Phần đầu tôi đang trình bầy Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa giải thích sự tiến hóa của Vũ Trụ còn phần sau tôi mới viết lại cuốn Giải Mã Tứ Trụ đã công bố năm 2010 về dự đoán vận mệnh của con người... Khi đó tôi mới đả động tới những điều mà ban tư vấn - TuTrụ đề cập tới ở bài viết trên.tutru đã viết: 12:11, 26/07/25 Trước khi có NHỊ NGUYÊN hiểu theo Dịch học đông phương trong phạm vi một Địa cầu của một Thái dương hệ [Ứng 01 mặt trời].
Ra khỏi Địa cầu thì làm gì có thời gian, ngày đêm, 4 mùa ....
Nghiên cứu Minh triết đằng sau cái sinh ra NHỊ NGUYÊN này là NHẤT NGUYÊN [Và hơn thế] mới tột đỉnh hơn nhiều, khi đó ta biết nguyên lý Nhị nguyên này để giúp hiểu Vật chất THÔ NHẤT biểu lộ thành hình tướng mà thôi [Tất cả các hình tướng từ Thái dương hệ, hành tinh ... cho đến kim thạch, thảo mộc, súc sinh, con người ....]
Kiến thức thì sâu rộng mênh mông vô bờ, nếu nghiên cứu cái NHÌN THẤY như mây trời ... chẳng ích chi mấy, mà cần nghiên cứu Năng lượng sự sống phía sau cái tạo ra mây trời, các hình tướng, các hành tinh .... .
CON NGƯỜI LÀ MỘT TIỂU VŨ TRỤ, có tự tương ứng / Tương đồng với Đại vũ trụ. Nên khi nghiên cứu về con người, ngoài Thể xác mà Dịch học nói đến, còn cần nghiên cứu các Thể Vía, Thể Trí ... vì có đến khoảng 70% bệnh tật có nguyên nhân từ Thể Vía/ Dục vọng.....
Tất nhiên, nghiên cứu cái "Năng lượng sự sống âm dương" nó hoạt động và tương tác ... giúp Thế giới biểu lộ này, tuy rất khó vì cần Thiền định như Minh triết ngàn đời mà các bậc Minh sư giảng nói.
“Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về tứ trụ (bát tự, tử bình) dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải lá số vui lòng đăng tại mục Xem tứ trụ.
Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về tứ trụ (bát tự, tử bình) dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải lá số vui lòng đăng tại mục Xem tứ trụ.
Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)
TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)
3 - Tốc vũ trụ cấp 1 với Thiên thể chủ là Trái Đất
Ta gọi v1 là Tốc độ vũ trụ cấp 1 của vệ tinh bay quanh Trái Đất.
v1² = g.r1 - (để đơn giản ta coi quỹ đạo của vật thể này rất gần Mặt Đất nên r1 = r - là bán kính trung bình của Trái Đất).
Trong đó:
g = 9,8m/s² = 0,0098km/s² (do các nhà Vật Lý xác định được).
r1 = 6366,2031km (là bán kính trung bình của trái đất mà tôi đã xác định được ở bài trên khi giả thiết về tốc độ ánh sánh là 300.000km/s).
Ta có :
v1² = g.r1 = (0,0098.6366,2031)(km/s)² = 62,38879(km/s)²
v1² = 62,38879(km/s)²
v1 = 7,89865748km/s
Còn nếu theo các nhà Vật Lý lấy bán kính trung bình của Trái Đất là r2 = 6371km thì :
v2² = g.r2 = 0,0098.6371(km/s)² = 63,4358(km/s)²
v2² = 63,4358(km/s)²
v2 = 7,96465944km/s
Trong khi Tốc độ vũ trụ cấp 1 được các nhà Vật Lý xác định là:
v = 7,9km/s
Ta thấy lấy r1 = 6366,2031km thì v1 sẽ nhỏ hơn v là 0,00134252km/s nhưng nếu lấy r2 = 6371km thì v2 sẽ lớn hơn v là 0,06465944km/s. Vậy rõ ràng v1 chính xác hơn v2 khi so với v = 7,9km/s là Tốc độ vũ trụ cấp 1 mà các nhà Vật Lý chọn.
Đáng nhẽ khi các nhà Vật Lý chọn lấy bán kính trung bình của Trái Đất là r2 = 6371km thì Tốc độ vũ trụ cấp 1 phải là v2 = 7,96465944km/s chứ không thể là v =7,9km/s, tại sao lại như vậy ?
Cho nên sau này nếu thừa nhận tốc độ ánh sáng là 300.000km/s thì Tốc độ vũ trụ cấp 1 của vệ tinh gần mặt Trái Đất phải là v1 = 7,89865748km/s
Ta gọi v1 là Tốc độ vũ trụ cấp 1 của vệ tinh bay quanh Trái Đất.
v1² = g.r1 - (để đơn giản ta coi quỹ đạo của vật thể này rất gần Mặt Đất nên r1 = r - là bán kính trung bình của Trái Đất).
Trong đó:
g = 9,8m/s² = 0,0098km/s² (do các nhà Vật Lý xác định được).
r1 = 6366,2031km (là bán kính trung bình của trái đất mà tôi đã xác định được ở bài trên khi giả thiết về tốc độ ánh sánh là 300.000km/s).
Ta có :
v1² = g.r1 = (0,0098.6366,2031)(km/s)² = 62,38879(km/s)²
v1² = 62,38879(km/s)²
v1 = 7,89865748km/s
Còn nếu theo các nhà Vật Lý lấy bán kính trung bình của Trái Đất là r2 = 6371km thì :
v2² = g.r2 = 0,0098.6371(km/s)² = 63,4358(km/s)²
v2² = 63,4358(km/s)²
v2 = 7,96465944km/s
Trong khi Tốc độ vũ trụ cấp 1 được các nhà Vật Lý xác định là:
v = 7,9km/s
Ta thấy lấy r1 = 6366,2031km thì v1 sẽ nhỏ hơn v là 0,00134252km/s nhưng nếu lấy r2 = 6371km thì v2 sẽ lớn hơn v là 0,06465944km/s. Vậy rõ ràng v1 chính xác hơn v2 khi so với v = 7,9km/s là Tốc độ vũ trụ cấp 1 mà các nhà Vật Lý chọn.
