nhưng nó tánh nết dễ thương, tôi đâu nỡ đuổi đi!
Khi ông Thượng Bửu ra về, quan Bộ lang đem lời ấy thuật lại, thì phu nhân nghe liền bảo ông mau cho nó đi.
Ông sợ trái ý vợ mà thêm bịnh, bất đắc dĩ ông phải kêu Hưng Nhi vào cho mười quan tiền, rồi bảo đi nơi khác mà ở.
Hưng Nhi khóc lóc mà thưa rằng: “Tôi không có khi nào dám trái ý chủ mà nỡ nào lại đuổi tôi?
Ông Bộ lang bèn đem việc ông Thượng Bửu xem tướng mà thuật lại, thì chàng biết thần tướng đã nói như vậy, không thể nào ở được, liền lạy ông bà rồi ra đi.
Quả nhiên khi chàng ra khỏi nhà, thì phu nhân bắt đầu mạnh dần, rồi từ ấy về sau, trong gia đình không ai bịnh hoạn nữa.
Kẻ trong nhà của quan Bộ lang thấy ông Thượng Bửu nói tướng của Hưng Như như vậy, thì đều giụm năm giụm bảy, luận nọ bàn kia một truyền mười, mười truyền trăm, trăm truyền ngàn, làm cho cả kinh thành, ai cũng hay biết việc ấy cả.
Chàng Hưng Nhi ra ngoài đường, lững đững không biết đi đâu, kế trời vừa tối, chàng vào trong am Quan Âm, nằm trước mái hiên, lăn qua trở lại, ngủ không được.
Chàng bèn than thở một mình rằng: “Người ta có cha mẹ bà con, lại giàu sang tướng tốt; còn mình đã tứ cố vô thân, lại có cái tướng hại chủ. Nay không tội mà bị đuổi thì ai còn chịu làm chủ mình nữa; chi bằng chết cho mát thân còn hơn”.
Chàng suy đi nghĩ lại như vậy rồi mỏn sức ngủ quên, bỗng thấy một người đàn bà, tay cầm nhánh lá, ở trong am bước ra đứng ngay trên đầu chàng.
Chàng bèn lật đật ngồi dậy, thì bà ấy lấy nhành lá chỉ ngay nơi mặt chàng mà nói rằng: “Con chớ nên tự tử vì con tuy có tướng xấu mà lòng con tốt, cũng có ngày kia con được nên thân”.
Bà ấy nói mấy lời như trên đó, liền bước vào trong am, kế Hưng Nhi giựt mình thức dậy, mới biết là điềm chiêm bao.
Sáng ngày, chàng nhớ điềm mộng ấy, không dám tính tới việc chết nữa, có lo tìm đến các dinh quan, hoặc các nhà giàu sang mà xin ở hầu hạ.
Nhưng đáng thương thay! Ai nấy nghe đến cái tên Hưng Nhi cũng đều làm ngơ, không chịu cho chàng ở cả. Chàng đi tối ngày cũng về am Quan Âm mà ngủ trọn nửa tháng trường như vậy.
Lúc ấy mười quan tiền của quan Bộ lang cho, thì chàng đã tiêu xài hết rồi, nên chàng bối rối trong lòng, biết tính làm sao mà độ nhựt cho qua ngày tháng.
Một đêm nọ, chàng nằm thao thức, mà nghĩ rằng: “Nửa tháng nay, mình đi cùng hết châu thành và chẳng có một người dung nạp, vậy mai đây mình phải ra khỏi châu thành mà tìm kiếm, họa may có gặp mối chăng!”.
Sáng ngày chàng thức dậy, vừa ra khỏi cửa thành, thì vừa muốn đi đại tiện; chàng liếc xem bốn phía, thấy nơi bờ hào thành có hai dãy cầu tiêu, dãy bên tả thì đàn ông tới lui không dứt; còn dãy bên hữu thì đàn bà cũng ra vào liên tiếp.
Chàng nhắm dãy bên tả đi vào, lựa một căn trống bước tới, liền ngồi đại tiện vừa xong rồi khi đứng dậy ngó lên nóc cầu tiêu, thấy một gói bằng vải đen móc tòn ten.
Chàng lấy làm lạ, liền với tay xách gói xuống, biết nặng mà chưa hiểu vật chi ở trong, bèn đem ra chỗ vắng vẻ mở lớp vải ở ngoài thì thấy có 300 lượng bạc gói trong 30 gói bằng giấy xanh.
Khi mới thấy bạc ấy, thì chàng mừng rỡ mà nói rằng: “Hay cho ta! Bữa nay hết tiền, may lại được bạc nhiều như thế, thì còn lo chi là nghèo và sợ chi là bị đuổi!”.
Chàng lại nghĩ rằng:
“Của này chắc là kẻ đi đại tiện mà bỏ quên, như người khách thương giàu có mà bỏ quên gói bạc này, dầu có mất đi nữa, thì họ còn bạc khác; ta có lấy luôn cũng không dại chi.
Chớ như người thiếu hụt phải đi vay mượn, hoặc bán đất vườn, để lo việc công danh hay là việc hoạn nạn, mà ta lấy đi thì hại cho gia đình và tánh mạng của người lắm.
Huống chi trời cho mạng ta cùng cực, làm đầy tớ cũng còn chưa yên lại phước đức đâu có mà hưởng của sẵn này?
Duy có đem trả lại cho người là phải; đã chẳng hổ với lương tâm, lại khỏi hại đến công việc của người, mà cũng không trái ý Trời nữa”.
