Vi diệu

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2045
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

Tánh Không và Chân Không
Hòa thượng Thích Thanh Từ
________________________________________

Hôm nay nhân ngày giải hạ, Tăng Ni trở về đây chúc mừng khánh tuế cho tôi, đồng thời xin tôi cho vài lời nhắc nhở trên bước đường tu hành, tôi rất hoan hỉ. Trước tiên tôi xin chúc mừng Tăng Ni qua mùa hạ được bình yên, an vui. Đó là kết quả tốt sau một mùa an cư.

Đối với các Thiền viện, đây là lần an cư thứ ba mươi, bắt đầu từ năm 1970 chúng ta an cư tại Chân Không, tới nay là năm 2000.Kiểm lại trong ba mươi năm đó, từ con số an cư đầu tiên chỉ vỏn vẹn mươi người thôi. Giờ đây tất cả các Thiền viện tụ hội về có thể lên đến bốn năm trăm người. Như vậy đứng về số lượng, Tăng Ni ngày càng đông, Phật tử cũng càng nhiều hơn. Nếu đường lối tu của chúng ta không có lợi ích, không có sự an lạc, thì chắc rằng không thể nào được sự hưởng ứng đông đảo như vậy. Ngày nay mọi người đều hoan hỉ tu hành, để chứng minh rằng con đường của chúng ta đi rất hợp với tâm cầu tiến của Tăng Ni và Phật tử. Đó là một lẽ thật.

Được đông đảo Tăng Ni hưởng ứng tu thiền, đó là một niềm vui. Nhưng tôi cũng có nỗi lo, bởi vì Tăng Ni càng đông thì số tạp càng nhiều. Vì vậy mong rằng tất cả Tăng Ni tu theo sự hướng dẫn của tôi, nhất là những vị lớn ở trong các Thiền viện, phải luôn luôn tự kiểm lại sự tu của mình qua một năm, hay nói gần hơn là qua ba tháng an cư, tiến thối như thế nào để chỉnh đốn lại cho tốt đẹp hơn. Những gì ưu chúng ta cố gắng làm cho tăng trưởng, những gì khuyết chúng ta cố gắng chừa bỏ, đừng để những điều xấu dở lẫn lộn trong tập thể tu hành như vầy. Vì đó sẽ là duyên cớ làm cho đường lối tu ngày càng suy yếu, ngày càng dở tệ. Như vậy mới xứng đáng là người tu hành cầu giải thoát sanh tử.
Gần đây, trong khi tu nhìn lại giáo lý tôi thấy có hai điều hệ trọng khác hơn hồi xưa. Hai điều đó là gì? Một là Tánh Không. Hai là Chân Không. Lâu nay người ta thường hay lẫn lộn về hai điều này.

Trước tôi nói về Tánh Không. Nhiều vị cho rằng khi đạt được Tánh Không sẽ có vô số thứ nhiệm mầu, tức là Tánh Không diệu hữu, như Chân Không diệu hữu vậy. Đó là do không hiểu, không phân biệt được thế nào là Tánh Không, thế nào là Chân Không.

Thế nào là Tánh Không? Khi nói tới Tánh Không, chúng ta phải nhớ Tánh Không Duyên Khởi, khi nói tới Chân Không chúng ta phải nhớ Chân Không Diệu Hữu. Hai từ này nên nhận cho thật kỹ. Tánh Không là thể tánh của tất cả các pháp. Thể tánh của tất cả các pháp là không, do duyên hợp nên sanh ra muôn pháp. Vì vậy nói Tánh Không duyên khởi.

Tánh Không đó thế nào?

Thí dụ đây là cái bàn, đây là hư không. Cái bàn là hữu, hư không là không. Cả hai đều không ngoài Tánh Không, nên biết Tánh Không không phải là hư không trống rỗng. Lâu nay trong nhà chùa thường nói thà chấp có bằng núi Tu-di, chẳng nên chấp không bằng hạt cải. Nghĩa là thà chấp cái gì cũng có hết, có tội, có phước, có thiện, có ác v.v... mà không sao. Còn chấp không dù chỉ bằng hạt cải cũng là họa, như không tội không phước v.v...

Chúng ta nhận ra tướng có tướng không qua cái nhìn của mắt. Con mắt thấy đây là có, kia là không. Các tướng duyên hợp nên có hình có tướng, còn duyên chưa hợp là hư không trống rỗng nên nói không.

Như vậy trong cái có không phải là thật có, trong cái không cũng không phải là thật không. Tại sao? Chúng ta cứ cho rằng cái bàn khít khao chặt chẽ, không có kẽ hở nên nói nó có, còn chỗ trống rỗng hoàn toàn không có gì cả nên nói nó không, nhưng sự thật không phải vậy. Nếu nhìn kính hiển vi, chúng ta sẽ thấy trong cái bàn vẫn có những kẽ hở trống, tức là cái không. Còn trong hư không có vô số bụi bặm vi trùng v.v... nhưng vì nó quá nhỏ nên tầm mắt chúng ta không thấy, rồi nói là không. Nên nói thật có thật không đều không đúng. Trong nhà Phật gọi thấy như thế là biên kiến, tức chấp một bên, không đúng lẽ thật.

Hiện giờ đa số chúng ta đều nặng trên hình thức hoặc có hoặc không. Những hình thức nào mắt thấy được gọi là có, hình thức mắt không thấy được gọi là không. Nếu phân tích vi tế hơn, sâu sắc hơn, trong cái không vẫn có cái có, trong cái có vẫn có cái không, nên cho rằng "sắc tức thị không, không tức thị sắc", nghĩa là trong hư không có bụi bặm tức là có cái có, trong cái bàn có những khoảng trống tức là có cái không.

Trong con người chúng ta cũng vậy. Nếu từ đầu đến chân khít khao không có một chỗ hở trống thì chúng ta đã chết rồi. Hai lỗ mũi nếu không trống thì hết thở, miệng không trống thì hết ăn. Tất cả các cơ quan luôn luôn có cái không lẫn trong cái sắc. Ngược lại ngoài hư không, cái sắc cũng có trong cái không. Không với sắc lẫn lộn nhau nên Bát-nhã nói sắc tức thị không, không tức thị sắc là vậy.
Các hình thức hoặc trống không hoặc có sắc chất đều được chúng ta nhìn thấy bằng mắt. Trong kinh Phật dạy thân này do tứ đại hoặc lục đại, thất đại hợp lại thành. Tứ đại gồm đất, nước, gió, lửa, ai cũng biết. Lục đại tức tứ đại cộng thêm hai thứ nữa là Không và Thức, thất đại thì thêm Kiến. Các hình thức trống không như đã nói ở trên chính là Không đại. Không đại trong con người hay sự vật đều do mắt thấy.

Từ cái không thô đối với cái có thô, chúng ta thấy được nên nói có, nói không. Đến cái không tế nằm lẫn trong sắc, hoặc sắc lẫn trong không, tuy mắt không thấy nhưng dùng kính hiển vi cũng sẽ thấy. Như vậy cái không, cái có đó đều là đối đãi từ hình thức, chưa phải "sắc tức thị không".

Thế thì "sắc tức thị không" trong kinh Bát-nhã chỉ cho cái không nào? Như tôi đã nói "Tánh Không duyên khởi", căn cứ theo các kinh A-hàm Phật dạy tất cả pháp không tự có, mà do duyên hợp mới thành. Bởi duyên hợp mới thành nên không một pháp nào tự có nguyên thể của nó, mà đều từ cái không, duyên hợp thành có.

Thí dụ đống cát, ban đầu không có gì, do gom cát tụ lại thành đống, gọi là đống cát. Nếu phân tán số cát này ra hết, thì đống cát không còn. Như vậy đống cát có là do duyên tụ lại mà có, đống cát không có là do duyên tan ra thành không. Duyên tụ duyên tán, thành có thành không. Nếu đống cát trước đó tự có nguyên thể thì không phải đợi nhiều hạt cát tụ lại mới thành, đống cát đã có sẵn. Nhưng có đống cát nào nguyên sẵn không? Thật thể của đống cát vốn không, cái không này Bát-nhã gọi là Tánh Không.

Cũng vậy, con người nếu trước tự có thì không đợi cha mẹ sanh, còn đợi cha mẹ sanh mới có tức do duyên hợp. Như vậy hình sắc con người, tánh nó vốn không, duyên hợp mới có. Nói tóm lại, tất cả sự vật từ nhỏ tới lớn trong vũ trụ này đều không có nguyên thể ban đầu, phải đợi duyên hợp mới có, đó gọi là Tánh Không.

Tánh Không được thấy bằng gì? Đó là chỗ tôi muốn nhấn mạnh. Tánh Không được thấy bằng trí tuệ. Bát-nhã là trí tuệ, chỉ có trí tuệ mới thấy được Tánh Không. Bởi vì Tánh Không không phải là cái không trống rỗng của hư không. Vì sự vật không có cái nguyên thể trọn vẹn từ ban đầu, đợi duyên hợp mới có, nên gọi là Tánh Không. Nó không phải là không đối với có, nên chúng ta đâu thể dùng mắt để thấy Tánh Không được. Có, không do duyên hợp thì có tụ có tan, còn Tánh Không không có tụ tán.

Kinh Kim Cang, đức Phật dạy muốn được giác ngộ phải biết "Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai". Hết sức đơn giản, thấy các tướng không có tướng thật, đó là thấy Phật. Tại sao? Bởi vì tất cả tướng đều là duyên hợp, hư giả, không có tướng thật là phi tướng. Thấy như vậy là thấy đúng sự thật nên nói thấy Phật, tức là dùng trí tuệ giác ngộ để thấy.

Trí tuệ giác ngộ là trí thấy biết đúng như thật. Chúng ta biết thân này duyên hợp, hư dối thì còn chấp ngã, chấp ta thật không? Bởi từ lâu chúng ta sống trong mê lầm, vô minh nên không thấy được tánh thật của các pháp thành ra chấp ngã chấp pháp. Từ chấp ngã chấp pháp mà sanh đấu tranh, tàn sát lẫn nhau. Bây giờ nhờ trí tuệ Bát-nhã, ta nhìn thấu đáo biết tất cả pháp duyên hợp đều là hư giả. Thân này duyên hợp nên hư giả, cái bàn duyên hợp nên hư giả, tất cả sự vật trên thế gian này do duyên hợp nên đều hư giả. Như vậy thì còn chấp cái gì nữa?

Nên kinh Kim Cang Phật dạy:

Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng huyễn bào ảnh,
Như lộ diệc như điện,
Ưng tác như thị quán.


Dùng trí tuệ Bát-nhã soi thấu tất cả pháp như mộng huyễn, như bọt như sương, như điện chớp, không có gì thật hết. Thấy như vậy gọi là thấy bằng trí tuệ Bát-nhã. Nếu thấy mình thật người thật, tất cả mọi thứ đều thật hết thì phiền não cả ngày. Vì mình thật thì được mất cũng thật, vui buồn cũng thật nên khổ. Còn thấy mình hư dối thì tất cả mọi thứ chung quanh cũng đều hư dối, hư dối thì được mất đâu có khổ. Sống chết chỉ là trò chơi thôi, có gì đâu quan trọng.

Cho nên trí tuệ Bát-nhã là gốc, là nền tảng của sự tu. Sở dĩ ở Thiền viện đêm nào cũng tụng Bát-nhã là vì thế. Nếu nhìn tất cả pháp đúng như thật, tức là duyên khởi, Tánh Không duyên khởi nên sự vật hiện có đều hư dối không thật. Biết rõ như vậy, thấy đúng như vậy, chúng ta cười cả ngày không có gì phải buồn, phải khổ. Giả sử ta bệnh, nghe ai nói mình sẽ chết trong nay mai cũng cười thôi. Có hợp thì có tan, lý ấy như vậy không có gì phải sợ phải lo. Đó là ta sống được tự tại, giải thoát rồi.

