CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tử vi. Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tử vi. Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
-
- Lục đẳng
- Bài viết: 2692
- Tham gia: 00:39, 07/03/12
TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH
Mẫu người cự cơ mão dậu
Giai cấp xã hội của thời phong kiến xa xưa được xếp hạng thứ tự Sĩ, Nông, Công, Thương. Kinh doanh thương mại được đứng vào hàng thú tư. Nhưng thật sự thì ai cũng hiểu một quan niệm, gần như là một định luật đó là “phi thương bất phú”. Khoa Tử Vi cũng đề cập đến những mẫu người của thương trường, trong đó có mẫu người Cự Cơ Mão Dậu, là một trong những mẫu người doanh thương mà chúng ta khảo sát sau đây. Cự Môn là một bắc đẩu tinh, thuộc hành Thủy. Có lẽ hành Thủy khiến cho Cự Môn trở nên uyển chuyển theo hoàn cảnh, “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” Cự Môn đắc địa đi với những võ tinh thì sẽ hỗ trợ cho võ tinh thêm mạnh mẽ để phát về võ nghiệp. nếu đi với những sao văn tinh thì sẽ thành công trong lãnh vực văn học, nghệ thuật, nếu đi với những sao có khuynh hướng về kinh doanh thì sẽ trở thành những tay kinh doanh cự phách, và tương tự, khi đi với dâm tinh thì Cự Môn rất buông thả.
Cự Môn miếu địa ở Mão Dậu, vượng địa ở Tý Ngọ Dần, đắc địa ở Thân và Hợi, hãm ở Thìn Tuất Sửu Mùi, Tỵ. Mặc dù bị xếp hạng là ám tinh nhưng Cự Môn miếu vượng thủ Mệnh là người thông minh và nhân hậu. Cự hãm thì thật sự đúng với biệt danh là ám tinh. Cự Môn là biểu tượng của cái miệng, của lời ăn tiếng nói…cho nên khi đắc địa thì khéo ăn nói, có tài hùng biện, có khả năng thuyết phục người. Nhưng nếu hãm thì lời nói thiếu suy nghĩ, dễ mất lòng người và dễ bị tai tiếng thị phi, đôi lúc còn đưa đến tai họa cũng vì cái miệng của mình thiếu thận trọng. Với bản tính bất nhất như đã nói trên, may mắn cho Cự Môn tại hai vị trí miếu địa Mão Dậu, ám tinh này gặp được thiện tinh Thiên Cơ, thuộc nam đẩu tinh, hành Mộc.
Và Thiên Cơ cũng góp một phần bản chất vào mẫu người doanh thương Cự Cơ Mão Dậu này. Thiên Cơ miếu ở Thìn Tuất Mão Dậu, vượng ở Tỵ, Thân, đắc ở Tí Ngọ Sửu, hãm ở Dần Hợi. Thiên Cơ là một phúc thiện tinh cho nên dù hãm cũng không hề mất hết thiện tính của mình. Khi đắc địa, Thiên Cơ chỉ sự khéo léo về tay chân, sáng suốt về trí óc, có mưu trí nhưng lại xử sự nhân từ và cởi mở. Nếu ở vị trí miếu vượng thì chủ về phú quý, phúc thọ, và đặc biệt là có năng khiếu về kinh doanh. Như vậy, hai sao Cự Cơ cùng miếu tại Mão Dậu. Hành Thủy của Cự Môn càng sinh vượng cho hành Mộc của Thiên Cơ, hơn nữa, cũng tại vị trí này, Thiên Cơ đặc biệt có năng khiếu về kinh doanh, cho nên Cự Môn trở thành kẻ đồng hành rất tốt. Với bản tánh gan dạ, liều lĩnh, Cự Môn đã hỗ trợ Thiên Cơ mạnh mẽ trong lãnh vực này.
Người Cự Cơ Mãu Dậu là những người trong thương trường. Nhưng chúng ta cần phân biệt lãnh vực hoạt động của đôi bên. Người Tham Vũ Đồng Hành thường hoạt động trong lãnh vực kỹ nghệ chuyên môn v.v… Còn người Cự Cơ Mão Dậu không chuyên về một lãnh vực nào cả, có thể là ngành hàng tiêu dùng, có thể là những sản phẩm về văn học nghệ thuật v.v…Hay nói một cách khác là bản tính uyển chuyển của Cự Môn, cho nên những sao đi kèm với Cự Cơ sẽ quyết định đương số sẽ kinh doanh trong lãnh vực nào. Ví dụ: Mệnh ở Mão hay Dậu có Cự Cơ với Hổ Tuế Phù, thì đây là những người có năng khiếu về luật pháp, những nhà làm luật, những quan tòa hay những danh sư danh tiếng, và chắc chắn những tổ hợp luật sư sẽ là những lãnh vực kinh doanh của họ. Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ thêm Xương Khúc, Khôi Việt, Khoa, Tấu là người có năng khiếu về văn học, nghệ thuật, cho nên khi vào đường kinh doanh thì lãnh vực hoạt động thường là những nhà xuất bản sách, báo chí, nhạc, hay phim… Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ thêm Tả Hữu, Lộc, Hình, Y, Quang, Qúy là người kinh doanh trong các ngành y dược học. Nhỏ thì là phòng mạch, một pharmacy, lớn thì một clinic, một bệnh viện, một viện bào chế dược phẩm…
Nhưng cách Cự Cơ Mão Dậu cũng chỉ mới là giới tiểu thương, nếu muốn kinh doanh với tầm vóc lớn thì phải có thêm Song Hao mới gọi là đắc cách Chúng Thủy Triều Đông, có nghĩa là tất cả các dòng sông đều chảy về hướng Đông. Khi nói về cách Song Hao ở Mão Dậu, chúng ta thấy có hai nguyên nhân. Đầu tiên là do địa thế của nước Trung Hoa, tất cả những dòng sông đều chảy về hướng Đông, cho nên cổ thi có câu: “tự cổ nhân sinh thường hận, thủy thường đông” có nghĩa là từ xưa đến nay người đời ai mà không ôm một mối hận lòng, điều này cũng tự nhiên như dòng sông chảy về hướng Đông. Song Hao thuộc hành Thủy, lại được hành Kim của cung Dậu tương sinh, cho nên nguồn nước sẽ được dồi dào bất tận. Trong thiên nhiên, nước là biểu tượng của tiền bạc. Song Hao lại là biểu tượng của số nhiều. Những dòng sông từ Dậu là phương Tây, chảy về Mão là phương Đông, khiến cho hành Mộc của Thiên Cơ được hưng thịnh, và đây mới đúng là tầm vóc của mẫu người kinh doanh Cự Cơ Mão Dậu. Cũng vì thế mà Mệnh an tại Mão tốt hơn ở Dậu, tốt nhất đối với những tuổi Ất, Tân, Kỷ và Bính, những tuổi này sẽ đạt phú quý một cách dễ dàng hơn những tuổi khác.
Nếu Mệnh ở Dậu, thì đương số cũng là người kinh doanh mà trở nên giàu có, nhưng càng giàu thì tuổi thọ càng giảm: “Cự Cơ Dậu, thượng hóa cát dã Túng hữu tài quan, dã bất chung” Nhưng Cự Cơ Mão Dậu đắc cách Chúng Thủy Triều Đông thì lại có người cho rằng Cự Cơ đã gặp Song Hao thì chớ nên có Hóa Lộc mà bị phá cách. Lý do quan điểm này cho rằng Hóa Lộc hành Thổ, khắc với hành thủy của Song Hao khiến cho Thiên Cơ thiếu nước. Lý luận này xét ra không được ổn vì cũng có nhiều sao khác thuộc hành Thổ như Lộc Tồn, tại sao chỉ áp dụng cho Hóa Lộc mà thôi? “Song Hao Mão Dậu ái ngộ Cự Cơ, tối hiềm Hóa Lộc” Thật ra Song Hao ở Mão Dậu kỵ với Hóa Lộc không phải nguyên nhân chính là do sự sinh khắc của ngũ hành mà là do ý nghĩa của Song Hao mà ra. Hao là hao tốn, tiêu hao. Với ý nghĩa đó cho nên Hóa Lộc, Lộc Tồn không nên gặp Hao, nếu gặp thì khác nào mang tiền thả trôi theo dòng nước. Tóm lại, Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ + Song Hao + Hóa Lộc hay Lộc Tồn thì đương số cũng là ra tiền một cách dễ dàng, nhưng tiền vào tay mặt thì ra tay trái.
Đối với nữ phái, Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ là người đàn bà có tay làm ăn buôn bán, trên thương trường đương số không thua gì những đấng mày râu. Tuy nhiên, một Thiên Cơ hiền lành không thể trói buộc nổi Cự Môn với bản tánh liều lĩnh, phóng khoáng. Cự Môn dù miếu vượng cũng có điều bất lợi cho phái nữ bởi vì Cự Môn là cái miệng, là lời ăn tiếng nói, là khẩu thiệt thị phi, khắc khẩu, vợ chồng xa nhau thì thương nhớ, gần nhau thì cãi vã suốt ngày…Cho nên đàn bà có Cự Môn thủ Mệnh hay Thân thì bên ngoài giỏi, tháo vát nhưng bên trong gia đạo thường vẫn có điều không ổn, ít nhiều hạnh phúc gia đình bị những đám mây đen của Cự Môn lãng vãng đâu đó. Đó chính là nguyên nhân khiến cho Cự Môn phải mang danh là ám tinh. Nhưng nếu dùng lăng kính của Freud mà chiếu rọi cho tận cùng, thì một phần chính cũng vì đàn bà Cự Cơ Mão Dậu có khá nhiều tham vọng và khuynh hướng tình dục rất mạnh mẽ. Với bản chất đặc biệt đó chúng ta thấy có hai mẫu người đàn bà Cự Cơ Mão Dậu:
Họ có thể che dấu hay dồn nén khuynh hướng tình dục của mình thành những tham vọng trên lãnh vực làm ăn kinh doanh của họ, và đây chính là con đường mà Freud gọi là “tình dục thăng hoa thành tài năng” Trong những trường hợp tương tự như thế, chúng ta mới thấy quan điểm của Freud đã được khoa Tử Vi chứng nghiệm. Thật vậy, khi xét đến những là số của những vị chân tu chúng ta đều thấy hầu hết những lá số này đều có bóng dáng của Đào Hồng hay những dâm tinh khác. Điều này không có gì nghịch lý, kẻ chân tu vốn cũng đầy đủ thất tình lục dục như mọi người, có khi còn mạnh hơn, nhưng cái hay là họ đẩy tất cả những thất tình lục dục đó vào một chữ “không” biến tình dục thành tài năng, và được như vậy họ mới quán triệt được chữ “đạo”, rồi mới hiểu được chữ “ngộ” là gì.
Là người có cuộc sống buông thả, phóng khoáng. Họ dùng những thành qủa, giai cấp mà họ đạt được trong xã hội đễ biện minh cho quan niệm sống của họ. Và trên thương trường, đây cũng là người đàn bà không thua sút ai, mà cả trong cuộc chơi, họ cũng là người dám bỏ ngàn vàng để mua lấy trận cười làm vui…Đó chính là mẫu người đàn bà mà chúng ta thường gọi là “đàn bà dễ có mấy ai”
Giai cấp xã hội của thời phong kiến xa xưa được xếp hạng thứ tự Sĩ, Nông, Công, Thương. Kinh doanh thương mại được đứng vào hàng thú tư. Nhưng thật sự thì ai cũng hiểu một quan niệm, gần như là một định luật đó là “phi thương bất phú”. Khoa Tử Vi cũng đề cập đến những mẫu người của thương trường, trong đó có mẫu người Cự Cơ Mão Dậu, là một trong những mẫu người doanh thương mà chúng ta khảo sát sau đây. Cự Môn là một bắc đẩu tinh, thuộc hành Thủy. Có lẽ hành Thủy khiến cho Cự Môn trở nên uyển chuyển theo hoàn cảnh, “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” Cự Môn đắc địa đi với những võ tinh thì sẽ hỗ trợ cho võ tinh thêm mạnh mẽ để phát về võ nghiệp. nếu đi với những sao văn tinh thì sẽ thành công trong lãnh vực văn học, nghệ thuật, nếu đi với những sao có khuynh hướng về kinh doanh thì sẽ trở thành những tay kinh doanh cự phách, và tương tự, khi đi với dâm tinh thì Cự Môn rất buông thả.
Cự Môn miếu địa ở Mão Dậu, vượng địa ở Tý Ngọ Dần, đắc địa ở Thân và Hợi, hãm ở Thìn Tuất Sửu Mùi, Tỵ. Mặc dù bị xếp hạng là ám tinh nhưng Cự Môn miếu vượng thủ Mệnh là người thông minh và nhân hậu. Cự hãm thì thật sự đúng với biệt danh là ám tinh. Cự Môn là biểu tượng của cái miệng, của lời ăn tiếng nói…cho nên khi đắc địa thì khéo ăn nói, có tài hùng biện, có khả năng thuyết phục người. Nhưng nếu hãm thì lời nói thiếu suy nghĩ, dễ mất lòng người và dễ bị tai tiếng thị phi, đôi lúc còn đưa đến tai họa cũng vì cái miệng của mình thiếu thận trọng. Với bản tính bất nhất như đã nói trên, may mắn cho Cự Môn tại hai vị trí miếu địa Mão Dậu, ám tinh này gặp được thiện tinh Thiên Cơ, thuộc nam đẩu tinh, hành Mộc.
Và Thiên Cơ cũng góp một phần bản chất vào mẫu người doanh thương Cự Cơ Mão Dậu này. Thiên Cơ miếu ở Thìn Tuất Mão Dậu, vượng ở Tỵ, Thân, đắc ở Tí Ngọ Sửu, hãm ở Dần Hợi. Thiên Cơ là một phúc thiện tinh cho nên dù hãm cũng không hề mất hết thiện tính của mình. Khi đắc địa, Thiên Cơ chỉ sự khéo léo về tay chân, sáng suốt về trí óc, có mưu trí nhưng lại xử sự nhân từ và cởi mở. Nếu ở vị trí miếu vượng thì chủ về phú quý, phúc thọ, và đặc biệt là có năng khiếu về kinh doanh. Như vậy, hai sao Cự Cơ cùng miếu tại Mão Dậu. Hành Thủy của Cự Môn càng sinh vượng cho hành Mộc của Thiên Cơ, hơn nữa, cũng tại vị trí này, Thiên Cơ đặc biệt có năng khiếu về kinh doanh, cho nên Cự Môn trở thành kẻ đồng hành rất tốt. Với bản tánh gan dạ, liều lĩnh, Cự Môn đã hỗ trợ Thiên Cơ mạnh mẽ trong lãnh vực này.
Người Cự Cơ Mãu Dậu là những người trong thương trường. Nhưng chúng ta cần phân biệt lãnh vực hoạt động của đôi bên. Người Tham Vũ Đồng Hành thường hoạt động trong lãnh vực kỹ nghệ chuyên môn v.v… Còn người Cự Cơ Mão Dậu không chuyên về một lãnh vực nào cả, có thể là ngành hàng tiêu dùng, có thể là những sản phẩm về văn học nghệ thuật v.v…Hay nói một cách khác là bản tính uyển chuyển của Cự Môn, cho nên những sao đi kèm với Cự Cơ sẽ quyết định đương số sẽ kinh doanh trong lãnh vực nào. Ví dụ: Mệnh ở Mão hay Dậu có Cự Cơ với Hổ Tuế Phù, thì đây là những người có năng khiếu về luật pháp, những nhà làm luật, những quan tòa hay những danh sư danh tiếng, và chắc chắn những tổ hợp luật sư sẽ là những lãnh vực kinh doanh của họ. Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ thêm Xương Khúc, Khôi Việt, Khoa, Tấu là người có năng khiếu về văn học, nghệ thuật, cho nên khi vào đường kinh doanh thì lãnh vực hoạt động thường là những nhà xuất bản sách, báo chí, nhạc, hay phim… Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ thêm Tả Hữu, Lộc, Hình, Y, Quang, Qúy là người kinh doanh trong các ngành y dược học. Nhỏ thì là phòng mạch, một pharmacy, lớn thì một clinic, một bệnh viện, một viện bào chế dược phẩm…
Nhưng cách Cự Cơ Mão Dậu cũng chỉ mới là giới tiểu thương, nếu muốn kinh doanh với tầm vóc lớn thì phải có thêm Song Hao mới gọi là đắc cách Chúng Thủy Triều Đông, có nghĩa là tất cả các dòng sông đều chảy về hướng Đông. Khi nói về cách Song Hao ở Mão Dậu, chúng ta thấy có hai nguyên nhân. Đầu tiên là do địa thế của nước Trung Hoa, tất cả những dòng sông đều chảy về hướng Đông, cho nên cổ thi có câu: “tự cổ nhân sinh thường hận, thủy thường đông” có nghĩa là từ xưa đến nay người đời ai mà không ôm một mối hận lòng, điều này cũng tự nhiên như dòng sông chảy về hướng Đông. Song Hao thuộc hành Thủy, lại được hành Kim của cung Dậu tương sinh, cho nên nguồn nước sẽ được dồi dào bất tận. Trong thiên nhiên, nước là biểu tượng của tiền bạc. Song Hao lại là biểu tượng của số nhiều. Những dòng sông từ Dậu là phương Tây, chảy về Mão là phương Đông, khiến cho hành Mộc của Thiên Cơ được hưng thịnh, và đây mới đúng là tầm vóc của mẫu người kinh doanh Cự Cơ Mão Dậu. Cũng vì thế mà Mệnh an tại Mão tốt hơn ở Dậu, tốt nhất đối với những tuổi Ất, Tân, Kỷ và Bính, những tuổi này sẽ đạt phú quý một cách dễ dàng hơn những tuổi khác.
Nếu Mệnh ở Dậu, thì đương số cũng là người kinh doanh mà trở nên giàu có, nhưng càng giàu thì tuổi thọ càng giảm: “Cự Cơ Dậu, thượng hóa cát dã Túng hữu tài quan, dã bất chung” Nhưng Cự Cơ Mão Dậu đắc cách Chúng Thủy Triều Đông thì lại có người cho rằng Cự Cơ đã gặp Song Hao thì chớ nên có Hóa Lộc mà bị phá cách. Lý do quan điểm này cho rằng Hóa Lộc hành Thổ, khắc với hành thủy của Song Hao khiến cho Thiên Cơ thiếu nước. Lý luận này xét ra không được ổn vì cũng có nhiều sao khác thuộc hành Thổ như Lộc Tồn, tại sao chỉ áp dụng cho Hóa Lộc mà thôi? “Song Hao Mão Dậu ái ngộ Cự Cơ, tối hiềm Hóa Lộc” Thật ra Song Hao ở Mão Dậu kỵ với Hóa Lộc không phải nguyên nhân chính là do sự sinh khắc của ngũ hành mà là do ý nghĩa của Song Hao mà ra. Hao là hao tốn, tiêu hao. Với ý nghĩa đó cho nên Hóa Lộc, Lộc Tồn không nên gặp Hao, nếu gặp thì khác nào mang tiền thả trôi theo dòng nước. Tóm lại, Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ + Song Hao + Hóa Lộc hay Lộc Tồn thì đương số cũng là ra tiền một cách dễ dàng, nhưng tiền vào tay mặt thì ra tay trái.
Đối với nữ phái, Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ là người đàn bà có tay làm ăn buôn bán, trên thương trường đương số không thua gì những đấng mày râu. Tuy nhiên, một Thiên Cơ hiền lành không thể trói buộc nổi Cự Môn với bản tánh liều lĩnh, phóng khoáng. Cự Môn dù miếu vượng cũng có điều bất lợi cho phái nữ bởi vì Cự Môn là cái miệng, là lời ăn tiếng nói, là khẩu thiệt thị phi, khắc khẩu, vợ chồng xa nhau thì thương nhớ, gần nhau thì cãi vã suốt ngày…Cho nên đàn bà có Cự Môn thủ Mệnh hay Thân thì bên ngoài giỏi, tháo vát nhưng bên trong gia đạo thường vẫn có điều không ổn, ít nhiều hạnh phúc gia đình bị những đám mây đen của Cự Môn lãng vãng đâu đó. Đó chính là nguyên nhân khiến cho Cự Môn phải mang danh là ám tinh. Nhưng nếu dùng lăng kính của Freud mà chiếu rọi cho tận cùng, thì một phần chính cũng vì đàn bà Cự Cơ Mão Dậu có khá nhiều tham vọng và khuynh hướng tình dục rất mạnh mẽ. Với bản chất đặc biệt đó chúng ta thấy có hai mẫu người đàn bà Cự Cơ Mão Dậu:
Họ có thể che dấu hay dồn nén khuynh hướng tình dục của mình thành những tham vọng trên lãnh vực làm ăn kinh doanh của họ, và đây chính là con đường mà Freud gọi là “tình dục thăng hoa thành tài năng” Trong những trường hợp tương tự như thế, chúng ta mới thấy quan điểm của Freud đã được khoa Tử Vi chứng nghiệm. Thật vậy, khi xét đến những là số của những vị chân tu chúng ta đều thấy hầu hết những lá số này đều có bóng dáng của Đào Hồng hay những dâm tinh khác. Điều này không có gì nghịch lý, kẻ chân tu vốn cũng đầy đủ thất tình lục dục như mọi người, có khi còn mạnh hơn, nhưng cái hay là họ đẩy tất cả những thất tình lục dục đó vào một chữ “không” biến tình dục thành tài năng, và được như vậy họ mới quán triệt được chữ “đạo”, rồi mới hiểu được chữ “ngộ” là gì.
