PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(95 tiếp)
Đến đây chúng ta thấy rõ ràng một số vấn đề (pháp):
1/ Chánh định - Chính là Định Vô Lậu. Để đạt định vô lậu thì phải sử dụng phương tiện Quán Chiếu. - Còn gọi là Thiền Quán.
Một số nấc của Chánh định có thể kể ra như: Hiện tại an lạc trú là một nấc. Định niệm hơi thở là 1 nấc. Lậu tận minh là một nấc.
Định còn được mô tả qua việc “an trú”. An trú ở đâu thì chúng ta nói định ở đấy. Như vậy, chứng là một lẽ. An trú được ở trong chỗ chứng là một lẽ. Hai điều này khác nhau.
2/ Không thể nào trang nghiêm được gì mà không có một số điều kiện tiên quyết như đã trình ở phía trước. - Điều này, toàn bộ hệ thống giới kinh đều nhắc đi nhắc lại. Ngay tại 197 Quán Vô Lượng Thọ cũng nhắc lại rất rõ những điều kiện tiên quyết. Điều này, khá phù hợp với thực tiễn xưa nay, chúng ta thường thầy bói xem voi. - Giả dụ như đọc được Quán Vô Lượng Thọ và muốn tu tập theo bèn đi Quán mặt trời vậy - Không hề sai nhưng chẳng bao giờ ra kết quả thù thắng rốt ráo tinh tấn là vậy.
3/ Dục như ý túc luôn đi cùng “tinh tấn như ý túc”, “nhất tâm như ý túc”, “định (quán) như ý túc”.
Một thứ bất kỳ đều có thể kéo 3 thứ kia cùng lên và chỉ cần như vậy là “đầy đủ như ý”.
Chúng ta sẽ thấy:
Chỉ cần dục như ý túc - dục giải thoát (nguyện): Mọi thứ đã đủ đầy như ý.
Chỉ cần tinh cần như ý túc - Tinh cần hành (nguyện): Mọi thứ đã đủ đầy như ý.
Chỉ cần nhất tâm như ý túc - Tâm tập trung duy nhất vào hành (nguyện): Mọi thứ đã đủ đầy như ý.
Chỉ cần Quán như ý túc - Quán là trí tuệ là định (giờ mỗi chúng ta đều rõ key này rồi) - Hành quán (nguyện): Mọi thứ đã đủ đầy như ý.
Như vậy mà Đức Thế Tôn nêu tới 4 thứ đều đem đến “như ý túc” - Chúng còn được suy tôn là “thần” - Tứ Thần Túc. - Có một đã “như ý túc”. Đây có tới 4 thì sao? - Thì tràn trề sự tự tại an lạc?
Tuỳ vào căn cơ mỗi người: Ví dụ: Người cần cù bù thông minh - rõ ràng phải lấy “tinh tấn như ý túc” để kéo 3 cái kia lên. Người lắm tham dục ở đời thì cần dục như ý túc để kéo 3 cái kia lên. Người từ đầu tâm đã chuyên chú (nhất niệm, ít niệm) khi hành thì dùng nhất tâm như ý túc để kéo 3 cái kia lên.
Bốn thứ này, có nó vừa sẽ đầy đủ như ý vừa mang hàm nghĩa: Phải chứng thấy (đạt được để sử dụng tu Đạo)
Như vậy, bốn trợ Đạo này không hề đơn giản. Để sử dụng được nó, khả năng có người chúng ta tu gần hết cả 1 đời. - Nhưng đừng nản trí. Đôi khi, một đời đã là rất tinh tấn - nếu như so với vô lượng đời.
Ví dụ: Một người ở đời không có cơ hội tiếp xúc nhiều - không hề thông minh, đa văn, ngã mạn như chúng ta. Cũng không có gì nổi trội, xuất thân hay cơ duyên phước nghiệp đặc biệt gì. Người này chỉ thấy cảm mến Phật bởi cuộc đời của họ khổ quá (vì người này không có gì nổi trội, quay quẩn ở cơm áo gạo tiền, chồng vợ con bố mẹ gia đình xã hội và đủ các lo toan vất vả và cảm thọ khổ…). Chỉ vậy thôi, duyên Phật vậy thôi. Vậy nhưng, khi có cơ duyên nhỏ nhoi đó, họ đã tinh cần nhất niệm “A Di Đà Phật”. Ở cuộc sống, gặp gì, làm gì, khổ vui gì họ cũng nhớ “A Di Đà Phật/ Nam Mô A Di Đà Phật”. - Có khi họ còn chẳng biết tịnh độ là gì cơ, cũng chưa đi Đạo Tràng, cộng tu, nghe pháp môn gì. Họ chỉ vậy. Thế mà mấy chục năm, họ chuyển sang nhất tâm và từ đây toàn bộ xung quanh đều thấy: Một con người đầy phước, an lạc - mọi thứ ở cuộc sống đều như ý, mọi người kính nể… - Điều này chỉ có người chứng thấy rõ mới rõ sự nhiệm màu của Pháp Phật. - Tất nhiên, điều kiện của ai thì cũng là phải: Hành thiện, không hành ác rồi.
Đến đây chúng ta thấy rõ ràng một số vấn đề (pháp):
1/ Chánh định - Chính là Định Vô Lậu. Để đạt định vô lậu thì phải sử dụng phương tiện Quán Chiếu. - Còn gọi là Thiền Quán.
Một số nấc của Chánh định có thể kể ra như: Hiện tại an lạc trú là một nấc. Định niệm hơi thở là 1 nấc. Lậu tận minh là một nấc.
Định còn được mô tả qua việc “an trú”. An trú ở đâu thì chúng ta nói định ở đấy. Như vậy, chứng là một lẽ. An trú được ở trong chỗ chứng là một lẽ. Hai điều này khác nhau.
2/ Không thể nào trang nghiêm được gì mà không có một số điều kiện tiên quyết như đã trình ở phía trước. - Điều này, toàn bộ hệ thống giới kinh đều nhắc đi nhắc lại. Ngay tại 197 Quán Vô Lượng Thọ cũng nhắc lại rất rõ những điều kiện tiên quyết. Điều này, khá phù hợp với thực tiễn xưa nay, chúng ta thường thầy bói xem voi. - Giả dụ như đọc được Quán Vô Lượng Thọ và muốn tu tập theo bèn đi Quán mặt trời vậy - Không hề sai nhưng chẳng bao giờ ra kết quả thù thắng rốt ráo tinh tấn là vậy.
3/ Dục như ý túc luôn đi cùng “tinh tấn như ý túc”, “nhất tâm như ý túc”, “định (quán) như ý túc”.
Một thứ bất kỳ đều có thể kéo 3 thứ kia cùng lên và chỉ cần như vậy là “đầy đủ như ý”.
Chúng ta sẽ thấy:
Chỉ cần dục như ý túc - dục giải thoát (nguyện): Mọi thứ đã đủ đầy như ý.
