Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Chủ quán đây, chủ quán đây...
@Lã công tử: đến quán thơ của Nàng, công tử chê Nàng ít học hay sao mà đề thơ lạc vận. Đã vậy có khi nàng phải sắm sẵn xô vôi bột... để sửa thơ
Đêm thu buồn lắm chị Nàng ơi,
Trần thế em nay chán nửa rồi!
Quảng Hàn lạnh lẽo ai ngồi đó?
Một mảnh tình treo, Lã bất xơi
@ Đồ say: mời Đồ 1 chén "cử bôi tiêu sầu"... Cái thói đời gốc của cái hận cũng từ chữ tình mà ra, chứ chả phải anh Dị than vãn khúc Trường hận tủi thay cho chị Ngọc Hoàn tự tử, mặc dù anh Lý Cơ thề thốt:
"Tại thiên nguyện tác tỵ dực điểu
Tại địa nguyện vi liên lý chi"
Anh Cơ khôn quá.. còn Tại nhân, Tại (số) mệnh... chả biết thế nào, thề thế thì vẫn còn chỗ gỡ.. Đồ say thử thề nốt xem, thề hay Nàng miễn phí rượu Nữ nhi Hồng 2 tháng!
@Laox thiếu gia: mời khách phong lưu cùng thề... cho vui, bởi với laox thì nàng có tiếc chi chút men...
@Mai Hoa: cảm ơn!
@Mapbe: bài của bạn nội dung không liên quan đến chủ để topic, vì vậy 1 lần nữa đề nghị "không spam!".
@Lã công tử: đến quán thơ của Nàng, công tử chê Nàng ít học hay sao mà đề thơ lạc vận. Đã vậy có khi nàng phải sắm sẵn xô vôi bột... để sửa thơ
Đêm thu buồn lắm chị Nàng ơi,
Trần thế em nay chán nửa rồi!
Quảng Hàn lạnh lẽo ai ngồi đó?
Một mảnh tình treo, Lã bất xơi
@ Đồ say: mời Đồ 1 chén "cử bôi tiêu sầu"... Cái thói đời gốc của cái hận cũng từ chữ tình mà ra, chứ chả phải anh Dị than vãn khúc Trường hận tủi thay cho chị Ngọc Hoàn tự tử, mặc dù anh Lý Cơ thề thốt:
"Tại thiên nguyện tác tỵ dực điểu
Tại địa nguyện vi liên lý chi"
Anh Cơ khôn quá.. còn Tại nhân, Tại (số) mệnh... chả biết thế nào, thề thế thì vẫn còn chỗ gỡ.. Đồ say thử thề nốt xem, thề hay Nàng miễn phí rượu Nữ nhi Hồng 2 tháng!
@Laox thiếu gia: mời khách phong lưu cùng thề... cho vui, bởi với laox thì nàng có tiếc chi chút men...
@Mai Hoa: cảm ơn!
@Mapbe: bài của bạn nội dung không liên quan đến chủ để topic, vì vậy 1 lần nữa đề nghị "không spam!".
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Lại phải mượn ý thơ cụ Tản Đà để giãi bày tấm lòng này.
Trên trời Chúc Nữ với Ngưu Lang
một giải sông Ngân lệ mấy hàng.
Thiên thu tơ nguyệt sao ngắn ngủi
Để lệ mưa sa rớt xuống trần.
Người thơ đã cô đơn làm vậy : " treo mảnh tình riêng" dụ người quân tử....nay lại cứ thích ngủ ngày, nên:
Quân tử ngập ngừng đi chẳng dứt.
Nửa lòng xã tắc, nửa lòng thiên thai...
Trên trời Chúc Nữ với Ngưu Lang
một giải sông Ngân lệ mấy hàng.
Thiên thu tơ nguyệt sao ngắn ngủi
Để lệ mưa sa rớt xuống trần.
Người thơ đã cô đơn làm vậy : " treo mảnh tình riêng" dụ người quân tử....nay lại cứ thích ngủ ngày, nên:
Quân tử ngập ngừng đi chẳng dứt.
Nửa lòng xã tắc, nửa lòng thiên thai...
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Lầu Hoàng đã vỡ mộng từ lâu
Mặc khách vấn vương với u sầu
Thiên thai chốn đó còn xa lắm
Sơn Hà cón lại với riêng ta
Người đi hay ở còn đi nữa?
Một mảnh tình riêng ta với ta
Có đi thì nhớ dùm ta nhé
Hai chữ tình duyên chớ bẽ bàng..