Chàng Hưng Nhi nghĩ vậy, liền xách gói bạc đến gần cầu tiêu, lừa khi người ta không thấy, bèn moi đất vùi lấp gói bạc xuống, rồi ngồi gần một bên, chăm ngó vào cầu tiêu mãi, coi có ai đến kiếm hay không.
Chàng ngồi một chập lâu, bèn thấy một người đàn ông hơ hải chạy đến, vào căn cầu này qua căn cầu khác, luôn hết cả dãy cầu bên tả, rồi ra đứng ngoài, tay thì bứt tóc trên đầu, miệng thì nói rằng: “Thế này thì tôi phải chết, còn sống làm chi!”.
Hưng Nhi thấy người ấy hơ hải và nghe mấy lời than thở như thế, thì biết chắc là người đi kiếm gói bạc. Chàng liền lên tiếng kêu rằng: “Ớ anh kia! Có việc chi cần kíp, thì lại đây tỏ cho tôi rõ, họa may tôi có thể giúp đỡ được!”.
Người ấy nghe kêu liền chạy lại nói rằng:
“Em ôi! Thời vận của tôi thật xui! Nguyên chủ tôi giao bạc cho tôi đem đến Kinh mà lo sự thăng quan; hồi hôm tôi ngụ tại tiệm cơm gần cửa thành này mà vì phòng ngủ không có được chắc chắn nên tôi thức cả đêm, sáng ra tôi đến cầu tiêu này, lại móc gói bạc nơi cái đinh lớn, rồi khi đi tôi bỏ quên lại đó”.
Bây giờ tôi biết lấy chi mà lo việc cho chủ, và khi về biết dùng lời chi nói cho khỏi bị tội, nên tôi muốn liều mình tự vận cho rồi”.
Hưng Nhi hỏi rằng: “Chủ của anh làm quan chi? Còn anh là người chi của chủ, họ tên là gì, xin cho tôi biết, rồi tôi sẽ giúp cho”.
Người ấy nói:
“Chủ của tôi là Trịnh Hùng, làm quan Chỉ huy tại phủ Hoài an, còn tôi đây là họ Trương, chụ cho làm chức Đô Quản, và người ta thường kêu tôi là Trương đô quản, nếu em biết ai lấy gói bạc đó, thì nói giùm cho tôi xin lại, ơn ấy tôi không dám quên”.
Hưng Nhi lại hỏi rằng: “Gói bạc của anh được bao nhiêu và hình tích cái gói ra sao? Anh nói cho tôi nghe thử”.
Người ấy đáp rằng: “Ở ngoài gói bằng vải đen, còn trong gói có 300 lượng bạc gói bằng giấy xanh, mỗi gói là 10 lượng”.
Hưng Nhi cười rằng: “Chính em đây lượm được gói bạc ấy, nên ngồi đợi anh mà trả lại”.
Chàng nói vừa dứt lời, liền moi đất xách gói bạc lên mà đưa cho người ấy.
Đô Quản thấy gói bạc của mình, thì rất mừng rỡ, bèn mở ra đếm lại, y nguyên không thiếu một lượng nào, rồi đứng dậy vòng tay thưa rằng: “Em nhỏ người mà đức lớn, tôi xin kính lại 50 lạng mà đền ơn”.
Hưng Nhi nói rằng: “Nếu tôi muốn lấy gói bạc đó, thì tôi đã đem đi mất rồi, cần gì phải ngồi đây đợi anh làm chi. Xin anh chớ nên làm hư cho cái tâm thuật của em”.
Trương đô Quản hỏi rằng: “Em nhà cửa ở đâu, tên họ là chi, xin cho tôi biết, phòng sau tôi tìm đến mà đáp tình?”.
Em tên là Trịnh Hưng Nhi, 17 tuổi mồ côi từ thuở bé, không cha mẹ, không bà con, không nhà cửa chi hết. Em đương ở đày tớ cho quan Bộ lang, bị thầy tướng nói em có tướng hại chủ, nên bị đuổi đi hơn nửa tháng nay mà không chỗ nương tựa”.
Đô Quản nghe nói, thì động mối thương tâm bèn nói rằng:
“Em đương con cùng cực mà thấy của không tham thật là lòng dạ Thánh Hiền, dẫu người xưa cũng không bì kịp.
Thôi! Em không cần đi đâu làm chi cứ theo tôi vào quán ăn uống và nghỉ ở đó với tôi, đặng sáng ngày mai em giữ giùm hành lý còn tôi thì vào các dinh quan mà lo công việc, đến chừng xong rồi tôi sẽ dẫn em về Hoài An thưa cho chủ tôi biết.
Vả lại chủ tôi cũng đồng họ với em có lẽ em chắc được việc tốt. Dầu chủ tôi không dùng em, còn tôi đây làm chức Đô Quản có thể nuôi em năm ba năm cũng được”.
Hưng Nhi nghe nói rất mừng, kế hai người dắt nhau vào quán ăn uống nghỉ ngơi, sáng ngày Hưng Nhi ở nơi quán mà giữ đồ hành lý, còn Đô Quản thì vào Bộ binh lo việc thăng bổ cho chủ mình là Trịnh Hùng xong, rồi trở lại chỗ nghỉ mà dẫn Hưng Nhi về xứ.
Khi đến Hoài An thì Đô Quản để Hưng Nhi đứng ngoài cửa ngõ; còn chàng thì vào bẩm các việc tại Kinh cho chủ hay.
Quan chỉ huy nghe nói rất mừng, bèn thốt rằng:
“Nay ta được thăng chức Du kích Tướng quân là cũng nhờ người thông thạo mới được việc”.
