2 . QUY TẮC TRONG DỤNG THẦN
Chúng ta nhắc lại nguyên ý trong Tử Bình Chân Thuyên:
Luận Dụng Thần
Bát tự dụng thần chuyên cầu nguyệt lệnh, lấy nhật can phối nguyệt lệnh địa chi, sinh khắc khác nhau mới phân cách cục. Tài Quan Ấn Thực là các dụng thần thiện mà thuận dụng, Sát Thương Kiếp Nhận là các dụng thần bất thiện mà nghịch dụng. Thuận thì theo thuận, nghịch thì theo nghịch, phối hợp như vậy, đều là quý cách.
“Bát tự dụng thần chuyên cầu nguyệt lệnh, lấy nhật can phối nguyệt lệnh địa chi, sinh khắc khác nhau mới phân cách cục ”. Ở đây có hai ý chính, một là lấy Nhật Can phối với Chi tháng sinh xem nó là Thần gì, hai là lấy Nhật Can phối với Can tàng trong chi tháng thấu ra xem nó là Thần gì (cách lấy đã bàn ở phần trên), (ý nữa là lấy chi tháng xem nó hội, hợp hóa thành hành gì, lấy hành đó phối với Nhật can) rồi chúng ta lấy Thần đó(Dụng Thần) làm trung tâm, xem xét đến sự tương tác với các Thần khác thế nào mới xếp cách cục (chính cách, ngoại cách). Luôn ưu tiên xét can thấu; can tàng không xét, vì tuy nó có vai trò nhất định nhưng nếu không thấu thì không tham gia vào kết cấu tạo nên cách cục(do lực tương tác yếu), vì từ xưa không phải ngẫu nhiên mà cổ nhân gọi là tổ hợp Bát Tự (8 chữ) mà không phải là Nhị Thập Tự( 20 chữ, 4 can trên + 4 chi dưới + tối đa 4*3 can tàng) hay Nhị Thập Nhị Tự (22 chữ, 10 can + 12 chi) . Nhắc lại các bạn rằng đây chỉ là nguyên tắc cứng nhắc, chưa xét đến sự biến hóa của cách cục, nhớ nhé!
“Tài Quan Ấn Thực là các dụng thần thiện mà thuận dụng, Sát Thương Kiếp Nhận là các dụng thần bất thiện mà nghịch dụng. Thuận thì theo thuận, nghịch thì theo nghịch, phối hợp như vậy, đều là quý cách”. Ở đây ta phân tích từng phần. Tại sao gọi Tài Quan Ấn Thực là các dụng thần thiện vì chúng đại diện cho những thứ tốt đẹp quanh ta như : Tài đại diện cho vật ta dưỡng thân, cho vợ …, Quan đại diện cho nghề nghiệp, chức vụ của ta…, Ấn đại diện cho học vấn, bằng cấp, cho mẹ ta …, Thực đại diện cho phúc, thọ…; thuận dụng tức là dùng theo chiều sinh phù, bảo hộ như Quan cần Tài sinh, sinh Ấn hộ Quan … Tại sao gọi Sát Thương Kiếp Nhận là các dụng thần bất thiện vì chúng đại diện cho những thứ làm hại ta như: Sát chuyên tấn công Nhật Can làm hại Thân, Thương Quan chuyên phá Quan, Kiếp Tài là thần hại của, khắc vợ, đoạt vợ ta [đoạt vợ ta cho thằng khác nó xài(dùng) thì nhục như con trùng trục nhỉ

], Nhận là Dương Nhận mang khí cực dương, trên trời là thần chiến tranh, đại diện cho những thứ cùng hung cực ác; nghịch dụng là dùng theo chiều khắc chế hoặc hóa như: Sát dùng Thực chế hoặc Ấn hóa, Thương dùng Ấn chế hoặc Tài hóa, Kiếp, Nhận dùng Quan chế hoặc Thực hóa; trường hợp này giống học thuyết "dùng bạo lực để trị bạo lực, lấy chiến tranh để chống chiến tranh" mà tôi rất tâm đắc. Khi cách cục được thành lập(thành cách)đều là mệnh quý.
Tóm lại, nói ngắn gọn thì là thế này:
Thuận dụng:
Tài hỉ Thực Thần tương sinh, sinh Quan chế Kiếp hộ Tài;
Quan hỉ thấu Tài mà tương sinh, sinh Ấn hộ Quan;
Ấn hỉ Quan Sát tương sinh, Kiếp Tài hộ Ấn;
Thực hỉ Thân vượng tương sinh, sinh Tài hộ Thực;
Nghịch dụng:
Thất Sát hỉ Thực Thương chế phục, kị Tài sinh, Kiêu đoạt Thực
Thương Quan hỉ phối Ấn chế phục, sinh Tài hóa Thương
Dương Nhận hỉ Quan Sát chế phục, kị không có Quan Sát
Nguyệt kiếp(Tỷ, Kiếp) thấu Quan chế phục, dụng Tài thấu Thực hóa Kiếp