Đáng nhẽ khi các nhà Vật Lý chọn lấy bán kính trung bình của Trái Đất là r2 = 6371km thì Tốc độ vũ trụ cấp 1 phải là v2 = 7,96465944km/s chứ không thể là v =7,9km/s, tại sao lại như vậy ?
Cho nên sau này nếu thừa nhận tốc độ ánh sáng là 300.000km/s thì Tốc độ vũ trụ cấp 1 của vệ tinh gần mặt Trái Đất phải là v1 = 7,89865748km/s
TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)
4 – Phản biện Vật Chất Tối trong dải Ngân Hà (Thiên hà của chúng ta)
a - Kết luận “Ngớ Ngẩn“
- “Übersicht mit KI
Người đầu tiên đưa ra khái niệm vật chất tối là nhà thiên văn học người Thụy Sĩ, Fritz Zwicky - vào năm 1930. Ông đã quan sát chuyển động của các thiên hà trong cụm thiên hà Coma và nhận thấy rằng chúng đang chuyển động nhanh hơn nhiều so với những gì có thể giải thích bằng lực hấp dẫn của các thiên hà nhìn thấy được. Điều này dẫn ông đến giả thuyết rằng có một loại vật chất vô hình, không phát sáng, mà chúng ta không thể nhìn thấy, đang tác động lên các thiên hà, và ông gọi đó là "vật chất tối".
Cụ thể hơn, Fritz Zwicky đã quan sát thấy rằng các thiên hà trong cụm thiên hà Coma đang di chuyển với tốc độ rất cao, đủ nhanh để chúng có thể bay ra khỏi cụm, nhưng cụm thiên hà vẫn ổn định, không bị tan rã. Để giải thích điều này, ông suy đoán rằng phải có một lượng lớn vật chất vô hình, không phát sáng, tác động lên các thiên hà, làm tăng lực hấp dẫn và giữ cho cụm thiên hà ổn định“.
- Gõ lên Google “Vật Chất Tối – Thư Viện Thiên Văn“
Chỉ cần theo dõi 4 phút đầu tiên là đủ.
- “Thứ tư, 23/11/2022 14:57
Vật chất tối: Sự tìm kiếm còn nhiều thách thức
Đinh Văn Chiến
Cục Năng lượng nguyên tử, Bộ KH&CN
….......................
Trong quá trình nghiên cứu đặc điểm của các thiên hà xoắn ốc xoay quanh trung tâm thiên hà, vào năm 1970 nhà thiên văn học V.C. Rubin và W.K.Jr. Ford đã phát hiện những ngôi sao ở vùng rìa của thiên hà đang chuyển động trên quỹ đạo của chúng nhanh như những ngôi sao ở vùng trung tâm. Điều này vốn không phù hợp với lý thuyết hấp dẫn Newton, khi mà theo quy luật các ngôi sao xa trung tâm thiên hà phải chuyển động chậm dần do lực hấp dẫn giảm và vì chúng chuyển động nhanh với tốc độ không đổi theo bán kính quỹ đạo, nên chắc chắn phải có một thứ gì đó ở vùng rìa thiên hà để giữ chúng trên quỹ đạo của thiên hà. Lời giải thích đó chính là vật chất tối. Đây cũng là bằng chứng đầu tiên về sự tồn tại của vật chất tối được giới khoa học thừa nhận kể từ sau đề xuất của Fritz Zwicky.
…...................................................“.
Qua 3 đoạn trích trên, nhất là đoạn : “vào năm 1970 nhà thiên văn học V.C. Rubin và W.K.Jr. Ford đã phát hiện những ngôi sao ở vùng rìa của thiên hà đang chuyển động trên quỹ đạo của chúng nhanh như những ngôi sao ở vùng trung tâm“.
Thật là “Ngớ Ngẩn“ khi các nhà Vật Lý đi đến kết luận:
"Điều này vốn không phù hợp với lý thuyết hấp dẫn Newton, khi mà theo quy luật các ngôi sao xa trung tâm thiên hà phải chuyển động chậm dần do lực hấp dẫn giảm và vì chúng chuyển động nhanh với tốc độ không đổi theo bán kính quỹ đạo"
Chính sự “Ngớ Ngẩn” này mà các nhà Vật Lý đã phải đưa ra cái khái niệm được gọi là “Vật Chất Tối” mà cho đến nay gần 100 năm vẫn chưa tìm thấy nó.
Ta xét Tốc độ vũ trụ cấp 1 của vật thể nằm ở tại điểm B bất kỳ trong dải Ngân Hà và chuyển động trên quỹ đạo của nó quanh tâm của dải Ngân Hà liệu có cần đến Vật Chất Tối hay không?
Muốn chứng minh được điều này ta phải sử dụng điều mà các nhà Vật Lý đã xác định được qua thực tế là "Tất cả các ngôi sao (vật chất hay vật thể) trong dải Ngân Hà (Thiên Hà) đều chuyển động trên quỹ đạo của chúng quanh tâm của dải Ngân Hà với cùng một tốc độ". (2)
Sơ đồ dải Ngân Hà (Thiên Hà của chúng ta)
Ta kẻ đường thẳng IS qua điểm B (bất kỳ trong dải Ngân Hà) và đường thẳng LT qua C (tâm của Ngân Hà) đều vuông góc với đường thẳng ABC (điểm A nằm trên đường thẳng BC và nằm về bên trái ở điểm cuối cùng thuộc dải Ngân Hà). Ta thấy hình cầu có mầu vàng chính là phần Ngân Hà có bán kính r1 là CB, 2 phần còn lại là phần mầu xanh đậm nằm bên trái đường IS và phần mầu xanh nhạt nằm bên phải đường IS. Khối lượng toàn Ngân Hà nằm trong 3 phần mầu này.
Lỗ Đen tại tâm giải dải Ngân Hà chỉ nặng 4,2 triệu lần Khối Lượng của Mặt Trời (của chúng ta). Cho nên nó chả có ý nghĩa gì và có thể bỏ qua khi so với khối lượng của cả dải Ngân Hà có từ 100 tỉ đến 200 tỉ ngôi sao (như Mặt Trời của chúng ta). Ở đây chưa nói tới ngoài hàng trăm tỉ ngôi sao này còn có ti tỉ các Lỗ Đen nhỏ, các đám mây Năng Lượng, các sao Lùn Trắng, các sao Neutron,... để đơn giản ta gọi chung chúng là các vật chất hay vật thể.