Là người có cuộc sống buông thả, phóng khoáng. Họ dùng những thành qủa, giai cấp mà họ đạt được trong xã hội đễ biện minh cho quan niệm sống của họ. Và trên thương trường, đây cũng là người đàn bà không thua sút ai, mà cả trong cuộc chơi, họ cũng là người dám bỏ ngàn vàng để mua lấy trận cười làm vui…Đó chính là mẫu người đàn bà mà chúng ta thường gọi là “đàn bà dễ có mấy ai”
Được cảm ơn bởi: tuetue, arowana
-
- Lục đẳng
- Bài viết: 2692
- Tham gia: 00:39, 07/03/12
TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH
Mẫu người đa tài đa năng
Chúng ta vẫn thấy những người tuy sống trong một hoàn cảnh thoải mái, một cuộc sống tương đối đầy đủ nhưng nét mặt của họ lúc nào cũng có sự tư lự, một nét suy tư nào đó, hay phảng phất trên mặt một thoáng buồn miên man như người đang ôm một nỗi niềm tâm sự sâu kín. Khoa Tử Vi, những người này thường cung Mệnh của họ đều có Tang Môn hoặc Bạch Hổ tọa thủ, và chúng ta gọi là mẫu người Tang Hổ. Hai sao Tang Môn, Bạch Hổ là hai bại tinh trong nhóm lục bại. Tuy là hai bại tinh, nhưng người Tang Hổ không phải là người bất tài vô tướng theo cái ý nghĩa mà chúng ta vừa nói đến. Ngược lại, có rất nhiều người đã thành danh cũng nhờ vào hai sao Tang Hổ. Tang Môn thuộc hành Mộc. Bạch Hổ thuộc hành Kim, cả hai đắc địa tại Dần Thân Mão Dậu. hai sao này lúc nào cũng đi đôi với nhau ở vị trí xung chiếu. Tang Hổ đắc địa thủ mệnh là người gan dạ, cương quyết và ngay thẳng. Người Tang Hổ có đủ sự gan lì để thử thách với nghịch cảnh. Khả năng đó có thể xem như ông Trời dành riêng cho họ vì cuộc đời của những người này kể từ lúc lột lòng mẹ thì sự thử thách dành cho họ đã chờ sẳn rồi. Người Tang Hổ thường chịu cảnh mồ côi từ lúc còn bé, nếu không thì tuổi thơ ấu cũng phài chịu cảnh xa cha mẹ, gia đình ly tán, thiếu tình thương và sự đùm bọc của cha mẹ, anh chị. Phải chăng vì vậy mà người Tang Hổ luôn có một nét buồn sâu kín trên khuôn mặt, và nét buồn này sâu đậm nhất trong khoảng thời gian của tuổi thanh xuân tức là khoảng tiền vận rồi sau đó sẽ phai nhạt dần. Để bù trừ cho những bất hạnh đó, người có Tang Hổ đắc địa là người đa tài đa năng, đa hiệu. Tuy tính tình cương quyết và đôi khi trở thành ương ngạnh, nhưng họ là người quyền biến và có khả năng giải quyết công việc cho thích ứng với hoàn cảnh. Năng khiếu nổi bậc nhất của họ là sự suy luận và phán đoán rất sắc bén.
Đó chính là yếu tố căn bản cho khả năng hùng biện cũng như khả năng thuyết phục người khác. Vì vậy, những lãnh vực về chính trị, ngoại giao và luật pháp đều là những sở trường của người Tang Hổ. Trong trường hợp Tang Hổ hãm địa thủ mệnh thì cuộc đời luôn gặp nhiều nghịch cảnh đau thương, ngang trái. Nếu không làm những ngành nghề liên quan như cảnh sát, toà án, luật sư…thì dễ vướng vào vòng tù tội và tuổi thọ cũng ngắn ngủi. Về vấn đề bệnh tật, nói chung cả nam lẫn nữ, dù đắc hay hãm, người Tang Hổ thường hay bị đau ốm bệnh tật, nhất là những bệnh về xương, máu như cao huyết áp, mỡ trong máu…Riêng với nữ mệnh thì nét mặt u sầu, chưa lập gia đình thì tình duyên trắc trở, lận đận, khi có gia đình rồi lại khắc chồng khắc con, nếu gặp thêm Thiên Riêu thì mức độ hình khắc có thể thành sát phu. Cho nên nếu lập gia đình muộn cũng có thể chế giải được phần nào. Nữ mệnh Tang Hổ thì vấn đề sinh nở thường hay gặp khó khăn, khi có con thì lại khổ vì con cái và dễ mắc những bệnh về các bộ phận sinh sản như tử cung, buồng trứng…Ngoài ra, người Tang Hổ, dù nam hay nữ, lúc còn trẻ không có tay nuôi súc vật, phải vào trung vận thì đặc tính này mới giảm dần. Mệnh an tại Dần có Bạch Hổ là cách Hổ Cư Hổ Vị là cọp trong rừng sâu. Đây chỉ người có tài, có địa vị, quyền uy, và thường phát về võ nghiệp. Mệnh an tại Mão có Bạch Hổ là cách Hổ Xuất Sơn Lâm. Cung Mão thuộc phương đông, là thời gian của bình minh, là thời điểm bắt đầu của một ngày, ánh mặt trời vừa rực rỡ, biểu tượng cho một vận hội tốt đẹp đang chờ đón.
Cho nên, người đắc cách này, cuộc đời thường hay gặp được những may mắn đưa đến sự thành công dễ dàng. Bạch Hổ ở hai vị trí Mão Dậu còng gọi là cách “tứ phương củng phục anh hùng” ý nói những người có khả năng lãnh đạo, thâu phục được anh hùng hào kiệt bốn phương. Người mệnh an tại Dậu có Bạch Hổ là cách Hổ Khiếu Tây Phương. Cung Dậu thuộc phương Tây, là thời gian của hoàng hôn vì vậy có người cho rằng Bạch Hổ ở Dậu không tác hại vì đó là lúc cọp đã ăn no nên vào sâu trong rừng mà ngủ. Theo ý của người viết thì hai chữ Tây Phương hàm ý là “cõi Phật” Khiếu Tây Phương là hướng về phương Tây là lạy, cũng có nghĩa là có lòng hướng Phật. Người có cách này là người có tánh tình nhân hậu và thường có khuynh hướng tôn giáo mạnh mẽ. Chỉ nói riêng về lĩnh vực tâm linh, thì người Bạch Hổ Khiếu Tây Phương có phần nào giống người Tử Tham Mão Dậu. Trong hai sao Tang Hổ thì Bạch Hổ có tầm ảnh hưởng đáng kể hơn Tang Môn. Ví dụ như Bạch Hổ đi với Tấu Thư (Hổ Tấu) có nghĩa là Hổ mang hòm sách, chỉ người có số khoa bảng, học rộng hiểu nhiều. Bạch Hổ gặp Phi Liêm (Phi Hổ) như Hổ mọc thêm cánh, cách này giống như Phi Mã, chỉ những người thường gặp được các vận hội may mắn đưa đến sự thành công rất dễ dàng trong cuộc đời. Hạn gặp Phi Hổ hay Phi Mã là vận may đang đến, nếu dự tính điều gì thì nên mạnh dạn xúc tiến, thi cử sẽ đỗ đạt, tìm việc làm sẽ được như ý, có việc rồi thì sẽ được thăng chức thăng lương… Bạch Hổ cũng là một trong Tứ Linh (Long Phượng Hổ Cái) Mệnh, Quan, Phúc, Di đắc Tứ Linh thì đường công danh thuận lợi và có địa vị trong xã hội. Bộ Tứ Linh cũng chế giải được phần nào những tai họa do các hung sát tinh gây ra. Hạn Tứ Linh là cơ hội tốt cho vấn đề công danh. Bạch Hổ và Thiên Hình hay Kình Dương đồng cung thủ Mệnh là cách “hổ hàm kiếm” = Hổ ngậm kiếm, chỉ người gan dạ, oai dũng, có tư cách và chí khí, nếu có thêm những võ tinh hội họp thì đường binh nghiệp sẽ phát rất nhanh. Tang Hổ cũng là những sao lưu, cho nên hạn có Tang Hổ, gặp Lưu Tang, Lưu Hổ là có tang trong hạn đó. Tang Hổ nhập hạn gặp Khốc Hư cũng cùng một ý nghĩa. Ngoài việc có tang, hạn gặp Tang Hổ cũng nên đề phòng tai nạn và bệnh tật, nhất là những chứng bệnh về máu huyết và bệnh về xương như đau khớp, rỗng xương… Đàn bà lúc có thai và sinh nở mà hạn gặp Tang Hổ cũng nên đề phòng việc sinh khó hoặc hư thai. “Nam nhân Tang Hổ hữu tài uyên bác Nữ mệnh Hổ Riêu đa sự qủa ưu” Hai câu trên có thể dùng để tóm lược những nét đặc thù của mẫu người Tang Hổ: đàn ông Tang Hổ thì đa tài đa năng. Đàn bà Tang Hổ tình duyên ngang trái, gia đạo buồn phiền.
Chúng ta vẫn thấy những người tuy sống trong một hoàn cảnh thoải mái, một cuộc sống tương đối đầy đủ nhưng nét mặt của họ lúc nào cũng có sự tư lự, một nét suy tư nào đó, hay phảng phất trên mặt một thoáng buồn miên man như người đang ôm một nỗi niềm tâm sự sâu kín. Khoa Tử Vi, những người này thường cung Mệnh của họ đều có Tang Môn hoặc Bạch Hổ tọa thủ, và chúng ta gọi là mẫu người Tang Hổ. Hai sao Tang Môn, Bạch Hổ là hai bại tinh trong nhóm lục bại. Tuy là hai bại tinh, nhưng người Tang Hổ không phải là người bất tài vô tướng theo cái ý nghĩa mà chúng ta vừa nói đến. Ngược lại, có rất nhiều người đã thành danh cũng nhờ vào hai sao Tang Hổ. Tang Môn thuộc hành Mộc. Bạch Hổ thuộc hành Kim, cả hai đắc địa tại Dần Thân Mão Dậu. hai sao này lúc nào cũng đi đôi với nhau ở vị trí xung chiếu. Tang Hổ đắc địa thủ mệnh là người gan dạ, cương quyết và ngay thẳng. Người Tang Hổ có đủ sự gan lì để thử thách với nghịch cảnh. Khả năng đó có thể xem như ông Trời dành riêng cho họ vì cuộc đời của những người này kể từ lúc lột lòng mẹ thì sự thử thách dành cho họ đã chờ sẳn rồi. Người Tang Hổ thường chịu cảnh mồ côi từ lúc còn bé, nếu không thì tuổi thơ ấu cũng phài chịu cảnh xa cha mẹ, gia đình ly tán, thiếu tình thương và sự đùm bọc của cha mẹ, anh chị. Phải chăng vì vậy mà người Tang Hổ luôn có một nét buồn sâu kín trên khuôn mặt, và nét buồn này sâu đậm nhất trong khoảng thời gian của tuổi thanh xuân tức là khoảng tiền vận rồi sau đó sẽ phai nhạt dần. Để bù trừ cho những bất hạnh đó, người có Tang Hổ đắc địa là người đa tài đa năng, đa hiệu. Tuy tính tình cương quyết và đôi khi trở thành ương ngạnh, nhưng họ là người quyền biến và có khả năng giải quyết công việc cho thích ứng với hoàn cảnh. Năng khiếu nổi bậc nhất của họ là sự suy luận và phán đoán rất sắc bén.
Đó chính là yếu tố căn bản cho khả năng hùng biện cũng như khả năng thuyết phục người khác. Vì vậy, những lãnh vực về chính trị, ngoại giao và luật pháp đều là những sở trường của người Tang Hổ. Trong trường hợp Tang Hổ hãm địa thủ mệnh thì cuộc đời luôn gặp nhiều nghịch cảnh đau thương, ngang trái. Nếu không làm những ngành nghề liên quan như cảnh sát, toà án, luật sư…thì dễ vướng vào vòng tù tội và tuổi thọ cũng ngắn ngủi. Về vấn đề bệnh tật, nói chung cả nam lẫn nữ, dù đắc hay hãm, người Tang Hổ thường hay bị đau ốm bệnh tật, nhất là những bệnh về xương, máu như cao huyết áp, mỡ trong máu…Riêng với nữ mệnh thì nét mặt u sầu, chưa lập gia đình thì tình duyên trắc trở, lận đận, khi có gia đình rồi lại khắc chồng khắc con, nếu gặp thêm Thiên Riêu thì mức độ hình khắc có thể thành sát phu. Cho nên nếu lập gia đình muộn cũng có thể chế giải được phần nào. Nữ mệnh Tang Hổ thì vấn đề sinh nở thường hay gặp khó khăn, khi có con thì lại khổ vì con cái và dễ mắc những bệnh về các bộ phận sinh sản như tử cung, buồng trứng…Ngoài ra, người Tang Hổ, dù nam hay nữ, lúc còn trẻ không có tay nuôi súc vật, phải vào trung vận thì đặc tính này mới giảm dần. Mệnh an tại Dần có Bạch Hổ là cách Hổ Cư Hổ Vị là cọp trong rừng sâu. Đây chỉ người có tài, có địa vị, quyền uy, và thường phát về võ nghiệp. Mệnh an tại Mão có Bạch Hổ là cách Hổ Xuất Sơn Lâm. Cung Mão thuộc phương đông, là thời gian của bình minh, là thời điểm bắt đầu của một ngày, ánh mặt trời vừa rực rỡ, biểu tượng cho một vận hội tốt đẹp đang chờ đón.
Cho nên, người đắc cách này, cuộc đời thường hay gặp được những may mắn đưa đến sự thành công dễ dàng. Bạch Hổ ở hai vị trí Mão Dậu còng gọi là cách “tứ phương củng phục anh hùng” ý nói những người có khả năng lãnh đạo, thâu phục được anh hùng hào kiệt bốn phương. Người mệnh an tại Dậu có Bạch Hổ là cách Hổ Khiếu Tây Phương. Cung Dậu thuộc phương Tây, là thời gian của hoàng hôn vì vậy có người cho rằng Bạch Hổ ở Dậu không tác hại vì đó là lúc cọp đã ăn no nên vào sâu trong rừng mà ngủ. Theo ý của người viết thì hai chữ Tây Phương hàm ý là “cõi Phật” Khiếu Tây Phương là hướng về phương Tây là lạy, cũng có nghĩa là có lòng hướng Phật. Người có cách này là người có tánh tình nhân hậu và thường có khuynh hướng tôn giáo mạnh mẽ. Chỉ nói riêng về lĩnh vực tâm linh, thì người Bạch Hổ Khiếu Tây Phương có phần nào giống người Tử Tham Mão Dậu. Trong hai sao Tang Hổ thì Bạch Hổ có tầm ảnh hưởng đáng kể hơn Tang Môn. Ví dụ như Bạch Hổ đi với Tấu Thư (Hổ Tấu) có nghĩa là Hổ mang hòm sách, chỉ người có số khoa bảng, học rộng hiểu nhiều. Bạch Hổ gặp Phi Liêm (Phi Hổ) như Hổ mọc thêm cánh, cách này giống như Phi Mã, chỉ những người thường gặp được các vận hội may mắn đưa đến sự thành công rất dễ dàng trong cuộc đời. Hạn gặp Phi Hổ hay Phi Mã là vận may đang đến, nếu dự tính điều gì thì nên mạnh dạn xúc tiến, thi cử sẽ đỗ đạt, tìm việc làm sẽ được như ý, có việc rồi thì sẽ được thăng chức thăng lương… Bạch Hổ cũng là một trong Tứ Linh (Long Phượng Hổ Cái) Mệnh, Quan, Phúc, Di đắc Tứ Linh thì đường công danh thuận lợi và có địa vị trong xã hội. Bộ Tứ Linh cũng chế giải được phần nào những tai họa do các hung sát tinh gây ra. Hạn Tứ Linh là cơ hội tốt cho vấn đề công danh. Bạch Hổ và Thiên Hình hay Kình Dương đồng cung thủ Mệnh là cách “hổ hàm kiếm” = Hổ ngậm kiếm, chỉ người gan dạ, oai dũng, có tư cách và chí khí, nếu có thêm những võ tinh hội họp thì đường binh nghiệp sẽ phát rất nhanh. Tang Hổ cũng là những sao lưu, cho nên hạn có Tang Hổ, gặp Lưu Tang, Lưu Hổ là có tang trong hạn đó. Tang Hổ nhập hạn gặp Khốc Hư cũng cùng một ý nghĩa. Ngoài việc có tang, hạn gặp Tang Hổ cũng nên đề phòng tai nạn và bệnh tật, nhất là những chứng bệnh về máu huyết và bệnh về xương như đau khớp, rỗng xương… Đàn bà lúc có thai và sinh nở mà hạn gặp Tang Hổ cũng nên đề phòng việc sinh khó hoặc hư thai. “Nam nhân Tang Hổ hữu tài uyên bác Nữ mệnh Hổ Riêu đa sự qủa ưu” Hai câu trên có thể dùng để tóm lược những nét đặc thù của mẫu người Tang Hổ: đàn ông Tang Hổ thì đa tài đa năng. Đàn bà Tang Hổ tình duyên ngang trái, gia đạo buồn phiền.
Được cảm ơn bởi: tuetue, Muathu_80, Viendanho, arowana
-
- Lục đẳng
- Bài viết: 2692
- Tham gia: 00:39, 07/03/12
TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH
Mẫu người đài các
Hoa Cái chỉ là một sao nhỏ cho nên có nhiều người khi giải đoán lá số thường ít khi để ý đến sao này. Thật ra, tuy chỉ la phụ tinh nhỏ, Hoa Cái cũng có thể tạo nên bản chất đặc biệt của mẫu người mà chúng ta vẫn thường gặp trong cuộc sống hằng ngày. Biết đâu, có thể người đó là chính mình, chồng mình, vợ mình, người yêu của mình, bạn bè của mình hay một người nào đó mà mình quen biết.
Hoa Cái là biểu tượng của cái lọng, thuộc hành Kim và không thấy sách vở đề cập dến những vị trí đắc hãm của phụ tinh này. Hoa Cái còn được gọi với tên rất đẹp là Đài Cát Tinh. Chỉ hai chữ Đài Cát cũng đã nói lên bản chất của những người Hoa Cái thủ Mệnh hoặc Hoa Cái cư Thiên Di và có thể gọi chung là mẫu người Đài Cát.
Hoa Cái chủ về sắc đẹp, sự chưng diện, sự sang trọng quý phái. Cho nên, về hình dáng, người có Hoa Cái thủ Mệnh, dù là đàn ông hay đàn bà đều có nét mặt thanh tú, vóc dáng thanh nhã, nói năng và cư sử nhẹ nhàng, lịch sự. Đây là mẫu người rất chú trọng bề ngoài, từ mái tóc cho đến cách ăn mặc. Họ không ngại bỏ công bỏ của ra để sửa soạn cho mái tóc, chọn lực một cái cà vạt cho hợp với màu áo, một hiệu son phấn nào đó cho phù hợp với màu da.v.v..Sự chưng diện đối với họ là một nghệ thuật, cũng là một nhu cầu cần thiết như việc ăn uống vậy. Họ như những loại công thích múa đễ khoe sắc cho người đời thưởng thức những gì trời ưu đãi họ.
Bởi vậy trong lĩnh vực sinh hoạt, người có Hoa Cái thủ Mệnh nếu gặp thêm những sao Xương Khúc, Thái Âm, Đào Hồng Hỷ…là những người của ngành quảng cáo hay trình diễn thời trang, diễn viên kịch nghệ, điện ảnh, cải lương v.v…Nếu là những người cầm bút, cầm cọ, cầm đàn thì nét vẽ nhẹ nhàng, dòng nhạc trữ tình, văn phong chải chuốt và đều mang nặng khuynh hướng lãng mạn.