Thử kiểm lại, nếu con người là thật, thì tổ tiên mình tới bây giờ lẽ ra vẫn còn. Nhưng tổ tiên chúng ta đã đi hết rồi, tới ông cố bà cố, ông nội bà nội, cha mẹ mình cũng đi, và đến phiên mình cũng phải đi. Có ai sống mãi đâu, hết tụ rồi tan, không có gì thật cả. Vậy mà con người cứ ngỡ là thật, có phải mê lầm không?

Nên biết trí tuệ và mê lầm ở cạnh nhau thôi. Thấy thân thật, các pháp bên ngoài thật, đó là mê lầm. Nếu căn cứ trên Tánh Không duyên khởi thì không có một pháp thật. Chúng ta tu muốn đi tới chỗ an lạc tự tại phải thấy rõ được Tánh Không của các pháp. Như vậy muôn sự muôn vật không có gì trói buộc được mình, không có gì làm phiền lụy được mình.

Qua đó đủ thấy trí tuệ Bát-nhã là sức mạnh phi thường giúp chúng ta phá tan hết mọi khổ đau, phiền lụy. Chúng ta tụng Bát-nhã hoài mà không ứng dụng được trí tuệ này nên không hết khổ. Nếu hiểu thấu và thể nhập được chân lý đó rồi, thì sống giữa đời này không có gì đáng sợ, không có gì đáng phiền hết. Cuộc đời là như vậy, có gì đâu quan trọng. Chiếc thân hữu hình hữu hoại, lúc nào cũng chực tan rã mà người ta cứ tưởng thật, vô lý làm sao! Cuộc sống trên thế gian này là một dòng sanh diệt không dừng, lớp người trước đi qua, lớp người sau nối tiếp. Cứ như vậy mà sanh diệt không dừng, thì thật ở chỗ nào?

Cho nên chúng ta tụng kinh Bát-nhã là để thấm nhuần lý Tánh Không duyên khởi, chớ không phải để chấp không. Người hiểu thấu được lý Bát-nhã không bao giờ chấp không. Chấp đây không kia có là đại si mê. Bởi vì tất cả pháp do duyên hợp mà có, duyên hợp thì Tánh Không. Như ngôi chùa Thường Chiếu này là do duyên hợp hay có sẵn? Trước năm 1975 ngôi chùa không có, bây giờ lại có, rõ ràng do các duyên tụ lại nên có ngôi chùa. Chùa đã là của duyên thì gặp duyên ngược lại tức sẽ tan hoại, chớ đâu thể còn hoài. Dù kiên cố mấy, cũng có duyên làm cho nó hoại không bao giờ còn nguyên mãi được. Hiểu như vậy là chúng ta mở sáng con mắt trí tuệ Bát-nhã, nên nói sống bằng trí tuệ Bát-nhã là giác ngộ, giải thoát.

Hiểu được lý Tánh Không là hiểu được lý duyên hợp hư dối. Lý duyên hợp phát xuất từ kinh nào? Từ kinh A-hàm. Kinh A-hàm nói các pháp duyên hợp, cái này có nên cái kia có, cái này sanh nên cái kia sanh, cái này diệt nên cái kia diệt v.v... đều là lý nhân duyên tương quan giữa cái này với cái kia, chớ không có nguyên sẵn một thứ riêng.

Xét theo đó thì thấy từ lý Nhân duyên hòa hợp của hệ A-hàm tới Tánh Không của hệ Bát-nhã có gì khác nhau đâu. Nói duyên hợp cho người nghe dễ hiểu, nói Tánh Không để chỉ thẳng bản chất của các pháp. Biết được Tánh Không thì biết duyên hợp là hư dối. Như tôi co năm ngón tay lại thì có nắm tay. Nếu nắm tay có sẵn từ thủy chí chung thì đâu đợi năm ngón co lại mới thành nắm tay. Như vậy nắm tay nguyên tánh nó vốn không, đợi năm ngón co lại thành có. Có là do duyên hợp, nếu năm ngón buông ra kiếm nắm tay trước có còn không? Rõ ràng không còn. Như vậy Tánh Không duyên hợp mới thành tướng, duyên hết thì tướng phải mất. Thế thì nắm tay thật hay giả? Nó chỉ có một thời gian thì làm sao thật được.

Tăng Ni tu hành bao nhiêu năm, có thấy được các pháp duyên hợp hư dối không? Nếu thấy được là trí tuệ Bát-nhã, còn thấy chưa được là vô minh. Tu mà chưa lột được xác vô minh, bị nó trói chặt kéo lôi thì thật là đáng tiếc. Muốn giác ngộ nhất định phải lột bỏ xác vô minh mới được. Trong mười hai nhân duyên, vô minh là đầu mối là gốc. Dòng sanh tử gốc từ vô minh mà ra, chưa thoát được cái vỏ này thì không thể nào giải thoát sanh tử được.

Ai cũng nhận thân này duyên hợp nhưng lại không dám nói hư dối, vô lý làm sao! Như vậy có hết vô minh chưa? Vô minh thật sâu thật đậm, mà cứ ngỡ mình tu hết vô minh rồi. Ai đó lỡ nói huynh vô minh quá liền nổi giận đùng đùng, đâu biết giận đùng đùng tức đã thú nhận ta vô minh. Người ta nói mình vô minh mà mình không vô minh thì thôi, có gì phải giận. Chúng ta tu nếu không nắm vững cái gốc đó, thì sự tu làm sao tiến được.

Cho nên Tánh Không đây không phải không nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý... lý Tánh Không là do trí tuệ Bát-nhã thấy. Biết lý đó, bởi các pháp Tánh Không đợi duyên hợp thành có, cho nên nó là hư giả. Tánh Không không phải là cái không đối với cái có. Nói tóm lại, Tánh Không là để chỉ tất cả sự vật tự thể không có, đợi duyên hợp mới có. Thế thì, tôi xin hỏi lại Tánh Không là gì? Không là cái gì hết, nên không tất cả các pháp, sáu căn, sáu trần đều không, kể cả Tứ đế, Thập nhị nhân duyên cũng không.

Phật vì đối bệnh cho thuốc, bệnh hết thì thuốc cũng bỏ. Tánh Không là một lý thật để chúng ta nhân đó nhìn thấy sự vật, tướng duyên hợp là hư dối, thấy rõ như vậy. Người nào thừa nhận thân này là duyên hợp, thì phải thừa nhận nó là hư dối. Đó là một lẽ thật.

Nếu chúng ta nắm được lẽ thật ấy rồi, sẽ thấy công dụng của nó rất phi thường. Như thấy thân này duyên hợp hư dối thì có còn khổ nữa không? Nếu thân này hư dối, người ta chửi mình, mình đâu có buồn. Cả ngày cười hoài không bận bịu gì hết, phiền não từ đâu mà ra.

Giáo lý Nguyên thủy nói thân này vô ngã, năm uẩn hợp là vô ngã. Đến Bát-nhã thì nói Tánh Không duyên hợp hư dối, đó là một lẽ thật, hết sức chân thật. Nhưng tội nghiệp thay chúng ta do mê lầm từ muôn kiếp, nên Phật nói thì tin mà nhận thì không dám nhận. Tin Phật nói mà mình ưng sống với mê hơn là trí.

Vì vậy chúng ta tu khó trăm bề. Nếu tỉnh thức như lời Phật dạy thì tu không có gì khó hết. Tất cả phiền não khiến tâm bất an đều từ chấp thân thật, tâm thật, cảnh thật. Khi biết rõ không có một pháp thật thì phiền não theo đó rơi rụng hết. Cho nên ngài Huyền Giác đã nói trong Chứng Đạo Ca:

Đại trượng phu bỉnh tuệ kiếm
Bát-nhã phong hề kim cang diệm.

"Đại trượng phu bỉnh tuệ kiếm", bậc đại trượng phu cầm kiếm tuệ, tức kiếm Bát-nhã. "Bát-nhã phong hề kim cang diệm", Bát-nhã là trí tuệ sắc bén hay chặt đứt tất cả. Kim cang là một thứ kim loại không có chi phá được, nên ví nó như đống lửa cháy rần rần, quăng vật gì vô cũng tan nát hết. Như vậy trí tuệ Bát-nhã chính là trí tuệ kim cương hay phá tan mọi thứ phiền não, mà không gì có thể phá được trí tuệ này cả. Ngài nói tiếp:

Phi đản năng tồi ngoại đạo tâm
Tảo tằng lạc khước thiên ma đảm.


Tồi phục là dẹp trừ, tảo tằng là sớm từng. Trí tuệ Bát-nhã chẳng những hay dẹp trừ được tâm ngoại đạo, mà còn sớm từng làm cho thiên ma phải rụng mật khiếp vía nữa. Để thấy lý Bát-nhã này không ngoại đạo nào phá vỡ được.

Khi biết các pháp Tánh Không duyên hợp hư giả, là thoát khỏi được các thứ chấp hai bên như chấp có, chấp không, gọi là biên kiến. Với con mắt Bát-nhã có là giả có, vì giả có nên không phải không, mà cũng không phải thật có. Không thật không, không thật có mà hiện tiền mắt thấy, tai nghe, đó là lý trung đạo.

Nhà thiền thường dùng hình ảnh mặt trăng ở dưới hồ. Mặt trăng dưới hồ có hay không? Xác định là không cũng không được, xác định là có thật cũng không được. Nó chỉ là bóng, là huyễn hóa. Nói mặt trăng có thật dưới hồ là ngu xuẩn. Nói mặt trăng không ngơ, tại sao mắt mình thấy? Chẳng qua đó là tướng duyên hợp hư giả, là bóng không phải thật. Không thật mà chấp thật là ngu mê. Thân này, sự vật chung quanh này cũng vậy.

Chúng ta si mê cho các pháp là thật nên dễ bị nó kéo lôi dụ dỗ. Dụ dỗ bằng cách nào? Thí dụ: Người hiếu sắc khi thấy sắc đẹp liền bị mềm lòng, người hiếu danh hiếu lợi khi thấy danh lợi liền chạy theo. Nhưng nếu chúng ta biết rõ những thứ đó không thật, không chạy theo nó thì ma nào có thể dụ dỗ mình nổi, kể cả thiên ma còn phải vỡ mật nữa là khác. Lý Kim Cang Bát-nhã hay như vậy mà chúng ta không dùng, giống như người có kiếm bén mà không biết dùng, đành chịu chết dưới tay giặc.

Có trí Bát-nhã thì đi tới Niết-bàn dễ như trở bàn tay. Đạo Phật được gọi là đạo giác ngộ vì thấy tột cùng lẽ thật, chớ không phải thấy nửa chừng, thấy mơ màng. Lâu nay chúng ta tu thật lơ là. Cho nên người tu cần phải lãnh hội cho sâu lý Tánh Không, một lần tỉnh là không được mê trở lại nghe, chớ còn tỉnh tỉnh mê mê thì muôn đời cũng không ra khỏi sanh tử.

Kế đến, tôi nói về Chân Không. Nói Tánh Không là tánh của tất cả pháp, nói Chân Không là Tâm thể của tâm. Một bên thuộc về pháp, một bên thuộc tâm. Cho nên Tánh Không thì duyên khởi còn Chân Không thì diệu hữu, chúng ta cần phải nắm cho thật vững chỗ này. Tại sao Chân Không là diệu hữu?
Lục Tổ khi trình kệ cho Ngũ Tổ, Ngài kết luận bằng hai câu:

Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhá trần ai.