Đô Quản bẩm rằng: “Không phải nhờ tôi; thiệt là nhờ vị cứu tinh! Nếu không có vị cứu tinh đó, thì chẳng những chủ đã không quan chức mà thôi, lại tánh mạng của tôi cũng không còn!”.
Ông Du kích hỏi rằng: “Vị cứu tinh nào đó?”
Đô Quản bèn đem việc mất bạc nhờ Hưng Nhi lượm được rồi trả lại, như vậy sao không thỉnh về cho ta đền ơn?”
Đô Quản bẩm rằng: “Tôi có dắt người về, nhưng còn đứng ngoài cửa ngõ”.
Ông Du kích lật đật ra ngoài nghinh tiếp, rồi dắt thẳng vào nhà khách mời ngồi, nhưng Hưng Nhi không dám cứ xin để cho chàng đứng hầu mà thôi. Sau chàng bị mời ép đôi ba phen, nên phải kéo lui cái ghế mà ngồi sụt ra sau.
Ông Du kích nhắm xem trạng mạo của Hưng Nhi biết không phải là người hạ tiện, liền nói rằng: “Nhà ngươi họ Trịnh, còn ta đây cũng họ Trịnh, tuổi gần năm mươi mà vợ chồng trơ trọi không con. Ta muốn nhận nhà ngươi làm con phòng ngày sau nối dòng cho họ Trịnh mà không biết nhà ngươi vui lòng chăng?”
Hưng Nhi bẩm rằng: “Phận tôi hèn hạ, nếu quan lớn thương tội cho ở để sai khiến, thì cái ơn ấy đã lớn lắm rồi, có đâu dám mong đến sự làm con!”.
Ông Du kích nói rằng: “Không phải như vậy đâu! Nhà ngươi là một vị ân nhân của ta mà lại là người khinh tài trọng nghĩa nữa; nếu ta lấy tiền của mà đền đáp thì nhà ngươi không chịu; còn mang ơn mà không báo thì ta là người gì?
Hưng Nhi nghe nói cạn lời thì chàng hết phương từ chối, liền cúi lạy ông mà kêu bằng cha.
Ông Du kích bèn cho mời phu nhân ra cho chàng lạy mà kêu bằng mẹ, rồi đặt tên chàng lại là Trịnh Hưng Bang.
Từ ấy về sau ai nấy ở trong xứ đó cũng kêu chàng bằng Công tử cả.
Nói qua Trịnh Hưng Bang thời tốt vận đỏ nên từ khi làm con của quan Du kích tướng quân, thì chàng xem sóc các việc trong ngoài, lại biết quạt nồng ấp lạnh, sớm viếng tối hầu, phải đạo một người con hiếu.
Quan Du kích thấy vậy vui mừng khôn xiết bèn đem hết 18 món võ nghệ chỉ dạy chẳng ít lâu, thì chàng đều tinh thông cả.
Ông lại rước thầy văn thật giỏi về dạy nữa, thì chàng cũng gắng chí học hành, xôi kinh nấu sử được vài năm đã thành ra một người văn võ kiêm toàn, thiên hạ thảy đều kính phục.
Sau nhân quan Du kích làm chức Tiên phong đi đánh giặc Sào hồ, thì Trịnh Hưng Bang cũng theo cha lập được nhiều công trận.
Quan nguyên soái thấy vậy đem lòng yêu mến, bèn phong chàng làm chức Chỉ huy rồi đến lúc yên giặc bang sư về triều, vua Vĩnh Lạc phong quan Du kích làm chức Điện tiền Đại tướng quân và phong cho Trịnh Hưng Bang chức Du kích tướng quân.
Từ ấy cha con đều ở tại Kinh sư mà cung chức.
Một ngày kia, Trịnh Hưng Bang sực nhớ lúc ở hầu hạ quan Bộ lang tuy chàng bị đuổi,
nhưng biết xét rằng, tại chủ nghe lời thầy tướng chớ không phải ở bạc tình với mình. Chàng bèn nghĩ rằng đã về ở gần nhà mà không đến thăm viếng thì sao phải là đạo làm người.
Khi chàng vừa đến dinh quan Bộ lang thì gia nhân chạy vào báo rằng: “Có quan Du kích đến viếng”.
Quan Bộ lang lật đật ra ngoài nghinh tiếp thẳng vào nhà khách rồi mời ngồi nhưng quan Du kích đứng vòng tay mà thưa rằng:
“Ngài là chủ còn tôi là tớ thì đâu dám ngồi đồng bàn, vậy tôi xin đứng hầu mà thôi”.
Quan Bộ lang nghe nói lạ như vậy, bèn hỏi rằng: “Sao quan Du kích lại xưng hô như thế, làm cho tôi xốn xang tấc lòng”.
Du kích thưa rằng: “Vậy chủ không nhớ tôi đây là Hưng Nhi sao?”
Quan Bộ lang nghe nói liền nhìn kỹ lại mới biết là thằng ở của mình đuổi thuở trước, chỉ khác vì mặc áo, mão rực rỡ mà thôi.
“Rỡ mình lạ vẽ cân đai,
Hãy còn hàm én mày ngài như xưa”.
Quan Bộ lang đứng dậy nắm tay quan Du kích mà xin lỗi rằng: “Khi đó tôi nghe lời Viên thượng Bửu, khiến cho tôi đắc tội cùng ngài, nay đã muộn rồi, ăn năn không kịp vậy xin ngài dung thứ cho tôi”.