Chỉ cần tinh cần như ý túc - Tinh cần hành (nguyện): Mọi thứ đã đủ đầy như ý.
Chỉ cần nhất tâm như ý túc - Tâm tập trung duy nhất vào hành (nguyện): Mọi thứ đã đủ đầy như ý.
Chỉ cần Quán như ý túc - Quán là trí tuệ là định (giờ mỗi chúng ta đều rõ key này rồi) - Hành quán (nguyện): Mọi thứ đã đủ đầy như ý.
Như vậy mà Đức Thế Tôn nêu tới 4 thứ đều đem đến “như ý túc” - Chúng còn được suy tôn là “thần” - Tứ Thần Túc. - Có một đã “như ý túc”. Đây có tới 4 thì sao? - Thì tràn trề sự tự tại an lạc?
Tuỳ vào căn cơ mỗi người: Ví dụ: Người cần cù bù thông minh - rõ ràng phải lấy “tinh tấn như ý túc” để kéo 3 cái kia lên. Người lắm tham dục ở đời thì cần dục như ý túc để kéo 3 cái kia lên. Người từ đầu tâm đã chuyên chú (nhất niệm, ít niệm) khi hành thì dùng nhất tâm như ý túc để kéo 3 cái kia lên.
Bốn thứ này, có nó vừa sẽ đầy đủ như ý vừa mang hàm nghĩa: Phải chứng thấy (đạt được để sử dụng tu Đạo)
Như vậy, bốn trợ Đạo này không hề đơn giản. Để sử dụng được nó, khả năng có người chúng ta tu gần hết cả 1 đời. - Nhưng đừng nản trí. Đôi khi, một đời đã là rất tinh tấn - nếu như so với vô lượng đời.
Ví dụ: Một người ở đời không có cơ hội tiếp xúc nhiều - không hề thông minh, đa văn, ngã mạn như chúng ta. Cũng không có gì nổi trội, xuất thân hay cơ duyên phước nghiệp đặc biệt gì. Người này chỉ thấy cảm mến Phật bởi cuộc đời của họ khổ quá (vì người này không có gì nổi trội, quay quẩn ở cơm áo gạo tiền, chồng vợ con bố mẹ gia đình xã hội và đủ các lo toan vất vả và cảm thọ khổ…). Chỉ vậy thôi, duyên Phật vậy thôi. Vậy nhưng, khi có cơ duyên nhỏ nhoi đó, họ đã tinh cần nhất niệm “A Di Đà Phật”. Ở cuộc sống, gặp gì, làm gì, khổ vui gì họ cũng nhớ “A Di Đà Phật/ Nam Mô A Di Đà Phật”. - Có khi họ còn chẳng biết tịnh độ là gì cơ, cũng chưa đi Đạo Tràng, cộng tu, nghe pháp môn gì. Họ chỉ vậy. Thế mà mấy chục năm, họ chuyển sang nhất tâm và từ đây toàn bộ xung quanh đều thấy: Một con người đầy phước, an lạc - mọi thứ ở cuộc sống đều như ý, mọi người kính nể… - Điều này chỉ có người chứng thấy rõ mới rõ sự nhiệm màu của Pháp Phật. - Tất nhiên, điều kiện của ai thì cũng là phải: Hành thiện, không hành ác rồi.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Đến đây, chúng ta cũng đã thấy rõ: Trang nghiêm tâm đó là phát nguyện và thực hành nguyện (còn phát những nguyện gì - chúng ta còn chưa nghĩ được, bởi sao: - Bởi chúng ta phải hiểu hết chính chúng ta và hiểu rõ con đường thành Phật, chúng ta mới có thể phát nguyện cho chính chúng ta - nguyện rất quan trọng là vậy.
Ở bên ngoài đời, còn hay lưu truyền những ngoại Đạo như: Lời nguyền, lời thề nguyện, lời cầu nguyện..v.v. - luôn mang tính chất “thần bí” của sự tô vẽ của ngoại Đạo (Phật).
Nên ở đây, chúng ta cũng rõ: Nguyện mang lực thế nào. Nguyện theo kiểu “hứng chí, linh tinh, hứng lên phát ra…” rồi hành không đến nơi đến chốn - chỉ đoạ nghiệp thâm sâu mà thôi.
Nhưng: Nguyện là hành, chúng ta đã suy xét kỹ mỗi chúng ta và chúng ta đủ cẩn thân, chín chắn lựa chọn sự phù hợp lẫn rất trang nghiêm, thành tâm phát nguyện. Vấn đề chúng ta hành nguyện như thế nào - hay thực hành những nguyện đó như thế nào cho đúng Đạo Đức Thế Tôn - Tức ở trong Giới?
Như đã nói: 37 trợ Đạo chính là 37 thứ pháp còn lại - Chính là 37 thứ dùng để nguyện sở thành - tức là hành nguyện ra hạnh, đạt hạnh nguyện.
37 thứ trợ Đạo được gọi là Trợ Đạo là vậy. Chính là 37 “tôn thần” chứ không phải chỉ có “tứ thần túc”. Vậy nhưng, để sử dụng được 37 tôn thần này có dễ? - Tự nhiên mà sử dụng được?
Vì lẽ đó: Nếu không cần đến 37 tôn Thần. Chúng ta cần gì rối rắm sáng tác trước tác luận từ đầu đến giờ, cũng cần gì phải thông lý thông đường thông chúng ta lắm chuyện, lắm văn như này. Cứ “bụp” một cái như bao đời bao năm qua: Đi giảng Kinh và giảng Pháp Trang nghiêm là ai ai cũng cứ theo “tín nguyện hạnh” đó - một mô tuýp cụ thể nào đó mà thực hành - là giải thoát hết, vào cửa Đạo hết? - Liệu được không? - Thực tế đời bao ngàn năm đã tự minh câu trả lời.
Như vậy, chúng ta cũng rõ tầm quan trọng của việc thông lý và sử dụng 37 trợ Đạo. Đây là trợ Đạo chứ không phải là 37 con đường (pháp tu) mà sẽ cho kết quả Thành Đạo - vào cửa Đạo. Nên được gọi là trợ Đạo.
Nhưng học cách sử dụng 37 trợ Đạo này cũng là một vấn đề. Nhiều chúng ta tu học cả đời vẫn chưa biết sử dụng - nói gì dùng nó để trợ Đạo.
Chúng ta cần tinh cần văn tu tư nhưng điều này hơn nữa khi đã bước vào giai đoạn trang nghiêm tâm. Chỉ có như vậy, mới thấy kết quả thiết thực hiện hữu ở mỗi chúng ta. Bằng không chỉ là văn trí, tưởng pháp và hữu lậu…v.v (chẳng để làm gì)
Ở bên ngoài đời, còn hay lưu truyền những ngoại Đạo như: Lời nguyền, lời thề nguyện, lời cầu nguyện..v.v. - luôn mang tính chất “thần bí” của sự tô vẽ của ngoại Đạo (Phật).