Đây là điều khác biệt giữa hệ Mặt Trời với dải Ngân Hà. Bởi vì riêng Mặt Trời đã chiếm tới 98% khối lượng của toàn bộ hệ Mặt Trời còn khối lượng của dải Ngân Hà không phải là 98% mà là 99,99...% không tập chung ở Lỗ Đen (tâm của dải Ngân Hà) mà nó phân bố hầu như ở khắp dải Ngân Hà. Đây chắc là lý do dẫn tới các vật thể trong dải Ngân Hà đều chuyển động trên quỹ đạo của chúng với cùng một tốc độ?
Ta gọi Tốc độ vũ trụ cấp 1 của vật chất tại điểm A là Vgmr (vì ta coi như gần bề mặt khối cầu có bán kính r bằng đoạn CA - trên sơ đồ là toàn bộ dải Ngân Hà) là :
(Vgmr)² = GM/r
Trong đó:
G là hằng số hấp dẫn (không đổi trong Vũ Trụ)
M là khối lượng của dải Ngân Hà
r là bán kính của dải Ngân Hà
Ta gọi Tốc độ vũ trụ cấp 1 tại điểm B là Vg1m1r1 (vì ta coi như gần bề mặt khối cầu có bán kính r1 bằng đoạn CB - trên sơ đồ là khối cầu mầu vàng) là :
(Vg1m1r1)² = G1M1/r1
Theo (2) ta có Vg1m1r1 = Vgmr.
Do vậy ta suy ra 2 lực hấp dẫn ngược nhau của 2 phần mầu xanh khác nhau này tác động lên vật chất tại điểm B phải bằng nhau nên phải triệt tiêu nhau. Bởi vì ta thấy vật chất tại điểm B vẫn chuyển động trên quỹ đạo của nó xung quanh tâm dải Ngân Hà như bình thường - với Tốc độ vũ trụ cấp 1.
Ta xét thêm khi vật chất ở điểm B dịch chuyển tới vị trí A thì hình cầu bán kính CB trùng với hình cầu bán kính CA nên 2 phần khối cầu mầu xanh này không còn nữa. Còn khi vật chất tại điểm B di chuyển dần đến điểm C là tâm của dải Ngân Hà thì dĩ nhiên phần khối cầu mầu vàng không còn nữa thay vào là phần mầu xanh đậm nằm bên trái đường thẳng LT vuông góc với đường ABC và đi qua tâm của dải Ngân Hà còn phần mầu xanh nhạt nằm bên phải của đường thẳng này. Rõ ràng lực hấp dẫn của 2 khối mầu xanh này ngược nhau và bằng nhau nên phải triệt tiêu nhau.
Do vậy ta kết luận khi điểm B di chuyển trên đoạn AC thì lực hấp dẫn của khối lượng 2 phần khối cầu mầu xanh này lên vật chất tại điểm B luôn ngược nhau và bằng nhau nên phải triệt tiêu nhau như vậy được coi như vô dụng.
b - Sự phân bố khối lượng của dải Ngân Hà
............................................................
................................................................
a - Kết luận “Ngớ Ngẩn“
- “Übersicht mit KI
Người đầu tiên đưa ra khái niệm vật chất tối là nhà thiên văn học người Thụy Sĩ, Fritz Zwicky - vào năm 1930. Ông đã quan sát chuyển động của các thiên hà trong cụm thiên hà Coma và nhận thấy rằng chúng đang chuyển động nhanh hơn nhiều so với những gì có thể giải thích bằng lực hấp dẫn của các thiên hà nhìn thấy được. Điều này dẫn ông đến giả thuyết rằng có một loại vật chất vô hình, không phát sáng, mà chúng ta không thể nhìn thấy, đang tác động lên các thiên hà, và ông gọi đó là "vật chất tối".
Cụ thể hơn, Fritz Zwicky đã quan sát thấy rằng các thiên hà trong cụm thiên hà Coma đang di chuyển với tốc độ rất cao, đủ nhanh để chúng có thể bay ra khỏi cụm, nhưng cụm thiên hà vẫn ổn định, không bị tan rã. Để giải thích điều này, ông suy đoán rằng phải có một lượng lớn vật chất vô hình, không phát sáng, tác động lên các thiên hà, làm tăng lực hấp dẫn và giữ cho cụm thiên hà ổn định“.
- Gõ lên Google “Vật Chất Tối – Thư Viện Thiên Văn“
Chỉ cần theo dõi 4 phút đầu tiên là đủ.
- “Thứ tư, 23/11/2022 14:57
Vật chất tối: Sự tìm kiếm còn nhiều thách thức
Đinh Văn Chiến
Cục Năng lượng nguyên tử, Bộ KH&CN
….......................
Trong quá trình nghiên cứu đặc điểm của các thiên hà xoắn ốc xoay quanh trung tâm thiên hà, vào năm 1970 nhà thiên văn học V.C. Rubin và W.K.Jr. Ford đã phát hiện những ngôi sao ở vùng rìa của thiên hà đang chuyển động trên quỹ đạo của chúng nhanh như những ngôi sao ở vùng trung tâm. Điều này vốn không phù hợp với lý thuyết hấp dẫn Newton, khi mà theo quy luật các ngôi sao xa trung tâm thiên hà phải chuyển động chậm dần do lực hấp dẫn giảm và vì chúng chuyển động nhanh với tốc độ không đổi theo bán kính quỹ đạo, nên chắc chắn phải có một thứ gì đó ở vùng rìa thiên hà để giữ chúng trên quỹ đạo của thiên hà. Lời giải thích đó chính là vật chất tối. Đây cũng là bằng chứng đầu tiên về sự tồn tại của vật chất tối được giới khoa học thừa nhận kể từ sau đề xuất của Fritz Zwicky.
…...................................................“.
Qua 3 đoạn trích trên, nhất là đoạn : “vào năm 1970 nhà thiên văn học V.C. Rubin và W.K.Jr. Ford đã phát hiện những ngôi sao ở vùng rìa của thiên hà đang chuyển động trên quỹ đạo của chúng nhanh như những ngôi sao ở vùng trung tâm“.