Dưới thời đại phong kiến của Trung Hoa, cái quan niệm vương quyền được biểu tượng bằng những hình ảnh như Long chầu, Hổ phục, phượng múa lọng che, và Hoa Cái là một trong 4 biểu tượng đó, gọi tắt là Tứ Linh (Long Trì, Phượng Cát, Hoa Cái, Bạch Hổ) chỉ sự uy quyền, hiễn đạt hay công danh sự nghiệp.
Trường hợp nếu Hoa Cái không thủ Mệnh nhưng phía trước của Mệnh, Thân, Thiên Di, Quan Lộc có Hoa Cái, phía sau có Thiên Mã tọa thủ thì đây là cách Tiền Cái Hậu Mã, có nghĩa là lọng đi trước, ngựa theo sau, là cảnh tiền hô hậu ủng mà chúng ta thường gọi là cảnh vinh quy bái tổ, chỉ sự hiễn đạt về công danh và sự nghiệp.
Nếu Hoa Cái không thủ Mệnh mà tọa thủ ở cung Thiên Di, bản tính cũng giống như Hoa Cái thủ Mệnh nhưng có một điểm đặc biệt là khi họ ra khỏi nhà là được người trên kẻ dưới thương mến. Có thể vì tính tình của họ vui vẽ, thân thiện, cởi mở. Cũng có thể vì cách ăn mặc, lời lẽ, cử chỉ của họ nhẹ nhàng, lịch thiệp, họ có cái duyên ngầm nào đó nên dễ có cảm tình với mọi người. Với những ưu điểm đó, người có Hoa Cái cư Thiên Di rất thích hợp với những công việc như chào hàng, tiếp tân, đại diện thưong mại, ngoại giao v.v…
Tuy nhiên những đặc tính của Hoa Cái có thể thay đổi tùy theo ảnh hưởng của một số sao khác. Chẳng hạn, người có Hoa Cái thủ Mệnh sẳn có khuynh hướng lãng mạn, nếu gặp thêm Đào Hoa, Mộc Dục, Riêu… thì sự lãng mạn sẽ đi qúa trớn đưa đến sự buông thả cả hai mặt tình cảm và tình dục. Vì Hoa Cái là biểu tượng của sự sang trọng, quý phái, đài cát… Cho nên những người có khuynh hướng sa đọa này cũng thuộc loại giai cấp thượng lưu, của những kẻ có tiền, có quyền lực.
Riêng với phái Nam có Hoa Cái thủ Mệnh cũng thích sửa soạn, chưng diện, nước bông, nước hoa…Hoa Cái ở đây cũng nói lên phần nào sự biến thái về tâm sinh lý của đương số. Mức độ nặng hay nhẹ thì còn tùy thuộc vào toàn bộ lá số.
Hoa Cái chỉ là một sao nhỏ cho nên có nhiều người khi giải đoán lá số thường ít khi để ý đến sao này. Thật ra, tuy chỉ la phụ tinh nhỏ, Hoa Cái cũng có thể tạo nên bản chất đặc biệt của mẫu người mà chúng ta vẫn thường gặp trong cuộc sống hằng ngày. Biết đâu, có thể người đó là chính mình, chồng mình, vợ mình, người yêu của mình, bạn bè của mình hay một người nào đó mà mình quen biết.
Hoa Cái là biểu tượng của cái lọng, thuộc hành Kim và không thấy sách vở đề cập dến những vị trí đắc hãm của phụ tinh này. Hoa Cái còn được gọi với tên rất đẹp là Đài Cát Tinh. Chỉ hai chữ Đài Cát cũng đã nói lên bản chất của những người Hoa Cái thủ Mệnh hoặc Hoa Cái cư Thiên Di và có thể gọi chung là mẫu người Đài Cát.
Hoa Cái chủ về sắc đẹp, sự chưng diện, sự sang trọng quý phái. Cho nên, về hình dáng, người có Hoa Cái thủ Mệnh, dù là đàn ông hay đàn bà đều có nét mặt thanh tú, vóc dáng thanh nhã, nói năng và cư sử nhẹ nhàng, lịch sự. Đây là mẫu người rất chú trọng bề ngoài, từ mái tóc cho đến cách ăn mặc. Họ không ngại bỏ công bỏ của ra để sửa soạn cho mái tóc, chọn lực một cái cà vạt cho hợp với màu áo, một hiệu son phấn nào đó cho phù hợp với màu da.v.v..Sự chưng diện đối với họ là một nghệ thuật, cũng là một nhu cầu cần thiết như việc ăn uống vậy. Họ như những loại công thích múa đễ khoe sắc cho người đời thưởng thức những gì trời ưu đãi họ.
Bởi vậy trong lĩnh vực sinh hoạt, người có Hoa Cái thủ Mệnh nếu gặp thêm những sao Xương Khúc, Thái Âm, Đào Hồng Hỷ…là những người của ngành quảng cáo hay trình diễn thời trang, diễn viên kịch nghệ, điện ảnh, cải lương v.v…Nếu là những người cầm bút, cầm cọ, cầm đàn thì nét vẽ nhẹ nhàng, dòng nhạc trữ tình, văn phong chải chuốt và đều mang nặng khuynh hướng lãng mạn.
Dưới thời đại phong kiến của Trung Hoa, cái quan niệm vương quyền được biểu tượng bằng những hình ảnh như Long chầu, Hổ phục, phượng múa lọng che, và Hoa Cái là một trong 4 biểu tượng đó, gọi tắt là Tứ Linh (Long Trì, Phượng Cát, Hoa Cái, Bạch Hổ) chỉ sự uy quyền, hiễn đạt hay công danh sự nghiệp.
Trường hợp nếu Hoa Cái không thủ Mệnh nhưng phía trước của Mệnh, Thân, Thiên Di, Quan Lộc có Hoa Cái, phía sau có Thiên Mã tọa thủ thì đây là cách Tiền Cái Hậu Mã, có nghĩa là lọng đi trước, ngựa theo sau, là cảnh tiền hô hậu ủng mà chúng ta thường gọi là cảnh vinh quy bái tổ, chỉ sự hiễn đạt về công danh và sự nghiệp.
Nếu Hoa Cái không thủ Mệnh mà tọa thủ ở cung Thiên Di, bản tính cũng giống như Hoa Cái thủ Mệnh nhưng có một điểm đặc biệt là khi họ ra khỏi nhà là được người trên kẻ dưới thương mến. Có thể vì tính tình của họ vui vẽ, thân thiện, cởi mở. Cũng có thể vì cách ăn mặc, lời lẽ, cử chỉ của họ nhẹ nhàng, lịch thiệp, họ có cái duyên ngầm nào đó nên dễ có cảm tình với mọi người. Với những ưu điểm đó, người có Hoa Cái cư Thiên Di rất thích hợp với những công việc như chào hàng, tiếp tân, đại diện thưong mại, ngoại giao v.v…
Tuy nhiên những đặc tính của Hoa Cái có thể thay đổi tùy theo ảnh hưởng của một số sao khác. Chẳng hạn, người có Hoa Cái thủ Mệnh sẳn có khuynh hướng lãng mạn, nếu gặp thêm Đào Hoa, Mộc Dục, Riêu… thì sự lãng mạn sẽ đi qúa trớn đưa đến sự buông thả cả hai mặt tình cảm và tình dục. Vì Hoa Cái là biểu tượng của sự sang trọng, quý phái, đài cát… Cho nên những người có khuynh hướng sa đọa này cũng thuộc loại giai cấp thượng lưu, của những kẻ có tiền, có quyền lực.
Riêng với phái Nam có Hoa Cái thủ Mệnh cũng thích sửa soạn, chưng diện, nước bông, nước hoa…Hoa Cái ở đây cũng nói lên phần nào sự biến thái về tâm sinh lý của đương số. Mức độ nặng hay nhẹ thì còn tùy thuộc vào toàn bộ lá số.
Được cảm ơn bởi: codai2810, Viendanho
-
- Lục đẳng
- Bài viết: 2692
- Tham gia: 00:39, 07/03/12
TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH
Mẫu người khốc hư...
Thiên Khốc và Thiên Hư chỉ là hai sao nhỏ trong những phụ tinh của khoa Tử Vi. Nhưng không phải vì thế mà chúng không có ý nghĩa gì đáng kể trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Thật vậy, con người khi lọt lòng mẹ đã cất tiếng khóc chào đời, khi lớn lên cũng qua tiếng cười mà biết được niềm hạnh phúc, cũng như tiếng khóc đễ biết được nổi thống khổ, thành bại ở đời. Khốc Hư là biểu tượng của 2 giọt nước mắt, vì vậy cho dù bất cứ lãnh vực nào của cuộc đời, khi nói đến sức khỏe, tình duyên, hôn nhân, tiền bạc, hay công danh sự nghiệp thì sự hiện diện của Khốc Hư cũng cho ta biết đương số khi nào đi vào những lãnh vực này, con đường với những nụ cười thoải mái hay con đường đầy nước mắt thương đau. Chẳng hạn, chưa nói đến khốc hư tọa thủ tại Mệnh mà chỉ nói đến Khốc Hư tọa thủ tại cung Quan Lộc thì cũng hiểu được công việc làm của đương số phải vất vả, lận đận, ba lần bại mới được một lần nên. Cùng một ngành nghề nhưng người có Khốc Hư ở Quan Lộc phải lao tâm khổ lực hơn những người không có. Nếu Khốc Hư ở Tài Lộc thì đồng tiền kiếm được chắc chắn phải đổi bằng nhiều mồ hôi và nước mắt. Khốc Hư ở Phu Thê thì việc hôn nhân phải trải qua nhiều trở ngại, nếu ăn ở với nhau rồi thì nước mắt cũng nhiều hơn là nụ cười. Khốc Hư ở cung Tử Tức thì cha mẹ nuôi con rất cực khổ, đến khi con lớn lên lại phải gánh chịu nhiều phiền muộn vì con cái. Khốc Hư ở Nô Bộc thì từ bạn bè đến kẻ ăn người ở, và cả người tình của mình đều thường xuyên đem đến những phiền muộn cho mình trong việc giao tế, làm ăn và chuyện tình cảm. Thiên Khốc, Thiên Hư đều thuộc hành Thủy, đắc địa ở Tí, Ngọ, Mão, Dậu, và Mùi.
Là biểu tượng của 2 giọt nước mắt, cho nên người có KH thủ Mệnh thường hay lo lắng, hay suy tư, và cũng rất hay bị đau ốm bệnh tật. Đây là mẫu người kín đáo và có phần cô đôc tựa như Vũ Khúc hay Đẩu Quân thủ Mệnh vậy. Lúc còn sống trong gia đình thì khắc với cha mẹ, anh em. Khi có gia đình thì khắc với vợ con, nhưng sự xung khắc không đến nổi trầm trọng. Người KH nếu chưa qua khỏi tiền vận thì đừng nên toan tính nhiều để rồi thất vọng. Muốn được xứng ý toại lòng phải từ trung vận trở về sau. Tuy nhiên, nếu trên cương vị một người chủ hay một cấp chỉ huy thì mẫu người KH thủ Mệnh là một cấp thừa hành tốt vì họ là người có tinh thần trách nhiệm. Giao việc cho họ, chúng ta sẽ thấy họ lo lắng, suy nghĩ, soạn thảo kế hoạch, đắn đo cân nhắc rất thận trọng. Và khi đã làm thì làm đến nơi đến chốn. Nhưng oái oăm thay, với tinh thần làm việc như thế mà ít khi người KH đạt được kết qủa một cách dễ dàng ngay từ phút đầu tiên. Vì thế khoa Tử Vi gọi mẫu người KH là “Tiền Trở Hậu Thành” Có nghĩa là thường bị trở ngại lúc đầu rồi sau đó mới thành công. Tuy nhiên đặc tính Tiên Trở Hậu Thành chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ trong tiền vận mà thôi, rồi sau đó sự tác hại sẽ nhẹ dần. Về đặc tính này, người KH có phần nào giống người Vô Chính Diệu: trong một hạn, dù tiểu hay đại hạn, và trong cả một đời người, chỉ được may mắn, hanh thông vào nửa đời sau mà thôi. Có phải chăng vì vậy mà người KH rất có ý chí, luôn luôn có gắng để vươn lên trong mọi tình huống. Khi vượt qua khỏi cái tiền vận gian nan sẽ bước vào một hậu vận tốt đẹp hơn. Điểm nổi bật của người KH là khả năng thuyết phục người khác, có tài hùng biện và rất sắc bén trong lĩnh vực chính trị. Nếu KH đi chung với Cự Nhật hay Tang Hổ thì đây là những thầy giáo giỏi, những nhà ngoại giao hay chính khách có tài. KH có hai vị trí tốt đẹp là hai cung Tí và Ngọ mà chúng ta quen gọi là Khốc Hư Tí Ngọ là cách tiền bần hậu phú. Nếu Mệnh an tại Tí/Ngọ có KH đồng cung (ờ Tí tốt hơn Ngọ) thì cuộc đời trước nghèo sau giàu. Sự thay đổi ở vào thời điểm nào, nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào toàn bộ lá số.
Mục lục
Thiên Khốc và Thiên Hư chỉ là hai sao nhỏ trong những phụ tinh của khoa Tử Vi. Nhưng không phải vì thế mà chúng không có ý nghĩa gì đáng kể trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Thật vậy, con người khi lọt lòng mẹ đã cất tiếng khóc chào đời, khi lớn lên cũng qua tiếng cười mà biết được niềm hạnh phúc, cũng như tiếng khóc đễ biết được nổi thống khổ, thành bại ở đời. Khốc Hư là biểu tượng của 2 giọt nước mắt, vì vậy cho dù bất cứ lãnh vực nào của cuộc đời, khi nói đến sức khỏe, tình duyên, hôn nhân, tiền bạc, hay công danh sự nghiệp thì sự hiện diện của Khốc Hư cũng cho ta biết đương số khi nào đi vào những lãnh vực này, con đường với những nụ cười thoải mái hay con đường đầy nước mắt thương đau. Chẳng hạn, chưa nói đến khốc hư tọa thủ tại Mệnh mà chỉ nói đến Khốc Hư tọa thủ tại cung Quan Lộc thì cũng hiểu được công việc làm của đương số phải vất vả, lận đận, ba lần bại mới được một lần nên. Cùng một ngành nghề nhưng người có Khốc Hư ở Quan Lộc phải lao tâm khổ lực hơn những người không có. Nếu Khốc Hư ở Tài Lộc thì đồng tiền kiếm được chắc chắn phải đổi bằng nhiều mồ hôi và nước mắt. Khốc Hư ở Phu Thê thì việc hôn nhân phải trải qua nhiều trở ngại, nếu ăn ở với nhau rồi thì nước mắt cũng nhiều hơn là nụ cười. Khốc Hư ở cung Tử Tức thì cha mẹ nuôi con rất cực khổ, đến khi con lớn lên lại phải gánh chịu nhiều phiền muộn vì con cái. Khốc Hư ở Nô Bộc thì từ bạn bè đến kẻ ăn người ở, và cả người tình của mình đều thường xuyên đem đến những phiền muộn cho mình trong việc giao tế, làm ăn và chuyện tình cảm. Thiên Khốc, Thiên Hư đều thuộc hành Thủy, đắc địa ở Tí, Ngọ, Mão, Dậu, và Mùi.
Là biểu tượng của 2 giọt nước mắt, cho nên người có KH thủ Mệnh thường hay lo lắng, hay suy tư, và cũng rất hay bị đau ốm bệnh tật. Đây là mẫu người kín đáo và có phần cô đôc tựa như Vũ Khúc hay Đẩu Quân thủ Mệnh vậy. Lúc còn sống trong gia đình thì khắc với cha mẹ, anh em. Khi có gia đình thì khắc với vợ con, nhưng sự xung khắc không đến nổi trầm trọng. Người KH nếu chưa qua khỏi tiền vận thì đừng nên toan tính nhiều để rồi thất vọng. Muốn được xứng ý toại lòng phải từ trung vận trở về sau. Tuy nhiên, nếu trên cương vị một người chủ hay một cấp chỉ huy thì mẫu người KH thủ Mệnh là một cấp thừa hành tốt vì họ là người có tinh thần trách nhiệm. Giao việc cho họ, chúng ta sẽ thấy họ lo lắng, suy nghĩ, soạn thảo kế hoạch, đắn đo cân nhắc rất thận trọng. Và khi đã làm thì làm đến nơi đến chốn. Nhưng oái oăm thay, với tinh thần làm việc như thế mà ít khi người KH đạt được kết qủa một cách dễ dàng ngay từ phút đầu tiên. Vì thế khoa Tử Vi gọi mẫu người KH là “Tiền Trở Hậu Thành” Có nghĩa là thường bị trở ngại lúc đầu rồi sau đó mới thành công. Tuy nhiên đặc tính Tiên Trở Hậu Thành chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ trong tiền vận mà thôi, rồi sau đó sự tác hại sẽ nhẹ dần. Về đặc tính này, người KH có phần nào giống người Vô Chính Diệu: trong một hạn, dù tiểu hay đại hạn, và trong cả một đời người, chỉ được may mắn, hanh thông vào nửa đời sau mà thôi. Có phải chăng vì vậy mà người KH rất có ý chí, luôn luôn có gắng để vươn lên trong mọi tình huống. Khi vượt qua khỏi cái tiền vận gian nan sẽ bước vào một hậu vận tốt đẹp hơn. Điểm nổi bật của người KH là khả năng thuyết phục người khác, có tài hùng biện và rất sắc bén trong lĩnh vực chính trị. Nếu KH đi chung với Cự Nhật hay Tang Hổ thì đây là những thầy giáo giỏi, những nhà ngoại giao hay chính khách có tài. KH có hai vị trí tốt đẹp là hai cung Tí và Ngọ mà chúng ta quen gọi là Khốc Hư Tí Ngọ là cách tiền bần hậu phú. Nếu Mệnh an tại Tí/Ngọ có KH đồng cung (ờ Tí tốt hơn Ngọ) thì cuộc đời trước nghèo sau giàu. Sự thay đổi ở vào thời điểm nào, nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào toàn bộ lá số.
Mục lục
Được cảm ơn bởi: codai2810, Viendanho
-
- Lục đẳng
- Bài viết: 2692
- Tham gia: 00:39, 07/03/12
TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH
Phần II : Luận cung mệnh thân
I.Tử Vi ở cung mệnh (thân)
Tử Vi độc toạ ở hai cung Tí hoặc Ngọ, nếu là trường hợp "bách quan triều củng" thì ưa đến đại hạn hay lưu niên được Hoá Lộc, Hoá Quyền, Hoá Khoa. Nếu Tử Vi Hoá Quyền hoặc Hoá Khoa ở nguyên cục mà không có "bách quan triều củng", thì ưa đến đại hạn hoặc lưu niên có các sao Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật hội hợp.
Nếu nguyên cục vốn là cách cục "tại dã cô quân", đến niên hạn dù được Hoá Lộc, Hoá Quyền, Hoá Khoa, thì cát lợi cũng nhỏ, e rằng chỉ là nhất thời đắc ý. Nếu nguyên cục vốn là cách cục "vô đạo cô quân", lại đến niên hạn có các sao sát, kị tụ tập, thường chủ về tai hoạ, mà phần nhiều là tự chuốc lấy.
Phàm là Tử Vi toạ mệnh đều ưa đến cung hạn Thiên Phủ hay Thiên Tướng toạ thủ, ưa nhất là cung hạn Tử Vi độc toạ ở Tí hoặc Ngọ.
Tử Vi độc toạ ở hai cung Tí hoặc Ngọ ưa có Lộc Tồn đồng độ. Có điều, Tử Vi "tại dã cô quân" thì phần nhiều chủ về ích kỷ, hay nghi kỵ. Đến niên hạn có các sao sát, kỵ, hình cùng chiếu, phần nhiều chủ về oán trách, thị phi, thường còn gây nên hoạ kiện tụng.
Phàm là Tử Vi toạ mệnh đều không ưa đến cung hạn Thiên Cơ hay Thiên Lương toạ thủ, có Cự Môn đồng độ, gặp Hoá Kỵ thì càng tệ. Tử Vi độc toạ ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gặp cung hạn Thiên Cơ sẽ chủ về phá tán, nhưng tai ách chỉ là một phen hú vía; gặp cung hạn Cự Môn sẽ chủ về gặp rắc rối khó xử về tình cảm, có cát hoá thì có thể giải quyết, gặp các sao sát, hình thì ứng nghiệm.