Nên ở đây, chúng ta cũng rõ: Nguyện mang lực thế nào. Nguyện theo kiểu “hứng chí, linh tinh, hứng lên phát ra…” rồi hành không đến nơi đến chốn - chỉ đoạ nghiệp thâm sâu mà thôi.
Nhưng: Nguyện là hành, chúng ta đã suy xét kỹ mỗi chúng ta và chúng ta đủ cẩn thân, chín chắn lựa chọn sự phù hợp lẫn rất trang nghiêm, thành tâm phát nguyện. Vấn đề chúng ta hành nguyện như thế nào - hay thực hành những nguyện đó như thế nào cho đúng Đạo Đức Thế Tôn - Tức ở trong Giới?
Như đã nói: 37 trợ Đạo chính là 37 thứ pháp còn lại - Chính là 37 thứ dùng để nguyện sở thành - tức là hành nguyện ra hạnh, đạt hạnh nguyện.
37 thứ trợ Đạo được gọi là Trợ Đạo là vậy. Chính là 37 “tôn thần” chứ không phải chỉ có “tứ thần túc”. Vậy nhưng, để sử dụng được 37 tôn thần này có dễ? - Tự nhiên mà sử dụng được?
Vì lẽ đó: Nếu không cần đến 37 tôn Thần. Chúng ta cần gì rối rắm sáng tác trước tác luận từ đầu đến giờ, cũng cần gì phải thông lý thông đường thông chúng ta lắm chuyện, lắm văn như này. Cứ “bụp” một cái như bao đời bao năm qua: Đi giảng Kinh và giảng Pháp Trang nghiêm là ai ai cũng cứ theo “tín nguyện hạnh” đó - một mô tuýp cụ thể nào đó mà thực hành - là giải thoát hết, vào cửa Đạo hết? - Liệu được không? - Thực tế đời bao ngàn năm đã tự minh câu trả lời.
Như vậy, chúng ta cũng rõ tầm quan trọng của việc thông lý và sử dụng 37 trợ Đạo. Đây là trợ Đạo chứ không phải là 37 con đường (pháp tu) mà sẽ cho kết quả Thành Đạo - vào cửa Đạo. Nên được gọi là trợ Đạo.
Nhưng học cách sử dụng 37 trợ Đạo này cũng là một vấn đề. Nhiều chúng ta tu học cả đời vẫn chưa biết sử dụng - nói gì dùng nó để trợ Đạo.
Chúng ta cần tinh cần văn tu tư nhưng điều này hơn nữa khi đã bước vào giai đoạn trang nghiêm tâm. Chỉ có như vậy, mới thấy kết quả thiết thực hiện hữu ở mỗi chúng ta. Bằng không chỉ là văn trí, tưởng pháp và hữu lậu…v.v (chẳng để làm gì)
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Như vậy, cách thức, phương pháp hành nguyện là sử dụng 37 trợ Đạo để thực hành nguyện. Lúc này nguyện mới cho kết quả - còn gọi là hạnh - hạnh nguyện.
Bằng không: Chúng ta hành nguyện của chúng ta nhưng chúng ta “trà đạp” lên chúng sinh khác, chúng ta làm đau khổ chúng sinh khác khi chúng ta hành nguyện thì đây chỉ là “tạo nghiệp” chứ hành nguyện gì.
Ví dụ: Một nguyên đơn giản: Giúp đỡ vô lượng chúng sinh.
Vì không có 37 trợ Đạo. Chúng ta hành cái nguyện kia vừa ở trong vô minh lẫn “bản ngã” to đùng. Chúng ta nhìn thấy 1 chúng sinh - qua lăng kính pháp trần của chúng ta (qua 6 căn của chúng ta) - chúng ta tưởng: Chúng sinh đó cần mình giúp. Và chúng ta lao vào giúp. - Đây là 1 sự mù quáng vô minh - vì chưa chắc chúng sinh kia cần giúp hoặc chính chúng ta giúp đỡ theo cách tri kiến của chúng ta về “thế là đúng” - khả năng tạo nghiệp ở ví dụ này là rất lớn.
Chúng ta đã biết ngay: Phải trên lăng kính sử dụng 37 trợ Đạo để hành nguyện.
Chẳng có gì hoang đường hơn việc: “Tôi không cần dùng 37 trợ Đạo nhưng tôi vẫn Hành Đạo Đức Thế Tôn đúng Giới, đem lại kết quả Phật”.
Như vậy, chúng ta đã thấy rõ dùng cái gì, như thế nào để hành nguyện của chúng ta sau này. Hãy tuỳ cơ ứng biến, đừng chấp pháp: Trợ Đạo nào cũng là trợ Đạo, đến cấp cảnh tuỳ tâm sở dụng… thì chúng ta không phải nghĩ nữa. Nó tự hiện ra khi cần hành 1 nguyện nào đó cho đúng giới. Còn khi ban đầu, sơ khởi: Chúng ta phải cố gắng trau dồi văn tu tư 37 trợ Đạo để sử dụng cho thuần thục.
Bằng không: Chúng ta hành nguyện của chúng ta nhưng chúng ta “trà đạp” lên chúng sinh khác, chúng ta làm đau khổ chúng sinh khác khi chúng ta hành nguyện thì đây chỉ là “tạo nghiệp” chứ hành nguyện gì.
Ví dụ: Một nguyên đơn giản: Giúp đỡ vô lượng chúng sinh.
Vì không có 37 trợ Đạo. Chúng ta hành cái nguyện kia vừa ở trong vô minh lẫn “bản ngã” to đùng. Chúng ta nhìn thấy 1 chúng sinh - qua lăng kính pháp trần của chúng ta (qua 6 căn của chúng ta) - chúng ta tưởng: Chúng sinh đó cần mình giúp. Và chúng ta lao vào giúp. - Đây là 1 sự mù quáng vô minh - vì chưa chắc chúng sinh kia cần giúp hoặc chính chúng ta giúp đỡ theo cách tri kiến của chúng ta về “thế là đúng” - khả năng tạo nghiệp ở ví dụ này là rất lớn.
Chúng ta đã biết ngay: Phải trên lăng kính sử dụng 37 trợ Đạo để hành nguyện.
Chẳng có gì hoang đường hơn việc: “Tôi không cần dùng 37 trợ Đạo nhưng tôi vẫn Hành Đạo Đức Thế Tôn đúng Giới, đem lại kết quả Phật”.