Quan Du kích bèn thưa rằng: “Trăm việc đều tại Trời, không phải bởi người làm chủ. Nếu lâu nay tôi còn ở đây thì bây giờ tôi đâu có phát đạt; việc ấy là tôi nhờ lời nói của ông Thượng Bửu, nên tôi không phiền chủ chút nào và tôi cũng cám ơn ông Thượng Bửu nữa”.
Lúc ấy vừa có kẻ gia nhân vào báo rằng: “Có ông Thượng Bửu đến viếng thì hai người muốn thử ông, bèn nói nhỏ với nhau rồi dắt vào trong phòng mà sửa soạn.
Khi ông Thượng Bửu vào đến nhà khách, thì quan Bộ lang bước ra chào hỏi mời ngồi và bảo trẻ đem trà ra thết đãi, kế thấy Hưng Bang mặc đồ cũ của kẻ gia nhân tay bưng khay trà bước ra pha, rồi khoanh tay đứng hầu.
Ông Thượng Bửu thấy Hưng Bang bèn ngó xem một hồi rồi hỏi rằng: “Ngài này là người chi trong nhà, xin mời ngồi đây nói chuyện sao lại phải đứng như vậy?”
Quan Bộ lang nói: “Ngài không nhớ Hưng Nhi ở nhà tôi thuở trước mà ngài nói có tướng phòng chủ hay sao?”
Ông Thượng Bửu nghe nói, sực nhớ chuyện cũ năm xưa liền xem lại kỹ lưỡng mà đoán rằng:
“Ngài này thật quả giống Hưng Nhi năm trước, nhưng tướng xấu thuở ấy đã biến đi đâu mất rồi, nay lại hiện ra cái tướng quan võ, giàu sang gồm đủ.
Vả lại tướng ngày nay là bởi nhờ âm đức mà phát ra, tôi dám đoán chắc ngài có làm một việc âm đức chi, hoặc cứu người khỏi chết, hoặc xí được của rồi trả lại cho người, nên mới đổi được cái tướng tốt ấy”.
Trịnh Hưng Bang nghe nói mấy lời bèn khen rằng: “Phép xem tướng của ngài thật là thần diệu”.
Chàng bèn đem việc từ khi bị đuổi tới khi được bạc, rồi đến xứ Hoài An làm con của quan Chỉ huy từ trước đến sau thuật lại không sót một mảy.
Quan Bộ lang hỏi rằng: “Nếu vậy thì hình tướng của người ta cũng có lúc dời đổi hay sao?”
Ông Thượng Bửu nói: “Ngài không nhớ trong sách tướng có câu rằng: “Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sanh. Hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt” đó hay sao? (nghĩa là: lòng tốt tướng xấu, thì tướng theo lòng tốt mà hiện ra; còn tướng tốt lòng xấu, thì tướng theo lòng xấu mà tiêu mất).
Khi ấy quan Bộ lang liền dắt Trịnh Hưng Bang vào trong phòng mà thay áo mão như cũ, rồi đồng ra uống trà nói chuyện với ông Thượng Bửu.
Sau Trịnh Hưng Bang làm đến chức Đại tướng quân, có vợ sanh con đẻ cháu, nối dòng họ Trịnh, làm quan võ luôn luôn.
Đó là một tích người có lòng lành mà Phật trời đổi tướng bần cùng biến ra tướng phú quí. Cái lành ấy là thấy của không tham, cứu người khỏi chết mà được kết quả như vậy.
Theo sách: Gương nhân quả
Được cảm ơn bởi: pccd, Daihiep, ngoctrantran, Veronica07031, cunconhamchoi, kimtudon, Haru Tokoshie, daisyhn, scorpio.passion
- Tây Đô đạo sĩ
- Bát đẳng
- Bài viết: 7976
- Tham gia: 19:37, 19/10/10
- Đến từ: Tây Đô
TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả
Vong nhập là có thật, chuyện thầy Năm Hậu cũng có thật. Tuy nhiên không phải vong muốn nhập vào ai cũng được, người bị vong nhập phải có nhân duyên nợ nần ân oán tiền kiếp với vong ấy, bị yếu bóng vía, lại không biết thờ Phật thờ Bồ tát vong mới lộng hành như thế. Cháu không có gì phải sợ, cứ chịu khó thờ cho tốt, tụng chú Đại bi, niệm Phật, niệm Quán Thế Âm thì vô sự. Thân mến.banglangtim1985 đã viết:Bác Tây Đô ơi, 2 bữa nay cháu có tìm hiểu về Cô Năm Hậu bên TGVH mà có lần Bác giới thiệu cho 1 bạn trên diễn đàn xem,cháu có thấy các clip của Cô quay lại khi giúp các người bệnh trừ tà, ma, vong hay kéo dài tay ra.... Cháu nữa tin nữa ngờ.... Nếu quả thật các vong, ma quỷ dễ nhập vào con người như vậy thì thật sự đáng sợ. Ở nhà cháu có thờ Phật, QUan Âm cũng đốt nhang, cúng bái đàng hoàng, thường xuyên liệu có tráh dc thứ ấy vào nhà kg Bác? Khi rảnh cháu thường niệm Nam mô A Di Đà Phật và Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát khi đi đường và trước khi ngủ vậy có tránh ma quỷ dc kg Bác?Sao xem xong các clip đó rùi cháu sợ quá, thà hok bít thì hơn... hichic.... Cháu đi làm về toàn 22h mấy hok hà, khu vưc xung quanh lại vắng nữa...