Thật là “Ngớ Ngẩn“ khi các nhà Vật Lý đi đến kết luận:
"Điều này vốn không phù hợp với lý thuyết hấp dẫn Newton, khi mà theo quy luật các ngôi sao xa trung tâm thiên hà phải chuyển động chậm dần do lực hấp dẫn giảm và vì chúng chuyển động nhanh với tốc độ không đổi theo bán kính quỹ đạo"
Chính sự “Ngớ Ngẩn” này mà các nhà Vật Lý đã phải đưa ra cái khái niệm được gọi là “Vật Chất Tối” mà cho đến nay gần 100 năm vẫn chưa tìm thấy nó.
Ta xét Tốc độ vũ trụ cấp 1 của vật thể nằm ở tại điểm B bất kỳ trong dải Ngân Hà và chuyển động trên quỹ đạo của nó quanh tâm của dải Ngân Hà liệu có cần đến Vật Chất Tối hay không?
Muốn chứng minh được điều này ta phải sử dụng điều mà các nhà Vật Lý đã xác định được qua thực tế là "Tất cả các ngôi sao (vật chất hay vật thể) trong dải Ngân Hà (Thiên Hà) đều chuyển động trên quỹ đạo của chúng quanh tâm của dải Ngân Hà với cùng một tốc độ". (2)
Sơ đồ dải Ngân Hà (Thiên Hà của chúng ta)

Ta kẻ đường thẳng IS qua điểm B (bất kỳ trong dải Ngân Hà) và đường thẳng LT qua C (tâm của Ngân Hà) đều vuông góc với đường thẳng ABC (điểm A nằm trên đường thẳng BC và nằm về bên trái ở điểm cuối cùng thuộc dải Ngân Hà). Ta thấy hình cầu có mầu vàng chính là phần Ngân Hà có bán kính r1 là CB, 2 phần còn lại là phần mầu xanh đậm nằm bên trái đường IS và phần mầu xanh nhạt nằm bên phải đường IS. Khối lượng toàn Ngân Hà nằm trong 3 phần mầu này.
Lỗ Đen tại tâm giải dải Ngân Hà chỉ nặng 4,2 triệu lần Khối Lượng của Mặt Trời (của chúng ta). Cho nên nó chả có ý nghĩa gì và có thể bỏ qua khi so với khối lượng của cả dải Ngân Hà có từ 100 tỉ đến 200 tỉ ngôi sao (như Mặt Trời của chúng ta). Ở đây chưa nói tới ngoài hàng trăm tỉ ngôi sao này còn có ti tỉ các Lỗ Đen nhỏ, các đám mây Năng Lượng, các sao Lùn Trắng, các sao Neutron,... để đơn giản ta gọi chung chúng là các vật chất hay vật thể.
Đây là điều khác biệt giữa hệ Mặt Trời với dải Ngân Hà. Bởi vì riêng Mặt Trời đã chiếm tới 98% khối lượng của toàn bộ hệ Mặt Trời còn khối lượng của dải Ngân Hà không phải là 98% mà là 99,99...% không tập chung ở Lỗ Đen (tâm của dải Ngân Hà) mà nó phân bố hầu như ở khắp dải Ngân Hà. Đây chắc là lý do dẫn tới các vật thể trong dải Ngân Hà đều chuyển động trên quỹ đạo của chúng với cùng một tốc độ?
Ta gọi Tốc độ vũ trụ cấp 1 của vật chất tại điểm A là Vgmr (vì ta coi như gần bề mặt khối cầu có bán kính r bằng đoạn CA - trên sơ đồ là toàn bộ dải Ngân Hà) là :
(Vgmr)² = GM/r
Trong đó:
G là hằng số hấp dẫn (không đổi trong Vũ Trụ)
M là khối lượng của dải Ngân Hà
r là bán kính của dải Ngân Hà
Ta gọi Tốc độ vũ trụ cấp 1 tại điểm B là Vg1m1r1 (vì ta coi như gần bề mặt khối cầu có bán kính r1 bằng đoạn CB - trên sơ đồ là khối cầu mầu vàng) là :
(Vg1m1r1)² = G1M1/r1
Theo (2) ta có Vg1m1r1 = Vgmr.
Do vậy ta suy ra 2 lực hấp dẫn ngược nhau của 2 phần mầu xanh khác nhau này tác động lên vật chất tại điểm B phải bằng nhau nên phải triệt tiêu nhau. Bởi vì ta thấy vật chất tại điểm B vẫn chuyển động trên quỹ đạo của nó xung quanh tâm dải Ngân Hà như bình thường - với Tốc độ vũ trụ cấp 1.
Ta xét thêm khi vật chất ở điểm B dịch chuyển tới vị trí A thì hình cầu bán kính CB trùng với hình cầu bán kính CA nên 2 phần khối cầu mầu xanh này không còn nữa. Còn khi vật chất tại điểm B di chuyển dần đến điểm C là tâm của dải Ngân Hà thì dĩ nhiên phần khối cầu mầu vàng không còn nữa thay vào là phần mầu xanh đậm nằm bên trái đường thẳng LT vuông góc với đường ABC và đi qua tâm của dải Ngân Hà còn phần mầu xanh nhạt nằm bên phải của đường thẳng này. Rõ ràng lực hấp dẫn của 2 khối mầu xanh này ngược nhau và bằng nhau nên phải triệt tiêu nhau.
Do vậy ta kết luận khi điểm B di chuyển trên đoạn AC thì lực hấp dẫn của khối lượng 2 phần khối cầu mầu xanh này lên vật chất tại điểm B luôn ngược nhau và bằng nhau nên phải triệt tiêu nhau như vậy được coi như vô dụng.
b - Sự phân bố khối lượng của dải Ngân Hà
............................................................
................................................................
TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)
b - Sự phân bố khối lượng của dải Ngân Hà
Ta thử chứng minh khối lượng dải Ngân Hà có trải khắp dải Ngân Hà cũng như mật độ khối lượng của nó có càng đậm đặc khi càng vào gần tâm và đối xứng qua tâm dải Ngân Hà hay không?
- Thể tích của khối cầu qua điểm A trong sơ đồ trên có bán kính r = CA (chính là bán kính của dải Ngân Hà) là :
T = 4.π.r³/3
- Thể tích của khối cầu qua điểm B trong sơ đồ trên có bán kính r1 = CB là :
T1 = 4.π.r1³/3.