"Tử Vi, Phá Quân" thủ mệnh, tối kỵ là cách cục "tại dã cô quân", đến vận hạn Thiên Cơ, Thiên Lương, hay Cự Môn, thường là vận trình có tính then chốt của cuộc đời. Nếu cung hạn gặp các sao sát, kỵ, hình hội chiếu, chủ về dễ xảy ra sự cố, thường có thể ảnh hưởng đến cả cuộc đời; cũng không nên đến niên hạn Thái Dương Hoá Kỵ, thường dẫn đến thị phi, oán trách.
"Tử Vi, Phá Quân" thủ mệnh, Vũ Khúc Hoá Kỵ ở nguyên cục, đến đại hạn "Vũ Khúc, Thất Sát" đồng độ, lại đến lưu niên Thái Dương Hoá Kỵ hoặc Cự Môn Hoá Kỵ, chủ về vì tiền mà chuốc hoạ.
"Tử Vi, Phá Quân" không ưa đến niên hạn Thiên Phủ là "kho trống", "kho lộ", chủ về phá tài; nếu Thiên Phủ có sao lộc, thì chỉ chủ về vì tiền mà mất nghĩa.
"Tử Vi, Phá Quân" đến niên hạn "Thiên Đồng, Thiên Lương" toạ thủ, gặp Thiên Cơ Hoá Kỵ kèm có sát tinh đến xung, chủ về xử sự cần phải thận trọng, có cơ tâm mưu mẹo càng càng nhiều thì phá tán, thất bại càng lớn.
"Tử Vi, Thiên Phủ" thủ mệnh, rất ưa gặp sao lộc, có Lộc Tồn đồng độ, Liêm Trinh Hoá Lộc đến hội, chủ về cự phú. Lấy trường hợp gặp Hoá Lộc, Lộc Tồn của niên hạn làm ứng nghiệm. Ví dụ "Tử Vi, Thiên Phủ" ở cung Dần, người sinh năm Giáp, đến hạn Đinh Mão chủ về kiếm được tiền, hoặc gặp cơ hội làm đại lý mà phát đạt.
"Tử Vi, Thiên Phủ" ưa đến cung hạn Vũ Khúc độc toạ, gặp Lưu Lộc hoặc Tham Lang Hoá Lộc, Liêm Trinh Hoá Lộc, chủ về kiếm được nhiều tiền. Nếu lại có sao phụ, tá cát, không có các sao sát, kỵ, hình hội chiếu, nguyên cục là "Tử Vi, Thiên Phủ" lại có kết cấu cát lợi, tay trắng làm nên mà thành cự phú.
"Tử Vi, Thiên Phủ" không có sao lộc, đến niên hạn gặp sao lộc cũng cát lợi.
"Tử Vi, Thiên Phủ" có sao lộc, đến niên hạn Thái Dương độc toạ ở cung Tị, gặp các sao phụ, tá cát, chủ về địa vị thăng tiến, trường hợp Thái Dương ở cung Hợi là tốt kế đó.
Đối với người "Tử Vi, Thiên Phủ" thủ cung mệnh, đại vận tính theo chiều nghịch, thì đại hạn Thái Dương giữ cung hoặc Vũ Khúc giữ cung, là then chốt của mệnh vận cả đời; đại vận đi thuận, thì đại hạn Tham Lang (Vũ Khúc ở đối cung) hoặc đại hạn Cự Môn (Thái Dương ở đối cung) là then chốt của mệnh vận cả đời. Các đại vận này cát hay hung, có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời.
"Tử Vi, Tham Lang" ở cung mệnh, ưa gặp Hoả Tinh, Linh Tinh, cũng ưa gặp Tham Lang Hoá Lộc, chủ về phát lên một cách đột ngột, mà còn kéo dài. Nếu Tham Lang Hoá Kỵ, thì cuộc đời gặp nhiều vất vả khổ luỵ, mà còn không được như ý. Nếu sát tinh lại nặng, thường thường lúc sắp thành công thì đột nhiên thất bại.
Nữ mệnh "Tử Vi, Tham Lang" không ưa đến niên vận Thái Dương thủ cung phu thê của niên vận, chủ về gặp kẻ bất lương. Nam mệnh "Tử Vi, Tham Lang" không ưa đến niên vận cung phu thê là Thiên Đồng (hoặc Cự Môn) toạ thủ, chủ về rơi vào lưới tình, khó mà thoát ra.
"Tử Vi, Tham Lang" thủ mệnh đến đại hạn "Vũ Khúc, Phá Quân", mà Vũ Khúc Hoá Kỵ, lại gặp lưu niên Văn Xương Hoá Kỵ hay Văn Khúc Hoá Kỵ, chủ về xảy ra phá tán, thất bại.
"Tử Vi, Tham Lang" thủ mệnh ở cung Mão, đến đại vận hoặc lưu niên Thiên Lương ở cung Ngọ, nếu Thiên Lương Hoá Lộc, thì tham tiền hiếu sắc, đều dể gây ra phiền phức; gặp thêm sát tinh thì có hung hoạ, nhưng cuối cùng hoá giải được.
"Tử Vi, Tham Lang" thủ mệnh, cung hạn Thái Dương, Cự Môn tương hội và cung hạn "Thiên Cơ, Thái Âm" đồng cung, là then chốt của mệnh vận cả đời.
"Tử Vi, Thiên Tướng" thủ mệnh, gặp lưu niên "Sát, Phá, Lang" đều chủ về biến động thay đổi, là cát hay hung, phải xem xét tính chất các tổ hợp sao mà định.
"Tử Vi, Thiên Tướng" thủ mệnh, đến đại vận "Tử Vi, Thiên Tướng" thủ cung tật ách, phải đề phòng bệnh tim mạch.
"Tử Vi, Thiên Tướng" thủ mệnh, đến đại vận "Tử Vi, Thiên Tướng" thủ cung phu thê, phải đề phòng hôn nhân đổ vỡ.
"Tử Vi, Thiên Tướng" thủ mệnh, đến đại vận gặp "Vũ Khúc, Thiên Phủ", nếu Vũ Khúc Hoá Kỵ, hoặc Thiên Phủ là "kho lộ", "kho trống", sẽ chủ về vì tình hình tráo trở, điên đảo mà gây nên phá tán, thất bại (như thất nghiệp, ngừng kinh doanh, vỡ nợ, sập tiệm, v.v...).
"Tử Vi, Thiên Tướng" ở cung mệnh, lại đến lưu niên "Tử Vi, Thiên Tướng" thủ mệnh, trong các tình hình thông thường, không nên hợp tác với người khác, năm kế tiếp hợp tác cũng không được lâu dài.
"Tử Vi, Thiên Tướng" thủ cung mệnh, không ưa cung hạn Tham Lang Hoá Kỵ. Gặp nó ở bất cứ cung viên nào, cũng đều chủ về ứng nghiệm xấu ở cung đó. Ví dụ như đến đại vận hoặc lưu niên gặp Tham Lang Hoá Kỵ thủ cung phụ mẫu, chủ về người cấp trên trọng dụng mệnh tạo lại bị hoán chuyển công tác; đến lưu niên gặp Tham Lang Hoá Kỵ thủ cung phu thê, chủ về xảy ra sự thay đổi trong tình cảm.
Đối với người "Tử Vi, Thiên Tướng" thủ mệnh mà đại vận tính theo chiều nghịch, thì các đại vận Tham Lang, Vũ Khúc, Thiên Phủ thủ cung hạn là những vận hạn có tính then chốt của mệnh vận cả đời. Đối với người "Tử Vi, Thiên Tướng" thủ mệnh mà đại vận tính theo chiều thuận, thì các đại vận Thất Sát, Liêm Trinh thủ cung hạn là những vận hạn có tính then chốt của mệnh vận cả đời.
"Tử Vi, Thất Sát" thủ mệnh, cung tài bạch là "Vũ Khúc, Tham Lang", nếu gặp Hoả Tinh, Linh Tinh, chủ về hoạch phát hoạch phá, phát lên một cách đột ngột mà suy sụp cụng nhanh chóng. Sau khi phát cần phải khéo giữ gìn, mới có thể duy trì thành tựu đã đạt được.
"Tử Vi, Thất Sát" mà Tử Vi Hoá Quyền, thì "tài khí" trong đời không đủ để giúp cho sự nghiệp.
"Tử Vi, Thất Sát" thủ mệnh, chủ về năng tinh thần trách nhiệm. Người sinh năm Quý, cung sự nghiệp là "Liêm Trinh, Phá Quân", mà Phá Quân Hoá Lộc, lại chủ về gánh vác trách nhiệm quá mức, việc gì cũng đích thân làm.
"Tử Vi, Thất Sát" ở cung mệnh, cung độ "Thái Dương, Cự Môn" là có tính then chốt. Thái Dương ở cung Dần thì tốt hơn ở cung Thân, nhưng vẫn phải xem xét các sao cát hung ra sao mà định.
Nữ mệnh "Tử Vi, Thất Sát", hôn nhân phần nhiều không như ý. Nếu cung mệnh và cung phu thê gặp sát tinh, nếu không khéo khắc chế, thì tình cảm rất dể thay đổi.
"Tử Vi, Thất Sát" thủ mệnh, đại hạn Thiên Tướng, Vũ Khúc, hay Tham Lang thủ cung hạn, là có tính then chốt của mệnh vận cả đời.
(Hết phần I)
I.Tử Vi ở cung mệnh (thân)
Tử Vi độc toạ ở hai cung Tí hoặc Ngọ, nếu là trường hợp "bách quan triều củng" thì ưa đến đại hạn hay lưu niên được Hoá Lộc, Hoá Quyền, Hoá Khoa. Nếu Tử Vi Hoá Quyền hoặc Hoá Khoa ở nguyên cục mà không có "bách quan triều củng", thì ưa đến đại hạn hoặc lưu niên có các sao Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật hội hợp.
Nếu nguyên cục vốn là cách cục "tại dã cô quân", đến niên hạn dù được Hoá Lộc, Hoá Quyền, Hoá Khoa, thì cát lợi cũng nhỏ, e rằng chỉ là nhất thời đắc ý. Nếu nguyên cục vốn là cách cục "vô đạo cô quân", lại đến niên hạn có các sao sát, kị tụ tập, thường chủ về tai hoạ, mà phần nhiều là tự chuốc lấy.
Phàm là Tử Vi toạ mệnh đều ưa đến cung hạn Thiên Phủ hay Thiên Tướng toạ thủ, ưa nhất là cung hạn Tử Vi độc toạ ở Tí hoặc Ngọ.
Tử Vi độc toạ ở hai cung Tí hoặc Ngọ ưa có Lộc Tồn đồng độ. Có điều, Tử Vi "tại dã cô quân" thì phần nhiều chủ về ích kỷ, hay nghi kỵ. Đến niên hạn có các sao sát, kỵ, hình cùng chiếu, phần nhiều chủ về oán trách, thị phi, thường còn gây nên hoạ kiện tụng.
Phàm là Tử Vi toạ mệnh đều không ưa đến cung hạn Thiên Cơ hay Thiên Lương toạ thủ, có Cự Môn đồng độ, gặp Hoá Kỵ thì càng tệ. Tử Vi độc toạ ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gặp cung hạn Thiên Cơ sẽ chủ về phá tán, nhưng tai ách chỉ là một phen hú vía; gặp cung hạn Cự Môn sẽ chủ về gặp rắc rối khó xử về tình cảm, có cát hoá thì có thể giải quyết, gặp các sao sát, hình thì ứng nghiệm.
"Tử Vi, Phá Quân" thủ mệnh, tối kỵ là cách cục "tại dã cô quân", đến vận hạn Thiên Cơ, Thiên Lương, hay Cự Môn, thường là vận trình có tính then chốt của cuộc đời. Nếu cung hạn gặp các sao sát, kỵ, hình hội chiếu, chủ về dễ xảy ra sự cố, thường có thể ảnh hưởng đến cả cuộc đời; cũng không nên đến niên hạn Thái Dương Hoá Kỵ, thường dẫn đến thị phi, oán trách.
"Tử Vi, Phá Quân" thủ mệnh, Vũ Khúc Hoá Kỵ ở nguyên cục, đến đại hạn "Vũ Khúc, Thất Sát" đồng độ, lại đến lưu niên Thái Dương Hoá Kỵ hoặc Cự Môn Hoá Kỵ, chủ về vì tiền mà chuốc hoạ.
"Tử Vi, Phá Quân" không ưa đến niên hạn Thiên Phủ là "kho trống", "kho lộ", chủ về phá tài; nếu Thiên Phủ có sao lộc, thì chỉ chủ về vì tiền mà mất nghĩa.
"Tử Vi, Phá Quân" đến niên hạn "Thiên Đồng, Thiên Lương" toạ thủ, gặp Thiên Cơ Hoá Kỵ kèm có sát tinh đến xung, chủ về xử sự cần phải thận trọng, có cơ tâm mưu mẹo càng càng nhiều thì phá tán, thất bại càng lớn.
"Tử Vi, Thiên Phủ" thủ mệnh, rất ưa gặp sao lộc, có Lộc Tồn đồng độ, Liêm Trinh Hoá Lộc đến hội, chủ về cự phú. Lấy trường hợp gặp Hoá Lộc, Lộc Tồn của niên hạn làm ứng nghiệm. Ví dụ "Tử Vi, Thiên Phủ" ở cung Dần, người sinh năm Giáp, đến hạn Đinh Mão chủ về kiếm được tiền, hoặc gặp cơ hội làm đại lý mà phát đạt.
"Tử Vi, Thiên Phủ" ưa đến cung hạn Vũ Khúc độc toạ, gặp Lưu Lộc hoặc Tham Lang Hoá Lộc, Liêm Trinh Hoá Lộc, chủ về kiếm được nhiều tiền. Nếu lại có sao phụ, tá cát, không có các sao sát, kỵ, hình hội chiếu, nguyên cục là "Tử Vi, Thiên Phủ" lại có kết cấu cát lợi, tay trắng làm nên mà thành cự phú.
"Tử Vi, Thiên Phủ" không có sao lộc, đến niên hạn gặp sao lộc cũng cát lợi.
"Tử Vi, Thiên Phủ" có sao lộc, đến niên hạn Thái Dương độc toạ ở cung Tị, gặp các sao phụ, tá cát, chủ về địa vị thăng tiến, trường hợp Thái Dương ở cung Hợi là tốt kế đó.
Đối với người "Tử Vi, Thiên Phủ" thủ cung mệnh, đại vận tính theo chiều nghịch, thì đại hạn Thái Dương giữ cung hoặc Vũ Khúc giữ cung, là then chốt của mệnh vận cả đời; đại vận đi thuận, thì đại hạn Tham Lang (Vũ Khúc ở đối cung) hoặc đại hạn Cự Môn (Thái Dương ở đối cung) là then chốt của mệnh vận cả đời. Các đại vận này cát hay hung, có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời.
"Tử Vi, Tham Lang" ở cung mệnh, ưa gặp Hoả Tinh, Linh Tinh, cũng ưa gặp Tham Lang Hoá Lộc, chủ về phát lên một cách đột ngột, mà còn kéo dài. Nếu Tham Lang Hoá Kỵ, thì cuộc đời gặp nhiều vất vả khổ luỵ, mà còn không được như ý. Nếu sát tinh lại nặng, thường thường lúc sắp thành công thì đột nhiên thất bại.
Nữ mệnh "Tử Vi, Tham Lang" không ưa đến niên vận Thái Dương thủ cung phu thê của niên vận, chủ về gặp kẻ bất lương. Nam mệnh "Tử Vi, Tham Lang" không ưa đến niên vận cung phu thê là Thiên Đồng (hoặc Cự Môn) toạ thủ, chủ về rơi vào lưới tình, khó mà thoát ra.
"Tử Vi, Tham Lang" thủ mệnh đến đại hạn "Vũ Khúc, Phá Quân", mà Vũ Khúc Hoá Kỵ, lại gặp lưu niên Văn Xương Hoá Kỵ hay Văn Khúc Hoá Kỵ, chủ về xảy ra phá tán, thất bại.
"Tử Vi, Tham Lang" thủ mệnh ở cung Mão, đến đại vận hoặc lưu niên Thiên Lương ở cung Ngọ, nếu Thiên Lương Hoá Lộc, thì tham tiền hiếu sắc, đều dể gây ra phiền phức; gặp thêm sát tinh thì có hung hoạ, nhưng cuối cùng hoá giải được.
"Tử Vi, Tham Lang" thủ mệnh, cung hạn Thái Dương, Cự Môn tương hội và cung hạn "Thiên Cơ, Thái Âm" đồng cung, là then chốt của mệnh vận cả đời.
"Tử Vi, Thiên Tướng" thủ mệnh, gặp lưu niên "Sát, Phá, Lang" đều chủ về biến động thay đổi, là cát hay hung, phải xem xét tính chất các tổ hợp sao mà định.
"Tử Vi, Thiên Tướng" thủ mệnh, đến đại vận "Tử Vi, Thiên Tướng" thủ cung tật ách, phải đề phòng bệnh tim mạch.
"Tử Vi, Thiên Tướng" thủ mệnh, đến đại vận "Tử Vi, Thiên Tướng" thủ cung phu thê, phải đề phòng hôn nhân đổ vỡ.
"Tử Vi, Thiên Tướng" thủ mệnh, đến đại vận gặp "Vũ Khúc, Thiên Phủ", nếu Vũ Khúc Hoá Kỵ, hoặc Thiên Phủ là "kho lộ", "kho trống", sẽ chủ về vì tình hình tráo trở, điên đảo mà gây nên phá tán, thất bại (như thất nghiệp, ngừng kinh doanh, vỡ nợ, sập tiệm, v.v...).
"Tử Vi, Thiên Tướng" ở cung mệnh, lại đến lưu niên "Tử Vi, Thiên Tướng" thủ mệnh, trong các tình hình thông thường, không nên hợp tác với người khác, năm kế tiếp hợp tác cũng không được lâu dài.
"Tử Vi, Thiên Tướng" thủ cung mệnh, không ưa cung hạn Tham Lang Hoá Kỵ. Gặp nó ở bất cứ cung viên nào, cũng đều chủ về ứng nghiệm xấu ở cung đó. Ví dụ như đến đại vận hoặc lưu niên gặp Tham Lang Hoá Kỵ thủ cung phụ mẫu, chủ về người cấp trên trọng dụng mệnh tạo lại bị hoán chuyển công tác; đến lưu niên gặp Tham Lang Hoá Kỵ thủ cung phu thê, chủ về xảy ra sự thay đổi trong tình cảm.
Đối với người "Tử Vi, Thiên Tướng" thủ mệnh mà đại vận tính theo chiều nghịch, thì các đại vận Tham Lang, Vũ Khúc, Thiên Phủ thủ cung hạn là những vận hạn có tính then chốt của mệnh vận cả đời. Đối với người "Tử Vi, Thiên Tướng" thủ mệnh mà đại vận tính theo chiều thuận, thì các đại vận Thất Sát, Liêm Trinh thủ cung hạn là những vận hạn có tính then chốt của mệnh vận cả đời.
"Tử Vi, Thất Sát" thủ mệnh, cung tài bạch là "Vũ Khúc, Tham Lang", nếu gặp Hoả Tinh, Linh Tinh, chủ về hoạch phát hoạch phá, phát lên một cách đột ngột mà suy sụp cụng nhanh chóng. Sau khi phát cần phải khéo giữ gìn, mới có thể duy trì thành tựu đã đạt được.
"Tử Vi, Thất Sát" mà Tử Vi Hoá Quyền, thì "tài khí" trong đời không đủ để giúp cho sự nghiệp.
"Tử Vi, Thất Sát" thủ mệnh, chủ về năng tinh thần trách nhiệm. Người sinh năm Quý, cung sự nghiệp là "Liêm Trinh, Phá Quân", mà Phá Quân Hoá Lộc, lại chủ về gánh vác trách nhiệm quá mức, việc gì cũng đích thân làm.
"Tử Vi, Thất Sát" ở cung mệnh, cung độ "Thái Dương, Cự Môn" là có tính then chốt. Thái Dương ở cung Dần thì tốt hơn ở cung Thân, nhưng vẫn phải xem xét các sao cát hung ra sao mà định.
Nữ mệnh "Tử Vi, Thất Sát", hôn nhân phần nhiều không như ý. Nếu cung mệnh và cung phu thê gặp sát tinh, nếu không khéo khắc chế, thì tình cảm rất dể thay đổi.
"Tử Vi, Thất Sát" thủ mệnh, đại hạn Thiên Tướng, Vũ Khúc, hay Tham Lang thủ cung hạn, là có tính then chốt của mệnh vận cả đời.