Xưa nay không một vật, đó là Chân Không. Về điểm này chư Tổ đều thấy như nhau. Như Tổ Huệ Khả sau khi có chỗ vào, thời gian sau Ngài bạch với Tổ Đạt-ma: "Bạch Hòa Thượng con đã dứt hết các duyên." Tổ bảo: "Coi chừng rơi vào không." Ngài thưa: "Rõ ràng thường biết, không sao được." Tổ Đạt-ma liền khen: "Ông như vậy, ta như vậy, chư Phật cũng như vậy." Đó là Tổ đã ấn chứng cho ngài Huệ Khả rồi. Chỗ rõ ràng thường biết mà không có một vật chính là Chân Không. Từ Tổ Huệ Khả thấy được lý Chân Không không một vật. Đến Tổ Huệ Năng thì thấy "bản lai vô nhất vật" cũng không một vật. Đó là trên thể của tâm mà nói. Tuy không có một vật mà rõ ràng thường biết, cho nên nói Chân Không diệu hữu.

Chúng ta nếu tỉnh táo, một mình ngồi lại năm ba phút, không có niệm nào dấy lên. Mắt, tai, mũi, lưỡi... toàn thân hiển nhiên như vậy, lúc đó biết hay không biết? Chim kêu nghe, người đi thấy, gió thổi biết, rõ ràng thường biết mà vẫn không có một niệm. Thế có phải là Chân Không không?
Ngược lại chúng ta biết bằng cách duyên theo bóng dáng người và sự vật, biết bằng cách phân biệt chia chẻ, đó là cái biết của sanh diệt. Cái biết sanh diệt ta lại dùng, còn cái biết không sanh diệt, thường nhiên thì lại bỏ. Vì vậy chư Phật chư Tổ dạy mình tu đến chỗ không còn một niệm vọng tưởng mà vẫn hằng tri hằng giác, đó là chỗ chân thật. Chỗ đó không phải kiếm ở đâu xa, chỉ cần đừng dấy niệm, đừng chạy theo cảnh thì cái biết ấy rõ ràng.

Vì cái biết ấy không có hình tướng, nên chúng ta dễ quên. Có mà không nhận, như kẻ cưỡi trâu đi tìm trâu, dưới sông mà kêu khát nước. Trái lại, chúng ta nhận thân duyên hợp hư dối là thật, tâm nghĩ tưởng lăng xăng là mình. Cả ngày mình sống với tâm khỉ vượn, phóng chạy tứ tung. Vì sống với tâm ấy nên hết phê bình người này, lại chê trách kẻ khác, tạo không biết bao nhiêu thứ nghiệp, bao nhiêu khổ đau.

Như vậy mới thấy chúng ta mê lầm rất đáng thương. Cái thật đang có lại không nhớ, nhớ những cái giả dối tạm bợ, cho đó là mình. Vì vậy Phật nói chúng sanh muôn kiếp muôn đời trôi lăn trong sanh tử. Kinh Pháp Hoa dụ chúng ta là con ông Trưởng giả, bỏ cha đi lang thang làm kẻ ăn mày rồi kêu khổ. Đến khi trở về, thấy cha mà không dám nhận mình là con Trưởng giả, lại nhận kiếp bần hèn, thật đau xót.

Cũng vậy, chúng ta cho tâm lăng xăng sanh diệt là tâm mình nên suốt đời khổ hoài. Nếu không nhận tâm ấy là mình thì đâu có khổ. Sở dĩ chúng ta khổ vì người kia chê, người nọ nói xấu mình. Việc không đáng làm, không đáng nghe mà cứ làm, cứ nghe, chạy theo cái giả bỏ cái thật thì không khổ sao được. Chỉ cần buông hết những tâm niệm lăng xăng lộn xộn đó, thì cái chân thật hiện tiền. Thật ra, lúc nào tâm chân thật cũng hiện tiền chớ không phải vắng, nhưng vì mình quên thành ra nó vắng.
Trong nhà thiền các Thiền sư có khi tự gọi, tự "Dạ" để nhắc mình có ông chủ đang nghe đó. Nếu không có ông chủ làm sao nghe, làm sao thấy. Như đưa phất tử lên để nhắc mình có cái hiện tiền đang thấy, không phải suy nghĩ gì cả. Hoặc khi các ngài hỏi, học nhân vừa cúi đầu suy nghĩ các ngài liền tát tai, đập gậy, sao tàn nhẫn vậy? Thật ra các ngài thương đáo để, từ bi đáo để, không muốn cho người sau nhận giả làm thật, rồi bám vào đó mà đánh mất cái chân thật đang hiện sờ sờ trước mặt.

Chúng ta thử sống với cái thật chừng một ngày thôi, xem thử có buồn giận không? Hay là sẽ được thảnh thơi tự tại, thấy vẫn thấy, nghe vẫn nghe, giờ ăn thì ăn, giờ ngủ thì ngủ, không có gì buộc ràng, không có gì bận lòng. Các Thiền sư hồi xưa thường bảo với đệ tử: Ông dâng cơm thì ta nhận, ông xá thì ta gật đầu, chỗ nào không chỉ tâm yếu cho ông. Rõ ràng có lúc nào thiếu vắng cái chân thật ấy đâu, chỉ tại mình không chịu nhận, lại chạy theo những gì văn hoa, bóng bẩy bên ngoài, thành ra mất mình.

Vì quên hẳn tâm thể nguyên vẹn không sanh diệt ấy nên phiền não kéo lôi chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. Kiếp này tu nhắm mắt cũng luân hồi, kiếp khác tu nhắm mắt cũng luân hồi, không thoát được vì quên gốc theo ngọn, quên chánh theo tà. Người tu phải thấy tường tận chỗ đó.
Đức Phật khi sống với tâm chân thật rồi thì Tam minh, Lục thông, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng v.v... đầy đủ. Đó là "Chân Không mà diệu hữu". Cái có trong nhiệm mầu phi thường, chớ không phải có trong cái thường. Không phải trở về đó rồi chúng ta khờ khạo không biết gì, mà trở về được thì diệu hữu hiện tiền. Diệu hữu ấy là dụng của tâm, cho nên quan trọng ở chỗ trở về được thể thì dụng chính là diệu hữu.

Thấy được Tánh Không, thấy được Chân Không chúng ta còn việc gì phải làm nữa không? Thiền sư Huyền Giác trong bài Chứng Đạo Ca đã nói "Pháp thân giác liễu vô nhất vật". Vô nhất vật chính là chỗ không một vật của Lục Tổ, là Pháp thân, là Chân Không vậy. "Bản nguyên tự tánh thiên chân Phật", chữ thiên này không phải trời, mà thiên là sẵn có. Nói bản nguyên tức là nói nguồn gốc ban đầu. Nguồn gốc ban đầu của chúng ta chính là ông Phật sẵn có từ muôn đời đó.

Khi giác ngộ thì thấy: "Ngũ uẩn phù vân không khứ lai. Tam độc thủy bào hư xuất một." Thấy được, nhận được pháp thân thì thân năm uẩn này cũng như mây nổi, qua lại trong hư không, chẳng có nghĩa lý gì hết. Chỉ vì chúng ta không nhận ra được pháp thân, nên thấy thân năm uẩn là quí. Khi ngũ uẩn đã như phù vân, thì tam độc cũng như bong bóng nước.

Người tu thấy tột như vậy thì việc tu không phải là khó, không phải là chuyện xa vời, mà nó rất gần rất thực tế. Sống được với Chân Không tức là sống được với Pháp thân. Sống được với Pháp thân thì không còn tạo nghiệp, không tạo nghiệp thì làm gì đi trong luân hồi nữa. Đó là giải thoát rồi.

Rõ ràng chỉ cần nhận chân được hai điều "Tánh Không duyên khởi" của các pháp, "Chân Không diệu hữu" của tâm thể thì đời tu chúng ta vững như hòn núi. Ngược lại cứ chạy theo bên ngoài, nghe chỗ này hay, chỗ kia lạ thì tu suốt kiếp cũng chỉ lẩn quẩn trong sanh tử, không đi tới đâu hết.

Nên nhớ hai điều này không thể lẫn lộn nhau mà hỗ tương cho nhau. Thấy các pháp Tánh Không thì duyên khởi hư giả, thấy như vậy nên phiền não lặng, từ đó Chân Không mới hiện. Chân Không hiện, nhìn lại thân này hư dối còn gì nữa mà tham sân si. Cho nên trước phải dùng trí Bát-nhã dẹp hết phiền não thì "ông chủ" mới hiện ra.

Mong rằng Tăng Ni tu hành thấy đúng như thật, đừng bị vô minh che mờ nữa, để trên đường tu dễ tiến mới có thể thoát ly sanh tử được. Đó là mục tiêu của chúng ta nhắm.

Giảng tại Thiền viện Thường Chiếu, tháng 8-2000
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2045
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Trích từ Ma-Ha Bát-Nhã Ba-La-Mật-Ða Tâm Kinh



"Wisdom alone is the science of other sciences."
― Plato



“Không là sắc, sắc là không, chổi buộc lông rùa quét sạch ba ngàn thế giới;
Phật tức tâm, tâm tức Phật, mõ khua sừng thỏ tỉnh hồn ức triệu sinh linh.”
― Hòa Thượng Thích Thiện Siêu



“As a man who has devoted his whole life to the most clearheaded science, to the study of matter, I can tell you as a result of my research about the atoms this much: There is no matter as such! All matter originates and exists only by virtue of a force which brings the particles of an atom to vibration and holds this most minute solar system of the atom together. . . . We must assume behind this force the existence of a conscious and intelligent Mind. This Mind is the matrix of all matter.”
― Max Planck, The New Science



“Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Vật chất tức là tinh thần, tinh thần tức là vật chất.”
― Hòa Thượng Thích Giác Khang, Pháp môn Tịnh Độ - Phần 15



"A man is but the product of his thoughts, what he thinks he becomes."
― Mahatma Gandhi



NAM QUỐC DÂN TU TRI
Sào Nam Tiên Sinh

CHƯƠNG THỨ II

N. 2. ― Hình người

Lò giời đúc nắn, ta được làm người. Đầu cao đội giời, chân dày đạp đất. Sáng đôi con mắt, tỏ đôi lỗ tai. Đôi vế đôi vai, chân tay cứng cỏi. Vảy ba tấc lưỡi, núi bể rung rinh. Vươn bẩy thước mình, dọc ngang giời đất. Xét suy sự vật, lại có óc khôn. Óc trử linh hồn, thiêng liêng rất mực. Đứng đầu muôn vật, ta chắc mình ta. Ơn ông ơn bà, ta không dám phụ. Đã sinh ta đó, phải tính thế nào. Trâu ngựa hay sao, uổng người ta lắm.

BA TẤC LƯỠI: tài nói năng bàn luận. BẨY THƯỚC MÌNH: mình người ta cao nhất đến bẩy thước, là thước đo người.



“We are reminded that, in the fleeting time we have on this Earth, what matters is not wealth, or status, or power, or fame, but rather how well we have loved and what small part we have played in making the lives of other people better.”
― Barack Obama



“GIÀ, BỊNH, CHẾT không chừa một ai. Dù vô thường sinh tử, thân này tuy không bền lâu, nhưng mình phải cố gắng nương theo thân người này để tu hành, vượt qua biển sinh tử lên đến bờ giải thoát.”
― Hòa Thượng Thích Trí Tịnh



“The things that matter the most in this world, they can never be held in our hand.”
― Gloria Gaither



Câu đối thiền môn của Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

Quảng đại hạnh, phát thâm tâm, bát thát mê vân, bất quyện hối nhân bồi Phật chủng;
Cứu chơn không, nghiên diệu chỉ, xung khai tuệ nhật, phùng trường trác tích chấn tông phong.