Như vậy, chúng ta đã thấy rõ dùng cái gì, như thế nào để hành nguyện của chúng ta sau này. Hãy tuỳ cơ ứng biến, đừng chấp pháp: Trợ Đạo nào cũng là trợ Đạo, đến cấp cảnh tuỳ tâm sở dụng… thì chúng ta không phải nghĩ nữa. Nó tự hiện ra khi cần hành 1 nguyện nào đó cho đúng giới. Còn khi ban đầu, sơ khởi: Chúng ta phải cố gắng trau dồi văn tu tư 37 trợ Đạo để sử dụng cho thuần thục.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Sơ qua về 37 phẩm trợ Đạo:
1/ Tứ Niệm Xứ
2/ Tứ Chánh Cần
3/ Tứ Như Ý Túc
4/ Ngũ Căn
5/ Ngũ Lực
6/ Thất Giác Chi
7/ Bát Chánh Đạo
Ở nhiều tài liệu cho rằng Bát Chánh Đạo bằng: Tứ Vô Lượng Tâm và Tứ Niệm
Về mặt bản chất: Chúng ta rất rõ, 37 phẩm mà bản chất là vô lượng phẩm. Còn vì lịch sử và tri kiến thường được tri kiến là 37 thì chúng ta cũng nói là 37. Nói khác: Bất tư nghì quá, lại sẽ bị mang tiếng “ma thuyết”.
Chúng ta có thể tự thấy luôn về sự sai lệch thường thấy.
Có tài liệu thay Bát Chánh Đạo bằng Tứ Vô Lượng Tâm (Từ Bi Hỷ Xả) và Tứ Niệm ( Phật, Pháp, Tăng, Giới)
Ví dụ:
Thực tế bản chất ai đó ở chúng ta sau này khi thành Phật sẽ chứng và trú điều này:
Tứ Niệm Xứ:
Niệm Thân: Niệm Tăng
Niệm Tâm: Niệm Phật
Niệm Thọ: Niệm Giới
Niệm Pháp: Niệm Pháp
Còn Tứ Vô Lượng Tâm: Từ đầu luận đến đây, chúng ta đều thấy: Đây là tánh, không phải trợ.
Ngũ căn: Có tài liệu ghi: Mắt, tai, mũi, thân, miệng. Có tài liệu ghi: Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. - Chúng ta sẽ sử dụng cả 2 dù về mặt thực tiễn từ trước đến giờ và mai sau: Chúng ta biết mắt tai mũi thân miệng chứ chẳng biết mấy cái căn kia nó ở đâu dù ngũ lực là có.
Sau này, khi ai đó ở chúng ta thành Phật sẽ rất rõ: Làm gì có căn nào nữa, nhưng lực thì đầy đủ. Vì lẽ đó, trợ Đạo bản chất chính là mắt tai mũi miệng thân (thủ hộ nó thì nó trợ cho Đạo cho chúng ta)
…
Nhưng chúng ta có ai là Phật khi này đâu mà sửa nọ sửa kia. Phía trước, “dám” lộng ngôn sửa nọ sửa kia là do lúc đó không phải là chúng ta lúc này.
Vì lẽ vậy: Chúng ta dùng hết theo lý: Không là Một, Một là vô lượng - 37 hay 370 hay tám vạn bốn ngàn, đều như nhau…
Tuy nhiên, chúng ta không thể rời hệ thống giới kinh. Ở vô lượng kiếp sau này, có thành gì rồi thì lúc đó nói gì nói sau, sửa gì sửa sau.
1/ Tứ Niệm Xứ
2/ Tứ Chánh Cần
3/ Tứ Như Ý Túc
4/ Ngũ Căn
5/ Ngũ Lực
6/ Thất Giác Chi
7/ Bát Chánh Đạo
Ở nhiều tài liệu cho rằng Bát Chánh Đạo bằng: Tứ Vô Lượng Tâm và Tứ Niệm
Về mặt bản chất: Chúng ta rất rõ, 37 phẩm mà bản chất là vô lượng phẩm. Còn vì lịch sử và tri kiến thường được tri kiến là 37 thì chúng ta cũng nói là 37. Nói khác: Bất tư nghì quá, lại sẽ bị mang tiếng “ma thuyết”.
Chúng ta có thể tự thấy luôn về sự sai lệch thường thấy.
Có tài liệu thay Bát Chánh Đạo bằng Tứ Vô Lượng Tâm (Từ Bi Hỷ Xả) và Tứ Niệm ( Phật, Pháp, Tăng, Giới)
Ví dụ:
Thực tế bản chất ai đó ở chúng ta sau này khi thành Phật sẽ chứng và trú điều này:
Tứ Niệm Xứ:
Niệm Thân: Niệm Tăng
Niệm Tâm: Niệm Phật
Niệm Thọ: Niệm Giới
Niệm Pháp: Niệm Pháp
Còn Tứ Vô Lượng Tâm: Từ đầu luận đến đây, chúng ta đều thấy: Đây là tánh, không phải trợ.
Ngũ căn: Có tài liệu ghi: Mắt, tai, mũi, thân, miệng. Có tài liệu ghi: Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. - Chúng ta sẽ sử dụng cả 2 dù về mặt thực tiễn từ trước đến giờ và mai sau: Chúng ta biết mắt tai mũi thân miệng chứ chẳng biết mấy cái căn kia nó ở đâu dù ngũ lực là có.
Sau này, khi ai đó ở chúng ta thành Phật sẽ rất rõ: Làm gì có căn nào nữa, nhưng lực thì đầy đủ. Vì lẽ đó, trợ Đạo bản chất chính là mắt tai mũi miệng thân (thủ hộ nó thì nó trợ cho Đạo cho chúng ta)
…
Nhưng chúng ta có ai là Phật khi này đâu mà sửa nọ sửa kia. Phía trước, “dám” lộng ngôn sửa nọ sửa kia là do lúc đó không phải là chúng ta lúc này.
Vì lẽ vậy: Chúng ta dùng hết theo lý: Không là Một, Một là vô lượng - 37 hay 370 hay tám vạn bốn ngàn, đều như nhau…
Tuy nhiên, chúng ta không thể rời hệ thống giới kinh. Ở vô lượng kiếp sau này, có thành gì rồi thì lúc đó nói gì nói sau, sửa gì sửa sau.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Để có thể trang nghiêm tâm, chúng ta khái quát toàn bộ từ đầu đến giờ:
1/ Pháp Lý hay Đạo Pháp: Thứ chúng ta nói từ đầu đến giờ và nó nằm chủ yếu ở cái gọi là hệ tiểu thừa trong hệ thống giới kinh.
2/ Pháp Hành: Là Pháp trang nghiêm tâm. Tức là Pháp Sự: Vì sự mỗi chúng ta mỗi khác nên chỗ này là vô lượng pháp phương tiện tuỳ cơ ứng biến tuỳ thuộc vào căn cơ mỗi chúng ta mà sự khác nhau.
Thể hiện của Pháp Hành là: NGUYỆN
3/ Có Pháp lý, có pháp hành sự nhưng bao đời nay không biết kết hợp nên chẳng có mấy kết quả thù thắng rốt ráo.
Lý và Sự không thể tách rời nhau. Phải giải quyết ở trong cùng một mối quan hệ - mối quan hệ cao nhất, tột cùng nhất: Đạo
4/ Pháp lý: Phải học, học rồi văn tu tư sẽ ra lý.
5/ Pháp hành sự: Phải dùng cái 4/ để giải quyết. Chứ không thể tự biên, tự diễn, tự tưởng ra những pháp tưởng trên trời để đi giải quyết pháp hành sự.