Mặc khách vấn vương với u sầu
Thiên thai chốn đó còn xa lắm
Sơn Hà cón lại với riêng ta
Người đi hay ở còn đi nữa?
Một mảnh tình riêng ta với ta
Có đi thì nhớ dùm ta nhé
Hai chữ tình duyên chớ bẽ bàng..
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Thơ Đường luật hay Thơ luật Đường là thể thơ cách luật xuất hiện từ đời Đường, Trung Quốc. Thơ Đường luật gọi là thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể, có trước đó.
Thơ Đường luật nghiêm khắc ở 3 chỗ: Luật, Niêm và Vần. Về hình thức, thơ Đường luật có các dạng "thất ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng chuẩn, biến thể có các dạng: "thất ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), "ngũ ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu năm chữ), "ngũ ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến khác như Yết hậu...
1. Luật
Luật thơ Đường căn cứ trên thanh bằng và thanh trắc, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu huyền hay không dấu; thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng
Nếu chữ thứ 2 của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có "luật bằng"; nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng thanh trắc thì gọi là bài có "luật trắc". Nguyên tắc trong một câu, chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải giống nhau về thanh điệu, và chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia. Ví dụ, nếu chữ thứ 2 và 6 là thanh bằng thì chữ thứ 4 phải dùng thanh trắc, hay ngược lại. Nếu một câu thơ Đường mà không theo quy định này thì được gọi "thất luật".
a. Luật vần bằng
* Thất ngôn tứ tuyệt
(Vần: - không quy ước, B là bằng, T là trắc)
Câu số
1) - B - T - B B Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
2) - T - B - T B Này của Xuân Hương mới quệt rồi
3) - T - B - T T Có phải duyên nhau thì thắm lại
4) - B - T - B B Đừng xanh như lá, bạc như vôi
* Thất ngôn bát cú
Câu số
1) - B - T - B B Quanh năm buôn bán ở mom sông
2) - T - B - T B Nuôi đủ năm con với một chồng
3) - T - B - T T Lặn lội thân cò khi quãng vắng
4) - B - T - B B Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
5) - B - T - B T Một duyên hai nợ âu đành phận
6) - T - B - T B Năm nắng mười mưa dám quản công.
7) - T - B - T T Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!
8) - B - T - B B Có chồng hờ hững cũng như không!
b. Luật vần trắc
* Thất ngôn tứ tuyệt
Câu số
1) - T -- B - T B 月落烏啼霜滿天 Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
2) - B - T - B B 江楓魚火對愁眠 Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
3) - B - T - B T 姑蘇城外寒山寺 Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
4) - T - B - T B 夜半鐘聲到客船 Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
* Thất ngôn bát cú
Câu số
1) - T - B - T B Ta nhớ người xa cách núi sông
2) - B - T - B B Người xa, xa lắm nhớ ta không
3) - B - T - B T Sao đương vui vẻ ra buồn bã!
4) - T - B - T B Vừa mới quen nhau đã lạ lùng
5) - T - B - T T Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng
6) - B - T - B B Khi riêng, riêng cả đến tình chung
7) - B - T - B T Tương tư lọ phải là trai gái,
8) - T - B - T B Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng
2. Luật đối
Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường là ý nghĩa của hai câu 3 và 4 phải "đối" nhau và hai câu 5, 6 cũng "đối" nhau. Đối thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy) nhưng bao gồm cả sự tương đương trong cách dùng các từ ngữ. Nếu một bài thơ Đường mà các câu 3, 4 không đối nhau, các câu 5, 6 không đối nhau thì được gọi "thất đối".
3. Luật niêm
Các câu trong một bài thơ Đường giống nhau về luật thì được gọi là "những câu niêm với nhau" (niêm = giữ cứng, ở đây được hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Ở những câu theo nguyên tắc là cần phải niêm, nếu tác giả sơ xuất mà làm thành không niêm thì bài đó bị gọi là "thất niêm".
Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:
* câu 1 niêm với câu 8
* câu 2 niêm với câu 3
* câu 4 niêm với câu 5
* câu 6 niêm với câu 7
Chẳng hạn với luật vần bằng:
1. - B - T - B B
2. - T - B - T B
3. - T - B - T T
4. - B - T - B B
5. - B - T - B T
6. - T - B - T B
7. - T - B - T T
8. - B - T - B B
(nguồn WIKI)
Thơ Đường luật nghiêm khắc ở 3 chỗ: Luật, Niêm và Vần. Về hình thức, thơ Đường luật có các dạng "thất ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng chuẩn, biến thể có các dạng: "thất ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), "ngũ ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu năm chữ), "ngũ ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến khác như Yết hậu...