Được cảm ơn bởi: pccd, ngoctrantran, Veronica07031, cunconhamchoi, banglangtim1985, mitmitnana, Haru Tokoshie, mp3
TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả
banglangtim1985 đã viết:Bác Tây Đô ơi, 2 bữa nay cháu có tìm hiểu về Cô Năm Hậu bên TGVH mà có lần Bác giới thiệu cho 1 bạn trên diễn đàn xem,cháu có thấy các clip của Cô quay lại khi giúp các người bệnh trừ tà, ma, vong hay kéo dài tay ra.... Cháu nữa tin nữa ngờ.... Nếu quả thật các vong, ma quỷ dễ nhập vào con người như vậy thì thật sự đáng sợ. Ở nhà cháu có thờ Phật, QUan Âm cũng đốt nhang, cúng bái đàng hoàng, thường xuyên liệu có tráh dc thứ ấy vào nhà kg Bác? Khi rảnh cháu thường niệm Nam mô A Di Đà Phật và Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát khi đi đường và trước khi ngủ vậy có tránh ma quỷ dc kg Bác?Sao xem xong các clip đó rùi cháu sợ quá, thà hok bít thì hơn... hichic.... Cháu đi làm về toàn 22h mấy hok hà, khu vưc xung quanh lại vắng nữa...
lớn đầu rùi mà nhát chết thế

con người còn đáng sợ hơn ma ấy chứ !
-
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 1587
- Tham gia: 15:52, 05/04/11
TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả
EM CẨN THẬN ĐÓ, NHƯNG ĐI VỀ KHUYA ,CON MÈO ĐEN NÚP XA TRONG XÓ ĐỪNG NÓI LÀ GẶP MA 2 CON MẮT SÁNG LÈ NHAbanglangtim1985 đã viết:Bác Tây Đô ơi, 2 bữa nay cháu có tìm hiểu về Cô Năm Hậu bên TGVH mà có lần Bác giới thiệu cho 1 bạn trên diễn đàn xem,cháu có thấy các clip của Cô quay lại khi giúp các người bệnh trừ tà, ma, vong hay kéo dài tay ra.... Cháu nữa tin nữa ngờ.... Nếu quả thật các vong, ma quỷ dễ nhập vào con người như vậy thì thật sự đáng sợ. Ở nhà cháu có thờ Phật, QUan Âm cũng đốt nhang, cúng bái đàng hoàng, thường xuyên liệu có tráh dc thứ ấy vào nhà kg Bác? Khi rảnh cháu thường niệm Nam mô A Di Đà Phật và Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát khi đi đường và trước khi ngủ vậy có tránh ma quỷ dc kg Bác?Sao xem xong các clip đó rùi cháu sợ quá, thà hok bít thì hơn... hichic.... Cháu đi làm về toàn 22h mấy hok hà, khu vưc xung quanh lại vắng nữa...


Được cảm ơn bởi: banglangtim1985
-
- Chính thức
- Bài viết: 76
- Tham gia: 11:59, 27/05/11
TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả
thangmyden đã viết:EM CẨN THẬN ĐÓ, NHƯNG ĐI VỀ KHUYA ,CON MÈO ĐEN NÚP XA TRONG XÓ ĐỪNG NÓI LÀ GẶP MA 2 CON MẮT SÁNG LÈ NHAbanglangtim1985 đã viết:Bác Tây Đô ơi, 2 bữa nay cháu có tìm hiểu về Cô Năm Hậu bên TGVH mà có lần Bác giới thiệu cho 1 bạn trên diễn đàn xem,cháu có thấy các clip của Cô quay lại khi giúp các người bệnh trừ tà, ma, vong hay kéo dài tay ra.... Cháu nữa tin nữa ngờ.... Nếu quả thật các vong, ma quỷ dễ nhập vào con người như vậy thì thật sự đáng sợ. Ở nhà cháu có thờ Phật, QUan Âm cũng đốt nhang, cúng bái đàng hoàng, thường xuyên liệu có tráh dc thứ ấy vào nhà kg Bác? Khi rảnh cháu thường niệm Nam mô A Di Đà Phật và Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát khi đi đường và trước khi ngủ vậy có tránh ma quỷ dc kg Bác?Sao xem xong các clip đó rùi cháu sợ quá, thà hok bít thì hơn... hichic.... Cháu đi làm về toàn 22h mấy hok hà, khu vưc xung quanh lại vắng nữa...![]()
e mà thấy ai như cái Avatar của a cũng đủ ngất rùi, kg bít thì hỏi Bác Tây Đô thui, đừng soi e chứ mấy a

- Haru Tokoshie
- Nhất đẳng
- Bài viết: 161
- Tham gia: 00:40, 13/07/11
TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả
Về câu đầu tiên thì thật sự mà nói, mình tài sơ học thiển, kinh thư luận tạng chưa đọc đến đâu nên vẫn chưa thấy một ghi chép nào trả lời cho câu hỏi này. Hoặc có khi không ai dám khẳng định câu trả lời là "có" hay "không" cả.gold đã viết: phật thoát hẳn khỏi luân hồi như vậy chẳng phải là đã thoát ra khỏi quy luât tự nhiên ?
phật có bao h thay đổi tâm tính ko ?
Theo mình hiểu thì như sau:
Nếu "quy luật tự nhiên" như quy luật vật lý, toán học, thiên văn học v.v... thì chúng chỉ là những quy luật áp dụng cho thế giới vật chất mà thôi, không áp dụng cho thế giới vô hình được vì cõi vô hình không được cấu thành bởi cùng một loại vật chất như tại thế giới nơi cơ thể chúng ta tồn tại. Có thể lấy ví dụ như vong linh có thể đi xuyên tường, và có thể di chuyển từ nơi này đến nơi khác cách nhau trăm ngàn cây số chỉ trong nháy mắt.