(Hết phần I)
-
- Lục đẳng
- Bài viết: 2692
- Tham gia: 00:39, 07/03/12
TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH
II. Thiên Cơ ở cung mệnh (thân):
Thiên Cơ độc toạ ở hai cung Tí hoặc Ngọ, rất ưa Hoá Quyền. Thiên Cơ Hoá Quyền lại ưu hơn Cự Môn Hoá Quyền. Hoá Quyền thì vững vàng, cho nên tốt hơn Hoá Lộc, Hoá Lộc phần nhiều nóng nảy, trôi nổi bất định.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Tí hoặc Ngọ, nếu đối cung là Cự Môn Hoá Quyền, ở thời hiện đại có thể chỉ là người phân phối, nhà phát hành trong giới làm ăn kinh doanh, không chủ về là người vạch kế sách hay quản lý. Thiên Cơ Hoá Quyền, thì có thể là người vạch kế sách phía sau. Một trong một ngoài, tính chất khác nhau.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Tí hoặc Ngọ, người sinh năm Đinh phần nhiều vất vả khổ luỵ, nếu cung tật ách là Thiên Tướng lại thuộc loại bị "Hình kị giáp ấn", thì dễ mắc bệnh sỏi mật, sỏi thận.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Tí hoặc Ngọ rất kỵ đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh; chủ về lúc bé đã rời xa cha mẹ, hoặc cảnh ngộ của cha mẹ bị biến động thay đổi, ảnh hưởng đến phúc ấm của mệnh tạo lúc còn bé.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Tí hoặc Ngọ đến cung hạn "Vũ Khúc, Thất Sát" đồng độ, gặp Hoá Lộc, Hoá Quyền, Hoá Khoa thì cát; gặp Hoá Kỵ thì hung. Đây là có tính then chốt của mệnh vận cả đời.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Tí hoặc Ngọ đến cung hạn Thiên Phủ toạ thủ, gặp "kho phủ đầy ắp" thì cát, gặp "kho lộ", "kho trống" ắt sẽ hung nguy.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Tí hoặc Ngọ, Thái Âm thủ cung thân, chủ về mệnh tạo ngày đêm bôn ba bận rộn, thường làm việc ban đêm, hoặc đến tối vẫn cần phải suy nghĩ kế hoạch. Không gặp sát tinh, thì kinh doanh làm ăn có thể trở thành giàu có.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Tí hoặc Ngọ chủ về giỏi nói năng; nếu có Kình Dương, Đà La đồng độ, lại gặp Cự Môn Hoá Kỵ đến hội, thì tài ăn nói hoá thành miệng lưỡi, thích hợp làm những nghề nghiệp dùng lời nói để kiếm tiền.
Thiên Cơ ở cung Mùi, cung phu thê là Thái Dương ở cung Tị, nếu hoá làm Quyền Lộc, chủ về kết hôn với người ngoại quốc (hay người phương xa). Thái Dương ở cung Sửu thì không phải.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Sửu hoặc Mùi, rất ưa Hoá Lộc, thì Thiên Lương đối cung cũng sẽ Hoá Quyền, là nhân tài về kế hoạch, nghiên cứu, lại là mạng không thích hợp tự kinh doanh làm ăn; cung phúc đức là Thái Âm cũng đồng thời Hoá Kỵ, đây là ứng nghiệm lao tâm tổn thần, chẳng phải là điềm hung.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Sửu hoặc Mùi, có Địa Không, Địa Kiếp đồng độ, chủ về mệnh tạo có tư tưởng đặc biệt; có Thiên Tài đồng độ là trí tuệ cực cao. Nhưng hai tình hình này đều chủ về người ta khó mà hiểu được mệnh tạo; cho nên cung huynh đệ và cung phụ mẫu cần phải gặp cát tinh, mới có thể đứng vững, nếu không cuộc đời dễ chìm nổi.
Đối với Thiên Cơ độc toạ hai cung Sửu hoặc Mùi, cung hạn "Thái Dương, Thái Âm" đồng độ là đại hạn có tính then chốt của mệnh vận cả đời, và cung hạn "Thiên Đồng, Cự Môn" đồng độ là lưu niên có tính then chốt.
"Thiên Cơ, Thái Âm" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, là chính cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương". Ở cung Thân, Thiên Lương ở cung Tí ưu hơn Thiên Lương ở cung Ngọ, cho nên oán trách, thị phi ít hơn.
"Thiên Cơ, Thái Âm" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân rất ngại Hoá Kỵ, chủ về quyền biến, nhiều thủ đoạn. Ở cung Dần, đặc biệt còn chủ về hí lộng quyền bính.
"Thiên Cơ, Thái Âm" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, gặp Thiên Lương Hoá Lộc, đến đại hạn Cự Môn hoặc Thiên Đồng, thường dễ chuốc hoạ tai, thị phi, cần phải khiêm tốn, ôn hoà, mới có thể bình an vượt qua.
"Thiên Cơ, Thái Âm" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, cung phúc đức là Cự Môn cần phải gặp cát tinh mới tốt; nếu Cự Môn có các sao sát, kị đồng độ, đến lưu niên "Liêm Trinh, Thất Sát" đồng độ, thường dễ gây ra phá tán, thất bại.
"Thiên Cơ, Cự Môn" đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu, cần phải gặp sao lộc mới cát; rất kị có Hoả Tinh, Linh Tinh cùng bay đến, chủ về khinh bạc, phóng đãng, thiếu trang trọng, phá phách.
Đối với "Thiên Cơ, Cự Môn" đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu, cung hạn "Thái Dương, Thái Âm" đồng độ là lưu niên có tính then chốt; rất kị Thái Dương Hoá Kị, nếu có các sao cát, hình trùng trùng; sao kị của lưu niên lại xung khởi Thái Dương Hoá Kỵ, chủ về vì gây oán thù mà gặp sóng gió nghiêm trọng.
"Thiên Cơ, Cự Môn" đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu đến đại hạn Thái Âm Hoá Kỵ, thường thường dễ sinh phá tán, thất bại, mà thường vì tự cho thông minh mà gây ra.
"Thiên Cơ, Cự Môn" đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu, nam mệnh Cự Môn Hoá Lộc, chủ về chồng già lấy vợ trẻ; Thiên Cơ Hoá Lộc, thì phần nhiều là tái hôn. Nữ mệnh Cự Môn Hoá Lộc, cũng nên lấy người lớn tuổi; Thiên Cơ Hoá Lộc, phần nhiều đều có khiếm khuyết trong hôn nhân.
"Thiên Cơ, Cự Môn" đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu, nữ mệnh gặp Thiên Đồng đồng độ với Lộc Tồn, đến vận Tham Lang, thường chủ về bị người ta bỏ rơi, hôn nhân gặp sóng gió, trắc trở, vì vậy không nên kết hôn sớm. Ở cung Dậu tuy tốt hơn, nhưng cũng ngại đào hoa quá nặng. Thiên Đồng chủ về tình cảm, nên có ứng nghiệm như trên.
Đối với "Thiên Cơ, Cự Môn" đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu, cung hạn "Thái Âm, Thái Dương" đồng độ, và cung hạn Thất Sát toạ thủ là hai đại hạn có tính then chốt, cát hung của hai đại hạn này gây ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời. Cung hạn "Sát Phá Lang" là lưu niên có tính then chốt.
"Thiên Cơ, Thiên Lương" đồng độ hai cung Thìn hoặc Tuất, chủ về có tay nghề, ở thời hiện đại cũng có thể định là nhân tài chuyên nghiệp; không thích hợp làm việc trong chính giới hay kinh doanh buôn bán, nếu không, phúc không được lâu dài, vận tốt thường chỉ trong chớp mắt.
"Thiên Cơ, Thiên Lương" đồng độ hai cung Thìn hoặc Tuất, là thiên cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương", cần phải dùng miệng lưỡi để dùng lời nói để kiếm tiền, mới có thể phát triển. Ở thời hiện đại, thường thường là chuyên viên bán hàng, chào hàng, tiếp thị.
"Thiên Cơ, Thiên Lương" đồng độ hai cung Thìn hoặc Tuất, có sao không và sát tinh cùng bay đến, cổ nhân định là mạng tăng nhân, đạo sĩ; ở thời hiện đại cũng là người truyền giáo. Nữ mệnh phần nhiều linh đinh.
"Thiên Cơ, Thiên Lương" ở cung Thìn, mà Thiên Cơ Hoá Kị, cần phải dùng lời nói để kiếm tiền. Không có Hoá Kị, chủ về kết hôn với người ngoại quốc (hay người phương xa).
Đối với "Thiên Cơ, Thiên Lương" đồng độ hai cung Thìn hoặc Tuất, cung hạn "Vũ Khúc, Tham Lang" đồng độ là đại hạn có tính then chốt; ba cung hạn "Tử Vi, Thất Sát", "Liêm Trinh, Phá Quân", và "Vũ Khúc, Tham Lang" là các lưu niên có tính then chốt.
Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, cuộc đời gặp nhiều rắc rối khó xử về tình cảm. Nếu cung phu thê là Thái Dương Hoá Lộc, hoặc cung thiên di là Thái Âm Hoá Lộc, thì dục tình rất nặng, gặp thêm sát tinh và các sao đào hoa, thì dễ lạm dâm. Thiên Cơ đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, là mạng rời xa quê hương; hoặc chủ về làm con nuôi người khác; tuổi trẻ bất lợi về cha. Đến đại hạn Thất sát toạ thủ, nếu có các sao sát, kị, hình cùng chiếu, chủ về có bệnh tật nghiêm trọng ở mắt.
Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, nữ mệnh không nên Hoá Kị hoặc có sao kị hội chiếu; gặp thêm sát tinh, chủ về hình khắc, sinh ly, hoặc làm nhị phòng, tì thiếp.
Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp các sao phụ, tá cát, thì có thể phú quý, thích hợp làm những công việc mang tính phục vụ công chúng, đặc biệt về truyền thông hay thông tấn, báo chí.
Đối với Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, hai cung hạn "Thiên Đồng, Cự Môn" và "Liêm Trinh, Thiên Phủ" là hai lưu niên có tính then chốt, "Sát, Phá, Lang" là đại hạn có tính then chốt.
Thiên Cơ độc toạ ở hai cung Tí hoặc Ngọ, rất ưa Hoá Quyền. Thiên Cơ Hoá Quyền lại ưu hơn Cự Môn Hoá Quyền. Hoá Quyền thì vững vàng, cho nên tốt hơn Hoá Lộc, Hoá Lộc phần nhiều nóng nảy, trôi nổi bất định.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Tí hoặc Ngọ, nếu đối cung là Cự Môn Hoá Quyền, ở thời hiện đại có thể chỉ là người phân phối, nhà phát hành trong giới làm ăn kinh doanh, không chủ về là người vạch kế sách hay quản lý. Thiên Cơ Hoá Quyền, thì có thể là người vạch kế sách phía sau. Một trong một ngoài, tính chất khác nhau.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Tí hoặc Ngọ, người sinh năm Đinh phần nhiều vất vả khổ luỵ, nếu cung tật ách là Thiên Tướng lại thuộc loại bị "Hình kị giáp ấn", thì dễ mắc bệnh sỏi mật, sỏi thận.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Tí hoặc Ngọ rất kỵ đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh; chủ về lúc bé đã rời xa cha mẹ, hoặc cảnh ngộ của cha mẹ bị biến động thay đổi, ảnh hưởng đến phúc ấm của mệnh tạo lúc còn bé.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Tí hoặc Ngọ đến cung hạn "Vũ Khúc, Thất Sát" đồng độ, gặp Hoá Lộc, Hoá Quyền, Hoá Khoa thì cát; gặp Hoá Kỵ thì hung. Đây là có tính then chốt của mệnh vận cả đời.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Tí hoặc Ngọ đến cung hạn Thiên Phủ toạ thủ, gặp "kho phủ đầy ắp" thì cát, gặp "kho lộ", "kho trống" ắt sẽ hung nguy.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Tí hoặc Ngọ, Thái Âm thủ cung thân, chủ về mệnh tạo ngày đêm bôn ba bận rộn, thường làm việc ban đêm, hoặc đến tối vẫn cần phải suy nghĩ kế hoạch. Không gặp sát tinh, thì kinh doanh làm ăn có thể trở thành giàu có.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Tí hoặc Ngọ chủ về giỏi nói năng; nếu có Kình Dương, Đà La đồng độ, lại gặp Cự Môn Hoá Kỵ đến hội, thì tài ăn nói hoá thành miệng lưỡi, thích hợp làm những nghề nghiệp dùng lời nói để kiếm tiền.
Thiên Cơ ở cung Mùi, cung phu thê là Thái Dương ở cung Tị, nếu hoá làm Quyền Lộc, chủ về kết hôn với người ngoại quốc (hay người phương xa). Thái Dương ở cung Sửu thì không phải.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Sửu hoặc Mùi, rất ưa Hoá Lộc, thì Thiên Lương đối cung cũng sẽ Hoá Quyền, là nhân tài về kế hoạch, nghiên cứu, lại là mạng không thích hợp tự kinh doanh làm ăn; cung phúc đức là Thái Âm cũng đồng thời Hoá Kỵ, đây là ứng nghiệm lao tâm tổn thần, chẳng phải là điềm hung.
Thiên Cơ độc toạ hai cung Sửu hoặc Mùi, có Địa Không, Địa Kiếp đồng độ, chủ về mệnh tạo có tư tưởng đặc biệt; có Thiên Tài đồng độ là trí tuệ cực cao. Nhưng hai tình hình này đều chủ về người ta khó mà hiểu được mệnh tạo; cho nên cung huynh đệ và cung phụ mẫu cần phải gặp cát tinh, mới có thể đứng vững, nếu không cuộc đời dễ chìm nổi.
Đối với Thiên Cơ độc toạ hai cung Sửu hoặc Mùi, cung hạn "Thái Dương, Thái Âm" đồng độ là đại hạn có tính then chốt của mệnh vận cả đời, và cung hạn "Thiên Đồng, Cự Môn" đồng độ là lưu niên có tính then chốt.
"Thiên Cơ, Thái Âm" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, là chính cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương". Ở cung Thân, Thiên Lương ở cung Tí ưu hơn Thiên Lương ở cung Ngọ, cho nên oán trách, thị phi ít hơn.
"Thiên Cơ, Thái Âm" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân rất ngại Hoá Kỵ, chủ về quyền biến, nhiều thủ đoạn. Ở cung Dần, đặc biệt còn chủ về hí lộng quyền bính.
"Thiên Cơ, Thái Âm" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, gặp Thiên Lương Hoá Lộc, đến đại hạn Cự Môn hoặc Thiên Đồng, thường dễ chuốc hoạ tai, thị phi, cần phải khiêm tốn, ôn hoà, mới có thể bình an vượt qua.
"Thiên Cơ, Thái Âm" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, cung phúc đức là Cự Môn cần phải gặp cát tinh mới tốt; nếu Cự Môn có các sao sát, kị đồng độ, đến lưu niên "Liêm Trinh, Thất Sát" đồng độ, thường dễ gây ra phá tán, thất bại.
"Thiên Cơ, Cự Môn" đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu, cần phải gặp sao lộc mới cát; rất kị có Hoả Tinh, Linh Tinh cùng bay đến, chủ về khinh bạc, phóng đãng, thiếu trang trọng, phá phách.
Đối với "Thiên Cơ, Cự Môn" đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu, cung hạn "Thái Dương, Thái Âm" đồng độ là lưu niên có tính then chốt; rất kị Thái Dương Hoá Kị, nếu có các sao cát, hình trùng trùng; sao kị của lưu niên lại xung khởi Thái Dương Hoá Kỵ, chủ về vì gây oán thù mà gặp sóng gió nghiêm trọng.
"Thiên Cơ, Cự Môn" đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu đến đại hạn Thái Âm Hoá Kỵ, thường thường dễ sinh phá tán, thất bại, mà thường vì tự cho thông minh mà gây ra.
"Thiên Cơ, Cự Môn" đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu, nam mệnh Cự Môn Hoá Lộc, chủ về chồng già lấy vợ trẻ; Thiên Cơ Hoá Lộc, thì phần nhiều là tái hôn. Nữ mệnh Cự Môn Hoá Lộc, cũng nên lấy người lớn tuổi; Thiên Cơ Hoá Lộc, phần nhiều đều có khiếm khuyết trong hôn nhân.
"Thiên Cơ, Cự Môn" đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu, nữ mệnh gặp Thiên Đồng đồng độ với Lộc Tồn, đến vận Tham Lang, thường chủ về bị người ta bỏ rơi, hôn nhân gặp sóng gió, trắc trở, vì vậy không nên kết hôn sớm. Ở cung Dậu tuy tốt hơn, nhưng cũng ngại đào hoa quá nặng. Thiên Đồng chủ về tình cảm, nên có ứng nghiệm như trên.
Đối với "Thiên Cơ, Cự Môn" đồng độ hai cung Mão hoặc Dậu, cung hạn "Thái Âm, Thái Dương" đồng độ, và cung hạn Thất Sát toạ thủ là hai đại hạn có tính then chốt, cát hung của hai đại hạn này gây ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời. Cung hạn "Sát Phá Lang" là lưu niên có tính then chốt.
"Thiên Cơ, Thiên Lương" đồng độ hai cung Thìn hoặc Tuất, chủ về có tay nghề, ở thời hiện đại cũng có thể định là nhân tài chuyên nghiệp; không thích hợp làm việc trong chính giới hay kinh doanh buôn bán, nếu không, phúc không được lâu dài, vận tốt thường chỉ trong chớp mắt.
"Thiên Cơ, Thiên Lương" đồng độ hai cung Thìn hoặc Tuất, là thiên cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương", cần phải dùng miệng lưỡi để dùng lời nói để kiếm tiền, mới có thể phát triển. Ở thời hiện đại, thường thường là chuyên viên bán hàng, chào hàng, tiếp thị.
"Thiên Cơ, Thiên Lương" đồng độ hai cung Thìn hoặc Tuất, có sao không và sát tinh cùng bay đến, cổ nhân định là mạng tăng nhân, đạo sĩ; ở thời hiện đại cũng là người truyền giáo. Nữ mệnh phần nhiều linh đinh.
"Thiên Cơ, Thiên Lương" ở cung Thìn, mà Thiên Cơ Hoá Kị, cần phải dùng lời nói để kiếm tiền. Không có Hoá Kị, chủ về kết hôn với người ngoại quốc (hay người phương xa).
Đối với "Thiên Cơ, Thiên Lương" đồng độ hai cung Thìn hoặc Tuất, cung hạn "Vũ Khúc, Tham Lang" đồng độ là đại hạn có tính then chốt; ba cung hạn "Tử Vi, Thất Sát", "Liêm Trinh, Phá Quân", và "Vũ Khúc, Tham Lang" là các lưu niên có tính then chốt.
Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, cuộc đời gặp nhiều rắc rối khó xử về tình cảm. Nếu cung phu thê là Thái Dương Hoá Lộc, hoặc cung thiên di là Thái Âm Hoá Lộc, thì dục tình rất nặng, gặp thêm sát tinh và các sao đào hoa, thì dễ lạm dâm. Thiên Cơ đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, là mạng rời xa quê hương; hoặc chủ về làm con nuôi người khác; tuổi trẻ bất lợi về cha. Đến đại hạn Thất sát toạ thủ, nếu có các sao sát, kị, hình cùng chiếu, chủ về có bệnh tật nghiêm trọng ở mắt.
Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, nữ mệnh không nên Hoá Kị hoặc có sao kị hội chiếu; gặp thêm sát tinh, chủ về hình khắc, sinh ly, hoặc làm nhị phòng, tì thiếp.
Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp các sao phụ, tá cát, thì có thể phú quý, thích hợp làm những công việc mang tính phục vụ công chúng, đặc biệt về truyền thông hay thông tấn, báo chí.
Đối với Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, hai cung hạn "Thiên Đồng, Cự Môn" và "Liêm Trinh, Thiên Phủ" là hai lưu niên có tính then chốt, "Sát, Phá, Lang" là đại hạn có tính then chốt.
Được cảm ơn bởi: tuetue
- linhanh1986
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 1926
- Tham gia: 19:42, 19/12/11
- Đến từ: Việt nam
- Liên hệ:
TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH
Có thiệt không đây bác lion . Bất ngờ quá , hay bác copy từ một quyển sách nào ?
Nếu chính bác viết ra . Thì linhanh xin bái bác làm sư ph..ụ .

Nếu chính bác viết ra . Thì linhanh xin bái bác làm sư ph..ụ .