1. Luật
Luật thơ Đường căn cứ trên thanh bằng và thanh trắc, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu huyền hay không dấu; thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng
Nếu chữ thứ 2 của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có "luật bằng"; nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng thanh trắc thì gọi là bài có "luật trắc". Nguyên tắc trong một câu, chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải giống nhau về thanh điệu, và chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia. Ví dụ, nếu chữ thứ 2 và 6 là thanh bằng thì chữ thứ 4 phải dùng thanh trắc, hay ngược lại. Nếu một câu thơ Đường mà không theo quy định này thì được gọi "thất luật".
a. Luật vần bằng
* Thất ngôn tứ tuyệt
(Vần: - không quy ước, B là bằng, T là trắc)
Câu số
1) - B - T - B B Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
2) - T - B - T B Này của Xuân Hương mới quệt rồi
3) - T - B - T T Có phải duyên nhau thì thắm lại
4) - B - T - B B Đừng xanh như lá, bạc như vôi
* Thất ngôn bát cú
Câu số
1) - B - T - B B Quanh năm buôn bán ở mom sông
2) - T - B - T B Nuôi đủ năm con với một chồng
3) - T - B - T T Lặn lội thân cò khi quãng vắng
4) - B - T - B B Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
5) - B - T - B T Một duyên hai nợ âu đành phận
6) - T - B - T B Năm nắng mười mưa dám quản công.
7) - T - B - T T Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!
8) - B - T - B B Có chồng hờ hững cũng như không!
b. Luật vần trắc
* Thất ngôn tứ tuyệt
Câu số
1) - T -- B - T B 月落烏啼霜滿天 Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
2) - B - T - B B 江楓魚火對愁眠 Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
3) - B - T - B T 姑蘇城外寒山寺 Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
4) - T - B - T B 夜半鐘聲到客船 Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
* Thất ngôn bát cú
Câu số
1) - T - B - T B Ta nhớ người xa cách núi sông
2) - B - T - B B Người xa, xa lắm nhớ ta không
3) - B - T - B T Sao đương vui vẻ ra buồn bã!
4) - T - B - T B Vừa mới quen nhau đã lạ lùng
5) - T - B - T T Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng
6) - B - T - B B Khi riêng, riêng cả đến tình chung
7) - B - T - B T Tương tư lọ phải là trai gái,
8) - T - B - T B Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng
2. Luật đối
Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường là ý nghĩa của hai câu 3 và 4 phải "đối" nhau và hai câu 5, 6 cũng "đối" nhau. Đối thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy) nhưng bao gồm cả sự tương đương trong cách dùng các từ ngữ. Nếu một bài thơ Đường mà các câu 3, 4 không đối nhau, các câu 5, 6 không đối nhau thì được gọi "thất đối".
3. Luật niêm
Các câu trong một bài thơ Đường giống nhau về luật thì được gọi là "những câu niêm với nhau" (niêm = giữ cứng, ở đây được hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Ở những câu theo nguyên tắc là cần phải niêm, nếu tác giả sơ xuất mà làm thành không niêm thì bài đó bị gọi là "thất niêm".
Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:
* câu 1 niêm với câu 8
* câu 2 niêm với câu 3
* câu 4 niêm với câu 5
* câu 6 niêm với câu 7
Chẳng hạn với luật vần bằng:
1. - B - T - B B
2. - T - B - T B
3. - T - B - T T
4. - B - T - B B
5. - B - T - B T
6. - T - B - T B
7. - T - B - T T
8. - B - T - B B
(nguồn WIKI)
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
(tiếp)
Thơ Đường luật khi nhập vào Việt Nam đã có những biến hóa sáng tạo, ví dụ kết hợp Hán - Nôm; đọc xuôi đọc ngược đều có nghĩa, ngắt từ thất ngôn thành ngũ ngôn vẫn có nghĩa,...
Một giai thoại nổi tiếng về Tự Đức và Cao Bá Quát có liên quan tới thơ Đường luật, khá thú vị.
Tự Đức là ông vua hay chữ và hay khoe thơ với quần thần[1]. Một hôm tan buổi chầu, Tự Đức nói với bá quan:
- Đêm qua trẫm nằm mơ làm được hai câu thơ thật kỳ lạ, để trẫm đọc cho các khanh nghe!