Chúng ta rất rõ: Có rất nhiều người “bịa ra cả” thứ gọi là 37 pháp trợ Đạo của Bồ Tát (Đại Thừa). - Như vậy, không đem đến kết quả gì.
Đến đây, chúng ta hoàn toàn thấy biết rõ: Khi đã thông pháp lý 4/ thì dùng nó (37 phẩm trợ Đạo) để thực hành (sử dụng) hành sự (hành nguyện).
Như vậy: Nguyện chính là sự của mỗi chúng ta. Chúng ta phải hành cho đến khi đạt hết mọi nguyện - lúc này, không còn sự nào nữa - có nghĩa: “…Việc cần làm đã làm, từ nay về sau…”
…
1/ Pháp Lý hay Đạo Pháp: Thứ chúng ta nói từ đầu đến giờ và nó nằm chủ yếu ở cái gọi là hệ tiểu thừa trong hệ thống giới kinh.
2/ Pháp Hành: Là Pháp trang nghiêm tâm. Tức là Pháp Sự: Vì sự mỗi chúng ta mỗi khác nên chỗ này là vô lượng pháp phương tiện tuỳ cơ ứng biến tuỳ thuộc vào căn cơ mỗi chúng ta mà sự khác nhau.
Thể hiện của Pháp Hành là: NGUYỆN
3/ Có Pháp lý, có pháp hành sự nhưng bao đời nay không biết kết hợp nên chẳng có mấy kết quả thù thắng rốt ráo.
Lý và Sự không thể tách rời nhau. Phải giải quyết ở trong cùng một mối quan hệ - mối quan hệ cao nhất, tột cùng nhất: Đạo
4/ Pháp lý: Phải học, học rồi văn tu tư sẽ ra lý.
5/ Pháp hành sự: Phải dùng cái 4/ để giải quyết. Chứ không thể tự biên, tự diễn, tự tưởng ra những pháp tưởng trên trời để đi giải quyết pháp hành sự.
Chúng ta rất rõ: Có rất nhiều người “bịa ra cả” thứ gọi là 37 pháp trợ Đạo của Bồ Tát (Đại Thừa). - Như vậy, không đem đến kết quả gì.
Đến đây, chúng ta hoàn toàn thấy biết rõ: Khi đã thông pháp lý 4/ thì dùng nó (37 phẩm trợ Đạo) để thực hành (sử dụng) hành sự (hành nguyện).
Như vậy: Nguyện chính là sự của mỗi chúng ta. Chúng ta phải hành cho đến khi đạt hết mọi nguyện - lúc này, không còn sự nào nữa - có nghĩa: “…Việc cần làm đã làm, từ nay về sau…”
…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Chúng ta đã tu trong vô minh nên bao đời kiếp và bao năm qua mới: Mãi chưa thấy kết quả tinh tấn rốt ráo thù thắng thiết thực hiện hữu.
Ví dụ: Chúng ta NIỆM PHẬT. - Dù là chúng ta niệm Phật A Di Đà, Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Di Lặc hay niệm từ “Phật, Phật…” - thực hành niệm mãi, niệm mãi, niệm mãi - cả những hành giả chuyên tu tiểu thừa lẫn những hành giả tu đại thừa lẫn những hành giả tu “ba lăng nhăng” - tất cả, đều chỉ thấy những kết quả hãn hữu chứ đâu thấy: THÀNH PHẬT hay ít nhất là đạp vào Cửa Đạo giải thoát ngay hiện thời.
Lý do: Đây là pháp hành trợ Đạo cho cái nguyện của mỗi chúng ta thôi.
Chúng ta đã rõ được Lý: Tức tia minh, tia tâm từ, tia tánh, tia Phật..v.v. - Chúng ta rõ được lý qua văn tu tư (4/ phía trên).
Nhưng chúng ta lúc này hoặc: Đang ở đời tại gia với đầy các sự của riêng, chung mỗi chúng ta, hoặc chúng ta đã xuất gia ở đâu đó với đầy các sự của riêng hay chung mỗi chúng ta (nào là cái gọi là Phật Sự, nào là tu học, nào là kiết hạ, nào là tấn phong phẩm hàm, nào là tìm pháp đắc Đạo giải thoát, nào là thuyết pháp cứu độ chúng sinh, nào là giảng luận làm Bồ Tát, nào là dịch, in, chú, luận kinh điển.v.v.v.) - Đầy các sự của mỗi chúng ta.
Vậy, các sự riêng của mỗi chúng ta đó, chúng ta dùng cách nào để giải quyết??? - Cho hết, cho không còn gì dính líu, cho ngay hiện tại đó đã an lạc trú, đã định vô lậu, đã giải thoát, như Đức Thế Tôn: “Từ khi ta đắc Đạo đến giờ chưa nói 1 lời”.
Chúng ta dùng cách nào để giải quyết sự của chúng ta?
- Vì chúng ta vẫn vô minh nên khi này vẫn không nhận ra: Sự của chúng ta là gì… nên chúng ta dù Đạo Hạnh công lực cao thâm hay sơ cạn… chúng ta đều vẫn hành sự trong vô minh.
Trong khi nguyện là gì? Hành nguyện là gì?
- Bao nhiêu đời kiếp, lại bị lý giải sai nên…. Bỏ hết nguyện, hoặc nguyện cho có hoặc nguyện thật, đại nguyện thật nhưng không phù hợp với chính chúng ta, không thêt hành nguyện ra hạnh.
Ví dụ: Nguyện đem công đức của bản thân tu tập được biến mãn cho khắp 10 phương và khắp các chúng sinh bình đẳng. Nhưng công đức này là công đức nào? Và làm sao để “đem biến mãn được”?
Cứ cho như: Có công đức đi, người hành giả làm gì đó có công đức đi. Nhưng làm sao đem công đức đó biến mãn 10 phương và khắp chúng sinh? - Làm bằng cách nào, hành giả làm bằng cách nào - hay nguyện cho có?
Đây là mạt pháp là vậy. Dù là một niệm cứu cánh vãng sanh!
Ví dụ: Chúng ta NIỆM PHẬT. - Dù là chúng ta niệm Phật A Di Đà, Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Di Lặc hay niệm từ “Phật, Phật…” - thực hành niệm mãi, niệm mãi, niệm mãi - cả những hành giả chuyên tu tiểu thừa lẫn những hành giả tu đại thừa lẫn những hành giả tu “ba lăng nhăng” - tất cả, đều chỉ thấy những kết quả hãn hữu chứ đâu thấy: THÀNH PHẬT hay ít nhất là đạp vào Cửa Đạo giải thoát ngay hiện thời.
Lý do: Đây là pháp hành trợ Đạo cho cái nguyện của mỗi chúng ta thôi.
Chúng ta đã rõ được Lý: Tức tia minh, tia tâm từ, tia tánh, tia Phật..v.v. - Chúng ta rõ được lý qua văn tu tư (4/ phía trên).