廣 大 行 發 深 心 撥 拓 迷 雲 不 倦 誨 人 培 佛 種
究 真 空 研 妙 旨 沖 開 慧 日 逢 場 卓 錫 振 宗 風

Tạm dịch:

Quảng khai đại hạnh, phấn phát tâm sâu, vén bớt mây mê, mệt mỏi chẳng nề dạy người vun Phật chủng;
Thẩm cứu chân không, thâm nghiên ý diệu, mở ra vầng tuệ, ngay nơi duyên thuận, dựng gậy chấn Tông phong.
(Tặng tháp Hòa thượng Thích Trí Thủ chùa Báo Quốc - Huế)



“Khi biết các pháp Tánh Không duyên hợp hư giả, là thoát khỏi được các thứ chấp hai bên như chấp có, chấp không, gọi là biên kiến. Với con mắt Bát-nhã có là giả có, vì giả có nên không phải không, mà cũng không phải thật có. Không thật không, không thật có mà hiện tiền mắt thấy, tai nghe, đó là lý trung đạo.
Nhà thiền thường dùng hình ảnh mặt trăng ở dưới hồ. Mặt trăng dưới hồ có hay không? Xác định là không cũng không được, xác định là có thật cũng không được. Nó chỉ là bóng, là huyễn hóa. Nói mặt trăng có thật dưới hồ là ngu xuẩn. Nói mặt trăng không ngơ, tại sao mắt mình thấy? Chẳng qua đó là tướng duyên hợp hư giả, là bóng không phải thật. Không thật mà chấp thật là ngu mê. Thân này, sự vật chung quanh này cũng vậy.”
― Hòa Thượng Thích Thanh Từ, Tánh Không và Chân Không



Có hai nhà sư đang trên đường đi khất thực. Đến một dòng suối nước chảy rất xiết hai nhà sư nhìn thấy một cô gái đang định lội qua suối nhưng không dám vì sợ bị nước cuốn đi.

Nhà sư thứ nhất không quan tâm đến lời yêu cầu giúp đỡ của cô gái và tự mình lội qua suối. Nhà sự thứ hai tiến tới ôm cô gái vào lòng và lội qua suối. Cô gái vô cùng cám ơn nhà sư đã giúp mình và hai nhà sư lại tiếp tục trên con đường của mình.

Đi được một đoạn đường như không chịu nổi, nhà sư thứ nhất quay lại trách nhà sư thứ hai:

- Anh đã tu hành mà vẫn còn tà tâm, vẫn còn ham sắc dục. Sao lại ôm ấp đàn bà con gái như thế?

Nhà sư thứ hai điềm đạm trả lời:

- Ơ hay, tôi đã bỏ cô ta lại bên bờ suối rồi, còn anh vẫn mang cô ta theo cho đến tận bây giờ sao?



Cô lái đò đưa khách qua sông. Đò cập bến cô lái thu tiền từng người. Sau hết đến nhà sư. Cô lái đò đòi tiền gấp đôi.

Nhà sư ngạc nhiên hỏi vì sao?

Cô lái mỉm cười:

– Vì thầy nhìn em…

Nhà sư nín lặng trả tiền và bước lên bờ.

Một hôm nhà sư lại qua sông. Lần nầy cô lái đòi tiền gấp ba. Nhà sư hỏi vì sao?

Cô lái cười bảo:

– Lần này thầy nhìn em dưới nước.

Nhà sư nín lặng trả tiền và bước lên bờ.

Lần khác nhà sư lại qua sông. Vừa bước lên đò nhà sư nhắm nghiền mắt lại đi vào thiền định.

Đò cập bến cô lái đò thu tiền gấp năm lần. Nhà sư hỏi vì sao?

Cô lái đáp:

– Thầy không nhìn nhưng còn nghĩ đến em.

Nhà sư trả tiền và lên bờ.

Một hôm nhà sư lại qua sông. Lần nầy nhà sư nhìn thẳng vào cô lái đò.

Đò cập bến, nhà sư cười hỏi lần này phải trả bao nhiêu?

Cô lái đáp:

– Em xin đưa thầy qua sông, không thu tiền.

Nhà sư hỏi:

– Vì sao vậy?

Cô lái cười đáp:

– Thầy nhìn mà không còn nghĩ tới em nữa. Do vậy em xin đưa thầy qua sông mà thôi.

Quả thật cái tâm luyến ái bên trong của con người mới là vấn đề cần phải giải quyết chứ không phải là dáng vẻ bên ngoài. Phần lớn chúng ta chỉ chú ý dáng vẻ bên ngoài nhưng ít ai chú ý đến cái tâm sâu thẳm bên trong. Dù thân xa lánh thế tục nhưng tâm còn nhớ nghĩ thì cũng chưa phải là giải thoát. Mắt tuy nhắm nhưng tâm còn nghĩ về, thì sóng ngầm cuộn xoáy tâm can còn dữ dội hơn.

Câu chuyện giữa nhà sư và cô lái đò đối đáp mỗi lần qua sông thể hiện cho một quá trình tu tập và chuyển hóa tư tưởng. Diễn biến đó cũng là quá trình tâm lý chuyển hóa thành tâm linh. Sau cùng là sự đạt đạo cao nhất của nhà sư: nhìn thẳng vào thực tại mà không hề có tư tưởng dính mắc, suy nghĩ, luyến ái. Còn các lần trước hết dính mắc bằng mắt thì đến dính mắc bằng tâm. Ở đời hễ còn dính mắc thì còn phải khổ lụy.

Nhà sư trả tiền cho cô lái đò cũng cho thấy rằng hễ tâm ta còn tạo nghiệp dính mắc thì sẽ có cái giá phải trả cho chính nó. Đó là triết lý sống dành cho tất cả chúng ta.




“Before you heal the body you must first heal the mind.”
– Aristotle



偶作(堂中端座寂無言)

堂中端座寂無言,
閑看崑崙一縷煙。
自是倦時心自息,
不關攝念不關禪。

Ngẫu tác (Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên)
Tuệ Trung Thượng Sĩ

Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên (ngôn),
Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên.
Tự thị quyện thời tâm tự tức,
Bất quan nhiếp niệm bất quan thiền.


Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch:

CHỢT HỨNG
Trong nhà ngồi thẳng lặng không lời
Nhàn ngắm Côn Luân mảnh khói trôi.
Đến khi nghe nhọc tâm liền bặt
Chẳng cần nhiếp niệm chẳng cần thiền.



Chân Không
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Chân không thể bất biến,
Huyễn hữu thường đổi thay.
Khói mây bọt bóng nước,
Tan hợp cuộc vần xoay.
Linh lung trăng rọi biển,
Xanh biếc núi im lìm.
Ngút ngàn mặt bể cả,
Thăm thẳm bầu trời xanh.
Đường phố xe qua lại,
Sông biển tàu tới lui.
Dòng đời duyên biến đổi,
Bệ đá đạo nhân ngồi.

(Thiền viện Chân Không, tháng 7. 1985)



“Once your mind becomes absolutely still, your intelligence transcends human limitations.”
– Sadhguru



“You can chain me, you can torture me, you can even destroy this body, but you will never imprison
my mind.”
― Mahatma Gandhi



Ảo hóa
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh

mí mắt chân trời mỏi
đầu núi nghiêng nghiêng tìm gối tựa
đêm về thơm giấc cỏ hoa
ảo hóa
bàn tay gió dậy
ngân hà nến ngọc lung linh
khung cửa lưng đồi bỏ ngỏ
sao băng vụt cháy lời kinh
vạn kiếp xoay quanh vòng mộng mị
đêm nay chợt thấy chân hình.



“Sự vật không có hình tướng rõ rệt, chỉ là một sự ảo hóa mà thôi.”
― Hòa Thượng Thích Giác Khang, Pháp môn Tịnh Độ - Phần 11



“When you don’t have anything, then you have everything.”
― Mother Teresa



Câu đối thiền môn của Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

Bội giác hiệp trần, mộng lý na tri thân thị huyễn;
Quy nguyên đắc chỉ, định trung thường chiếu Phật do tâm.

背 覺 合 塵 夢 裡 那 知 身 是 幻
歸 源 得 旨 定 中 常 照 佛 猶 心

Tạm dịch:

Trái giác hiệp trần, trong mộng đâu hay thân là huyễn;
Về nguồn đặng gốc, lúc định thường thấy Phật tại tâm.
(Tặng chùa Hương Sơn – Huế)



MỘNG
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Gá thân mộng,
Dạo cảnh mộng.
Mộng tan rồi,
Cười vỡ mộng.
Ghi lời mộng,
Nhắn khách mộng.
Biết được mộng,
Tỉnh cơn mộng.

(Thiền viện Chân Không, tháng 7. 1980)



62 được trích từ V. PHẨM NGU (BALAVAGGA) trong Kinh Pháp Cú – Dhammapada, Hòa Thượng Thích Thiện Siêu dịch.

62. “Đây là con ta, đây là tài sản của ta”, kẻ phàm phu thường lo nghĩ như thế, nhưng chẳng biết chính “ta” còn không có, huống là con ta hay là tài sản ta.



TỈNH MỘNG
https://www.youtube.com/watch?v=NyNBd972wEA
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2045
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

Mình là cái gì? - Hòa Thượng Thích Thanh Từ thuyết giảng

https://www.youtube.com/watch?v=eOHFNvE-Mq0
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2045
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

人之初,性本善。
Nhân chi sơ, tính bổn thiện.
Trích từ Tam Tự Kinh



何期自性本自清淨
Hà kỳ tự tánh bổn tự thanh tịnh.
Trích từ Pháp Bảo Đàn Kinh



心王

心王無相亦無形,
眼似驪珠也不明。
欲識這般真面目,
呵呵日午打三更。

Tâm vương
Tuệ Trung Thượng Sĩ

Tâm vương vô tướng diệc vô hình,
Nhãn tự ly châu dã bất minh.
Dục thức giá ban chân diện mục,
Ha ha nhật ngọ đả tam canh.

Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch:
Tâm vương không tướng cũng không hình
Mắt tợ ly châu vẫn chẳng minh.
Muốn biết loại này chân diện mục
Ha! ha! giữa ngọ là canh ba.



"The moment you transcend the limitations of your logical mind, there is no such thing as time and space."
― Sadhguru



"Trong nhà Phật thường nói Chân tâm là cái thường biết rõ ràng, tỉnh táo sáng suốt chớ không mờ mờ. Như vậy khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần mình biết rõ ràng, làm sao dừng ở chặng đầu, đó là điều quan trọng. Ngồi gẫm thật kỹ, tôi thấy bây giờ mình nên đặt thành phương tiện. Vừa nhìn chưa cần thấy cái gì, tự nhủ mắt biết thấy là Chân tâm. Biết là tâm. Thấy được cảnh, ngay niệm đầu đừng có niệm thứ hai thứ ba. Thấy biết là Chân tâm, còn thêm cái gì nữa thì quá Chân tâm rồi.

Ngay nơi sáu căn, mắt thấy - biết - dừng. Tai nghe - biết - dừng. Thân xúc chạm - biết - dừng, không cho đi qua niệm thứ hai thứ ba. Tôi sử dụng như thế thấy có hiệu nghiệm. Khi thấy nói Chân tâm, nó dừng lại. Khi nghe nói Chân tâm, nó dừng lại. Vừa khởi phân biệt nói Chân tâm, nó dừng lại. Nếu để nó đi thì nó đi luôn một mạch, chớ không dừng. Muốn nó dừng phải chận lại, bằng cách đem Ông chủ ra chận. Vừa thấy là Chân tâm, vừa nghe là Chân tâm, sáu căn vừa tiếp xúc với sáu trần, vừa ở niệm đầu là Chân tâm. Mới thấy Chân tâm ở sẵn nơi mình, tại vì chúng ta cứ cho qua hoài nên không thấy. Bây giờ ngay nơi niệm đầu nhận là Chân tâm thì các niệm khác không xen vào. Tôi ứng dụng tu phương pháp này thấy có hiệu nghiệm."
― Hòa Thượng Thích Thanh Từ, TIẾN THẲNG VÀO THIỀN TÔNG - KHÁM PHÁ ÔNG CHỦ



“….Khi ta nói dài ngắn tự nhiên ta thấy nó có tướng dài ngắn thay đổi theo nhận thức của ta, nhưng cái tướng vô tướng của chính nó thì không thay đổi, ở đâu cũng vậy, thời gian không gian nào cũng vậy, nhất như bình đẳng. Sở dĩ chúng ta thấy nó có tướng là do biến kế phân biệt, biến kế sở chấp của chúng ta mà nó hình thành ra tướng nọ tướng kia, nên trong kinh nói:

"Nhất nhơn phát chơn quy nguyên,
Thập phương thế giới tận thành tiêu vẫn".