Có một quy luật khác, đúng cho mọi chúng sinh đó là luật nhân quả. Luật này chi phối mọi chúng sinh và là lực đẩy chúng sinh trôi lăn trong vòng luân hồi.
Còn nếu bạn muốn biết liệu Đức Phật có chịu chi phối của luật nhân quả không thì mình xin phép không trả lời, vì trình độ mình chưa đến đâu, không dám phát ngôn bừa bãi.
Nhưng có một câu chuyện này, thiết nghĩ cũng liên quan một chút đến vấn đề, bạn xem thử và ngẫm nghĩ.
Câu chuyện về ông già chồn được truyền mãi trong nhà thiền như sau.
"Thoáng nhìn Tổ Bá Trượng đã biết đây không phải là người bình thường trong khi ông già chầm chậm tiến về phía tổ. Những đệ tử khác đều ra ngoài khi buổi giảng đã xong.
– Ông là ai? Tổ hỏi.
– Bạch Hòa Thượng, con không phải là người. Nguyên đời Đức Phật Ca Diếp con là tăng. Có một đệ tử hỏi con "Bậc đại tu hành có còn bị Nhân Quả chi phối hay không?”
– Con đáp: "không bị Nhân Quả chi phối!" (Bất lạc Nhân Quả)
– Thế là từ đó con đọa làm thân chồn đến nay đã năm trăm đời. Không biết chỗ sai ở đâu, con xin Hòa Thượng đáp lại cho đúng, để con thoát được thân chồn.
Tổ Bá Trượng bảo:
– Bây giờ ông hỏi lại ta.
– Bạch Hòa Thượng, bậc đại tu hành có còn bị Nhân Quả chi phối hay không?
Tổ bảo:
– Không còn mơ hồ về Nhân Quả! (Bất muội Nhân Quả)
Ngay câu nói ông già liền đại ngộ, thưa:
– Thế là từ nay con thoát được thân chồn, dám xin Hòa Thượng lấy theo lễ Tăng chết tống táng cho con.
Nói rồi ông già biến mất. Tổ Bá Trượng sai bạch kiền chùy bảo chúng sau giờ ngọ trai sẽ đưa đám một vị tăng. Tăng chúng đều ngạc nhiên vì thấy không ai chết, nhà bệnh không ai nằm.
Sau giờ thọ trai, Tổ dẫn chúng tăng vòng qua sau núi đến một chiếc hang, lấy gậy bới ra xác một con chồn đem về làm lễ trà tỳ.”
Về câu thứ hai, thì mình chỉ xin trả lời bạn một cách ngắn gọn: Đức Phật là vô ngã.
Được cảm ơn bởi: gold
-
- Mới gia nhập
- Bài viết: 23
- Tham gia: 17:15, 29/07/11
TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả
Bác Tây Đô ơi, cho cháu hỏi là chuyện lòng lành thay tường đổi tên áh thì ta hiểu người thanh niên đó làm điều tốt nên đổi được tướng. vận. vậy còn tử vi như thế này thì sao ạh??
Nếu tử vi ta đã ko tốt liệu có nói là đổi như tướng, vận được ko ?
Mong câu trả lời của bác.
Chúc bác ngày vui !
Nếu tử vi ta đã ko tốt liệu có nói là đổi như tướng, vận được ko ?
Mong câu trả lời của bác.
Chúc bác ngày vui !
- Tây Đô đạo sĩ
- Bát đẳng
- Bài viết: 7976
- Tham gia: 19:37, 19/10/10
- Đến từ: Tây Đô
TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả
Dĩ nhiên là được, có điều lá số thì không thay đổi nhưng sự luận giải thiện ác họa phúc theo lá số sẽ không còn đúng nữa. Mình làm thiện sẽ tăng thiện, làm ác tăng ác tùy theo thái độ ứng xử trong kiếp sống hiện tại. Lá số là bản ghi chép nghiệp từ các kiếp trước, không được cập nhật như tướng mạo con người nên nhìn vào đấy không biết những ảnh hưởng của hành động hiện tại lên số mạng.scorpio.passion đã viết:Bác Tây Đô ơi, cho cháu hỏi là chuyện lòng lành thay tường đổi tên áh thì ta hiểu người thanh niên đó làm điều tốt nên đổi được tướng. vận. vậy còn tử vi như thế này thì sao ạh??
Nếu tử vi ta đã ko tốt liệu có nói là đổi như tướng, vận được ko ?
Mong câu trả lời của bác.
Chúc bác ngày vui !
Cậu đọc thêm bài này nhé:
Chỗ này tôi xin nói lại. Lá số giống như bản hồ sơ học bạ của học sinh. Khi thầy giáo lớp 9 mới nhận lớp, thầy xem trong học bạ và hồ sơ của học sinh xem năm ngoái ở lớp 8 nó học thế nào. Một đứa giỏi toán, hạnh kiểm tốt thì thầy đoán năm nay có thể nó sẽ được tuyển đi thi học sinh giỏi toán cấp tỉnh. Tuy nhiên nếu nó có bạn gái, yêu đương rồi học hành xao nhãng, toán bị điểm kém thì thầy đã đoán sai. Dĩ nhiên nếu nó vẫn chăm chỉ học hành như năm lớp 8 thì thầy đoán đúng, quả nhiên nó được đi thi học sinh giỏi.