Nhưng chúng ta lúc này hoặc: Đang ở đời tại gia với đầy các sự của riêng, chung mỗi chúng ta, hoặc chúng ta đã xuất gia ở đâu đó với đầy các sự của riêng hay chung mỗi chúng ta (nào là cái gọi là Phật Sự, nào là tu học, nào là kiết hạ, nào là tấn phong phẩm hàm, nào là tìm pháp đắc Đạo giải thoát, nào là thuyết pháp cứu độ chúng sinh, nào là giảng luận làm Bồ Tát, nào là dịch, in, chú, luận kinh điển.v.v.v.) - Đầy các sự của mỗi chúng ta.
Vậy, các sự riêng của mỗi chúng ta đó, chúng ta dùng cách nào để giải quyết??? - Cho hết, cho không còn gì dính líu, cho ngay hiện tại đó đã an lạc trú, đã định vô lậu, đã giải thoát, như Đức Thế Tôn: “Từ khi ta đắc Đạo đến giờ chưa nói 1 lời”.
Chúng ta dùng cách nào để giải quyết sự của chúng ta?
- Vì chúng ta vẫn vô minh nên khi này vẫn không nhận ra: Sự của chúng ta là gì… nên chúng ta dù Đạo Hạnh công lực cao thâm hay sơ cạn… chúng ta đều vẫn hành sự trong vô minh.
Trong khi nguyện là gì? Hành nguyện là gì?
- Bao nhiêu đời kiếp, lại bị lý giải sai nên…. Bỏ hết nguyện, hoặc nguyện cho có hoặc nguyện thật, đại nguyện thật nhưng không phù hợp với chính chúng ta, không thêt hành nguyện ra hạnh.
Ví dụ: Nguyện đem công đức của bản thân tu tập được biến mãn cho khắp 10 phương và khắp các chúng sinh bình đẳng. Nhưng công đức này là công đức nào? Và làm sao để “đem biến mãn được”?
Cứ cho như: Có công đức đi, người hành giả làm gì đó có công đức đi. Nhưng làm sao đem công đức đó biến mãn 10 phương và khắp chúng sinh? - Làm bằng cách nào, hành giả làm bằng cách nào - hay nguyện cho có?
Đây là mạt pháp là vậy. Dù là một niệm cứu cánh vãng sanh!
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Chúng ta nguyện mà chúng ta không hành nguyện thì nghiệp lắm. Trôi nổi cho đến khi “hành được nguyện đó ra hạnh” mới xong.
Nên, Niệm một từ Phật công đức vô lượng, phước đức vô lượng. Nhưng nguyện sai, nguyện mà lại không làm hay không làm được…. Thì mãi mãi trôi nổi cho đến khi ngộ ra, làm được nguyện này mới xong.
Đó!
Ví dụ:
Đức Phật A Di Đà nguyện như vậy, phải làm tận hết mọi nguyện đã phát ra mới thành Phật - dù trí đã thành Chánh Đẳng Giác cũng không vào Phật Quả.
Bây giờ, chúng ta cứ nguyện một cách vô minh và cùng 1 mô tuýp: “Nguyện đem công đức này hướng về khắp tất cả đệ tử và chúng sinh cùng sinh về cực lạc”.
Chúng ta hỏi: Làm cách nào để người nguyện thực hành được nguyện này?
Thế là phải có pháp hướng
Mà pháp hướng dùng ra sao, và ở cấp cảnh nào mới hướng được mãn 10 phương khắp tất cả?
Chúng ta, nguyện quá lớn trong khi không đủ cấp hạnh để thực hiện nguyện này. Nên dù công đức Niệm Phật vô lượng mà vẫn bơi, vẫn luân hồi.
Bây giờ, cùng là nguyện này: Chúng ta phải có pháp để thực hành cái nguyện này. Tìm pháp ở trong 37 trợ Đạo xem xem có pháp trợ nào giúp chúng ta thực hành hay không. Rất rõ, nguyện này là hướng tâm. Vậy, phải hướng tâm. Còn làm sao hướng tâm… cái này không thể có trong 1 - 2 ngày và kể cả chuyện trước tác này mãi ở phía sau này, chưa biết khi nào mới trước tác nổi.
Tại sao, vãng sanh mà lại là đại nguyện của Chư Bồ Tát nguyện để thành Phật?
Đáng lẽ, Ngài A Di Đà đã xuất hiện nhan nhản khắp nơi (Vô lượng Quang) mà chỉ vì … ai cũng đại nguyện…
Nên, Niệm một từ Phật công đức vô lượng, phước đức vô lượng. Nhưng nguyện sai, nguyện mà lại không làm hay không làm được…. Thì mãi mãi trôi nổi cho đến khi ngộ ra, làm được nguyện này mới xong.
Đó!
Ví dụ:
Đức Phật A Di Đà nguyện như vậy, phải làm tận hết mọi nguyện đã phát ra mới thành Phật - dù trí đã thành Chánh Đẳng Giác cũng không vào Phật Quả.
Bây giờ, chúng ta cứ nguyện một cách vô minh và cùng 1 mô tuýp: “Nguyện đem công đức này hướng về khắp tất cả đệ tử và chúng sinh cùng sinh về cực lạc”.
Chúng ta hỏi: Làm cách nào để người nguyện thực hành được nguyện này?
Thế là phải có pháp hướng
Mà pháp hướng dùng ra sao, và ở cấp cảnh nào mới hướng được mãn 10 phương khắp tất cả?
Chúng ta, nguyện quá lớn trong khi không đủ cấp hạnh để thực hiện nguyện này. Nên dù công đức Niệm Phật vô lượng mà vẫn bơi, vẫn luân hồi.
Bây giờ, cùng là nguyện này: Chúng ta phải có pháp để thực hành cái nguyện này. Tìm pháp ở trong 37 trợ Đạo xem xem có pháp trợ nào giúp chúng ta thực hành hay không. Rất rõ, nguyện này là hướng tâm. Vậy, phải hướng tâm. Còn làm sao hướng tâm… cái này không thể có trong 1 - 2 ngày và kể cả chuyện trước tác này mãi ở phía sau này, chưa biết khi nào mới trước tác nổi.
Tại sao, vãng sanh mà lại là đại nguyện của Chư Bồ Tát nguyện để thành Phật?
Đáng lẽ, Ngài A Di Đà đã xuất hiện nhan nhản khắp nơi (Vô lượng Quang) mà chỉ vì … ai cũng đại nguyện…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Tuy nhiên, câu nguyện vừa trích không hề sai nhé. Không những thế, còn rất nhiệm màu. Và đây là 1 chí nguyện cần phải được tán thán, cung kính.
Vấn đề là: Ai ai cũng nguyện trong khi không biết hành nguyện này ra sao nên mới không đem đến kết quả gì rốt ráo hiện tại.
Còn người hành giả hiểu rõ về nguyện. Thông rõ về lý, minh tâm kiến tánh, có thể sử dụng đầy đủ các Pháp Trợ Đạo, có Đạo Hạnh… người này lại có rất nhiều pháp để thực hành nguyện này. Và đây là Đại Nguyện cấp Bồ Tát cảnh.