Nếu r1 = r/x (tức bán kính dải Ngân Hà giảm đi x lần) thì :
r = x.r1
T = 4.π.r³/3 = 4.π.(x.r1)³/3 = x³.4.π.(r1)³/3
T = x³.T1
T1= T/x³.
Điều này cho ta biết khi bán kính quỹ đạo giảm x lần thì thể tích giảm x³ lần.
- Còn Tốc độ vũ trụ cấp 1 của vật chất tại A và B bằng nhau là Vgmr = Vg1m1r1 (theo 2)
Từ sơ đồ trên ta gọi r1 là rx thì :
Vì Vgmr = Vgxmxrx và G = Gx nên M/r = Mx/rx
Mx = M.rx/r
Vậy nếu r giảm x lần thì rx = r/x tức r = x.rx thì :
Mx = M.rx/xrx = M/x
Mx = M/x
Điều này cho ta biết khi bán kính quỹ đạo giảm x lần thì khối lượng giảm x lần.
Từ đây cho ta biết khi bán kính của dải Ngân Hà giảm đi x lần thì thể tích giảm đi x³ lần nhưng khối lượng chỉ giảm đi x lần. Điều này rõ ràng đã chứng minh được mật độ khối lượng của dải Ngân Hà trải ra toàn bộ dải Ngân Hà nhưng vào càng gần tâm mật độ càng đậm đặc và đối xứng qua tâm của dải Ngân Hà là hoàn toàn chính xác.
c – So sánh Tốc độ vũ trụ cấp 1 của hệ Mặt Trời với dải Ngân Hà
Ta thấy Tốc vũ trụ cấp 1 của các hành tinh trong hệ Mặt Trời của chúng ta được tính theo công thức (theo Định luật vạn vật hấp dẫn của Newton) :
Trong đó:
V1 – là Tốc độ vũ trụ cấp 1 của hành tinh.
G - là hằng số hấp dẫn (không đổi trong vũ trụ).
M - là khối lượng của Mặt Trời.
r1 - là bán kính quỹ đạo của hành tinh.
Theo công thức này ta thấy hằng số hấp dẫn G và khối lượng M của Mặt Trời không thay đổi nên rõ ràng Tốc độ vũ trụ cấp 1 của hành tinh là V1 sẽ giảm tỉ lệ nghịch với độ tăng của bán kính quỹ đạo r1 của nó, tức bán kính quỹ đạo của hành tinh càng lớn (càng xa Mặt Trời) thì Tốc độ vũ trụ cấp 1 của nó càng nhỏ.
Kết luận : Do khối lượng M của Mặt Trời và hằng số hấp dẫn G không thay đổi nên theo Định luật vạn vật hấp dẫn của Newton khi bán kính quỹ đạo r1 thay đổi thì V1 là Tốc độ vũ trụ cấp 1 phải thay đổi theo tỉ lệ nghịch với nó.
Trong khi Tốc vũ trụ cấp 1 của các ngôi sao (vật thể hay vật chất) trong dải Ngân Hà được xác định theo công thức :
Trong đó:
V - là Tốc độ vũ trụ cấp 1 của ngôi sao (vật thể hay vật chất).
G - là hằng số hấp dẫn (không đổi trong vũ trụ).
M - là khối lượng của khối cầu có bán kính là r.
r - là bán kính quỹ đạo của ngôi sao (vật thể hay vật chất).
Bản chất chính ở đây là do V (Tốc độ vũ trụ cấp 1) của các ngôi sao (vật thể hay vật chất) và hằng số hấp dẫn G không thay đổi nên tỉ lệ M/r phải không thay đổi.
Sự “Ngớ Ngẩn“ này xuất phát từ chỗ các nhà Vật Lý không biết Mặt Trời (là tâm của hệ Mặt Trời) chiếm tới 98% khối lượng của toàn bộ hệ Mặt Trời trong khi ít nhất 99,99% khối lượng của dải Ngân Hà không tập trung ở Lỗ Đen của tâm dải Ngân Hà mà lại trải khắp dải Ngân Hà đã quyết định Tốc độ vũ trụ cấp 1 của các ngôi sao (vật thể hay vật chất) trong dải Ngân Hà.
Điều này có đủ chứng minh sự "Ngớ Ngẩn" của các nhà Vật Lý mà tôi đưa ra ở trên là đúng hay không?
Vậy thì Vật Chất Tối cần gì phải xuất hiện ở đây?
Kết luận không có Vật Chất Tối trong dải Ngân Hà.
5 - Phản biện Vật Chất Tối trong các cụm Thiên Hà hay các siêu cụm Thiên Hà
Cách phản biện hoàn toàn tương tự như câu trên khi coi mỗi Thiên Hà trong cụm Thiên Hà hay mỗi cụm Thiên Hà trong siêu cụm Thiên Hà như một ngôi sao (vật thể hay vật chất) trong dải Ngân Hà.
Kết luận không có Vật Chất Tối trong các cụm Thiên Hà hay các siêu cụm Thiên Hà
6 - Phản biện Năng Lượng Tối trong Vũ Trụ
...........................................................
........................................................
Ta thử chứng minh khối lượng dải Ngân Hà có trải khắp dải Ngân Hà cũng như mật độ khối lượng của nó có càng đậm đặc khi càng vào gần tâm và đối xứng qua tâm dải Ngân Hà hay không?
- Thể tích của khối cầu qua điểm A trong sơ đồ trên có bán kính r = CA (chính là bán kính của dải Ngân Hà) là :
T = 4.π.r³/3
- Thể tích của khối cầu qua điểm B trong sơ đồ trên có bán kính r1 = CB là :
T1 = 4.π.r1³/3.
Nếu r1 = r/x (tức bán kính dải Ngân Hà giảm đi x lần) thì :
r = x.r1
T = 4.π.r³/3 = 4.π.(x.r1)³/3 = x³.4.π.(r1)³/3
T = x³.T1
T1= T/x³.
Điều này cho ta biết khi bán kính quỹ đạo giảm x lần thì thể tích giảm x³ lần.