Lóp 8 là kiếp trước, hồ sơ học bạ là lá số Tử vi, Lớp 9 là kiếp này. Cuối cùng thì chính ta làm chủ số phận của mình thôi.
Chúc cậu khoẻ
Được cảm ơn bởi: pccd, Haru Tokoshie, vandamnd
- Tây Đô đạo sĩ
- Bát đẳng
- Bài viết: 7976
- Tham gia: 19:37, 19/10/10
- Đến từ: Tây Đô
TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả
Tướng mạo thay đổi tùy theo hành động.
Một tay bán dầu tên Bùi Độ (đời vua Hán Cảnh Đế) nghèo khổ lang thang, được thầy tướng số cho biết sẽ chết đói vì có hai đường chỉ chạy xéo từ cằm lên mép miệng. Ngày kia Bùi Độ gặp một thiếu nữ ngồi khóc bên giếng sâu. Hỏi ra sự tình mới biết thiếu nữ mang vàng đi để chuộc tội oan của cha, chẳng may bị đánh rơi xuống giếng. Ai cũng nói dưới giếng có con trăn to. Thiếu nữ đang tuyệt vọng muốn quyên sinh. Bùi Độ thương tình, nghĩ mình trước sau cũng chết đói nên liều mạng leo xuống tìm được vàng cho thiếu nữ. Nhờ đó gia đình thiếu nữ được phục hồi danh dự và quyền thế. Một lần gặp lại, nhà tướng số kinh ngạc nói rằng tướng chết đói của Bùi Độ đã biến mất mà thay vào đó là tướng công khanh phú quý rực rỡ. Đúng vậy, sau này thiếu nữ tên Ngọc Hà đền ơn, đem Bùi Độ về dạy học và giao ước vợ chồng rồi mới thưa với phụ thân. Cha nàng gửi gắm Bùi Độ sang một người bạn khác để nhờ tiến cử. Thời gian xa cách Ngọc Hà, Bùi Độ đã lạc lòng với những hình bóng giai nhân khác. Trên bước đường tiến quan, Bùi Độ ghé vào thăm nhà tướng số cũ để tạ ơn, nhưng ông bảo Bùi Độ đã hiện lại tướng chết đói. Bùi Độ tức giận bỏ đi. Sau khi được làm quan, Bùi Độ đánh mất nhân cách, chỉ lục lạo, cưỡng bức các cô gái đẹp, bị triều đình hạ lệnh bắt về kinh trị tội. Bùi Độ sợ hãi trốn vào rừng rồi chết đói cạnh một mỏm đá. Ngọc Hà đau khổ tìm chồng, trông thấy bộ xương và cũng gục chết bên cạnh. Cái phước của Bùi Độ xuất hiện do tâm niệm liều mạng tìm vàng cứu cô gái. Phước đó quá lớn đến nỗi chuyển hẳn tướng mạo và số mệnh để cho Bùi Độ trở thành quan chức vinh hiển. Nhưng rồi, tư cách tầm thường tham dục đã phá vỡ phước cũ để cho nghiệp chết đói đủ cơ duyên xuất hiện trở lại. Như vậy, tướng mạo tùy thuộc vào nghiệp chứ không cố định. Nếu chúng ta thường xuyên biết “liều mạng” cứu giúp mọi người, ắt hẳn tướng mạo và số kiếp chúng ta sẽ thay đổi một cách tốt đẹp lắm!!!
Nguồn: http://tuvilyso.org/forum/index.php?/to ... -nha-phat/" target="_blank
Copyright © TuViLySo.org
Vận mạng có thể thay đổi
Một tay bán dầu tên Bùi Độ (đời vua Hán Cảnh Đế) nghèo khổ lang thang, được thầy tướng số cho biết sẽ chết đói vì có hai đường chỉ chạy xéo từ cằm lên mép miệng. Ngày kia Bùi Độ gặp một thiếu nữ ngồi khóc bên giếng sâu. Hỏi ra sự tình mới biết thiếu nữ mang vàng đi để chuộc tội oan của cha, chẳng may bị đánh rơi xuống giếng. Ai cũng nói dưới giếng có con trăn to. Thiếu nữ đang tuyệt vọng muốn quyên sinh. Bùi Độ thương tình, nghĩ mình trước sau cũng chết đói nên liều mạng leo xuống tìm được vàng cho thiếu nữ. Nhờ đó gia đình thiếu nữ được phục hồi danh dự và quyền thế. Một lần gặp lại, nhà tướng số kinh ngạc nói rằng tướng chết đói của Bùi Độ đã biến mất mà thay vào đó là tướng công khanh phú quý rực rỡ. Đúng vậy, sau này thiếu nữ tên Ngọc Hà đền ơn, đem Bùi Độ về dạy học và giao ước vợ chồng rồi mới thưa với phụ thân. Cha nàng gửi gắm Bùi Độ sang một người bạn khác để nhờ tiến cử. Thời gian xa cách Ngọc Hà, Bùi Độ đã lạc lòng với những hình bóng giai nhân khác. Trên bước đường tiến quan, Bùi Độ ghé vào thăm nhà tướng số cũ để tạ ơn, nhưng ông bảo Bùi Độ đã hiện lại tướng chết đói. Bùi Độ tức giận bỏ đi. Sau khi được làm quan, Bùi Độ đánh mất nhân cách, chỉ lục lạo, cưỡng bức các cô gái đẹp, bị triều đình hạ lệnh bắt về kinh trị tội. Bùi Độ sợ hãi trốn vào rừng rồi chết đói cạnh một mỏm đá. Ngọc Hà đau khổ tìm chồng, trông thấy bộ xương và cũng gục chết bên cạnh. Cái phước của Bùi Độ xuất hiện do tâm niệm liều mạng tìm vàng cứu cô gái. Phước đó quá lớn đến nỗi chuyển hẳn tướng mạo và số mệnh để cho Bùi Độ trở thành quan chức vinh hiển. Nhưng rồi, tư cách tầm thường tham dục đã phá vỡ phước cũ để cho nghiệp chết đói đủ cơ duyên xuất hiện trở lại. Như vậy, tướng mạo tùy thuộc vào nghiệp chứ không cố định. Nếu chúng ta thường xuyên biết “liều mạng” cứu giúp mọi người, ắt hẳn tướng mạo và số kiếp chúng ta sẽ thay đổi một cách tốt đẹp lắm!!!