Còn người chỉ cầu vãng sanh, sẽ vãng sanh, nhưng phải nguyện khác. Nguyện thế nào, chúng ta không phải thầy Đạo Sư hướng dẫn người thực tập vãng sanh.
Còn không thì, đáng ra vãng sanh mà lại thành luân hồi trôi nổi mãi để “thực hành nguyện”
Vấn đề là: Ai ai cũng nguyện trong khi không biết hành nguyện này ra sao nên mới không đem đến kết quả gì rốt ráo hiện tại.
Còn người hành giả hiểu rõ về nguyện. Thông rõ về lý, minh tâm kiến tánh, có thể sử dụng đầy đủ các Pháp Trợ Đạo, có Đạo Hạnh… người này lại có rất nhiều pháp để thực hành nguyện này. Và đây là Đại Nguyện cấp Bồ Tát cảnh.
Còn người chỉ cầu vãng sanh, sẽ vãng sanh, nhưng phải nguyện khác. Nguyện thế nào, chúng ta không phải thầy Đạo Sư hướng dẫn người thực tập vãng sanh.
Còn không thì, đáng ra vãng sanh mà lại thành luân hồi trôi nổi mãi để “thực hành nguyện”
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Như vậy, hôm nay nói tới tất cả các thầy, từ Ngài Tổ bên Trung Quốc tới Ngài Tổ bên Việt Nam tới các thầy:
Tất cả các Kinh Điển trong hệ thống giới kinh về nguyện của Phật A Di Đà và các Chư Bồ Tát cõi nước Ngài: Không có 1 cắc từ hay 1 đoạn nào nói về việc: Nguyện vãng sanh mà lại nguyện như các thầy đang giảng giải và hướng Đạo. Thế nên, thật bi thương cho 1 thế giới vô minh.
Vãng sanh thì nguyện vãng sanh. Chỉ có Ngài A Di Đà mới có nguyện cứu độ như vậy - cứu người có nguyện vãng sanh về nước của Ngài. Tại sao lại hướng dẫn Đạo người tu tập nguyện khác đi? - Nên ai làm Đức A Di Đà không/ khó thể xuất hiện ở thế này?
Còn người nhất tâm chí thành nguyện đúng chánh pháp, nguyện xong hành pháp để thực hành nguyện: Ngài A Di Đà sẽ xuất hiện tiếp dẫn..v..v (Như vậy, nguyện vãng sanh, rồi hành pháp thực hành nguyện chính là pháp Niệm Phật hay Pháp Quán niệm - Niệm này là niệm Phật. Nhất tâm niệm Phật - khi quán được thế này hay Niệm được thế này - là hạnh nguyện thành. Vậy thôi, đơn giản thế thôi.
Các Thầy cảm đi. Các thầy sao lại đưa ra: Một đại nguyện của cấp cảnh Bồ Tát (nguyện lớn như Nguyện của Ngài Pháp Tạng) để cho người cầu vãng sanh nguyện??????????
Các thầy cảm xem! - Kinh các thầy một vé Pháp Hoa. Dù sao công đức của các thầy rất lớn!
Tuy rằng: Rồi ai ai cũng thành Phật nhưng nếu như người có ý muốn vãng sanh - tức là người muốn đi bước thứ nhất là được sinh về cõi nước có Phật tại thế để nghe Pháp Phật thuyết để tiếp bước tiếp theo tu hành tiếp - đây là nguyện của họ. Với tư cách hướng Đạo, giảng dẫn… không thể nào đưa cho họ những sự nguyện mà chắc chắn: Họ sẽ không thể sinh về cõi A Di Đà vì còn phải thực hành nguyện của họ. Càng người chí tâm, chí thành nguyện thì càng phải chịu luân hồi… tất nhiên, khi ai thực hành được nguyện này thì người này đã lên cấp cảnh rất cao rồi.
Lầm mê.
Đó chỉ là do: Ma Ba Tuần! - Cũng không phải do các thầy hay do ai. Đây là do tất cả chúng ta trong vô minh.
Người bình thường chỉ 1 nguyện vãng sanh. Chí tâm chí thành, sớm gặp A Di Đà Phật hoặc Chư Bồ Tát nước ngài. Gặp rồi mà vẫn còn sống ở thế này, khả năng lại có Pháp Phật đúng với cấp cảnh tiếp tục các nguyện mới mà có thể chứng giải thoát ngay thế này.
Chúng ta không chịu đi từng bước nhỏ. Sự ngay trước mặt không làm hoặc làm lầm lẫn không giải quyết rốt ráo cho ra hạnh đúng mức phù hợp. Lại cầu sự một nẻo, nguyện sự một đằng. Nguyện xong không thể thực hành được do cấp cảnh quá cao… cứ như vậy…
Cuối cùng cũng không đâu đến đâu.
Tất cả các Kinh Điển trong hệ thống giới kinh về nguyện của Phật A Di Đà và các Chư Bồ Tát cõi nước Ngài: Không có 1 cắc từ hay 1 đoạn nào nói về việc: Nguyện vãng sanh mà lại nguyện như các thầy đang giảng giải và hướng Đạo. Thế nên, thật bi thương cho 1 thế giới vô minh.
Vãng sanh thì nguyện vãng sanh. Chỉ có Ngài A Di Đà mới có nguyện cứu độ như vậy - cứu người có nguyện vãng sanh về nước của Ngài. Tại sao lại hướng dẫn Đạo người tu tập nguyện khác đi? - Nên ai làm Đức A Di Đà không/ khó thể xuất hiện ở thế này?
Còn người nhất tâm chí thành nguyện đúng chánh pháp, nguyện xong hành pháp để thực hành nguyện: Ngài A Di Đà sẽ xuất hiện tiếp dẫn..v..v (Như vậy, nguyện vãng sanh, rồi hành pháp thực hành nguyện chính là pháp Niệm Phật hay Pháp Quán niệm - Niệm này là niệm Phật. Nhất tâm niệm Phật - khi quán được thế này hay Niệm được thế này - là hạnh nguyện thành. Vậy thôi, đơn giản thế thôi.
Các Thầy cảm đi. Các thầy sao lại đưa ra: Một đại nguyện của cấp cảnh Bồ Tát (nguyện lớn như Nguyện của Ngài Pháp Tạng) để cho người cầu vãng sanh nguyện??????????
Các thầy cảm xem! - Kinh các thầy một vé Pháp Hoa. Dù sao công đức của các thầy rất lớn!