Rồi Tự Đức đọc luôn:
Viên trung oanh chuyển "khề khà" ngữ
Dã ngoại đào hoa "lấm tấm" khai
Đ ây là lối thơ vừa Hán vừa Nôm, các quan đều lấy làm lạ. Cao Bá Quát lúc bấy giờ cũng có mặt, thản nhiên tâu rằng:
-Tưởng gì chứ hai câu ấy thì từ hồi còn để chỏm đi học, thần đã được nghe rồi! Thần được nghe cả tám câu kia, nếu bệ hạ cho phép, thần xin đọc lại tất cả.
Tự Đức đang cao hứng về mấy câu thơ vừa Hán dở Nôm độc đáo, nghe Cao Bá Quát nói rất bất ngờ, vì rõ ràng hai câu thơ đó chính vua nghĩ ra. Tự Đức bảo ông đọc cho nghe cả bài thơ, nếu không đọc được thì sẽ trị cái tội khi quân.
Ông suy nghĩ một lát như để nhớ lại một bài thơ lâu ngày không nhìn đến, rồi cất giọng sang sảng ngâm rằng:
Bảo mã tây phương huếch hoác lai,
Huênh hoang nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ,
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai.
Xuân nhật bất văn sương lộp bộp,
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài.
Khù khờ thi tứ đa nhân thức,
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài.
Nghĩa là:
Ngựa báu từ phía tây huếch hoác lại,
Người huênh hoang nhờ cậy dìu về.
Trong vườn oanh hót giọng khề khà.
Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm.
Ngày xuân chẳng thấy sương lộp bộp.
Tiết thu chỉ thấy mưa bài nhài.
Tứ thơ khù khờ nhiều người biết,
Khệnh khạng còn mang hỏi tú tài.
Bài thơ vừa đọc xong, các quan nhìn nhau kinh ngạc, còn Tự Đức thì biết đích là Cao Bá Quát chơi xỏ mình, nhưng cũng rất sửng sốt và hết sức thán phục. Vua sai lấy chè và quế ban cho Quát và bắt Quát phải thú thật là đã bịa thêm sáu câu.
Cái tài tình của bài thơ là dùng những chữ láy thuần Việt xen kẽ chữ Hán, thành 1 bài thơ hoàn chỉnh về ý và vần.
Thơ Đường luật khi nhập vào Việt Nam đã có những biến hóa sáng tạo, ví dụ kết hợp Hán - Nôm; đọc xuôi đọc ngược đều có nghĩa, ngắt từ thất ngôn thành ngũ ngôn vẫn có nghĩa,...
Một giai thoại nổi tiếng về Tự Đức và Cao Bá Quát có liên quan tới thơ Đường luật, khá thú vị.
Tự Đức là ông vua hay chữ và hay khoe thơ với quần thần[1]. Một hôm tan buổi chầu, Tự Đức nói với bá quan:
- Đêm qua trẫm nằm mơ làm được hai câu thơ thật kỳ lạ, để trẫm đọc cho các khanh nghe!
Rồi Tự Đức đọc luôn:
Viên trung oanh chuyển "khề khà" ngữ
Dã ngoại đào hoa "lấm tấm" khai
Đ ây là lối thơ vừa Hán vừa Nôm, các quan đều lấy làm lạ. Cao Bá Quát lúc bấy giờ cũng có mặt, thản nhiên tâu rằng:
-Tưởng gì chứ hai câu ấy thì từ hồi còn để chỏm đi học, thần đã được nghe rồi! Thần được nghe cả tám câu kia, nếu bệ hạ cho phép, thần xin đọc lại tất cả.
Tự Đức đang cao hứng về mấy câu thơ vừa Hán dở Nôm độc đáo, nghe Cao Bá Quát nói rất bất ngờ, vì rõ ràng hai câu thơ đó chính vua nghĩ ra. Tự Đức bảo ông đọc cho nghe cả bài thơ, nếu không đọc được thì sẽ trị cái tội khi quân.
Ông suy nghĩ một lát như để nhớ lại một bài thơ lâu ngày không nhìn đến, rồi cất giọng sang sảng ngâm rằng:
Bảo mã tây phương huếch hoác lai,
Huênh hoang nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ,
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai.
Xuân nhật bất văn sương lộp bộp,
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài.
Khù khờ thi tứ đa nhân thức,
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài.
Nghĩa là:
Ngựa báu từ phía tây huếch hoác lại,
Người huênh hoang nhờ cậy dìu về.