- Còn Tốc độ vũ trụ cấp 1 của vật chất tại A và B bằng nhau là Vgmr = Vg1m1r1 (theo 2)

Từ sơ đồ trên ta gọi r1 là rx thì :
Vì Vgmr = Vgxmxrx và G = Gx nên M/r = Mx/rx
Mx = M.rx/r
Vậy nếu r giảm x lần thì rx = r/x tức r = x.rx thì :
Mx = M.rx/xrx = M/x
Mx = M/x
Điều này cho ta biết khi bán kính quỹ đạo giảm x lần thì khối lượng giảm x lần.
Từ đây cho ta biết khi bán kính của dải Ngân Hà giảm đi x lần thì thể tích giảm đi x³ lần nhưng khối lượng chỉ giảm đi x lần. Điều này rõ ràng đã chứng minh được mật độ khối lượng của dải Ngân Hà trải ra toàn bộ dải Ngân Hà nhưng vào càng gần tâm mật độ càng đậm đặc và đối xứng qua tâm của dải Ngân Hà là hoàn toàn chính xác.
c – So sánh Tốc độ vũ trụ cấp 1 của hệ Mặt Trời với dải Ngân Hà
Ta thấy Tốc vũ trụ cấp 1 của các hành tinh trong hệ Mặt Trời của chúng ta được tính theo công thức (theo Định luật vạn vật hấp dẫn của Newton) :

Trong đó:
V1 – là Tốc độ vũ trụ cấp 1 của hành tinh.
G - là hằng số hấp dẫn (không đổi trong vũ trụ).
M - là khối lượng của Mặt Trời.
r1 - là bán kính quỹ đạo của hành tinh.
Theo công thức này ta thấy hằng số hấp dẫn G và khối lượng M của Mặt Trời không thay đổi nên rõ ràng Tốc độ vũ trụ cấp 1 của hành tinh là V1 sẽ giảm tỉ lệ nghịch với độ tăng của bán kính quỹ đạo r1 của nó, tức bán kính quỹ đạo của hành tinh càng lớn (càng xa Mặt Trời) thì Tốc độ vũ trụ cấp 1 của nó càng nhỏ.
Kết luận : Do khối lượng M của Mặt Trời và hằng số hấp dẫn G không thay đổi nên theo Định luật vạn vật hấp dẫn của Newton khi bán kính quỹ đạo r1 thay đổi thì V1 là Tốc độ vũ trụ cấp 1 phải thay đổi theo tỉ lệ nghịch với nó.
Trong khi Tốc vũ trụ cấp 1 của các ngôi sao (vật thể hay vật chất) trong dải Ngân Hà được xác định theo công thức :

Trong đó:
V - là Tốc độ vũ trụ cấp 1 của ngôi sao (vật thể hay vật chất).
G - là hằng số hấp dẫn (không đổi trong vũ trụ).
M - là khối lượng của khối cầu có bán kính là r.
r - là bán kính quỹ đạo của ngôi sao (vật thể hay vật chất).
Bản chất chính ở đây là do V (Tốc độ vũ trụ cấp 1) của các ngôi sao (vật thể hay vật chất) và hằng số hấp dẫn G không thay đổi nên tỉ lệ M/r phải không thay đổi.
Sự “Ngớ Ngẩn“ này xuất phát từ chỗ các nhà Vật Lý không biết Mặt Trời (là tâm của hệ Mặt Trời) chiếm tới 98% khối lượng của toàn bộ hệ Mặt Trời trong khi ít nhất 99,99% khối lượng của dải Ngân Hà không tập trung ở Lỗ Đen của tâm dải Ngân Hà mà lại trải khắp dải Ngân Hà đã quyết định Tốc độ vũ trụ cấp 1 của các ngôi sao (vật thể hay vật chất) trong dải Ngân Hà.
Điều này có đủ chứng minh sự "Ngớ Ngẩn" của các nhà Vật Lý mà tôi đưa ra ở trên là đúng hay không?
Vậy thì Vật Chất Tối cần gì phải xuất hiện ở đây?
Kết luận không có Vật Chất Tối trong dải Ngân Hà.
5 - Phản biện Vật Chất Tối trong các cụm Thiên Hà hay các siêu cụm Thiên Hà
Cách phản biện hoàn toàn tương tự như câu trên khi coi mỗi Thiên Hà trong cụm Thiên Hà hay mỗi cụm Thiên Hà trong siêu cụm Thiên Hà như một ngôi sao (vật thể hay vật chất) trong dải Ngân Hà.
Kết luận không có Vật Chất Tối trong các cụm Thiên Hà hay các siêu cụm Thiên Hà
6 - Phản biện Năng Lượng Tối trong Vũ Trụ
...........................................................
........................................................
TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)
6 - Phản biện Năng Lượng Tối trong Vũ Trụ
Như phần trước cho biết nhà thiên văn học Hubble đã đưa ra kết luận về sự giãn nở của vũ trụ vào năm 1929 dựa trên những quan sát lâu dài trên kính thiên văn. Kết luận là toàn bộ vũ trụ đang giãn nở và đồng nhất, tất cả các thiên hà đều tách rời nhau, càng ngày càng xa nhau. Từ đó, ông suy ra định luật Hubble. Từ đây câc nhà Vật Lý đi đến suy luận nếu biết được tốc độ rời xa nhau của các thiên hà như vậy thì suy ngược lại sẽ tính được thời gian mà tất cả các thiên hà sẽ quy tụ lại tại 1 điểm. Điểm này họ gọi là điểm Kỳ Dị và họ cho rằng ở tại điểm Kỳ Dị này không gian và thời gian không tồn tại (có thấy vô lý không?). Thời gian tính ngược lại từ hiện tại tới điểm Kỳ Dị là 13,8 tỷ năm ánh sáng, tức vũ trụ của chúng ta mới xuất hiện 13,8 tỷ năm ánh sáng còn ngoài Vũ Trụ của chúng ta hiện nay là cái gì? Cho đến nay theo tôi biết thì các nhà Vật Lý không trả lời được, vẫn còn đang Ú...Ớ...
Để giải thích cho sự giản nở của vũ trụ càng ngày càng nhanh này các nhà vật lý đã phải đưa ra khái niệm Năng Lượng Tối, nó có nhiệm vụ đẩy các thiên hà càng ngày càng xa nhanh hơn, tức lực của nó ngược với lực hấp dẫn của Vật Chất Tối và vật chất nhìn thấy. Do vậy Năng Lượng Tối không những phải thắng lực hấp dẫn của các vật chất nhìn thấy và Vật Chất Tối mà còn đẩy các thiên hà càng ngày càng xa nhanh hơn.