Được cảm ơn bởi: Viendanho
-
- Lục đẳng
- Bài viết: 2692
- Tham gia: 00:39, 07/03/12
TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH
III. Thái Dương ở cung mệnh (thân):
Thái Dương ở cung mệnh nhập miếu hay lạc hãm có liên quan đến việc sinh vào ban ngày hay sinh vào ban đêm. Nếu nhập miếu mà còn là người sinh vào ban ngày thì rất tốt, người sinh vào ban đêm là kế đó; lạc hãm mà còn sinh vào ban đêm thì rất hung, người sinh vào ban ngày hơi giảm hung.
Thái Dương ở cung mệnh, cần phải lưu ý Cự Môn ở cung độ nào, và có sát tinh hay không. Nếu Cự Môn kèm có sát tinh, Thái Dương ở cung miếu vượng thì còn được (lợi nhất là người sinh vào ban ngày), bất quá chỉ hao tổn sức lực mà thôi; nếu Thái Dương ở cung lạc hãm (tệ nhất là người sinh vào ban đêm), ắt sẽ bị Cự Môn "ám"; cần phải xem Cự Môn ở cung độ nào mà luận cát hung. Ví dụ như Thái Dương lạc hãm ở cung Tí, cung sự nghiệp là Cự Môn ở cung Thìn, có Đà la đồng độ, người sinh ban ngày chủ về làm việc hao tổn tâm lực, nghề nghiệp phải nói năng vất vả; người sinh vào ban đêm thì chủ về cuộc đời hao phí sức lực mà không có hiệu quả, mà còn lo lắng về sự nghiệp.
Thái Dương ở cung mệnh còn cần phải lưu ý Thiên Lương ở cung độ nào. Cự Môn tính "ám", Thiên Lương tính "cô độc". hễ Thái Dương nhập mệnh là đã bất lợi về người thân phái nam, nếu Thiên Lương lại có Cô Thần, Quả Tú, Thiên Hình và sát tinh đồng độ (ngại nhất là Hoà Tinh, Linh Tinh), sẽ chủ về hình khắc; nhưng vẫn cần phải xem Thiên Lương ở cung độ nào để luận đoán chi tiết. Như Thái Dương ở cung Tí lạc hãm, cung thiên di là Thiên Lương đồng độ với Kình Dương ở cung Ngọ, người sinh ban ngày chỉ chủ về rời xa quê hương và xa cách cha; nhưng người sinh vào ban đêm thì có thể từ sinh ly biến thành tử biệt. lại như "Thái Dương, Thái Âm" ở cung Sửu, Thiên Lương ở cung Tị là cung sự nghiệp, nếu gặp sát tinh, Địa Không, Địa Kiếp, người sinh vào ban ngày chỉ chủ về không thừa kế được sự nghiệp của cha, và lúc phát triển sự nghiệp của bản thân không có bậc tôn trưởng nâng đở; nhưng người sinh vào ban đêm, phần nhiều chủ về tổ nghiệp phá tán, thất bại, sau đó mới tự lập.
Thái Dương lạc hãm, Hoá Kị, lại đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, người sinh vào ban đêm phần nhiều chủ về tuổi trẻ khắc cha, vãn niên mất con. Nếu là người sinh vào ban ngày, lục thân phái ma, cũng bất lợi. Nếu gặp thêm Thiên Hình, thì bất kể là người sinh vào ban ngày hay ban đêm, đều chủ về phạm pháp, kiện tụng phiền phức.
Thái Dương ở hai cung Tí hoặc Ngọ, nếu Hoá Lộc, lúc trẻ bất lợi, trung niên có thể phát vượt lên; nếu Hoá Kị, thì tuổi trẻ tự lập, đến trung niên vẫn phải đề phòng phá tán, thất bại.
Đối với Thái Dương ở hai cung Tí hoặc Ngọ, cung hạn "Thiên Cơ, Thái Âm" và cung hạn "Thiên Đồng, Cự Môn" là hai đại vận có tính then chốt; các cung hạn Cự Môn, Thiên Lương, Thiên Đồng, Thiên Tướng là những lưu niên có tính then chốt. Có lúc cung hạn có "Thiên Cơ, Thái Âm" ở đối cung là lưu niên có tính then chốt (cung này ắt sẽ vô chính diệu, mượn "Thiên Cơ, Thái Âm" để an sao).
Thái Dương ở hai cung Sửu hoặc Mùi, cần phải gặp các sao phụ, tá cát tụ tập mới tốt; không gặp các sao phụ, tá, dù không có sát tinh cũng chỉ bình bình; nếu gặp sát tinh mà không có sao cát, thì không ổn định, sự nghiệp không có nền tảng, hoặc không giữ một nghề. Nếu các sao cát hung tụ tập lẫn lộn, thì cũng không tốt, chủ về dễ lên dễ xuống, lúc ở lưu niên hay đại vận không tốt còn dễ có tâm trạng tiêu cực.
Đối với Thái Dương ở hai cung Sửu hoặc Mùi, các cung hạn "Tử Vi, Thiên Tướng", Phá Quân, "Thiên Cơ, Cự Môn" là những lưu niên hay đại vận có tính then chốt. Nếu nguyên cục không có sao lộc thì ưa đến vận hạn có Hoá Lộc. Nếu Thái Dương Hoá Lộc, đến vận hạn Thái Âm Hoá Lộc là tốt nhất.
Thái Dương ở hai cung Dần hoặc Thân, thích hợp làm việc cho công ty, làm việc cho người khác; chỉ trong tình hình có các sao phụ, tá cát tụ tập, mà còn được "bách quan triều củng", mới chủ về có thể tự mình phát triển, nhưng sự nghiệp vẫn cần phải có sắc thái phục vụ.
Hễ Thái Dương ở hai cung Dần hoặc Thân, phần nhiều chủ về bất lợi trong hôn nhân, nên kết hôn muộn.
Thái Dương thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, dễ mắc bệnh tiểu đường, cổ nhân gọi là bệnh "tiêu khát", thường có triệu chứng ăn nhiều mà mau đói, còn ưa thức ăn có mỡ; ở cung Dần càng đúng.
Thái Dương ở hai cung Dần hoặc Thân, Cự Môn Hoá Kị, thích hợp với các nghề dùng lời nói để kiếm tiền; nếu Thái Dương Hoá Kị ở cung Thân thì chủ về cuộc đời thường bị người ta gây luỵ. Thái Dương Hoá Kị ở cung Dần, nữ mệnh chủ về lấy chồng không lương thiện.
Đối với Thái Dương thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, các cung hạn "Tử Vi, Thất Sát", Thiên Tướng, "Thiên Đồng, Thái Âm" là đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt. Cung hạn này rất ưa gặp Thiên Đồng Hoá Lộc, Thái Âm Hoá Quyền, Tử Vi Hoá Khoa.
Thái Dương ở hai cung Mão hoặc Dậu, trường hợp cấu tạo thành cách cục "Dương Lương Xương Lộc" là tốt nhất, Ở cung Mão thì thanh danh khá lớn; ở cung dậu thì chỉ có thanh danh trong phạm vi nhất định, công chúng ít người biết.
"Thái Dương, Thiên Lương" thủ mệnh là người khéo nói chuyện, suy nghĩ cẩn thận; ở cung Dậu thì cường kí.
"Thái Dương, Thiên Lương" dù gặp cát tinh, cũng chủ về rời xa quê hương mà thành gia nghiệp, nhưng ắt sẽ được cha mẹ che chở.
"Thái Dương, Thiên Lương" ở cung Dậu, nếu là người sinh vào ban đêm sẽ chủ về bất lợi trong hôn nhân; người sinh vào ban ngày phần nhiều thất bại trong mối tình đầu.
Đối với "Thái Dương, Thiên Lương" ở cung Mão, cung hạn có Thái Âm là vận may có tính then chốt; đối với "Thái Dương, Thiên Lương" ở cung Dậu, cung hạn có Thiên Cơ vận trình quan trọng có tính then chốt.
Thái Dương ở cung Thìn, Thái Âm ở cung Tuất, là cục "Nhật Nguyệt toàn bích". Nếu gặp các sao phụ, tá cát và cát hoá, chủ về phú quý; nhưng nếu Thái Dương ở Tuất, Thái Âm ở cung Thìn, thì đây là "Nhật Nguyệt thất huy" (Thái Dương, Thái Âm mất sáng), chủ về cuộc đời biến thiên bất định.
Thái Dương ở cung mệnh, Thái Âm thủ cung thân ở hai cung Thìn hoặc Tuất, chủ về rời xa quê hương.
Thái Dương Hoá Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là Thái Âm Hoá Quyền, thích hợp làm quan thuế, cũng thích hợp nắm quyền tài chính của công ty, tập đoàn lớn.
Đối với Thái Dương ở hai cung Thìn hoặc Tuất, các cung hạn Thái Âm, Thiên Cơ, "Thiên Đồng, Thiên Lương" là những đại hạn hay lưu niên có tính then chốt.
Thái Dương độc toạ ở hai cung Tị hoặc Hợi, ở cung Tị hơn xa cung Hợi. Ở cung Tị có thể được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) trợ lực, ở cung Hợi thì chủ về điều tiếng thị phi, rối rắm khó xử.
Thái Dương thủ mệnh ở cung Hợi, nếu cung phúc đức là Thiên Cơ có cao cát hội hợp thì có thể bổ cứu; nếu Thiên Cơ Hoá Kỵ, hoặc hội các sao ác, sát, hình, kị, thì tâm chí bạc nhược, phần nhiều lúc sắp thành công thì đột nhiên thất bại, còn chuốc thị phi, oán trách. cần phải lấy nổ lực hậu thiên để bổ cứu.
Thái Dương thủ mệnh ở cung Tị, nếu có Văn Xương, Văn Khúc ở cung phu thê hội chiếu, chủ về được vợ đẹp, mà còn được nhạc gia nâng đở.
Thái Dương ở cung Hợi dễ bị suy nhược thần kinh, rối loạn nhịp tim.
Thái Dương ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp sát tinh, đều chủ về bệnh tật ở mắt.
Đối với Thái Dương ở cung Tị, các cung hạn Thái Âm, "Liêm Trinh, Thiên Tướng", Thất sát là đại hạn hoặc lưu niên có tính then chốt.
Đối với Thái Dương ở cung Hợi, các cung hạn "Tử Vi, Thiên Phủ", Tham Lang, Thiên Lương là các đại hạn hoặc lưu niên có tính then chốt.
Thái Dương ở cung mệnh nhập miếu hay lạc hãm có liên quan đến việc sinh vào ban ngày hay sinh vào ban đêm. Nếu nhập miếu mà còn là người sinh vào ban ngày thì rất tốt, người sinh vào ban đêm là kế đó; lạc hãm mà còn sinh vào ban đêm thì rất hung, người sinh vào ban ngày hơi giảm hung.
Thái Dương ở cung mệnh, cần phải lưu ý Cự Môn ở cung độ nào, và có sát tinh hay không. Nếu Cự Môn kèm có sát tinh, Thái Dương ở cung miếu vượng thì còn được (lợi nhất là người sinh vào ban ngày), bất quá chỉ hao tổn sức lực mà thôi; nếu Thái Dương ở cung lạc hãm (tệ nhất là người sinh vào ban đêm), ắt sẽ bị Cự Môn "ám"; cần phải xem Cự Môn ở cung độ nào mà luận cát hung. Ví dụ như Thái Dương lạc hãm ở cung Tí, cung sự nghiệp là Cự Môn ở cung Thìn, có Đà la đồng độ, người sinh ban ngày chủ về làm việc hao tổn tâm lực, nghề nghiệp phải nói năng vất vả; người sinh vào ban đêm thì chủ về cuộc đời hao phí sức lực mà không có hiệu quả, mà còn lo lắng về sự nghiệp.
Thái Dương ở cung mệnh còn cần phải lưu ý Thiên Lương ở cung độ nào. Cự Môn tính "ám", Thiên Lương tính "cô độc". hễ Thái Dương nhập mệnh là đã bất lợi về người thân phái nam, nếu Thiên Lương lại có Cô Thần, Quả Tú, Thiên Hình và sát tinh đồng độ (ngại nhất là Hoà Tinh, Linh Tinh), sẽ chủ về hình khắc; nhưng vẫn cần phải xem Thiên Lương ở cung độ nào để luận đoán chi tiết. Như Thái Dương ở cung Tí lạc hãm, cung thiên di là Thiên Lương đồng độ với Kình Dương ở cung Ngọ, người sinh ban ngày chỉ chủ về rời xa quê hương và xa cách cha; nhưng người sinh vào ban đêm thì có thể từ sinh ly biến thành tử biệt. lại như "Thái Dương, Thái Âm" ở cung Sửu, Thiên Lương ở cung Tị là cung sự nghiệp, nếu gặp sát tinh, Địa Không, Địa Kiếp, người sinh vào ban ngày chỉ chủ về không thừa kế được sự nghiệp của cha, và lúc phát triển sự nghiệp của bản thân không có bậc tôn trưởng nâng đở; nhưng người sinh vào ban đêm, phần nhiều chủ về tổ nghiệp phá tán, thất bại, sau đó mới tự lập.
Thái Dương lạc hãm, Hoá Kị, lại đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, người sinh vào ban đêm phần nhiều chủ về tuổi trẻ khắc cha, vãn niên mất con. Nếu là người sinh vào ban ngày, lục thân phái ma, cũng bất lợi. Nếu gặp thêm Thiên Hình, thì bất kể là người sinh vào ban ngày hay ban đêm, đều chủ về phạm pháp, kiện tụng phiền phức.
Thái Dương ở hai cung Tí hoặc Ngọ, nếu Hoá Lộc, lúc trẻ bất lợi, trung niên có thể phát vượt lên; nếu Hoá Kị, thì tuổi trẻ tự lập, đến trung niên vẫn phải đề phòng phá tán, thất bại.
Đối với Thái Dương ở hai cung Tí hoặc Ngọ, cung hạn "Thiên Cơ, Thái Âm" và cung hạn "Thiên Đồng, Cự Môn" là hai đại vận có tính then chốt; các cung hạn Cự Môn, Thiên Lương, Thiên Đồng, Thiên Tướng là những lưu niên có tính then chốt. Có lúc cung hạn có "Thiên Cơ, Thái Âm" ở đối cung là lưu niên có tính then chốt (cung này ắt sẽ vô chính diệu, mượn "Thiên Cơ, Thái Âm" để an sao).
Thái Dương ở hai cung Sửu hoặc Mùi, cần phải gặp các sao phụ, tá cát tụ tập mới tốt; không gặp các sao phụ, tá, dù không có sát tinh cũng chỉ bình bình; nếu gặp sát tinh mà không có sao cát, thì không ổn định, sự nghiệp không có nền tảng, hoặc không giữ một nghề. Nếu các sao cát hung tụ tập lẫn lộn, thì cũng không tốt, chủ về dễ lên dễ xuống, lúc ở lưu niên hay đại vận không tốt còn dễ có tâm trạng tiêu cực.
Đối với Thái Dương ở hai cung Sửu hoặc Mùi, các cung hạn "Tử Vi, Thiên Tướng", Phá Quân, "Thiên Cơ, Cự Môn" là những lưu niên hay đại vận có tính then chốt. Nếu nguyên cục không có sao lộc thì ưa đến vận hạn có Hoá Lộc. Nếu Thái Dương Hoá Lộc, đến vận hạn Thái Âm Hoá Lộc là tốt nhất.
Thái Dương ở hai cung Dần hoặc Thân, thích hợp làm việc cho công ty, làm việc cho người khác; chỉ trong tình hình có các sao phụ, tá cát tụ tập, mà còn được "bách quan triều củng", mới chủ về có thể tự mình phát triển, nhưng sự nghiệp vẫn cần phải có sắc thái phục vụ.
Hễ Thái Dương ở hai cung Dần hoặc Thân, phần nhiều chủ về bất lợi trong hôn nhân, nên kết hôn muộn.
Thái Dương thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, dễ mắc bệnh tiểu đường, cổ nhân gọi là bệnh "tiêu khát", thường có triệu chứng ăn nhiều mà mau đói, còn ưa thức ăn có mỡ; ở cung Dần càng đúng.
Thái Dương ở hai cung Dần hoặc Thân, Cự Môn Hoá Kị, thích hợp với các nghề dùng lời nói để kiếm tiền; nếu Thái Dương Hoá Kị ở cung Thân thì chủ về cuộc đời thường bị người ta gây luỵ. Thái Dương Hoá Kị ở cung Dần, nữ mệnh chủ về lấy chồng không lương thiện.
Đối với Thái Dương thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, các cung hạn "Tử Vi, Thất Sát", Thiên Tướng, "Thiên Đồng, Thái Âm" là đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt. Cung hạn này rất ưa gặp Thiên Đồng Hoá Lộc, Thái Âm Hoá Quyền, Tử Vi Hoá Khoa.
Thái Dương ở hai cung Mão hoặc Dậu, trường hợp cấu tạo thành cách cục "Dương Lương Xương Lộc" là tốt nhất, Ở cung Mão thì thanh danh khá lớn; ở cung dậu thì chỉ có thanh danh trong phạm vi nhất định, công chúng ít người biết.
"Thái Dương, Thiên Lương" thủ mệnh là người khéo nói chuyện, suy nghĩ cẩn thận; ở cung Dậu thì cường kí.
"Thái Dương, Thiên Lương" dù gặp cát tinh, cũng chủ về rời xa quê hương mà thành gia nghiệp, nhưng ắt sẽ được cha mẹ che chở.
"Thái Dương, Thiên Lương" ở cung Dậu, nếu là người sinh vào ban đêm sẽ chủ về bất lợi trong hôn nhân; người sinh vào ban ngày phần nhiều thất bại trong mối tình đầu.
Đối với "Thái Dương, Thiên Lương" ở cung Mão, cung hạn có Thái Âm là vận may có tính then chốt; đối với "Thái Dương, Thiên Lương" ở cung Dậu, cung hạn có Thiên Cơ vận trình quan trọng có tính then chốt.
Thái Dương ở cung Thìn, Thái Âm ở cung Tuất, là cục "Nhật Nguyệt toàn bích". Nếu gặp các sao phụ, tá cát và cát hoá, chủ về phú quý; nhưng nếu Thái Dương ở Tuất, Thái Âm ở cung Thìn, thì đây là "Nhật Nguyệt thất huy" (Thái Dương, Thái Âm mất sáng), chủ về cuộc đời biến thiên bất định.
Thái Dương ở cung mệnh, Thái Âm thủ cung thân ở hai cung Thìn hoặc Tuất, chủ về rời xa quê hương.
Thái Dương Hoá Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là Thái Âm Hoá Quyền, thích hợp làm quan thuế, cũng thích hợp nắm quyền tài chính của công ty, tập đoàn lớn.
Đối với Thái Dương ở hai cung Thìn hoặc Tuất, các cung hạn Thái Âm, Thiên Cơ, "Thiên Đồng, Thiên Lương" là những đại hạn hay lưu niên có tính then chốt.
Thái Dương độc toạ ở hai cung Tị hoặc Hợi, ở cung Tị hơn xa cung Hợi. Ở cung Tị có thể được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) trợ lực, ở cung Hợi thì chủ về điều tiếng thị phi, rối rắm khó xử.
Thái Dương thủ mệnh ở cung Hợi, nếu cung phúc đức là Thiên Cơ có cao cát hội hợp thì có thể bổ cứu; nếu Thiên Cơ Hoá Kỵ, hoặc hội các sao ác, sát, hình, kị, thì tâm chí bạc nhược, phần nhiều lúc sắp thành công thì đột nhiên thất bại, còn chuốc thị phi, oán trách. cần phải lấy nổ lực hậu thiên để bổ cứu.
Thái Dương thủ mệnh ở cung Tị, nếu có Văn Xương, Văn Khúc ở cung phu thê hội chiếu, chủ về được vợ đẹp, mà còn được nhạc gia nâng đở.
Thái Dương ở cung Hợi dễ bị suy nhược thần kinh, rối loạn nhịp tim.
Thái Dương ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp sát tinh, đều chủ về bệnh tật ở mắt.
Đối với Thái Dương ở cung Tị, các cung hạn Thái Âm, "Liêm Trinh, Thiên Tướng", Thất sát là đại hạn hoặc lưu niên có tính then chốt.
Đối với Thái Dương ở cung Hợi, các cung hạn "Tử Vi, Thiên Phủ", Tham Lang, Thiên Lương là các đại hạn hoặc lưu niên có tính then chốt.