Trong vườn oanh hót giọng khề khà.
Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm.
Ngày xuân chẳng thấy sương lộp bộp.
Tiết thu chỉ thấy mưa bài nhài.
Tứ thơ khù khờ nhiều người biết,
Khệnh khạng còn mang hỏi tú tài.
Bài thơ vừa đọc xong, các quan nhìn nhau kinh ngạc, còn Tự Đức thì biết đích là Cao Bá Quát chơi xỏ mình, nhưng cũng rất sửng sốt và hết sức thán phục. Vua sai lấy chè và quế ban cho Quát và bắt Quát phải thú thật là đã bịa thêm sáu câu.
Cái tài tình của bài thơ là dùng những chữ láy thuần Việt xen kẽ chữ Hán, thành 1 bài thơ hoàn chỉnh về ý và vần.
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
(tiếp)
Một bài thơ của Hàn Mạc Tử với 7 cách đọc
1.- Đọc xuôi 7 chữ:-
Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương
Lạ cảnh buồn thêm nợ vấn vương
Tha thướt liễu in hồ gợn bóng
Hững hờ mai thoảng gió đưa hương
Xa người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
Hòa đàn sẵn có dế bên tường
2.-Đọc xuôi 5 chữ đầu:-
Hoa cười nguyệt rọi cửa
Lạ cảnh buồn thêm nợ
Tha thướt liễu in hồ
Hững hờ mai thoảng gió
Xa người nhớ cảnh tình
Vắng bạn ngâm thơ rượu
Qua lại yến ngàn dâu
Hòa đàn sẵn có dế…
3.- Đọc xuôi 5 chữ sau :-
Nguyệt rọi cửa lồng gương
Buồn thêm nợ vấn vương
Liễu in hồ gợn bóng
Mai thoảng gió đưa hương
Nhớ cảnh tình lai láng
Ngâm thơ rượu bẽ bàng
Yến ngàn dâu ủ lá
Sẵn có dế bên tường
4.-Đọc ngược 7 chữ:-
Tường bên dế có sẵn đàn hòa
Lá ủ dâu ngàn yến lại qua
Bàng bẽ rượu thơ ngâm bạn vắng
Láng lai tình cảnh nhớ người xa
Hương đưa gió thoảng mai hờ hững
Bóng gợn hồ in liễu thướt tha
Vương vấn nợ thêm buồn cảnh lạ
Gương lồng cửa rọi nguyệt cười hoa
5.- Đọc ngược 5 chữ đầu:-
Tường bên dế có sẵn
Lá ủ dâu ngàn yến
Bàng bẽ rượu thơ ngâm
Láng lai tình cảnh nhớ
Hương đưa gió thoảng mai
Bóng gợn hồ in liễu
Vương vấn nợ thêm buồn
Gương lồng cửa rọi nguyệt
6.- Đọc ngược 5 chữ sau :-
Dế có sẵn đàn hòa
Dâu ngàn yến lại qua
Rượu thơ ngâm bạn vắng
Tình cảnh nhớ người xa
Gió thoảng mai hờ hững
Hồ in liễu thướt tha
Nợ thêm buồn cảnh lạ
Cửa rọi nguyệt cười hoa
hehe, còn nhiều ví dụ nữa về thơ Đường luật. Dài dòng vậy cũng chỉ để nói cái sự thất niêm thất luật nó như... đấm vào tai thế nào.
Vẫn biết là "múa rìu qua mắt thợ" ở đây..