Nguồn: http://tuvilyso.org/forum/index.php?/to ... -nha-phat/" target="_blank
Copyright © TuViLySo.org
Vận mạng có thể thay đổi
Viên LiễuTrang là một nhà tướng số danh tiếng. Nhìn chỉ tay hay cái mũi của một người nam hoặc nữ, ông có thể đoán biết trước vận mạng tương lai của họ. Một hôm có một vị đại thần dắt con đến nhờ ông xem tướng. Viên Trang coi tướng xong biết đứa bé này vài năm sau sẽ chết. Ông liền bảo cho vị quan kia hay.
Nghe nói vậy, vị quan ấy rất đau khổ. Trên đường về nhà ông đến gặp một vị sư. Vị tăng hỏi: “Có việc gì xảy ra mà trông ngài sầu não như thế?” Vị quan đáp rằng ông vừa mới nghe nhà tướng số báo cho biết một tin chẳng lành.
Hòa Thượng liền xem tướng đứa nhỏ để tìm hiểu vận mạng của nó. Ngài nói với cha em bé: “Chỉ có phước đức mới cứu được mạng sống của cháu. Nhưng cơ duyên làm phước không phải dễ. Nếu ngài muốn có phước đức thì cách tốt nhất là nên phóng sinh. Tạo phước đức bằng hành động thiện không giết hại sinh vật mới có thể bảo vệ mạng sống cho con ông.Nghe lời Hòa Thượng, vị quan kia liền phát nguyện không bao giờ sát sanh mà lại còn phóng sanh. Ông tinh tấn làm lành như vậy được ít năm; sau đó gặp lại cha con ông, Hòa Thượng bảo: “Chưa đủ! Ông cố gắng tạo thêm nhiều thiện nghiệp nữa mới có thể cứu được mạng sống của con ông”.
Viên quan lại nỗ lực cứu thoát nhiều sinh vật nữa. Khi gặp dịp làm phước giúp đỡ ai, người cũng như thú vật; ông luôn luôn sẵn sàng đóng góp thời giờ lẫn tiền bạc. Nhờ vậy, viên quan đã cứu độ vô số sinh linh, và người con đến năm bị chết yểu nó vẫn sống và biến đổi trở thành một thanh niên khỏe mạnh.
Nghe nói vậy, vị quan ấy rất đau khổ. Trên đường về nhà ông đến gặp một vị sư. Vị tăng hỏi: “Có việc gì xảy ra mà trông ngài sầu não như thế?” Vị quan đáp rằng ông vừa mới nghe nhà tướng số báo cho biết một tin chẳng lành.
Hòa Thượng liền xem tướng đứa nhỏ để tìm hiểu vận mạng của nó. Ngài nói với cha em bé: “Chỉ có phước đức mới cứu được mạng sống của cháu. Nhưng cơ duyên làm phước không phải dễ. Nếu ngài muốn có phước đức thì cách tốt nhất là nên phóng sinh. Tạo phước đức bằng hành động thiện không giết hại sinh vật mới có thể bảo vệ mạng sống cho con ông.Nghe lời Hòa Thượng, vị quan kia liền phát nguyện không bao giờ sát sanh mà lại còn phóng sanh. Ông tinh tấn làm lành như vậy được ít năm; sau đó gặp lại cha con ông, Hòa Thượng bảo: “Chưa đủ! Ông cố gắng tạo thêm nhiều thiện nghiệp nữa mới có thể cứu được mạng sống của con ông”.
Viên quan lại nỗ lực cứu thoát nhiều sinh vật nữa. Khi gặp dịp làm phước giúp đỡ ai, người cũng như thú vật; ông luôn luôn sẵn sàng đóng góp thời giờ lẫn tiền bạc. Nhờ vậy, viên quan đã cứu độ vô số sinh linh, và người con đến năm bị chết yểu nó vẫn sống và biến đổi trở thành một thanh niên khỏe mạnh.
Nhà tướng số Viên Liễu Trang biết sự việc này. Từ đó về sau, mỗi khi coi thấy người nào có vận mạng xấu, ông liền khuyên bảo họ nên cố gắng làm việc phước đức và đừng bao giờ sát sanh. Nhờ tu nhân tích đức mà nhiều người đáng lý sẽ phải chết sớm khổ đau, họ lại sống trường thọ; nhiều kẻ nghèo khó trở nên giàu sang.
(Theo Thư viện Hoa Sen)
Sửa lần cuối bởi Tây Đô đạo sĩ vào lúc 08:52, 02/08/11 với 2 lần sửa.
Được cảm ơn bởi: pccd, Ncarter, Daihiep, cloudstrife, Nhất Niệm, Veronica07031, cunconhamchoi, banglangtim1985, kimtudon, Haru Tokoshie, scorpio.passion