Được cảm ơn bởi: trungdudu
-
- Lục đẳng
- Bài viết: 2692
- Tham gia: 00:39, 07/03/12
TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH
IV. Vũ Khúc ở cung mệnh (thân):
Vũ Khúc là sao tiền tài; phân biệt tỉ mỉ là hành động kiếm tiền, khác với Thái Âm là kế hoạch kiếm tiền. Cho nên cổ nhân xếp Thái Âm thuộc văn, còn Vũ Khúc thuộc võ.
Cổ quyết nói: Người sinh năm Thìn, cung mệnh là Vũ Khúc ở cung Thìn; người sinh năm Tuất, cung mệnh là Vũ Khúc ở cung Tuất; người sinh năm Sửu, cung mệnh là "Vũ Khúc, Tham Lang" ở cung Sửu; người sinh năm Mùi, cung mệnh là "Vũ Khúc, Tham Lang" ở Mùi; đều chủ về lập được chiến công, lấy công để khởi nghiệp.
Vũ Khúc là sao cô quả, vì vậy không thích hợp với nữ mệnh. Dù có cuộc sống hôn nhân, cũng chủ về vợ đoạt quyền chồng. Ở thời hiện đại, thường thường là điềm tượng thao túng sự nghiệp của chồng, mà còn chủ về kết hôn muộn.
"Vũ Khúc, Thiên Phủ" ở hai cung Tí hoặc Ngọ, ở cung Ngọ tốt hơn. Tuy cổ quyết nói: "Vũ Khúc, Thiên Phủ" đồng cung chủ về sống thọ, nhưng "Vũ Khúc, Thiên Phủ" thủ mệnh ở cung Tí, lại ngại cung phụ mẫu là Thái Dương lạc hãm,e rằng còn nhỏ đã mồ côi, hoặc khó được cha mẹ che chở, vì vậy không bằng cung Ngọ.
"Vũ Khúc, Thiên Phủ" khí rất hoà hoãn, cho nên cổ nhân cho rằng rất thích hợp với nữ mệnh. Ở thời hiện đại, bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh, "Vũ Khúc, Thiên Phủ" mà có sao lộc, lại gặp Thiên Khôi, Thiên Việt, phần nhiều chủ về đắc ý trong giới làm ăn kinh doanh. Nếu không có Thiên Khôi, Thiên Việt, nhưng gặp Tả Phụ, Hữu Bật cũng cát; gặp Văn Xương, Văn Khúc, chỉ chủ về thông minh, không chủ về đắc ý.
Đối với "Vũ Khúc, Thiên Phủ", hai cung đại hạn Thiên Đồng, "Thái Âm, Thái Dương" là đại vận có tính then chốt của đời người. Hai cung hạn này ưa gặp cát tinh và cát hoá, được vậy thì tuổi trẻ hưởng thụ, trung niên và vãn niên phúc trạch cũng dầy. Nếu hai cung hạn này gặp các sao sát, kị, hình, thì tuổi trẻ không cát tường, trung niên và vãn niên cũng bị ảnh hưởng.
Đối với "Vũ Khúc, Thiên Phủ", các cung hạn Tham Lang, "Tử Vi, Thiên Tướng", Thất Sát, Phá Quân là các lưu niên có tính then chốt.
"Vũ Khúc, Tham Lang" thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, có Hoả Tinh hoặc Linh Tinh đồng độ là rất tốt. Ở cung tài bạch và cung điền trạch cũng cát. Cổ quyết nói: "Vũ Khúc, Tham Lang ở tài trạch vị, hoạnh phát tiền của". Không có cát tinh mà có sát tinh, sẽ chủ về hoạnh phát hoạnh phá.
"Vũ Khúc, Tham Lang" đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, gặp sao lộc chủ về phú; gặp Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ Hữu Bật chủ về quý, hoặc phú nhờ quý mà có.
"Vũ Khúc, Tham Lang" Hoá Kị (Vũ Khúc Hoá Kị nặng hơn), gặp Hoả Tinh, Linh Tinh, thì luận gặp sát tinh, nhưng còn chủ về thông minh, có nghề đặc biệt để mưu sinh. Ở thời hiện đại cũng có thể theo ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật.
Đối với "Vũ Khúc, Tham Lang", các cung hạn "Thái Dương, Cự Môn", "Thiên Đồng, Thái Âm" là đại vận có tính then chốt của đời người. Vận trình lúc còn trẻ tốt hay xấu có thể ảnh hưởng suốt cuộc đời.
Đối với "Vũ Khúc, Tham Lang", các cung hạn Thiên Phủ, "Liêm Trinh, Phá Quân", "Thiên Cơ, Thiên Lương" là các lưu niên có tính then chốt.
"Vũ Khúc, Tham Lang" ở cung thân không bằng ở cung mệnh. Nếu gặp các sao sát, kị, hình, chủ về cuộc đời nhiều hung hiểm. Nếu đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, cũng chủ về hoạnh phát liền hoạnh phá.
"Vũ Khúc, Thiên Tướng" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, phần nhiều chủ về là người làm việc hưởng lương, chỉ nên làm chức phó, không nên một mình cán đáng công việc.
"Vũ Khúc, Thiên Tướng" có Văn Xương, Văn Khúc hội hợp, chủ về thông minh, tay nghề khéo. Cổ quyết nói: "Vũ Khúc, Thiên Tướng gặp Văn Xương, Văn Khúc, thông minh, tay nghề khéo mưu sinh". Ở thời hiện đại cũng là điềm tượng công nghệ, khoa học kỹ thuật.
"Vũ Khúc, Thiên Tướng" có Văn Khúc đồng độ, lại gặp các sao đào hoa (Thiên Riêu càng nặng), chủ về là người trôi nổi, không yên một nghề. Cần phải lấy nổ lực hậu thiên để khắc chế, mới có thể dựa vào nghị lực mà sáng lập sự nghiệp.
"Vũ Khúc, Thiên Tướng" thủ mệnh cung Dần, Tham Lang thủ cung thân ở cung Tí; nếu cung thân có các sao sát, kị hội hợp, thì gặp năm Tí có nguy cơ về sông nước, lấy năm có lưu sát tinh xung hội làm ứng nghiệm.
"Vũ Khúc, Thiên Tướng" thủ mệnh, nếu cung tài bạch là "Liêm Trinh, Thiên Phủ", mà Liêm Trinh Hoá Kị, nên làm công việc có tính hung sự để kiếm tiền. Ở thời hiện đại, các ngành nghề như ẩm thực, y dược, ngoại khoa, hoá nghiệm, tang lễ, v.v... đều thuộc "hung sự"; ở thời cổ đại là đồ tể, chăn nuôi, v.v...
"Vũ Khúc, Thiên Tướng" rất ưa cung thiên di là Phá Quân Hoá Lộc, thì tuy có chức phó nhưng cũng có thanh danh, mà cuộc đời phần nhiều gánh vác toàn trọng trách khó khăn.
"Vũ Khúc, Thiên Tướng" có Văn Khúc đồng độ; đối cung có Thiên Mã, mà không có Hoá Lộc, Lộc Tồn; các sao cát và sát tinh lẫn lộn; cổ nhân cho là mang linh đinh.
Đối với "Vũ Khúc, Thiên Tướng", các cung hạn "Thái Dương, Thiên Lương", Thiên Cơ, Thái Âm là các đại vận có tính then chốt; các cung hạn có Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Tử Vi là những lưu niên có tính then chốt.
"Vũ Khúc, Thất Sát" thủ mệnh ở cung Mão, gặp các sao sát, kị sẽ chủ về nạn tai bất trắc. Cổ quyết nói: "Các sao ác, sát, hao, tù hội hợp ở cung Chấn, chủ về cây đè, sét đánh". Ở cung Dậu, là điềm tượng vì tranh giành tiền bạc mà động võ. Cổ quyết nói: "Vũ Khúc, Kiếp Sát hội Kình Dương, vì tiền mà cầm đao". Cổ quyết còn nói: "Vũ Khúc, Kình Dương, Đà La kiêm Hoả Tinh, mất mạng vì tiền". Đều nói về "Vũ Khúc, Thất Sát" ở hai cung Mão Dậu.
Tóm lại, "Vũ Khúc, Thất Sát" đồng cung, là tổ hợp sao có nguy cơ. "Vũ Khúc, Thất Sát" ở bản cung không có các sao sát, kị, thì thích hợp với võ nghiệp, có thể lập công trạng.
Đối với "Vũ Khúc, Thất Sát", các cung hạn "Thiên Đồng, Thiên Lương", Thái Dương, Thái Âm, là những đại vận có tính then chốt; các cung hạn "Liêm Trinh, Tham Lang", "Tử Vi, Phá Quân" và bản cung "Vũ Khúc, Thất Sát" là các lưu niên có tính then chốt.
Vũ Khúc độc toạ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, gặp cát tinh cũng chủ về nắm quyền tài chính; gặp sát tinh, là tiểu thương, tuyệt đối không nên theo võ nghiệp.
Vũ Khúc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ắt sẽ đối nhau với Tham Lang, tính chất tương tự như "Vũ Khúc, Tham Lang" ở hai cung Sửu hoặc Mùi. Các đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt cũng tương tự.
Vũ Khúc thủ mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cung thiên di là Tham Lang đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, không chủ về rời xa quê hương, mà chỉ chủ về phát đột ngột. Nếu cung mệnh có Hoả Tinh, Linh Tinh, mới chủ về rời xa quê hương để lập nghiệp.
"Vũ Khúc, Phá Quân" ở hai cung Tị hoặc Hợi, đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, chủ về phá tổ nghiệp mà tự lập. Được cát hoá và có sao cát, thì cuộc đời phần nhiều gánh vác trọng trách, hoặc thường gánh vác công việc quá mức.
"Vũ Khúc, Phá Quân" ở cung mệnh hay cung thân, phần nhiều ưa hợp tác với người khác. Vì vậy nên xem xét kỹ cát hung của cung huynh đệ.
"Vũ Khúc, Phá Quân" ở cung Hợi, phần nhiều chủ về thị phi, không ổn định. Nếu cung phụ mẫu là Thái Dương lạc hãm ở cung Tí, cuộc đời thiếu sự che chở của cha mẹ, hoặc cấp trên không lấy lòng thành để đối xử với mệnh tạo. Nhưng người sinh năm Nhâm, tuy Vũ Khúc Hoá Kị, nhưng Thái Dương được Thiên Lương Hoá Lộc vây chiếu, mới chủ về được người ta đề bạt, trọng dụng. Cho nên "Vũ Khúc, Phá Quân" Hoá Kị, là cách cục "phản bối" thì chủ về cát tường.
Đối với "Vũ Khúc, Phá Quân", các cung hạn Thái Dương, "Thiên Cơ, Thái Âm", Thiên Đồng là những đại vận có tính then chốt; các cung hạn Thái Dương, Thiên Lương, "Tử Vi, Tham Lang", "Thiên Cơ, Thái Âm" là những lưu niên có tính then chốt.
Vũ Khúc là sao tiền tài; phân biệt tỉ mỉ là hành động kiếm tiền, khác với Thái Âm là kế hoạch kiếm tiền. Cho nên cổ nhân xếp Thái Âm thuộc văn, còn Vũ Khúc thuộc võ.
Cổ quyết nói: Người sinh năm Thìn, cung mệnh là Vũ Khúc ở cung Thìn; người sinh năm Tuất, cung mệnh là Vũ Khúc ở cung Tuất; người sinh năm Sửu, cung mệnh là "Vũ Khúc, Tham Lang" ở cung Sửu; người sinh năm Mùi, cung mệnh là "Vũ Khúc, Tham Lang" ở Mùi; đều chủ về lập được chiến công, lấy công để khởi nghiệp.
Vũ Khúc là sao cô quả, vì vậy không thích hợp với nữ mệnh. Dù có cuộc sống hôn nhân, cũng chủ về vợ đoạt quyền chồng. Ở thời hiện đại, thường thường là điềm tượng thao túng sự nghiệp của chồng, mà còn chủ về kết hôn muộn.
"Vũ Khúc, Thiên Phủ" ở hai cung Tí hoặc Ngọ, ở cung Ngọ tốt hơn. Tuy cổ quyết nói: "Vũ Khúc, Thiên Phủ" đồng cung chủ về sống thọ, nhưng "Vũ Khúc, Thiên Phủ" thủ mệnh ở cung Tí, lại ngại cung phụ mẫu là Thái Dương lạc hãm,e rằng còn nhỏ đã mồ côi, hoặc khó được cha mẹ che chở, vì vậy không bằng cung Ngọ.
"Vũ Khúc, Thiên Phủ" khí rất hoà hoãn, cho nên cổ nhân cho rằng rất thích hợp với nữ mệnh. Ở thời hiện đại, bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh, "Vũ Khúc, Thiên Phủ" mà có sao lộc, lại gặp Thiên Khôi, Thiên Việt, phần nhiều chủ về đắc ý trong giới làm ăn kinh doanh. Nếu không có Thiên Khôi, Thiên Việt, nhưng gặp Tả Phụ, Hữu Bật cũng cát; gặp Văn Xương, Văn Khúc, chỉ chủ về thông minh, không chủ về đắc ý.
Đối với "Vũ Khúc, Thiên Phủ", hai cung đại hạn Thiên Đồng, "Thái Âm, Thái Dương" là đại vận có tính then chốt của đời người. Hai cung hạn này ưa gặp cát tinh và cát hoá, được vậy thì tuổi trẻ hưởng thụ, trung niên và vãn niên phúc trạch cũng dầy. Nếu hai cung hạn này gặp các sao sát, kị, hình, thì tuổi trẻ không cát tường, trung niên và vãn niên cũng bị ảnh hưởng.
Đối với "Vũ Khúc, Thiên Phủ", các cung hạn Tham Lang, "Tử Vi, Thiên Tướng", Thất Sát, Phá Quân là các lưu niên có tính then chốt.
"Vũ Khúc, Tham Lang" thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, có Hoả Tinh hoặc Linh Tinh đồng độ là rất tốt. Ở cung tài bạch và cung điền trạch cũng cát. Cổ quyết nói: "Vũ Khúc, Tham Lang ở tài trạch vị, hoạnh phát tiền của". Không có cát tinh mà có sát tinh, sẽ chủ về hoạnh phát hoạnh phá.
"Vũ Khúc, Tham Lang" đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, gặp sao lộc chủ về phú; gặp Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ Hữu Bật chủ về quý, hoặc phú nhờ quý mà có.
"Vũ Khúc, Tham Lang" Hoá Kị (Vũ Khúc Hoá Kị nặng hơn), gặp Hoả Tinh, Linh Tinh, thì luận gặp sát tinh, nhưng còn chủ về thông minh, có nghề đặc biệt để mưu sinh. Ở thời hiện đại cũng có thể theo ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật.
Đối với "Vũ Khúc, Tham Lang", các cung hạn "Thái Dương, Cự Môn", "Thiên Đồng, Thái Âm" là đại vận có tính then chốt của đời người. Vận trình lúc còn trẻ tốt hay xấu có thể ảnh hưởng suốt cuộc đời.
Đối với "Vũ Khúc, Tham Lang", các cung hạn Thiên Phủ, "Liêm Trinh, Phá Quân", "Thiên Cơ, Thiên Lương" là các lưu niên có tính then chốt.
"Vũ Khúc, Tham Lang" ở cung thân không bằng ở cung mệnh. Nếu gặp các sao sát, kị, hình, chủ về cuộc đời nhiều hung hiểm. Nếu đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, cũng chủ về hoạnh phát liền hoạnh phá.
"Vũ Khúc, Thiên Tướng" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, phần nhiều chủ về là người làm việc hưởng lương, chỉ nên làm chức phó, không nên một mình cán đáng công việc.
"Vũ Khúc, Thiên Tướng" có Văn Xương, Văn Khúc hội hợp, chủ về thông minh, tay nghề khéo. Cổ quyết nói: "Vũ Khúc, Thiên Tướng gặp Văn Xương, Văn Khúc, thông minh, tay nghề khéo mưu sinh". Ở thời hiện đại cũng là điềm tượng công nghệ, khoa học kỹ thuật.
"Vũ Khúc, Thiên Tướng" có Văn Khúc đồng độ, lại gặp các sao đào hoa (Thiên Riêu càng nặng), chủ về là người trôi nổi, không yên một nghề. Cần phải lấy nổ lực hậu thiên để khắc chế, mới có thể dựa vào nghị lực mà sáng lập sự nghiệp.
"Vũ Khúc, Thiên Tướng" thủ mệnh cung Dần, Tham Lang thủ cung thân ở cung Tí; nếu cung thân có các sao sát, kị hội hợp, thì gặp năm Tí có nguy cơ về sông nước, lấy năm có lưu sát tinh xung hội làm ứng nghiệm.
"Vũ Khúc, Thiên Tướng" thủ mệnh, nếu cung tài bạch là "Liêm Trinh, Thiên Phủ", mà Liêm Trinh Hoá Kị, nên làm công việc có tính hung sự để kiếm tiền. Ở thời hiện đại, các ngành nghề như ẩm thực, y dược, ngoại khoa, hoá nghiệm, tang lễ, v.v... đều thuộc "hung sự"; ở thời cổ đại là đồ tể, chăn nuôi, v.v...
"Vũ Khúc, Thiên Tướng" rất ưa cung thiên di là Phá Quân Hoá Lộc, thì tuy có chức phó nhưng cũng có thanh danh, mà cuộc đời phần nhiều gánh vác toàn trọng trách khó khăn.
"Vũ Khúc, Thiên Tướng" có Văn Khúc đồng độ; đối cung có Thiên Mã, mà không có Hoá Lộc, Lộc Tồn; các sao cát và sát tinh lẫn lộn; cổ nhân cho là mang linh đinh.
Đối với "Vũ Khúc, Thiên Tướng", các cung hạn "Thái Dương, Thiên Lương", Thiên Cơ, Thái Âm là các đại vận có tính then chốt; các cung hạn có Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Tử Vi là những lưu niên có tính then chốt.
"Vũ Khúc, Thất Sát" thủ mệnh ở cung Mão, gặp các sao sát, kị sẽ chủ về nạn tai bất trắc. Cổ quyết nói: "Các sao ác, sát, hao, tù hội hợp ở cung Chấn, chủ về cây đè, sét đánh". Ở cung Dậu, là điềm tượng vì tranh giành tiền bạc mà động võ. Cổ quyết nói: "Vũ Khúc, Kiếp Sát hội Kình Dương, vì tiền mà cầm đao". Cổ quyết còn nói: "Vũ Khúc, Kình Dương, Đà La kiêm Hoả Tinh, mất mạng vì tiền". Đều nói về "Vũ Khúc, Thất Sát" ở hai cung Mão Dậu.
Tóm lại, "Vũ Khúc, Thất Sát" đồng cung, là tổ hợp sao có nguy cơ. "Vũ Khúc, Thất Sát" ở bản cung không có các sao sát, kị, thì thích hợp với võ nghiệp, có thể lập công trạng.
Đối với "Vũ Khúc, Thất Sát", các cung hạn "Thiên Đồng, Thiên Lương", Thái Dương, Thái Âm, là những đại vận có tính then chốt; các cung hạn "Liêm Trinh, Tham Lang", "Tử Vi, Phá Quân" và bản cung "Vũ Khúc, Thất Sát" là các lưu niên có tính then chốt.
Vũ Khúc độc toạ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, gặp cát tinh cũng chủ về nắm quyền tài chính; gặp sát tinh, là tiểu thương, tuyệt đối không nên theo võ nghiệp.
Vũ Khúc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ắt sẽ đối nhau với Tham Lang, tính chất tương tự như "Vũ Khúc, Tham Lang" ở hai cung Sửu hoặc Mùi. Các đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt cũng tương tự.
Vũ Khúc thủ mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cung thiên di là Tham Lang đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, không chủ về rời xa quê hương, mà chỉ chủ về phát đột ngột. Nếu cung mệnh có Hoả Tinh, Linh Tinh, mới chủ về rời xa quê hương để lập nghiệp.
"Vũ Khúc, Phá Quân" ở hai cung Tị hoặc Hợi, đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, chủ về phá tổ nghiệp mà tự lập. Được cát hoá và có sao cát, thì cuộc đời phần nhiều gánh vác trọng trách, hoặc thường gánh vác công việc quá mức.
"Vũ Khúc, Phá Quân" ở cung mệnh hay cung thân, phần nhiều ưa hợp tác với người khác. Vì vậy nên xem xét kỹ cát hung của cung huynh đệ.