Một bài thơ của Hàn Mạc Tử với 7 cách đọc
1.- Đọc xuôi 7 chữ:-
Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương
Lạ cảnh buồn thêm nợ vấn vương
Tha thướt liễu in hồ gợn bóng
Hững hờ mai thoảng gió đưa hương
Xa người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
Hòa đàn sẵn có dế bên tường
2.-Đọc xuôi 5 chữ đầu:-
Hoa cười nguyệt rọi cửa
Lạ cảnh buồn thêm nợ
Tha thướt liễu in hồ
Hững hờ mai thoảng gió
Xa người nhớ cảnh tình
Vắng bạn ngâm thơ rượu
Qua lại yến ngàn dâu
Hòa đàn sẵn có dế…
3.- Đọc xuôi 5 chữ sau :-
Nguyệt rọi cửa lồng gương
Buồn thêm nợ vấn vương
Liễu in hồ gợn bóng
Mai thoảng gió đưa hương
Nhớ cảnh tình lai láng
Ngâm thơ rượu bẽ bàng
Yến ngàn dâu ủ lá
Sẵn có dế bên tường
4.-Đọc ngược 7 chữ:-
Tường bên dế có sẵn đàn hòa
Lá ủ dâu ngàn yến lại qua
Bàng bẽ rượu thơ ngâm bạn vắng
Láng lai tình cảnh nhớ người xa
Hương đưa gió thoảng mai hờ hững
Bóng gợn hồ in liễu thướt tha
Vương vấn nợ thêm buồn cảnh lạ
Gương lồng cửa rọi nguyệt cười hoa
5.- Đọc ngược 5 chữ đầu:-
Tường bên dế có sẵn
Lá ủ dâu ngàn yến
Bàng bẽ rượu thơ ngâm
Láng lai tình cảnh nhớ
Hương đưa gió thoảng mai
Bóng gợn hồ in liễu
Vương vấn nợ thêm buồn
Gương lồng cửa rọi nguyệt
6.- Đọc ngược 5 chữ sau :-
Dế có sẵn đàn hòa
Dâu ngàn yến lại qua
Rượu thơ ngâm bạn vắng
Tình cảnh nhớ người xa
Gió thoảng mai hờ hững
Hồ in liễu thướt tha
Nợ thêm buồn cảnh lạ
Cửa rọi nguyệt cười hoa
hehe, còn nhiều ví dụ nữa về thơ Đường luật. Dài dòng vậy cũng chỉ để nói cái sự thất niêm thất luật nó như... đấm vào tai thế nào.
Vẫn biết là "múa rìu qua mắt thợ" ở đây..
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
@ Mai Hoa: Cảm ơn bạn vì bài viết lý thú và hữu ích về Niêm, Luật và Vần của thơ Đường. Đây là thể thơ chặt chẽ và chuẩn mực.
Đọc Thơ Đường (thơ thời Đường, chỉ là một mảng nhỏ của khái niệm "Thơ luật Đường") ta luôn cảm nhận được sự sang trọng, quý phái từ cốt cách thanh tao của tâm hồn thi nhân, thanh tao từ nỗi buồn vời vợi xa, đến cảnh sắc yêu kiều của xuân thi nhân tạc mình vào bất tử...
Đúng như Mai Hoa nói, thơ Đường mà "thất luật" thì như "đấm vào tai", những gì nằm ngoài cảm hứng của chủ đề này, cũng khó nghe không kém vậy...
Đọc Thơ Đường (thơ thời Đường, chỉ là một mảng nhỏ của khái niệm "Thơ luật Đường") ta luôn cảm nhận được sự sang trọng, quý phái từ cốt cách thanh tao của tâm hồn thi nhân, thanh tao từ nỗi buồn vời vợi xa, đến cảnh sắc yêu kiều của xuân thi nhân tạc mình vào bất tử...
Đúng như Mai Hoa nói, thơ Đường mà "thất luật" thì như "đấm vào tai", những gì nằm ngoài cảm hứng của chủ đề này, cũng khó nghe không kém vậy...
Sửa lần cuối bởi Nàng vào lúc 12:25, 28/03/09 với 1 lần sửa.
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Người yêu thích Đường thi không thể nào quên được một trác tuyệt của Thôi Hộ, "Đề Đô thành Nam trang"
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ?
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
Bài thơ này gắn với một giai thoại khá lý thú, bất hủ về một tình yêu đẹp.
"Một lần nhân tiết Thanh minh, chàng trai Thôi Hộ dạo chơi phía nam thành Lạc Dương. Nhân thấy một khuôn viên trồng đào rất đẹp, tươi thắm những hoa, chàng đến gõ cổng xin nước uống. Lát sau lại thấy một thiếu nữ diễm lệ e ấp nấp trong vườn đào. Uống nước xong, chàng ra đi.
Năm sau, cũng trong tiết Thanh minh, người con trai trở lại chốn cũ, nhưng cổng đóng then cài, gọi mãi không thấy ai. Chàng viết bài thơ trên dán trên cổng. Lâu sau nữa, khi trở lại, chợt nghe tiếng khóc từ trong nhà vọng ra rồi thấy một ông lão ra hỏi chàng có phải là Thôi Hộ không và cho biết con gái của cụ sau khi đọc xong bài thơ bỏ cả ăn uống, đã chết, xác vẫn còn ở trong nhà. Thôi Hộ tìm vào đến bên xác người con gái, tuy đã tắt thở nhưng vẫn còn ấm và mặt mày vẫn hồng nhuận. Chàng quỳ xuống than van kể lể. Người con gái sống lại và họ trở thành vợ chồng".