Do vậy họ cho rằng nếu khối lượng trong vũ trụ là 100% thì vật chất nhìn thấy chỉ chiếm 5%, Vật Chất Tối chiếm 25% còn Năng Lượng Tối chiếm tới 70%.
Đến nay sau gần 100 năm các nhà vật lý chỉ đưa ra khái niệm Vật Chất Tối và Năng Lượng Tối nhưng chưa hề biết mặt mũi nó như thế nào cả, liệu chúng có tồn tại thực sự trong vũ trụ hay không thì vẫn còn trong... im nặng.
Trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“ được công bố năm 2010 (thực chất nó chỉ là Bản Thảo - vì tôi sợ mất bản quyền), tôi đã khẳng định Lỗ Đen và Lỗ Trắng chỉ là một. Bởi vì Lỗ Đen luôn luôn hút tất cả mọi cái kể cả ánh sáng (nếu rơi vào trong vùng Chân Trời Sự Kiện – vùng mà Lỗ Đen khống chế). Nhưng không có chuyện Lỗ Đen sẽ hút mãi mãi... mà hút đến một lúc nào đó nó sẽ đạt tới cực đại để phát nổ trở thành Lỗ Trắng phun ra những cái mà nó đã hút vào tuân theo đúng Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa tức Âm (Lỗ Đen) và Dương (Lỗ Trắng) khi tiến (tăng trưởng) đến cùng cực sẽ chuyển hóa cho nhau.
Điều này đã phản bác lý thuyết của Albert Einstein và các nhà Vật Lý cho rằng Vũ Trụ của chúng ta bị thu nhỏ dần lại thành một điểm gọi là điểm Kỳ Dị và họ cho rằng ở đó không gian và thời gian không còn tồn tại. Hiểu đơn giản là không gian vũ trụ 3 chiều mà chúng ta đang sống bị co lại thành 1 điểm rồi mất hút không để lại một dấu vết gì nghe có thấy quái dị không?
Các nhà vật lý chỉ vì chưa tìm ra được lý thuyết để giải thích hiện tượng giãn nở của các Thiên Hà đang xẩy ra trong Vũ Trụ nên mới đưa ra các khái niệm mơ hồ, viển vông... như điểm Kỳ Dị, Vụ Nổ Lớn Big Bang, Vật Chất Tối hay Năng Lượng Tối... mà thôi.
Kính thiên văn vũ trụ James Webb (10 tỷ đô la) vừa qua đã tìm ra nhiều thiên hà có tuổi gần và trên 13,8 tỷ năm ánh sáng (có tầm cỡ lớn như dải Ngân Hà của chúng ta cần tới 10 tỉ năm ánh sáng để phát triển), trong đó có thiên hà có tuổi tới 33,8 tỷ năm ánh sáng.
Vậy mà các nhà vật lý cố tình ngụy biện để chứng minh chúng vẫn dưới 13,8 tỷ năm ánh sáng mới lạ chứ?
Điều này chẳng khác nào các nhà theo thuyết tiến hóa của Darwin (Charles Robert Darwin), chỉ vì mãi không tìm được hóa thạch để chứng minh sự tiến hóa từ Khỉ tới Người đã bắt 1 người đàn ông (đã có 1 vợ và 2 con) thuộc người lùn dân tộc Píc Mê ở châu Phi về Mỹ để đưa đi các nơi rao giảng cho thiên hạ rằng đó là 1 dạng người đang chuyển hóa từ khỉ mà ra, thế mới Kinh Khủng chứ ?
Kết luận : Theo Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa thì không có điểm Kỳ Dị và vũ trụ của chúng ta đang sống chỉ là Vũ Trụ được sinh ra từ 1 vụ nổ của 1 Lỗ Đen siêu lớn đã tăng tới cùng cực mà thôi. Đến nay vụ nổ này chưa dừng lại nó vẫn còn đang tiếp tục... Ngoài vùng vũ trụ của chúng vẫn còn các vùng vũ trụ khác từ trước khi có vụ nổ này.
Điều này có đủ để chứng minh kính thiên văn James Webb đã tìm ra các thiên hà có tuổi gần hay trên 13,8 tỷ năm ánh sáng hay chưa?
8 – Ưu Việt của Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa
Đến giờ tôi đã trình bầy xong phần đầu cuốn "Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" đã giải thích được những điều tối quan trọng trong Vũ Trụ của chúng ta mà các nhà Vật Lý gần 100 năm nay vẫn không giải quyết được như sự thật về Tốc độ Ánh Sáng (chỉ còn chờ kiểm chứng trên sao Hỏa), điểm Kỳ Dị, Vụ Nổ Lớn Big Bang, Vật Chất Tối, Năng Lượng Tối... Phần sau cuốn "Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" tôi sẽ viết lại phần dự đoán vận mệnh của con người đã công bố qua cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“ (năm 2010), sau đó tôi sẽ nghiên cứu để viết tiếp phần Toán Học Hóa dự đoán về Phát Tài và Phát Quan...
Tóm lại : Chỉ cần kiểm chứng Tốc độ Ánh Sáng trên sao Hỏa phụ thuộc vào kích thước của sao Hỏa mà đúng thì Thuyết Tương Đối Rộng của nhà vật lý thiên tài Albert Einstein nói riêng và nền Vật Lý thế giới nói chung sẽ ra sao đây?
Như phần trước cho biết nhà thiên văn học Hubble đã đưa ra kết luận về sự giãn nở của vũ trụ vào năm 1929 dựa trên những quan sát lâu dài trên kính thiên văn. Kết luận là toàn bộ vũ trụ đang giãn nở và đồng nhất, tất cả các thiên hà đều tách rời nhau, càng ngày càng xa nhau. Từ đó, ông suy ra định luật Hubble. Từ đây câc nhà Vật Lý đi đến suy luận nếu biết được tốc độ rời xa nhau của các thiên hà như vậy thì suy ngược lại sẽ tính được thời gian mà tất cả các thiên hà sẽ quy tụ lại tại 1 điểm. Điểm này họ gọi là điểm Kỳ Dị và họ cho rằng ở tại điểm Kỳ Dị này không gian và thời gian không tồn tại (có thấy vô lý không?). Thời gian tính ngược lại từ hiện tại tới điểm Kỳ Dị là 13,8 tỷ năm ánh sáng, tức vũ trụ của chúng ta mới xuất hiện 13,8 tỷ năm ánh sáng còn ngoài Vũ Trụ của chúng ta hiện nay là cái gì? Cho đến nay theo tôi biết thì các nhà Vật Lý không trả lời được, vẫn còn đang Ú...Ớ...