Một người phát tâm trở về bản tánh chơn thật thì cảnh giới của họ, cảnh giới do biến kế sở chấp phân biệt vọng tưởng hiện ra đó, tiêu mất không còn tồn tại. Giống như khi ta nằm mộng thấy vạn cảnh (thập phương thế giới) nhưng khi ta tỉnh thức thì thập phương thế giới rơi rụng hết (tận thành tiêu vẫn). Thành thử cảnh giới đó, thật tướng đó bình đẳng, nó không tùy thuộc ai hết, không tùy thuộc không gian, thời gian, vô thỉ vô chung, vô biến vô trung….”
― Hoà Thượng Thích Thiện Siêu, LƯỢC GIẢNG KINH PHÁP HOA - ĐẠI THỪA DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH



“I see somebody dying, I pick him up. I find somebody hungry, I give him food. He can love and be loved. I don’t look at his color, I don’t look at his religion. I don’t look at anything. Every person whether he is Hindu, Muslim or Buddhist, he is my brother, my sister.”
― Mother Teresa



“There can be no greater gift than that of giving one’s time and energy to help others without expecting anything in return.”
― Nelson Mandela



道意

明月照古井,
井水無波濤。
不被人牽扯,
此心終不搖。
縱被人牽扯,
一搖還復止。
湛湛一片心,
明月古井水。

Đạo ý
Tố Như tiên sinh

Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh,
Tỉnh thuỷ vô ba đào.
Bất bị nhân khiên xả,
Thử tâm chung bất dao.
Túng bị nhân khiên xã,
Nhất dao hoàn phục chỉ.
Trạm trạm nhất phiến tâm,
Minh nguyệt cổ tỉnh thuỷ.

Dịch nghĩa
Trăng sáng chiếu giếng xưa,
Nước giếng không nổi sóng.
Không bị người khuấy lên,
Lòng này không xao động.
Dù bị khuấy lên,
Dao động một lúc lại lặng ngay.
Tấm lòng trong vằng vặc,
Như ánh trăng sáng chiếu giếng nước năm xưa.



Tâm nguyệt
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh

xôn xao, trời dậy hoàng hôn mới
mắt biếc, chim chuyền lá thủy tinh
thức giấc lãng quên
hồn rựng sáng
hồ Tâm lặng chiếu Nguyệt thanh bình



"Thường người ta cứ lầm, mình là con người này, thân này thể xác này là mình. Nhưng khi tôi đặt câu hỏi "Mình là cái gì?" thì tôi thấy không phải vậy.

Tôi thấy rõ mình là cái thường biết rõ ràng, thanh tịnh, sáng suốt, không có tướng mạo, không có hình dung. Cái đó mới là cái mình."
― Hòa Thượng Thích Thanh Từ, Mình là cái gì?



NAM QUỐC DÂN TU TRI
Sào Nam Tiên Sinh

CHƯƠNG THỨ III
N. 3.― Tính người

Bề ngoài hình chất, ai khác gì ai. Vì có tính người, khác hơn mọi giống. Da hùm lông phụng, nó cũng vẻ vang. Bởi không thiên lương, mới ra cầm thú. Tính ta trời phú, có trí có nhân. Nhân biết yêu người, trí hay học thánh. Lại thêm dũng mãnh, chẳng rụt chẳng kinh. Đủ mọi tính lành, là người cao thượng.

THIÊN LƯƠNG: tính lành. CAO THƯỢNG: tốt bực nhất.



"Virtue is relative to the actions and ages of each of us in all that we do."
― Plato



Câu chuyện quả táo

Một em bé đáng yêu đang cầm hai quả táo trong tay. Mẹ em bước vào phòng và mỉm cười hỏi cô con gái nhỏ: “Con yêu, con có thể cho mẹ một quả táo được không?”.

Em bé ngước nhìn mẹ trong một vài giây, rồi sau đó lại nhìn xuống từng quả táo trên hai tay mình. Bất chợt, em cắn một miếng trên quả táo ở tay phải, rồi lại cắn thêm một miếng trên quả táo bên tay trái.

Nụ cười trên gương mặt bà mẹ bỗng trở nên gượng gạo. Bà cố gắng không để lộ nỗi thất vọng của mình.

Sau đó, cô gái nhỏ giơ lên một trong hai quả táo vừa bị cắn lúc nãy và rạng rỡ nói: “Quả táo này dành cho mẹ nhé, nó ngọt hơn đấy ạ!”.




“Nothing is good or bad, but thinking makes it so.”
— William Shakespeare



Hãy tha thứ để nhẹ tâm

Một thiền sinh hỏi: "Thưa sư phụ, con đau khổ vì cha mẹ tàn nhẫn, vợ con ruồng bỏ, anh em phản bội, bạn bè phá hoại… Con phải làm sao để rũ bỏ được oán hờn và thù ghét đây?"

Vị sư phụ đáp: "Con ngồi xuống tịnh tâm, tha thứ hết cho họ".

Vài hôm sau, người đệ tử trở lại: "Con đã tha thứ cho họ sư phụ ạ. Nhẹ cả người! Coi như xong".

Sư phụ đáp: "Chưa xong, con về tịnh tâm, mở hết lòng ra và thương yêu họ".

Người đệ tử gải đầu "Tha thứ thôi cũng đã quá khó, lại phải thương họ thì...Thôi được con sẽ làm".
Một tuần sau, người đệ tử trở lại, mặt vui vẻ hẳn khoe với sư phụ là đã làm được việc thương những người mà trước đây đã từng đối xử tệ bạc với mình.

Sư phụ gật gù bảo: "Tốt! Bây giờ con về tịnh tâm, ghi ơn họ. Nếu không có họ đóng những vai trò đó thì con đâu có cơ hội tiến hóa tâm linh như vậy".

Lần sau người đệ tử trở lại, lần này tin tưởng rằng mình đã học xong bài vở. Người đệ tử hớm hở thưa rằng mình đã ghi ơn hết mọi người vì nhờ họ mà anh đã học được sự tha thứ!

Sư phụ cười: "Vậy thì con về tịnh tâm lại đi nhé. Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ họ có lầm lỗi gì mà con tha thứ hay không tha thứ?".



“The virtues are lost in self-interest as rivers are lost in the sea.”
― Franklin D. Roosevelt



“You must not lose faith in humanity. Humanity is an ocean; if a few drops of the ocean are dirty, the ocean does not become dirty.”
― Mahatma Gandhi



“….Đức Phật có nói: “được làm người rất quý” vì con người có ý chí biết cải sửa nhân quả thành nghiệp, chuyển nghiệp ác thành thiện cho đến thuần thiện, nếu đủ duyên sẽ dứt nghiệp. Vậy, nếu hiểu rõ nhân quả, cách chuyển nghiệp và sẽ chuyển ngay trong hiện tại: cái quả hiện tại đang nhận chịu, mình có quyền dùng ý chí kinh nghiệm cải sửa “quả xấu thành quả tốt, quả tốt thành quả tốt hơn”, hoặc ngay trong nhân quả và nghiệp lặng lẽ thấy rõ mọi tiến trình diễn biến của nó thì “bất muội nhân quả và nghiệp mà phi nghiệp”….”
― Hòa Thượng Thích Giác Khang, NHẬN THỨC VỀ NHÂN QUẢ VÀ NGHIỆP



“These virtues are formed in man by his doing the actions ... The good of man is a working of the soul in the way of excellence in a complete life.”
― Aristotle, The Nicomachean Ethics



“Mót thời gian để tu, đừng bỏ qua, gặp việc thì làm; rảnh việc thì nhiếp tâm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.”
― Hoà Thượng Thích Trí Tịnh



"By education I mean an all-round drawing out of the best in the child and man-body, mind and spirit."
― Mahatma Gandhi



Tăng Chi Bộ - Anguttara Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Chương V - Năm Pháp

XVIII. Phẩm Nam Cư Sĩ

(I) (171) Sợ Hãi

1. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

- Này các Tỷ-kheo.

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

2. - Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, nam cư sĩ rơi vào sợ hãi. Thế nào là năm? Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, đắm say rượu men, rượu nấu.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, nam cư sĩ rơi vào sợ hãi.

3. - Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, nam cư sĩ không có sợ hãi. Thế nào là năm? Từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, nam cư sĩ không có sợ hãi.



“- Không sát sinh chính là Nhân.

- Không trộm cướp chính là Nghĩa.

- Không tà dâm chính là Lễ.

- Không uống rượu chính là Trí.

- Không nói dối chính là Tín."
― Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, TÁM QUYỂN SÁCH QUÝ - QUYỂN TÁM: NĂM YẾU TỐ HÒA BÌNH CỦA PHẬT GIÁO



"Never, never be afraid to do what’s right. Especially if the well-being of a person or animal is at stake. Society’s punishments are small compared to the ones we inflict on our soul when we look the other way."
― Martin Luther King, Jr.



"Ethical axioms are found and tested not very differently from the axioms of science: truth is what stands the test of experience."
― Albert Einstein



春晚

年少何曾了色空,
一春心在百花中。
如今勘破東皇面,
禪板蒲團看墜紅。

Xuân vãn
Sơ Tổ Trúc Lâm

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.
Như kim khám phá đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.

Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch:
CUỐI XUÂN

Thuở bé chưa từng rõ sắc không,
Xuân về hoa nở rộn trong lòng.
Chúa Xuân nay bị ta khám phá,
Thiền bản, bồ đoàn, ngắm cánh hồng.



“"Bản nguyên tự tánh thiên chân Phật", chữ thiên này không phải trời, mà thiên là sẵn có. Nói bản nguyên tức là nói nguồn gốc ban đầu. Nguồn gốc ban đầu của chúng ta chính là ông Phật sẵn có từ muôn đời đó."
― Hòa Thượng Thích Thanh Từ, Tánh Không và Chân Không



234 được trích từ XVIII. PHẨM CẤU UẾ (MALAVAGGA) trong Kinh Pháp Cú – Dhammapada, Hòa Thượng Thích Thiện Siêu dịch.

234. Trong thế gian này ai hay sát sinh, hay nói dối, hay lấy cắp, hay phạm dâm, hay say đắm rượu chè; ai có các hành vi đó tức là đã tự đào bỏ thiện căn của mình ngay ở cõi đời này.



The Other Pair
https://www.youtube.com/watch?v=gkWdyZFyvO8
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2045
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

Khởi phát nguồn tâm
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

I. Bồ-đề tâm

“Trong các Pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói hay làm với tâm ô nhiễm, thì sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo”. “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác… Nếu nói hoặc làm với tâm thanh tịnh, sự vui vẻ sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình”. “Vậy, chế ngự tâm vào một chỗ, không việc gì chẳng nên” (Pháp Cú 1,2).

Đức Phật dạy những lời này để khuyên chúng ta phải luôn luôn tu tâm, nhận rõ tâm, phát huy hết khả năng tốt đẹp của tâm.