Giai thoại này nhuốm màu huyền thoại. Nhưng 2 câu thơ cuối:
"Nhân diện bất tri hà xứ khứ?
Đào hoa y cựu tiếu đông phong"
lại trở thành bất tử, vì một lẽ: Thi nhân đã nói hộ lòng của muôn vàn đôi lứa yêu nhau, mong gặp gỡ nhau đến cháy lòng. Chốn cũ, cảnh vật vẫn như thuở nào mà người xưa vắng bóng, một cảm giác xót xa, hụt hẫng đến bàng hoàng: "Gương mặt người xưa giờ không biết chốn nao, (Chỉ thấy) hoa đào vẫn như cũ cười với gió đông".
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ?
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
Bài thơ này gắn với một giai thoại khá lý thú, bất hủ về một tình yêu đẹp.
"Một lần nhân tiết Thanh minh, chàng trai Thôi Hộ dạo chơi phía nam thành Lạc Dương. Nhân thấy một khuôn viên trồng đào rất đẹp, tươi thắm những hoa, chàng đến gõ cổng xin nước uống. Lát sau lại thấy một thiếu nữ diễm lệ e ấp nấp trong vườn đào. Uống nước xong, chàng ra đi.
Năm sau, cũng trong tiết Thanh minh, người con trai trở lại chốn cũ, nhưng cổng đóng then cài, gọi mãi không thấy ai. Chàng viết bài thơ trên dán trên cổng. Lâu sau nữa, khi trở lại, chợt nghe tiếng khóc từ trong nhà vọng ra rồi thấy một ông lão ra hỏi chàng có phải là Thôi Hộ không và cho biết con gái của cụ sau khi đọc xong bài thơ bỏ cả ăn uống, đã chết, xác vẫn còn ở trong nhà. Thôi Hộ tìm vào đến bên xác người con gái, tuy đã tắt thở nhưng vẫn còn ấm và mặt mày vẫn hồng nhuận. Chàng quỳ xuống than van kể lể. Người con gái sống lại và họ trở thành vợ chồng".
Giai thoại này nhuốm màu huyền thoại. Nhưng 2 câu thơ cuối:
"Nhân diện bất tri hà xứ khứ?
Đào hoa y cựu tiếu đông phong"
lại trở thành bất tử, vì một lẽ: Thi nhân đã nói hộ lòng của muôn vàn đôi lứa yêu nhau, mong gặp gỡ nhau đến cháy lòng. Chốn cũ, cảnh vật vẫn như thuở nào mà người xưa vắng bóng, một cảm giác xót xa, hụt hẫng đến bàng hoàng: "Gương mặt người xưa giờ không biết chốn nao, (Chỉ thấy) hoa đào vẫn như cũ cười với gió đông".
-
- Nhất đẳng
- Bài viết: 168
- Tham gia: 02:47, 08/03/09
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
Chẳng biết đi đâu ghé quán chơi
Hoa rơi, liễu héo cứ tả tơi
Đường thi chẳng biết thôi vui vậy
Lựa mấy vần thơ chớ có cười
Cũng tiết thanh minh thế mới tài
Lạc Dương nơi ấy ắt xa xôi
Chỉ bên màn với dăm con phím
Cười cả người xưa thế mới hài
Chắc lỗi sai bởi ng đi trc
Thơ phú gì gieo giắc đến kinh
Rãnh dăm nét chữ khua vui vậy
Chớ có làm ai khác bực mình
Hoa rơi, liễu héo cứ tả tơi
Đường thi chẳng biết thôi vui vậy
Lựa mấy vần thơ chớ có cười
Cũng tiết thanh minh thế mới tài
Lạc Dương nơi ấy ắt xa xôi
Chỉ bên màn với dăm con phím
Cười cả người xưa thế mới hài
Chắc lỗi sai bởi ng đi trc
Thơ phú gì gieo giắc đến kinh
Rãnh dăm nét chữ khua vui vậy
Chớ có làm ai khác bực mình
TL: Tao nhân mặc khách hạ bút tương phùng....
"Nhân diện bất tri hà xứ khứ?