Để giải thích cho sự giản nở của vũ trụ càng ngày càng nhanh này các nhà vật lý đã phải đưa ra khái niệm Năng Lượng Tối, nó có nhiệm vụ đẩy các thiên hà càng ngày càng xa nhanh hơn, tức lực của nó ngược với lực hấp dẫn của Vật Chất Tối và vật chất nhìn thấy. Do vậy Năng Lượng Tối không những phải thắng lực hấp dẫn của các vật chất nhìn thấy và Vật Chất Tối mà còn đẩy các thiên hà càng ngày càng xa nhanh hơn.
Do vậy họ cho rằng nếu khối lượng trong vũ trụ là 100% thì vật chất nhìn thấy chỉ chiếm 5%, Vật Chất Tối chiếm 25% còn Năng Lượng Tối chiếm tới 70%.
Đến nay sau gần 100 năm các nhà vật lý chỉ đưa ra khái niệm Vật Chất Tối và Năng Lượng Tối nhưng chưa hề biết mặt mũi nó như thế nào cả, liệu chúng có tồn tại thực sự trong vũ trụ hay không thì vẫn còn trong... im nặng.
Trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“ được công bố năm 2010 (thực chất nó chỉ là Bản Thảo - vì tôi sợ mất bản quyền), tôi đã khẳng định Lỗ Đen và Lỗ Trắng chỉ là một. Bởi vì Lỗ Đen luôn luôn hút tất cả mọi cái kể cả ánh sáng (nếu rơi vào trong vùng Chân Trời Sự Kiện – vùng mà Lỗ Đen khống chế). Nhưng không có chuyện Lỗ Đen sẽ hút mãi mãi... mà hút đến một lúc nào đó nó sẽ đạt tới cực đại để phát nổ trở thành Lỗ Trắng phun ra những cái mà nó đã hút vào tuân theo đúng Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa tức Âm (Lỗ Đen) và Dương (Lỗ Trắng) khi tiến (tăng trưởng) đến cùng cực sẽ chuyển hóa cho nhau.
Điều này đã phản bác lý thuyết của Albert Einstein và các nhà Vật Lý cho rằng Vũ Trụ của chúng ta bị thu nhỏ dần lại thành một điểm gọi là điểm Kỳ Dị và họ cho rằng ở đó không gian và thời gian không còn tồn tại. Hiểu đơn giản là không gian vũ trụ 3 chiều mà chúng ta đang sống bị co lại thành 1 điểm rồi mất hút không để lại một dấu vết gì nghe có thấy quái dị không?
Các nhà vật lý chỉ vì chưa tìm ra được lý thuyết để giải thích hiện tượng giãn nở của các Thiên Hà đang xẩy ra trong Vũ Trụ nên mới đưa ra các khái niệm mơ hồ, viển vông... như điểm Kỳ Dị, Vụ Nổ Lớn Big Bang, Vật Chất Tối hay Năng Lượng Tối... mà thôi.
Kính thiên văn vũ trụ James Webb (10 tỷ đô la) vừa qua đã tìm ra nhiều thiên hà có tuổi gần và trên 13,8 tỷ năm ánh sáng (có tầm cỡ lớn như dải Ngân Hà của chúng ta cần tới 10 tỉ năm ánh sáng để phát triển), trong đó có thiên hà có tuổi tới 33,8 tỷ năm ánh sáng.
Vậy mà các nhà vật lý cố tình ngụy biện để chứng minh chúng vẫn dưới 13,8 tỷ năm ánh sáng mới lạ chứ?
Điều này chẳng khác nào các nhà theo thuyết tiến hóa của Darwin (Charles Robert Darwin), chỉ vì mãi không tìm được hóa thạch để chứng minh sự tiến hóa từ Khỉ tới Người đã bắt 1 người đàn ông (đã có 1 vợ và 2 con) thuộc người lùn dân tộc Píc Mê ở châu Phi về Mỹ để đưa đi các nơi rao giảng cho thiên hạ rằng đó là 1 dạng người đang chuyển hóa từ khỉ mà ra, thế mới Kinh Khủng chứ ?
Kết luận : Theo Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa thì không có điểm Kỳ Dị và vũ trụ của chúng ta đang sống chỉ là Vũ Trụ được sinh ra từ 1 vụ nổ của 1 Lỗ Đen siêu lớn đã tăng tới cùng cực mà thôi. Đến nay vụ nổ này chưa dừng lại nó vẫn còn đang tiếp tục... Ngoài vùng vũ trụ của chúng vẫn còn các vùng vũ trụ khác từ trước khi có vụ nổ này.
Điều này có đủ để chứng minh kính thiên văn James Webb đã tìm ra các thiên hà có tuổi gần hay trên 13,8 tỷ năm ánh sáng hay chưa?
8 – Ưu Việt của Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa
Đến giờ tôi đã trình bầy xong phần đầu cuốn "Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" đã giải thích được những điều tối quan trọng trong Vũ Trụ của chúng ta mà các nhà Vật Lý gần 100 năm nay vẫn không giải quyết được như sự thật về Tốc độ Ánh Sáng (chỉ còn chờ kiểm chứng trên sao Hỏa), điểm Kỳ Dị, Vụ Nổ Lớn Big Bang, Vật Chất Tối, Năng Lượng Tối... Phần sau cuốn "Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" tôi sẽ viết lại phần dự đoán vận mệnh của con người đã công bố qua cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“ (năm 2010), sau đó tôi sẽ nghiên cứu để viết tiếp phần Toán Học Hóa dự đoán về Phát Tài và Phát Quan...
Tóm lại : Chỉ cần kiểm chứng Tốc độ Ánh Sáng trên sao Hỏa phụ thuộc vào kích thước của sao Hỏa mà đúng thì Thuyết Tương Đối Rộng của nhà vật lý thiên tài Albert Einstein nói riêng và nền Vật Lý thế giới nói chung sẽ ra sao đây?