Kinh Tịnh Danh có dạy: “Bồ-đề tâm là cõi Tịnh độ của Bồ-tát”. Tịnh độ của Bồ-tát xây dựng bởi Bồ-đề tâm, nếu không có Bồ-đề tâm thì không xây dựng được Tịnh độ. Lại nữa, Kinh Hoa Nghiêm viết: “Bỏ mất Bồ-đề tâm mà làm các thiện pháp thì đều thành ma nghiệp”. Tại sao vậy? Vì làm các thiện pháp tuy là việc tốt, nhưng nếu hành giả làm việc thiện đó xuất phát từ Bồ-đề tâm thì nó dẫn đưa hành giả tiến đến quả vị giải thoát ngoài vòng chấp ngã, chấp nhơn, chấp chúng sanh, chấp thọ giả, tức ngoài vòng hữu vi sanh tử. Ngược lại, hành giả làm việc thiện mà không xuất phát từ Bồ-đề tâm thì không khỏi vướng vào tâm vì ngã, vì danh lợi, vì ích kỷ, và kết cuộc chỉ đưa đến quả báo là thọ sự an lạc trong cõi trời, cõi người, chứ không đưa đến giải thoát an lạc hoàn toàn. Khi việc thiện đó hết năng lực rồi thì quả báo trong cõi trời cũng hết và quay trở lại làm các loài thấp hơn để chịu cảnh trầm luân đau khổ. Đấy gọi là ma nghiệp (chữ ma ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng là ở trong vòng lục đạo tam giới).

Vậy Bồ-đề tâm là gì? Bồ-đề tâm là phiên âm từ chữ Bodhicitta, có nghĩa là tâm giác ngộ, Chánh giác hay là Giác - tức không còn vô minh. Ngôn ngữ học Ấn Độ thường có phức âm, tiếp vĩ ngữ, ý nghĩa của nó cũng thay đổi theo. Ví dụ Bodhi gọi là Bồ-đề nhưng Buddha là đấng Giác Ngộ. Chữ Buddha, Bodhi đều có nghĩa Giác, nhưng khi biến thành Bodhisattva thì đọc là Bồ-đề-tát-đỏa. Chữ Sattva gọi là hữu tình, là một loài sinh vật; loài này được phân biệt theo cao, thấp, lớn, nhỏ, ngu, trí, trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh… đều nằm trong hữu tình, nhưng khi Giác ngộ thì gọi Bodhisattva và dịch là Bồ-đề-tát-đỏa, là giác hữu tình hay hữu tình giác, tức là loài hữu tình đã có sự giác ngộ, có sự phát tâm Bồ-đề và muốn dẫn dắt kẻ khác giác ngộ nên gọi là Bồ-đề-tát-đỏa, gọi tắt là Bồ-tát.

Khi nói đến Bồ-tát, trong kinh thường chỉ cho người có hạnh tự độ và độ tha, hạnh này phát nguồn từ Bồ đề tâm, cho nên nói không có Bồ-đề tâm thì không có Bồ-tát và Bồ-tát là sự nghiệp tạo thành đưa đến quả Chánh Đẳng Giác và độ thoát chúng sanh.

Hữu tình này có phát Bồ-đề tâm thì gọi là Bồ-tát. Do đó, người muốn thọ giới Bồ-tát, điều quan trọng trước tiên là phát Bồ-đề tâm. Trong giới Bồ-tát, người nào bỏ mất Bồ-đề tâm thì mất giới, nếu không bỏ mất Bồ-đề tâm thì dù có phạm giới còn có thể theo luật phát lộ sám hối được.

Người phát Bồ-đề tâm là người thế nào? Trong kinh Phật dạy: “Người phát Bồ-đề tâm là người phát tâm tỉnh giác, nguyện trên cầu thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh” (Cầu thành Phật đạo là tự lợi, hóa độ chúng sanh là lợi tha).

Chư Phật ra đời cốt chỉ cho chúng sanh con đường thoát vòng luân hồi sanh tử, dứt hết nghiệp hữu lậu và tâm hữu lậu, tức là tâm chấp ngã, chấp nhơn, chấp chúng sanh, chấp thọ giả. Người chấp như vậy, dù có tu và làm việc thiện nhưng tâm còn vướng ngã thì việc thiện ấy chỉ là việc thiện hữu lậu, kết quả chỉ được hưởng phước báo ở cõi người, cõi trời. Vậy nên, muốn hưởng quả vô lậu giải thoát thì phải tu và hành thiện theo tâm vô lậu, tâm vô lậu tức là tâm Bồ-đề, là không chấp ngã, chấp nhơn, chấp chúng sanh, chấp thọ giả.

Người chấp ngã là chấp thân thể và tâm niệm vô thường là ta. Khi đã chấp ngã thì thấy ngã của mình là ngã của một con ngưởi, có nhân cách, chứ không phải là súc sanh hay loài địa ngục, ngạ quỷ, thế là chấp nhơn tướng. Lại tự mình thấy mình là một con người, là loài chúng sanh, chứ không phải là loài vô tri vô giác. Đó là chấp chúng sanh tướng. Khi đã chấp mình là một chúng sanh, thì thấy chúng sanh này đang sống trên cõi đời trong khoảng thời gian mấy chục năm gọi là một đời người, chấp như thế gọi là chấp thọ giả tướng. Khi tâm còn vướng vào các vọng tưởng chấp tướng thì ấy là tâm hữu lậu, cấu uế, hẹp hòi, chỉ phát sanh những phiền não và đọa lạc trong tam giới. Chỉ khi nào hành thiện, như Kinh Kim Cang nói: “Với cái tâm không chấp ngã, không chấp nhơn, không chấp chúng sanh, không chấp thọ giả mà làm tất cả việc thiện thì sẽ được kết quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” mới là sự hành thiện đáo bỉ ngạn.

II. Bốn hoằng thệ nguyện

Căn cứ Bồ-đề tâm mới có Bồ-tát hạnh, không có Bồ đề tâm thì không có Bồ-tát hạnh. Bồ-đề tâm có khi còn gọi là Bồ-đề nguyện, cả hai đều cùng một nghĩa, phát Bồ-đề tâm, hay phát Bồ-đề nguyện cũng đều là tâm thượng cầu, hạ hóa. Vậy hành tướng của Bồ-đề tâm như thế nào? Đó là bốn hoằng thệ nguyện:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Bốn lời nguyện trên cũng bắt nguồn nơi giáo lý cơ bản của Đức Phật mà khai triển ra. Đức Phật sau khi thành đạo, trước tiên chuyển Pháp luân tại Lộc Uyển, Ngài dạy về pháp Tứ đế cho năm Thầy Kiều-trần-như… gọi là Sơ chuyển pháp luân, đó là Khổ, Tập, Diệt và Đạo đế.

Hành giả Thanh văn tu tập Tứ đế thì đạt được quả vị A-la-hán, dứt trừ ái thủ, ái thủ được dứt là Diệt đế, chứng Hữu dư y Niết-bàn, Vô dư y Niết-bàn. Các vị Bồ tát thì đi xa hơn một bước, cũng từ nơi Tứ đế, nhưng hiểu rõ mục đích siêu việt của Đức Phật trong lời dạy đó mà phát bốn thệ nguyện rộng lớn:

Duyên Khổ đế phát ra lời nguyện: Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Duyên Tập đế phát ra lời nguyện: Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Duyên Diệt đế phát ra lời nguyện: Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Duyên Đạo đế phát ra lời nguyện: Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.

Bốn lời thệ nguyện này rất quan trọng, cần xét đến tác dụng và kết quả của nó để hiểu rõ và áp dụng trong bước đường tu tập.

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Trong câu này có chữ “chúng sanh” cần cắt nghĩa. Trong Kinh Kim Cang nêu ra các loại noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh, hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu tưởng, phi vô tưởng, hữu sắc, vô sắc. Kinh Từ bi còn nêu chúng sanh hai chân, bốn chân, nhiều chân, đã sanh, sắp sanh, hay hiện có, hoặc lớn, hoặc nhỏ. Chúng sanh giữa thế giới này vô cùng vô tận không sao kể xiết, nếu phân thành sáu nẻo thì gồm có chúng sanh cõi Trời, Người, A-tu-la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Nếu chia theo loại sanh thì gồm có bốn loại: noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh. Vậy mà người tu hành phát nguyện độ tất cả là nhờ hiểu biết giáo lý và lòng từ bi của Phật, thấy chúng sanh tuy vô lượng nhưng đều là như huyễn, nên mới phát nguyện được như vậy.

“Độ chúng sanh” là danh từ đặc biệt của Phật giáo. “Chúng đa sanh tử” là loại hữu tình đang còn ở trong vòng luân hồi, nhiều lần sanh tử vì mắc nhiều nghiệp hữu lậu. Khi còn nghiệp hữu lậu thì phải thọ sanh thân hữu lậu trong tam giới và gọi là chúng sanh. Như vậy, hễ còn một chút vô minh, một niệm tham ái, một chút hữu lậu thì còn là một chúng sanh. Chúng sanh có tướng chúng sanh và tánh chúng sanh. Tướng chúng sanh là chúng sanh mang thân hình của tứ đại vô thường. Tánh chúng sanh là những tánh chấp ngã, chấp nhơn, phân biệt mình, người. Nếu còn mắc hình tướng chúng sanh, nhưng không còn tánh chúng sanh là vô minh, thì giờ phút đó không còn là chúng sanh nữa.

Tự bản tánh không là chúng sanh, nhưng nếu còn móng niệm vọng tưởng là còn chúng sanh. Móng niệm tham thì thành chúng sanh của niệm tham, cho nên móng niệm sân, si, chấp ngã, thì thành chúng sanh của các niệm ấy. Nhưng nếu ngộ nhập lý Vô ngã, tức là vô lậu, thì không còn luân hồi và bấy giờ không còn là chúng sanh nữa.

Đức Phật mặc dầu Ngài hiện diện trên thế giới chúng ta, Ngài có sanh tử như chúng ta, nhưng không thể gọi Ngài là chúng sanh được, mà gọi Ngài là một vị Phật. Vì sao? Vì Ngài đã hết vô minh, hết chấp ngã, cái tướng chúng sanh vẫn còn nhưng tính chúng sanh nơi Ngài không còn nữa. Khi nhìn một chúng sanh, ta thấy người ấy vừa là tính vừa là tướng, cho nên khi nào ta độ cho ta và cho người giải thoát khỏi sự ràng buộc của tham, sân, si thì đó là độ sanh.

Như vậy, việc độ sanh rất đa dạng và tế nhị, nếu có Bồ-đề tâm thì lúc nào cũng có thể độ sanh.

Người Phật tử phải theo học hạnh từ bi của Phật, phát nguyện độ vô biên chúng sanh. Lời nguyện đó không phải là lời nguyện suông không thể thực hành được trong hàng ngày.

Phật dạy có nhiều cách độ sanh: Không phá hoại sự sống của muôn loài, đó là độ sanh. Bảo vệ sự sống, phóng thích sự sống cho muôn loài, đó là độ sanh. Làm cho chúng sanh được giác ngộ giải thoát khỏi vô minh ái thủ, đó là cách độ sanh cao thượng nhất. Ta có thể thực hành hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự hoặc thực hành lục độ Ba-la-mật để độ sanh.

Hiểu như vậy, mới thấy rõ lời dạy của Phật vô cùng thấm thía. Khi nào biết nghĩ tới tự độ và độ tha, khi đó là Bồ-tát, là ý nghĩa của câu chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Kinh nói phiền não có 88 thứ hoặc vô lượng vô biên phiền não, nhưng tóm lại không ngoài vô minh, ái và thủ.