Tuy rằng: Rồi ai ai cũng thành Phật nhưng nếu như người có ý muốn vãng sanh - tức là người muốn đi bước thứ nhất là được sinh về cõi nước có Phật tại thế để nghe Pháp Phật thuyết để tiếp bước tiếp theo tu hành tiếp - đây là nguyện của họ. Với tư cách hướng Đạo, giảng dẫn… không thể nào đưa cho họ những sự nguyện mà chắc chắn: Họ sẽ không thể sinh về cõi A Di Đà vì còn phải thực hành nguyện của họ. Càng người chí tâm, chí thành nguyện thì càng phải chịu luân hồi… tất nhiên, khi ai thực hành được nguyện này thì người này đã lên cấp cảnh rất cao rồi.
Lầm mê.
Đó chỉ là do: Ma Ba Tuần! - Cũng không phải do các thầy hay do ai. Đây là do tất cả chúng ta trong vô minh.
Người bình thường chỉ 1 nguyện vãng sanh. Chí tâm chí thành, sớm gặp A Di Đà Phật hoặc Chư Bồ Tát nước ngài. Gặp rồi mà vẫn còn sống ở thế này, khả năng lại có Pháp Phật đúng với cấp cảnh tiếp tục các nguyện mới mà có thể chứng giải thoát ngay thế này.
Chúng ta không chịu đi từng bước nhỏ. Sự ngay trước mặt không làm hoặc làm lầm lẫn không giải quyết rốt ráo cho ra hạnh đúng mức phù hợp. Lại cầu sự một nẻo, nguyện sự một đằng. Nguyện xong không thể thực hành được do cấp cảnh quá cao… cứ như vậy…
Cuối cùng cũng không đâu đến đâu.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(197 tiếp)
Như vậy, chúng ta sẽ thực hiện trang nghiêm tâm theo Cực Lạc - Tức là “tập trang nghiêm tâm theo Phật Vô Lượng Thọ”. Chúng ta không trang nghiêm tâm vãng sanh (tức pháp môn tịnh độ vãng sanh Cực Lạc Quốc Độ).
Chúng ta sẽ theo chân Ngài A Di Đà - Tập (demo) trang nghiêm một Phật Quốc (Tâm Phật) mà Phật Quốc của Ngài A Di Đà tên Cực Lạc, còn tâm trang nghiêm của mỗi người tên là gì thì “đợi chư thiên và chư chúng sinh tôn hiệu thôi chứ có muốn kêu lên cũng chẳng ai công nhận).
Ở đây, chúng ta nhớ: Bản chất chỉ là tập trang nghiêm theo thôi chứ không phải thực sự sẽ trang nghiêm ra được - bởi chúng ta chưa vào cảnh đó - cấp cảnh Bồ Tát trang nghiêm tâm (cõi nước).
Như vậy, chúng ta phải câu hữu rất nhiều Pháp mới có thể hình dung ra được, và tự bản thân nhiếp tâm được.
1/ Kinh Sa môn quả nói rõ các cấp cảnh - đặc biệt từ sơ thiền tiến lên. Với các ví dụ cụ thể chi tiết ở đó, chúng ta rất rõ: Đạt mỗi cấp cảnh thì cái tâm của chúng ta như thế nào. Tuy nhiên, nếu chỉ có kinh Sa Môn Quả - Chúng ta rất rõ: Dù có đạt cấp cảnh đó (ví dụ vào tứ thiền) - đạt rồi cũng không biết làm thế nào để tâm được như Đức Thế Tôn mô tả ở đó.
2/ Kinh Lăng nghiêm mô tả mấy chục tầng trời.
3/ Kinh Hoa Nghiêm mô tả đủ các tầng cấp và phổ nguyện.
4/ Kinh Quán Vô Lượng Thọ lại mô tả một tâm với đủ cấp cảnh và nhiệm màu cùng phổ nguyện.
5/ Kinh Pháp Hoa thì đơn giản đến tối giản nhất: Chỉ là một ngôi nhà Như Lai, một chiếc áo, 1 chiếc bồ đoàn.
…
Có rất nhiều, chưa nói đến các Đại Bồ Tát trang nghiêm tâm của họ. Chúng ta cần từ đó rút ra một cách thức trang nghiêm cho riêng mình. Dù là “tập trang nghiêm theo” - nhưng sẽ khó có cơ hội sửa bản thảo demo.
Trang nghiêm tâm, sẽ rất diệu kỳ…
Và cuối cùng, ai ai mà đi tới đó lại tất cả đều đến dự Pháp Hoa. Thế mới hay!
Như vậy, chúng ta sẽ thực hiện trang nghiêm tâm theo Cực Lạc - Tức là “tập trang nghiêm tâm theo Phật Vô Lượng Thọ”. Chúng ta không trang nghiêm tâm vãng sanh (tức pháp môn tịnh độ vãng sanh Cực Lạc Quốc Độ).
Chúng ta sẽ theo chân Ngài A Di Đà - Tập (demo) trang nghiêm một Phật Quốc (Tâm Phật) mà Phật Quốc của Ngài A Di Đà tên Cực Lạc, còn tâm trang nghiêm của mỗi người tên là gì thì “đợi chư thiên và chư chúng sinh tôn hiệu thôi chứ có muốn kêu lên cũng chẳng ai công nhận).
Ở đây, chúng ta nhớ: Bản chất chỉ là tập trang nghiêm theo thôi chứ không phải thực sự sẽ trang nghiêm ra được - bởi chúng ta chưa vào cảnh đó - cấp cảnh Bồ Tát trang nghiêm tâm (cõi nước).
Như vậy, chúng ta phải câu hữu rất nhiều Pháp mới có thể hình dung ra được, và tự bản thân nhiếp tâm được.
1/ Kinh Sa môn quả nói rõ các cấp cảnh - đặc biệt từ sơ thiền tiến lên. Với các ví dụ cụ thể chi tiết ở đó, chúng ta rất rõ: Đạt mỗi cấp cảnh thì cái tâm của chúng ta như thế nào. Tuy nhiên, nếu chỉ có kinh Sa Môn Quả - Chúng ta rất rõ: Dù có đạt cấp cảnh đó (ví dụ vào tứ thiền) - đạt rồi cũng không biết làm thế nào để tâm được như Đức Thế Tôn mô tả ở đó.
2/ Kinh Lăng nghiêm mô tả mấy chục tầng trời.
3/ Kinh Hoa Nghiêm mô tả đủ các tầng cấp và phổ nguyện.
4/ Kinh Quán Vô Lượng Thọ lại mô tả một tâm với đủ cấp cảnh và nhiệm màu cùng phổ nguyện.
5/ Kinh Pháp Hoa thì đơn giản đến tối giản nhất: Chỉ là một ngôi nhà Như Lai, một chiếc áo, 1 chiếc bồ đoàn.
…
Có rất nhiều, chưa nói đến các Đại Bồ Tát trang nghiêm tâm của họ. Chúng ta cần từ đó rút ra một cách thức trang nghiêm cho riêng mình. Dù là “tập trang nghiêm theo” - nhưng sẽ khó có cơ hội sửa bản thảo demo.
Trang nghiêm tâm, sẽ rất diệu kỳ…
Và cuối cùng, ai ai mà đi tới đó lại tất cả đều đến dự Pháp Hoa. Thế mới hay!