Đào hoa y cựu tiếu Đông phong"
Dịch 2 câu thơ này, ko ai bằng cụ Nguyễn Du, trong truyện Kiều. Cái đoạn mà chàng Kim sau 3 năm xa cáchK trở về, khi đến nơi thì:
"Trước sau nào thấy bóng người
Hoa Đào năm ngoái còn cười gió Đông"
2 câu dịch này, thực sự đáng được gọi là "thần bút"
Nhân Mai hoa nêu ra Đường Luật Thi, Đồ tôi cũng bàn mấy dòng
Trong Đường luật thi, thì có lẽ 2 thể loại đc ưa chuộng nhất là Thất ngôn bát cú và Thất ngôn tứ tuyệt
2 loại này cấu tứ chặt chẽ, Niêm luật đầy đủ, xưa nay vẫn là đỉnh cao của luật thơ.
Nếu nói về Thất ngôn bát cú, còn phải xét thêm cấu tứ bài thơ nữa
Bài thơ có 8 câu, nhưng biểu ý của mỗi câu khác nhau, cụ thể là ĐỀ-THỰC-LUẬN-KẾT
Đề là 2 câu đầu tiên, mở đầu bài thơ, Đề có thừa đề và Phá đề. Thừa đề là cấu số 1, nêu lên chủ ý của bài thơ, Phá đề là câu số 2, làm sáng thêm ý của thừa đề.
Thực : là 2 câu 3-4, là hai câu tả thực trong bài thơ
Luận : là 2 câu 5-6, đây là 2 câu đắt nhất, dùng để bàn luận vấn đề đã nêu, đây là cái nhìn nhận, đánh giá của tác giả đồi với chủ ý bài thơ.
Kết : là 2 câu cuối, kết thúc bài thơ và cũng là kết thúc vấn đề
Ví dụ, bài thơ "Thăng long thành hoài cô" của Bà Huyện Thanh Quan. Thời Nguyễn, kinh đô chuyển vào Huế, thành Thăng long một thời hào hoa tráng lệ nay trở thành phế đô, trước cái cảnh dâu bể ấy, tác giả đã viết :
Tạo hoá gây chi cuộc hý trường
Đêm ngày mong ngóng những tin sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cũng tuế nguyệt
Nước còn nhăn mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
Chủ quán hôm nay tiếp Đồ ta cái gì đây nhỉ?
Đào hoa y cựu tiếu Đông phong"
Dịch 2 câu thơ này, ko ai bằng cụ Nguyễn Du, trong truyện Kiều. Cái đoạn mà chàng Kim sau 3 năm xa cáchK trở về, khi đến nơi thì:
"Trước sau nào thấy bóng người
Hoa Đào năm ngoái còn cười gió Đông"
2 câu dịch này, thực sự đáng được gọi là "thần bút"
Nhân Mai hoa nêu ra Đường Luật Thi, Đồ tôi cũng bàn mấy dòng
Trong Đường luật thi, thì có lẽ 2 thể loại đc ưa chuộng nhất là Thất ngôn bát cú và Thất ngôn tứ tuyệt
2 loại này cấu tứ chặt chẽ, Niêm luật đầy đủ, xưa nay vẫn là đỉnh cao của luật thơ.
Nếu nói về Thất ngôn bát cú, còn phải xét thêm cấu tứ bài thơ nữa
Bài thơ có 8 câu, nhưng biểu ý của mỗi câu khác nhau, cụ thể là ĐỀ-THỰC-LUẬN-KẾT
Đề là 2 câu đầu tiên, mở đầu bài thơ, Đề có thừa đề và Phá đề. Thừa đề là cấu số 1, nêu lên chủ ý của bài thơ, Phá đề là câu số 2, làm sáng thêm ý của thừa đề.
Thực : là 2 câu 3-4, là hai câu tả thực trong bài thơ
Luận : là 2 câu 5-6, đây là 2 câu đắt nhất, dùng để bàn luận vấn đề đã nêu, đây là cái nhìn nhận, đánh giá của tác giả đồi với chủ ý bài thơ.
Kết : là 2 câu cuối, kết thúc bài thơ và cũng là kết thúc vấn đề
Ví dụ, bài thơ "Thăng long thành hoài cô" của Bà Huyện Thanh Quan. Thời Nguyễn, kinh đô chuyển vào Huế, thành Thăng long một thời hào hoa tráng lệ nay trở thành phế đô, trước cái cảnh dâu bể ấy, tác giả đã viết :
Tạo hoá gây chi cuộc hý trường
Đêm ngày mong ngóng những tin sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cũng tuế nguyệt
Nước còn nhăn mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
Chủ quán hôm nay tiếp Đồ ta cái gì đây nhỉ?