Vô minh là sự chấp ngã, chấp mình có một cái ta riêng khác với mọi người, mọi vật. Nhưng ngã không phải là một cái gì độc lập riêng rẽ với cái khác mà chỉ là sự tương quan tương duyên với cái khác mà có. Tôi hiện hữu nhờ có anh, anh hiện hữu nhờ có tôi.

Tôi hiện hữu được nhờ những yếu tố khác như cha mẹ, cơm áo, ánh sáng, không khí, đất, nước, gió, lửa và nhiều sự vật xung quanh, chứ không phải tách ngoài các cái đó mà có sự hiện hữu của tôi. Người khác cũng thế, không phải tách ngoài mọi người, mọi vật mà có sự hiện hữu tồn tại ngoài cái khác để bảo đó là ta. Ai còn thấy mình khác với người khác thì người đó còn vô minh, chính vì sự thấy ấy không đúng với thực tại. Như vậy, ta chỉ nói ngã trên những cái phi ngã, ngã chính là phi ngã, nên ngã chỉ là giả danh. Thực tại, là đạo lý duyên khởi mà nếu nghĩ khác đi thì đó là vô minh, vì vô minh mới sinh ra ái thủ. Chúng ta lấy ví dụ, có hai người lúc đi ngang qua một cánh đồng, cả hai người cùng thấy hoa, một trong hai người thấy hoa, tự nhiên không để ý đến nó và cứ tiếp tục đi, còn người kia thấy hoa lại cho là đẹp mà không biết bản chất của hoa là không đẹp không xấu, bởi nó nở là nở tự nhiên. Nhưng anh ta vọng tưởng cho hoa là đẹp và ưa hoa đó, muốn hái hoa đó, muốn sở hữu hoa đó cho bằng được. Khi đã yêu thích nó thì ban ngày hái không được sẽ chờ hái ban đêm, đêm hái không được thì ăn cắp cho được. Như vậy là anh ta vô minh cho nên mới có ái, có ái cho nên có thủ, dẫn đến hành động tạo nghiệp. Chúng sanh vì ái thủ mà tạo nghiệp nên có luân hồi.

Đức Phật dạy chúng sanh muốn không bị luân hồi thì phải đoạn ái thủ. Ai ngộ được chân lý đó thì bớt đau khổ, ai không ngộ được thì đau khổ lâu dài. Song muốn đoạn tận gốc ái thủ thì phải đoạn vô minh, muốn đoạn vô minh thì phải hiểu rõ thực tướng của vạn pháp là duyên sanh vô tướng, duyên sanh vô tác… Đạo lý Thập nhị nhân duyên Đức Phật dạy rõ ràng như vậy. Muốn đoạn phiền não thì phải có một tâm tỉnh giác. Cho nên, trong phép tu Thiền luôn luôn dùng hai chữ tỉnh giác. Tỉnh giác trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, khi ăn, khi mặc, khi ngủ, khi thức… cho đến khi không tham, không sân, không si, cũng biết mình không có ba thứ ấy xâm chiếm. Cách đối trị các phiền não thì nhiều nhưng cách tỉnh giác vẫn là phương pháp hữu hiệu nhất. Ví dụ khi mình khởi tâm tham liền biết và dặn lòng đừng tham, ngay khi ấy lòng tham sẽ lắng xuống. Phép tỉnh giác trong Thiền định giúp ta tĩnh tâm trong những công việc và cử động hàng ngày. Nếu luôn luôn tỉnh giác thì vô minh, ái thủ không làm sao xâm nhập được, tợ như cây bị đốn trụi cành lá, không phát triển được tất sẽ chết.

Tóm lại, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, chủ yếu là đoạn vô minh, ái thủ, vì nó là một mắt xích rất kiên cố, đoạn nó thì phải dùng đến tâm tỉnh giác.

Pháp môn vô lượng thệ nguyên học

Trong suốt 45 năm giảng dạy cho chúng sanh, Đức Phật không đưa ra một pháp môn nhứt định nào hết, nhưng chúng sanh thấy lời Ngài dạy thì thật vô lượng, nó như một phương thuốc trị bệnh. Chúng sanh bệnh khổ. Nguyên nhân khổ của chúng sanh là vô minh, ái và thủ gây ra. Ba thứ giặc phiền não này biến ra muôn hình vạn trạng, nên pháp của Phật cũng có nhiều cách để đối trị. Ví dụ, người có tâm tham dục nhiều thì Phật dạy tu pháp quán bất tịnh, người có tâm sân hận nhiều thì Phật dạy tu phép quán từ bi, người có tâm trì độn nhiều thì Phật dạy tu pháp quán giới phân biệt, quán nhân duyên.

Tóm lại, pháp môn của Phật tùy theo căn bệnh của chúng sanh mà biến chế ra, chứ không có một phương thức gì nhất định. Trong kinh Phật có nêu 37 Pháp trợ đạo, Tứ nhiếp, Lục độ… cũng y như những phương thuốc trị bệnh cho chúng sanh mà thôi.

Trong thời Đức Phật tại thế, có một lần, các Tỳ-kheo trong khi đi hóa đạo, có dạy cho hai đệ tử cư sĩ thợ rèn và thợ giặt, tu hai pháp môn quán bất tịnh và quan sổ tức, cả hai đều tu mà không có kết quả. Họ đi đến hầu Phật trình bày việc trên. Phật hỏi: “Ông ở nhà sống về nghề gì?”. Ông cư sĩ thợ rèn thưa: “Con sống về nghề thợ rèn”. Phật hỏi tiếp: “Các Tỳ-kheo dạy ông tu pháp gì?”. “Dạ! Các Thầy dạy con tu phép quán bất tịnh”. Phật cũng hỏi ông cư sĩ thợ giặt sống nghề gì; ông ta thưa: “Làm nghề thợ giặt”. Phật hỏi: “Các Tỳ-kheo dạy ông tu phép gì?”. Ông đáp: “Dạ! Các Thầy dạy con tu phép quán sổ tức”. Đức Phật dạy: Thôi được, bây giờ Ta chỉ thay đổi phương pháp tu một chút để cho hợp căn cơ hai ông”. Ngài liền dạy: “Ông thợ rèn nên tu phép quán sổ tức, vì hàng ngày thợ rèn phải thụt ống lò hợp với hơi thở vô hơi thở ra của phép quán sổ tức. Còn ông thợ giặt thì nên tu phép quán bất tịnh, vì hàng ngày thợ giặt phải giặt đồ nhơ thì quán bất tịnh dễ thành”. Phật đổi cho họ phương pháp tu như vậy, họ tu một thời gian sau đó có kết quả. Như thế, pháp môn của Phật chỉ là phương thuốc để cứu chúng sanh thoát khổ theo đúng căn cơ, Do vậy, người học đạo phải tìm minh sư, nếu không gặp minh sư thì cố gắng lựa chọn cho được pháp môn thích hợp mà tu thì mới dễ có kết quả.

Tóm lại, dù Phật có vô lượng pháp môn nhưng không ngoài ba pháp môn căn bản nhất đó là Giới, Định, Tuệ.

Giới là gì? Là điều để ngăn chặn tai hại xảy ra. Có giới để giúp ta nhận thức rõ hành động của mình như thế nào là đúng, như thế nào là sai để ngăn chặn sự sai quấy của ba nghiệp, bởi vì tâm và ba nghiệp của ta như ngựa không cương, khi buông ra sẽ chạy rong khắp chốn, tức nhiên là tai họa. Giới cũng như dây cương, ngựa như người hành giả, ngựa có cương đó là ngựa tốt, có lợi ích; người tu hành, có giới cũng vậy, sẽ có lợi ích lớn.

Định là gì? Là tập trung tư tưởng. Tư tưởng có ổn định thì việc làm mới có hiệu quả. Pháp môn Thiền định là pháp môn tu rất quý đã có từ xưa tại Ấn Độ, được Đức Phật sửa đổi bổ sung tạo thành pháp môn ưu việt, đưa thẳng đến giác ngộ cứu cánh, đồng thời cũng từng bước đem lại lợi lạc, hạnh phúc cho hành giả.

Tuệ là gì? Là trí tuệ. Tuệ có ba thứ là Văn tuệ, Tư tuệ, Tu tuệ. Văn tuệ là nhờ chú tâm nghe đọc là hiểu rõ được ý nghĩa của câu văn, lời nói. Tư tuệ là nhờ suy nghĩ hiểu rõ câu văn, lời nói. Nhờ đó mà ta hiểu rõ vấn đề trong thực tế. Tu tuệ là thực hành ngay cả cái Tư tuệ, tức những gì mình đã suy nghĩ, đúng đắn, liền thực hành ngay theo sự suy nghĩ đó. Thí dụ như có một người quá nghèo, không bố thí được nhiều nhưng với tâm từ bi, họ đem một hạt cơm để bố thí cho kiến, cũng là một cách Tu tuệ. Tóm lại, pháp môn nào của Phật, nếu cố gắng suy tư thật kỹ và sau đó áp dụng từng bước hay từng hoàn cảnh cụ thể, tự nhiên thấy khai tâm mở trí và ngay khi đó hưởng được sự an lạc.

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành

Lời nguyện này có hai chừng mực áp dụng: Thành Phật đạo một cách viên mãn như Đức Phật và thành đạo từng phần một như những người đang tu. Nếu mỗi ngày mình có độ sanh, có đoạn phiền não, có hành thiện pháp thì cũng là mỗi ngày mình có thành Phật đạo, chứ không hẳn phải chờ một ngày nào đó ngồi dưới cội Bồ-đề mới gọi là thành Phật đạo. Đây là ý nghĩa câu: “Chư Phật là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Vậy trong việc tu tập, giờ phút nào mình không còn tham ái, không còn sân si, không còn vô minh, thì giờ đó mình cũng thành Phật đạo, tức thành tựu lời dạy của Phật, thành tựu sự giải thoát giác ngộ từng phần.

Tóm lại, bốn lời nguyện trên là hành tướng của Bồ đề tâm, ai thành tựu bốn lời nguyện đó là thành tựu Bồ-đề tâm.

Bốn lời nguyện này có thể nói là thâu tóm tất cả các nguyện lực khác. Phật tử tụng kinh hàng ngày với bao nhiêu lời nguyện cũng đều là thực hiện Bồ-đề tâm. Thí dụ như tụng:

Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí tuệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo.

Hoặc:

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.

Đây là những thể hiện Bồ-đề tâm qua bốn lời thệ nguyện.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
begauhn
Thất đẳng
Thất đẳng
Bài viết: 6609
Tham gia: 19:03, 29/12/12
Đến từ: Zalo O867856261

TL: Vi diệu

Gửi bài gửi bởi begauhn »

Hiểu dc pháp thì dễ , hành đc pháp mới khó .

Nó giống như hiểu tập thể dục là tốt , nhưng ko phải ai cũng duy trì đc , họ đều có lý do riêng của mình .
Hầu hết người bán hàng ăn uống cũng biết cái j nên và ko nên , nhưng chuyện ăn bớt hay dùng chất kích thích vẫn luôn xảy ra .

Bởi vậy nên chư phật ko cứu độ ngay . Vì người ta hiểu nhưng ko hành động .
Để cho bệnh tật nguy kịch , mới biết sợ mà kêu cầu quay đầu . Nguyện làm thiện cả đời ..v..v...
Có nghĩa pháp thì hầu hết ai cũng hiểu , nhưng phải lâm cảnh cùng cực , quyền lợi , sự sống bản thân sắp bị tước bỏ , người ta mới thực sự chuyển hóa .
Số người chuyển hóa khi chỉ nghe kinh , đang là giang hồ , nghe vài quyển kinh ông ta hiểu và xả thân vì đời đc luôn , họa chăng có 0,5% mà thôi . Ngẫm 1 tý thì có khi là 0.1%
Được cảm ơn bởi: KMD
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2045
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

"Số người chuyển hóa khi chỉ nghe kinh , đang là giang hồ , nghe vài quyển kinh ông ta hiểu và xả thân vì đời đc luôn , họa chăng có 0,5% mà thôi . Ngẫm 1 tý thì có khi là 0.1%"

Dân số thế giới hiện nay khoảng 8,000,000,000. Để cho đơn giản, chúng ta hãy cho tất cả "đang là giang hồ".

8,000,000,000 x 0.1% = 8,000,000 "Số người chuyển hóa khi chỉ nghe kinh"

Chúng ta có khoảng 8 triệu người trên khắp thế giới "xả thân vì đời" như Khổng Tử, Lão Tử, Chúa hay Phật rồi. Thật là vi diệu.

Dân số Việt Nam hiện nay khoảng 99,000,000. Để cho đơn giản, chúng ta hãy cho tất cả người Việt Nam "đang là giang hồ".

99,000,000 x 0.1% = 99,000 "Số người chuyển hóa khi chỉ nghe kinh"

Ngài Minh Tuệ là 1 trong 99,000 người Việt Nam vi diệu vậy.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
begauhn
Thất đẳng
Thất đẳng
Bài viết: 6609
Tham gia: 19:03, 29/12/12
Đến từ: Zalo O867856261

TL: Vi diệu

Gửi bài gửi bởi begauhn »

KMD đã viết: 06:56, 22/09/24 "Số người chuyển hóa khi chỉ nghe kinh , đang là giang hồ , nghe vài quyển kinh ông ta hiểu và xả thân vì đời đc luôn , họa chăng có 0,5% mà thôi . Ngẫm 1 tý thì có khi là 0.1%"

Dân số thế giới hiện nay khoảng 8,000,000,000. Để cho đơn giản, chúng ta hãy cho tất cả "đang là giang hồ".

8,000,000,000 x 0.1% = 8,000,000 "Số người chuyển hóa khi chỉ nghe kinh"

Chúng ta có khoảng 8 triệu người trên khắp thế giới "xả thân vì đời" như Khổng Tử, Lão Tử, Chúa hay Phật rồi. Thật là vi diệu.

Dân số Việt Nam hiện nay khoảng 99,000,000. Để cho đơn giản, chúng ta hãy cho tất cả người Việt Nam "đang là giang hồ".

99,000,000 x 0.1% = 99,000 "Số người chuyển hóa khi chỉ nghe kinh"

Ngài Minh Tuệ là 1 trong 99,000 người Việt Nam vi diệu vậy.
Mình đồng ý câu "xả thân vì đời như Khổng tử , lão tử , chúa , phật" của bạn .
Nhưng bạn đưa ngài Tuệ vào vế này là ko chính xác .
Ngài Tuệ ko tham sân si , sẵn sàng khổ hạnh để giác ngộ thì hoàn toàn đồng ý .
Nhưng nói ngài xả thân vì đời , như kiểu độ hóa chúng sinh hay cứu giúp ai như các đấng bạn vừa liệt kê thì nó lại ko chính xác .
Vì thực tế khi bộ hành , ngài Tuệ lại cần sự tương trợ , hơn là có đủ điều kiện , năng lực mà tương trợ cho kẻ khác .
Nên bản thân cho rằng ngài Tuệ thoát tục , và là người tốt , đáng học hỏi , chứ chưa đến mức "xả thân hay cứu độ chúng sinh"
Được cảm ơn bởi: KMD
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2045
Tham gia: 11:03, 25/04/14

TL: Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

begauhn đã viết: 10:45, 22/09/24
KMD đã viết: 06:56, 22/09/24 "Số người chuyển hóa khi chỉ nghe kinh , đang là giang hồ , nghe vài quyển kinh ông ta hiểu và xả thân vì đời đc luôn , họa chăng có 0,5% mà thôi . Ngẫm 1 tý thì có khi là 0.1%"

Dân số thế giới hiện nay khoảng 8,000,000,000. Để cho đơn giản, chúng ta hãy cho tất cả "đang là giang hồ".

8,000,000,000 x 0.1% = 8,000,000 "Số người chuyển hóa khi chỉ nghe kinh"

Chúng ta có khoảng 8 triệu người trên khắp thế giới "xả thân vì đời" như Khổng Tử, Lão Tử, Chúa hay Phật rồi. Thật là vi diệu.

Dân số Việt Nam hiện nay khoảng 99,000,000. Để cho đơn giản, chúng ta hãy cho tất cả người Việt Nam "đang là giang hồ".

99,000,000 x 0.1% = 99,000 "Số người chuyển hóa khi chỉ nghe kinh"

Ngài Minh Tuệ là 1 trong 99,000 người Việt Nam vi diệu vậy.
Mình đồng ý câu "xả thân vì đời như Khổng tử , lão tử , chúa , phật" của bạn .
Nhưng bạn đưa ngài Tuệ vào vế này là ko chính xác .
Ngài Tuệ ko tham sân si , sẵn sàng khổ hạnh để giác ngộ thì hoàn toàn đồng ý .
Nhưng nói ngài xả thân vì đời , như kiểu độ hóa chúng sinh hay cứu giúp ai như các đấng bạn vừa liệt kê thì nó lại ko chính xác .
Vì thực tế khi bộ hành , ngài Tuệ lại cần sự tương trợ , hơn là có đủ điều kiện , năng lực mà tương trợ cho kẻ khác .
Nên bản thân cho rằng ngài Tuệ thoát tục , và là người tốt , đáng học hỏi , chứ chưa đến mức "xả thân hay cứu độ chúng sinh"
“Tự bản tánh không là chúng sanh, nhưng nếu còn móng niệm vọng tưởng là còn chúng sanh. Móng niệm tham thì thành chúng sanh của niệm tham, cho nên móng niệm sân, si, chấp ngã, thì thành chúng sanh của các niệm ấy. Nhưng nếu ngộ nhập lý Vô ngã, tức là vô lậu, thì không còn luân hồi và bấy giờ không còn là chúng sanh nữa.

Đức Phật mặc dầu Ngài hiện diện trên thế giới chúng ta, Ngài có sanh tử như chúng ta, nhưng không thể gọi Ngài là chúng sanh được, mà gọi Ngài là một vị Phật. Vì sao? Vì Ngài đã hết vô minh, hết chấp ngã, cái tướng chúng sanh vẫn còn nhưng tính chúng sanh nơi Ngài không còn nữa. Khi nhìn một chúng sanh, ta thấy người ấy vừa là tính vừa là tướng, cho nên khi nào ta độ cho ta và cho người giải thoát khỏi sự ràng buộc của tham, sân, si thì đó là độ sanh.

Như vậy, việc độ sanh rất đa dạng và tế nhị, nếu có Bồ-đề tâm thì lúc nào cũng có thể độ sanh.”
― Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Khởi phát nguồn tâm

Chúng ta hãy quan sát thì sẽ không khó để nhận ra Ngài Minh Tuệ đã "Khởi phát nguồn tâm" của bao người Việt Nam và trên thế giới.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
begauhn
Thất đẳng
Thất đẳng
Bài viết: 6609
Tham gia: 19:03, 29/12/12
Đến từ: Zalo O867856261

TL: Vi diệu

Gửi bài gửi bởi begauhn »

KMD đã viết: 11:14, 22/09/24
begauhn đã viết: 10:45, 22/09/24
KMD đã viết: 06:56, 22/09/24 "Số người chuyển hóa khi chỉ nghe kinh , đang là giang hồ , nghe vài quyển kinh ông ta hiểu và xả thân vì đời đc luôn , họa chăng có 0,5% mà thôi . Ngẫm 1 tý thì có khi là 0.1%"

Dân số thế giới hiện nay khoảng 8,000,000,000. Để cho đơn giản, chúng ta hãy cho tất cả "đang là giang hồ".

8,000,000,000 x 0.1% = 8,000,000 "Số người chuyển hóa khi chỉ nghe kinh"

Chúng ta có khoảng 8 triệu người trên khắp thế giới "xả thân vì đời" như Khổng Tử, Lão Tử, Chúa hay Phật rồi. Thật là vi diệu.

Dân số Việt Nam hiện nay khoảng 99,000,000. Để cho đơn giản, chúng ta hãy cho tất cả người Việt Nam "đang là giang hồ".

99,000,000 x 0.1% = 99,000 "Số người chuyển hóa khi chỉ nghe kinh"

Ngài Minh Tuệ là 1 trong 99,000 người Việt Nam vi diệu vậy.
Mình đồng ý câu "xả thân vì đời như Khổng tử , lão tử , chúa , phật" của bạn .
Nhưng bạn đưa ngài Tuệ vào vế này là ko chính xác .
Ngài Tuệ ko tham sân si , sẵn sàng khổ hạnh để giác ngộ thì hoàn toàn đồng ý .
Nhưng nói ngài xả thân vì đời , như kiểu độ hóa chúng sinh hay cứu giúp ai như các đấng bạn vừa liệt kê thì nó lại ko chính xác .
Vì thực tế khi bộ hành , ngài Tuệ lại cần sự tương trợ , hơn là có đủ điều kiện , năng lực mà tương trợ cho kẻ khác .
Nên bản thân cho rằng ngài Tuệ thoát tục , và là người tốt , đáng học hỏi , chứ chưa đến mức "xả thân hay cứu độ chúng sinh"
“Tự bản tánh không là chúng sanh, nhưng nếu còn móng niệm vọng tưởng là còn chúng sanh. Móng niệm tham thì thành chúng sanh của niệm tham, cho nên móng niệm sân, si, chấp ngã, thì thành chúng sanh của các niệm ấy. Nhưng nếu ngộ nhập lý Vô ngã, tức là vô lậu, thì không còn luân hồi và bấy giờ không còn là chúng sanh nữa.

Đức Phật mặc dầu Ngài hiện diện trên thế giới chúng ta, Ngài có sanh tử như chúng ta, nhưng không thể gọi Ngài là chúng sanh được, mà gọi Ngài là một vị Phật. Vì sao? Vì Ngài đã hết vô minh, hết chấp ngã, cái tướng chúng sanh vẫn còn nhưng tính chúng sanh nơi Ngài không còn nữa. Khi nhìn một chúng sanh, ta thấy người ấy vừa là tính vừa là tướng, cho nên khi nào ta độ cho ta và cho người giải thoát khỏi sự ràng buộc của tham, sân, si thì đó là độ sanh.

Như vậy, việc độ sanh rất đa dạng và tế nhị, nếu có Bồ-đề tâm thì lúc nào cũng có thể độ sanh.”
― Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Khởi phát nguồn tâm

Chúng ta hãy quan sát thì sẽ không khó để nhận ra Ngài Minh Tuệ đã "Khởi phát nguồn tâm" của bao người Việt Nam và trên thế giới.
Vậy phải nói
Chúng sinh nhìn tấm gương ngài Tuệ , nên đem lòng trắc ẩn và tự chúng sinh chuyển hóa tâm tính từ trong tâm 1 cách "nhẹ nhàng"
Chứ ko thể dùng từ "xả thân" đc .

Nó giống như thấy bạn kia học giỏi dc khen thưởng , thì các bạn khác trong lớp phấn đấu theo 1 cách tự nguyên .
Ở góc tiềm thức thức thì bạn học giỏi đó đã giúp cả lớp tốt lên .
Nhưng ở góc độ thực tế , thì bạn học giỏi đó ko hề tác động gì đến những người khác , mà là họ tự nhìn tự theo .

Nếu nói con tôi giỏi nó đã xả thân giúp con anh giỏi lên đấy thì nó lại ko logic .
Mà phải là con anh giỏi , nên con tôi học hỏi theo
Được cảm ơn bởi: KMD
Đầu trang

Trả lời bài viết