"Vũ Khúc, Phá Quân" ở cung Hợi, phần nhiều chủ về thị phi, không ổn định. Nếu cung phụ mẫu là Thái Dương lạc hãm ở cung Tí, cuộc đời thiếu sự che chở của cha mẹ, hoặc cấp trên không lấy lòng thành để đối xử với mệnh tạo. Nhưng người sinh năm Nhâm, tuy Vũ Khúc Hoá Kị, nhưng Thái Dương được Thiên Lương Hoá Lộc vây chiếu, mới chủ về được người ta đề bạt, trọng dụng. Cho nên "Vũ Khúc, Phá Quân" Hoá Kị, là cách cục "phản bối" thì chủ về cát tường.
Đối với "Vũ Khúc, Phá Quân", các cung hạn Thái Dương, "Thiên Cơ, Thái Âm", Thiên Đồng là những đại vận có tính then chốt; các cung hạn Thái Dương, Thiên Lương, "Tử Vi, Tham Lang", "Thiên Cơ, Thái Âm" là những lưu niên có tính then chốt.
Được cảm ơn bởi: Viendanho
-
- Lục đẳng
- Bài viết: 2692
- Tham gia: 00:39, 07/03/12
TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH
V. Thiên Đồng ở cung mệnh (thân):
Thiên Đồng ở 12 cung đều có khuyết điểm, cổ nhân nói, "Thiên Đồng vào 12 cung đều là phúc trạch", đây là nói rốt cuộc nó có thể khắc phục khuyết điểm. Như ở cung mệnh, chủ về tay trắng làm nên, tức là cần phải lưu ý cung phụ mẫu, xem cha mẹ của mệnh tạo có phá tán, thất bại hay không, hay vận trình lúc còn trẻ có phá tán, thất bại hay không.
Thiên Đồng chủ về tâm trạng, cho nên lúc có các sao phụ, tá tụ hội, chưa chắc đã cát lợi, bởi vì có thể xảy ra tính ỷ lại, khiến đời người dễ vì thành tựu nhỏ mà đã an vui không chịu tiến thủ.
Thiên Đồng thuần tuý là sao tinh thần, ưa được kích phát, mới có tinh thần phấn chấn. Vì vậy, gặp sát tinh và Hoá Kỵ, có lúc lại chủ về trải qua gian nguy sau mới có được thu hoạch lợi ích.
Thiên Đồng gặp các sao cát, hình trùng trùng, chủ về tinh thần rối rắm khó xử. Nếu gặp thêm các tạp diệu Thiên Hình, Thiên Hư, Đại Hao, Âm Sát, mà bản thân Thiên Đồng lại hoá làm sao kị, thì nên đề phòng bệnh tinh thần, hay tâm lý mất quân bình mà gây ra bệnh hoạn. Nếu gặp thêm cát tinh cũng chủ về tinh thần bị áp lực.
Do Thiên Đồng ưa được kích phát, trừ phi nguyên cục có các sao sát, kị, hình, hao trùng trùng, nếu không, thông thường nó ưa đến cung hạn Thất Sát tọa thủ. Cung hạn này hơi gặp cát tinh, mà tam phương tứ chính còn có sao lộc, tức là vận mệnh chủ về phát mạnh. Bất kể đại hạn hay lưu niên đều như vậy.
"Thiên Đồng, Thái Âm" đồng độ ở hai cung Tí hoặc Ngọ, ở cung Tí thì tốt hơn, vì ở cung Ngọ thì Thái Âm lạc hãm, còn gây ảnh hưởng khiến Thiên Đồng có tâm trạng không ổn định. Nếu lại gặp sát tinh, sẽ chủ về bệnh mang tính thần kinh, âm dương không điều hoà, nội tiết mất quân bình, âm hư, v.v... Không gặp sát tinh cũng chủ về thần kinh quá mẫn cảm.
"Thiên Đồng, Thái Âm" ở cung Ngọ, gặp cát tinh, nhưng có Kình Dương đồng độ, gọi là "Mã đầu đới tiễn". Người sinh năm Bính, Thiên Đồng Hoá Lộc, tốt hơn người sinh năm Mậu, Thái Âm Hoá Quyền (ắt cũng gặp Thiên Cơ Hoá Kị). Người sinh năm Mậu phải trải qua gian nguy để lập nghiệp, lại thường vì nghi kị mà sinh phá tán, thất bại. Người sinh năm Bính, sau khi lập nghiệp thì nhiều phúc trạch.
"Thiên Đồng, Thái Âm" ở cung Tí tuy không tốt bằng ở cung Ngọ thuộc cách cục "Mã đầu đới tiễn"; nhưng lại hơn xa "Thiên Đồng, Thái Âm" ở cung Ngọ mà không thành cách. Vì có thể mượn "Thái Dương, Cự Môn" của cung Dần, nếu được cát hoá, chủ về được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) đề bạt. Nữ mệnh thường kết hôn với người ngoại quốc (hay người phương xa). Nhất là cung Tí vô chính diệu, mượn "Thiên Đồng, Thái Âm" của cung Ngọ để an sao thì càng đúng; hoặc cung Ngọ vô chính diệu, mượn "Thiên Đồng, Thái Âm" của cung Tí cũng vậy.
"Thiên Đồng, Thái Âm" ở hai cung Tí hoặc Ngọ, rất kị Thiên Đồng hay Thái Âm Hoá Kị; khi đến cung hạn Thiên Tướng toạ thủ, bất kể lưu niên hay đại hạn đều có khuyết điểm, thông thường là niên hạn chủ về trắc trở. Nếu người sinh năm Đinh, Thiên Đồng Hoá Quyền, Thái Âm Hoá Lộc, thì cung phúc đức Cự Môn ắt sẽ Hoá Kị, thích hợp với các nghề nghiệp cần đến tài ăn nói. Nữ mệnh đến vận Thiên Tướng, chỉ cần đề phòng trắc trở trong hôn nhân.
Đối với "Thiên Đồng, Thái Âm" ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gặp sát tinh, thì các cung hạn Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang là những niên vận có tính then chốt; không gặp sát tinh mà gặp cát tinh, thì các cung hạn "Tử Vi, Thất Sát", Thiên Tướng, "Thiên Cơ, Thiên Lương" là các niên vận có tính then chốt.
"Thiên Đồng, Cự Môn" ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Cự Môn là ám tinh, ảnh hưởng đến sắc thái tâm trạng của Thiên Đồng. Cho nên bản thân các tổ hợp sao đã có khuyết điểm. Như Thiên Đồng Hoá Kị, thì tâm chí bạc nhược, hoặc có nỗi đau khổ thầm kín; Cự Môn Hoá Kị sẽ chủ về nỗi đau khổ thầm kín trong đời người thường là do bản thân mệnh tạo chủ động gây ra.
"Thiên Đồng, Cự Môn" ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Hoá Lộc thì tài lộc dồi dào, nhưng vẫn không tránh được, có nỗi đau khổ thầm kín. Cần phải Cự Môn Hoá Quyền, hoặc hội các sao Hoá Khoa, Hoá Quyền mới chủ về tâm trạng ổn định, có thể tránh bị người ngoài gây ra nỗi đau khổ thầm kín.
Tổ hợp "Thiên Đồng, Cự Môn", nếu Cự Môn Hoá Kị, thì Thiên Đồng ắt sẽ hoá thành sao quyền. Thiên Đồng Hoá Quyền có thể ổn định tâm trạng, Cự Môn Hoá Kỵ thì sinh lực kích phát; nhưng lúc này, nếu ở cung Sửu, thì bị Kình Dương, Đà La chiếu xạ; nếu ở cung Mùi, ắt sẽ có Kình Dương đồng cung, lực kích phát thái quá sẽ thành rối rắm khó xử. Vì vậy không tốt bằng Thiên Đồng ở hai cung Thìn hoặc Tuất đối nhau với Cự Môn.
Đối với "Thiên Đồng, Cự Môn", ngoài trừ cung hạn Thất Sát là vận hạn có tính then chốt ra, còn có các cung hạn khác là "Thái Dương, Thiên Lương", Thái Âm, Phá Quân, Thiên Cơ là những hạn có tính then chốt.
Hễ "Thiên Đồng, Cự Môn" đồng độ với Đà La, là chủ về buồn phiền, đời người ắt phải trải qua sóng gió lớn mới phát mạnh. Về vận phát mạnh, nam mệnh nên đến cung hạn Thất Sát, nữ mệnh đến cung hạn "Liêm Trinh, Thiên Phủ".
"Thiên Đồng, Thiên Lương" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, thành cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương". Kết cấu này ổn định hơn "Thiên Cơ, Thái Âm" thủ mệnh thành cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương". Có điều, Thiên Đồng chủ về tâm trạng, Thiên Lương chủ về nguyên tắc, hai sao đồng cung, khó tránh mâu thuẩn, xung đột. Nhưng vẫn lấy trường hợp gặp Hoá Lộc, Hoá Quyền làm cách cục cát lợi; gặp Hoá Khoa thì chỉ sang quý thanh cao, có địa vị xã hội, nhưng không giàu có, thu nhập sẽ tuỳ theo địa vị mà định.
"Thiên Đồng, Thiên Lương" ở hai cung Dần hoặc Thân, chủ về bất lợi trong hôn nhân, cung phu thê là Cự Môn Hoá Kị thì càng đúng.
Đối với "Thiên Đồng, Thiên Lương" ở hai cung Dần hoặc Thân, các cung hạn "Vũ Khúc, Thất Sát", Cự Môn, Thái Âm, Thái Dương là những lưu niên hay đại vận có tính then chốt.
Thiên Đồng độc toạ ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối nhau với Thái Âm. Trường hợp Thái Âm ở cung Dậu thì tốt hơn. Nếu người sinh năm Đinh, có tứ hoá diệu tụ hội, do Cự Môn Hoá Kị ở cung tài bạch, nên không chủ về lực kích phát, mà chỉ chủ về dùng lời nói để kiếm tiền, nếu không sẽ thành điều tiếng thị phi.
Thiên Đồng ở cung Dậu, nếu đối cung là Thái Âm Hoá Kị, thì dễ thất chí, hoặc nhiều mặc cảm tự ti. Thiên Đồng ở cung Mão, đối cung là Thái Âm Hoá Kị, sẽ chủ về thủ đoạn.
Thiên Đồng ở hai cung Mão hoặc Dậu, nếu hội Cự Môn Hoá Lộc hoặc Cự Môn Hoá Kị, thì cũng dể sinh nỗi đau khổ thầm kín, nhất là đau khổ vì mối tình không bình thường, giống như "Thiên Đồng, Cự Môn" ở hai cung Sửu hoặc Mùi.
Đối với Thiên Đồng ở hai cung Mão hoặc Dậu, các cung hạn Thiên Cơ, Thất Sát, Thiên Lương, Cự Môn là những niên hạn có tính then chốt.
Thiên Đồng ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối nhau với Cự Môn, cũng có đặc tính của "Thiên Đồng, Cự Môn". Có điều, Thiên Đồng ở cung Tuất ưa đối cung là Cự Môn Hoá Kị kích phát, gọi là cục "phản bối", chủ về gian khổ sáng lập sự nghiệp, cần phải chú ý điều hoà quan hệ nhân tế, vì có ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp.
Thiên Đồng ở cung Thìn, đối cung là Cự Môn Hoá Kị, cho nên không thành cục "phản bối", vì hội Thiên Lương có tính "cô kị" ở cung Tí không bằng hội Thiên Lương ở cung Ngọ, cho nên đời người khá thuận lợi toại ý, nhưng lại ít tính chất "qua cơn mưa trời lại sáng" để thành sự nghiệp lớn.
Thiên Đồng ở cung Thìn, thông thường đều độc đoán, có thành kiến. Vì vậy không nên hợp tác làm ăn với người khác.
Đối với Thiên Đồng ở hai cung Thìn hoặc Tuất, các cung hạn "Liêm Trinh, Thất Sát", Thiên Lương, Cự Môn, "Thiên Cơ, Thái Âm" là những niên vận có tính then chốt.
Thiên Đồng ở hai cung Tị hoặc Hợi, ở cung Tị tốt hơn. Ở cung Hợi thì Thiên Lương của đối cung ở cung Tị, dễ mang lại thị phi, kiện tụnh, khắc hại.
Thiên Đồng đối nhau với Thiên Lương, có tính lười biếng. Vì vậy nên thận trọng trong việc kết bạn, dễ giao du với bạn xấu, khiến ảnh hưởng xấu đến cuộc đời.
Thiên Đồng ở hai cung Tị hoặc Hợi, rất ngại Hoá Kị, nhất là ở cung Hợi, chủ về cuộc đời vất vả, rời xa người thân, lưu lạc, không nơi nương tựa; ở cung Tị thì có thể tự lập, chỉ cần giữ ổn định, không được thấy mới nới cũ, mới có thể lập nghiệp.
Thiên Đồng ở hai cung Tị hoặc Hợi, lúc hơi thành tựu, nhất thiết không được hợp tác với người khác, nếu không sẽ có kết cục rất xấu.
Đối với Thiên Đồng ở hai cung Tị hoặc Hợi, các cung hạn "Thiên Cơ, Cự Môn", Thất Sát, Liêm Trinh là những niên hạn có tính then chốt.
Thiên Đồng ở 12 cung đều có khuyết điểm, cổ nhân nói, "Thiên Đồng vào 12 cung đều là phúc trạch", đây là nói rốt cuộc nó có thể khắc phục khuyết điểm. Như ở cung mệnh, chủ về tay trắng làm nên, tức là cần phải lưu ý cung phụ mẫu, xem cha mẹ của mệnh tạo có phá tán, thất bại hay không, hay vận trình lúc còn trẻ có phá tán, thất bại hay không.
Thiên Đồng chủ về tâm trạng, cho nên lúc có các sao phụ, tá tụ hội, chưa chắc đã cát lợi, bởi vì có thể xảy ra tính ỷ lại, khiến đời người dễ vì thành tựu nhỏ mà đã an vui không chịu tiến thủ.
Thiên Đồng thuần tuý là sao tinh thần, ưa được kích phát, mới có tinh thần phấn chấn. Vì vậy, gặp sát tinh và Hoá Kỵ, có lúc lại chủ về trải qua gian nguy sau mới có được thu hoạch lợi ích.
Thiên Đồng gặp các sao cát, hình trùng trùng, chủ về tinh thần rối rắm khó xử. Nếu gặp thêm các tạp diệu Thiên Hình, Thiên Hư, Đại Hao, Âm Sát, mà bản thân Thiên Đồng lại hoá làm sao kị, thì nên đề phòng bệnh tinh thần, hay tâm lý mất quân bình mà gây ra bệnh hoạn. Nếu gặp thêm cát tinh cũng chủ về tinh thần bị áp lực.
Do Thiên Đồng ưa được kích phát, trừ phi nguyên cục có các sao sát, kị, hình, hao trùng trùng, nếu không, thông thường nó ưa đến cung hạn Thất Sát tọa thủ. Cung hạn này hơi gặp cát tinh, mà tam phương tứ chính còn có sao lộc, tức là vận mệnh chủ về phát mạnh. Bất kể đại hạn hay lưu niên đều như vậy.
"Thiên Đồng, Thái Âm" đồng độ ở hai cung Tí hoặc Ngọ, ở cung Tí thì tốt hơn, vì ở cung Ngọ thì Thái Âm lạc hãm, còn gây ảnh hưởng khiến Thiên Đồng có tâm trạng không ổn định. Nếu lại gặp sát tinh, sẽ chủ về bệnh mang tính thần kinh, âm dương không điều hoà, nội tiết mất quân bình, âm hư, v.v... Không gặp sát tinh cũng chủ về thần kinh quá mẫn cảm.
"Thiên Đồng, Thái Âm" ở cung Ngọ, gặp cát tinh, nhưng có Kình Dương đồng độ, gọi là "Mã đầu đới tiễn". Người sinh năm Bính, Thiên Đồng Hoá Lộc, tốt hơn người sinh năm Mậu, Thái Âm Hoá Quyền (ắt cũng gặp Thiên Cơ Hoá Kị). Người sinh năm Mậu phải trải qua gian nguy để lập nghiệp, lại thường vì nghi kị mà sinh phá tán, thất bại. Người sinh năm Bính, sau khi lập nghiệp thì nhiều phúc trạch.
"Thiên Đồng, Thái Âm" ở cung Tí tuy không tốt bằng ở cung Ngọ thuộc cách cục "Mã đầu đới tiễn"; nhưng lại hơn xa "Thiên Đồng, Thái Âm" ở cung Ngọ mà không thành cách. Vì có thể mượn "Thái Dương, Cự Môn" của cung Dần, nếu được cát hoá, chủ về được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) đề bạt. Nữ mệnh thường kết hôn với người ngoại quốc (hay người phương xa). Nhất là cung Tí vô chính diệu, mượn "Thiên Đồng, Thái Âm" của cung Ngọ để an sao thì càng đúng; hoặc cung Ngọ vô chính diệu, mượn "Thiên Đồng, Thái Âm" của cung Tí cũng vậy.
"Thiên Đồng, Thái Âm" ở hai cung Tí hoặc Ngọ, rất kị Thiên Đồng hay Thái Âm Hoá Kị; khi đến cung hạn Thiên Tướng toạ thủ, bất kể lưu niên hay đại hạn đều có khuyết điểm, thông thường là niên hạn chủ về trắc trở. Nếu người sinh năm Đinh, Thiên Đồng Hoá Quyền, Thái Âm Hoá Lộc, thì cung phúc đức Cự Môn ắt sẽ Hoá Kị, thích hợp với các nghề nghiệp cần đến tài ăn nói. Nữ mệnh đến vận Thiên Tướng, chỉ cần đề phòng trắc trở trong hôn nhân.
Đối với "Thiên Đồng, Thái Âm" ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gặp sát tinh, thì các cung hạn Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang là những niên vận có tính then chốt; không gặp sát tinh mà gặp cát tinh, thì các cung hạn "Tử Vi, Thất Sát", Thiên Tướng, "Thiên Cơ, Thiên Lương" là các niên vận có tính then chốt.
"Thiên Đồng, Cự Môn" ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Cự Môn là ám tinh, ảnh hưởng đến sắc thái tâm trạng của Thiên Đồng. Cho nên bản thân các tổ hợp sao đã có khuyết điểm. Như Thiên Đồng Hoá Kị, thì tâm chí bạc nhược, hoặc có nỗi đau khổ thầm kín; Cự Môn Hoá Kị sẽ chủ về nỗi đau khổ thầm kín trong đời người thường là do bản thân mệnh tạo chủ động gây ra.
"Thiên Đồng, Cự Môn" ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Hoá Lộc thì tài lộc dồi dào, nhưng vẫn không tránh được, có nỗi đau khổ thầm kín. Cần phải Cự Môn Hoá Quyền, hoặc hội các sao Hoá Khoa, Hoá Quyền mới chủ về tâm trạng ổn định, có thể tránh bị người ngoài gây ra nỗi đau khổ thầm kín.
Tổ hợp "Thiên Đồng, Cự Môn", nếu Cự Môn Hoá Kị, thì Thiên Đồng ắt sẽ hoá thành sao quyền. Thiên Đồng Hoá Quyền có thể ổn định tâm trạng, Cự Môn Hoá Kỵ thì sinh lực kích phát; nhưng lúc này, nếu ở cung Sửu, thì bị Kình Dương, Đà La chiếu xạ; nếu ở cung Mùi, ắt sẽ có Kình Dương đồng cung, lực kích phát thái quá sẽ thành rối rắm khó xử. Vì vậy không tốt bằng Thiên Đồng ở hai cung Thìn hoặc Tuất đối nhau với Cự Môn.
Đối với "Thiên Đồng, Cự Môn", ngoài trừ cung hạn Thất Sát là vận hạn có tính then chốt ra, còn có các cung hạn khác là "Thái Dương, Thiên Lương", Thái Âm, Phá Quân, Thiên Cơ là những hạn có tính then chốt.
Hễ "Thiên Đồng, Cự Môn" đồng độ với Đà La, là chủ về buồn phiền, đời người ắt phải trải qua sóng gió lớn mới phát mạnh. Về vận phát mạnh, nam mệnh nên đến cung hạn Thất Sát, nữ mệnh đến cung hạn "Liêm Trinh, Thiên Phủ".
"Thiên Đồng, Thiên Lương" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, thành cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương". Kết cấu này ổn định hơn "Thiên Cơ, Thái Âm" thủ mệnh thành cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương". Có điều, Thiên Đồng chủ về tâm trạng, Thiên Lương chủ về nguyên tắc, hai sao đồng cung, khó tránh mâu thuẩn, xung đột. Nhưng vẫn lấy trường hợp gặp Hoá Lộc, Hoá Quyền làm cách cục cát lợi; gặp Hoá Khoa thì chỉ sang quý thanh cao, có địa vị xã hội, nhưng không giàu có, thu nhập sẽ tuỳ theo địa vị mà định.
"Thiên Đồng, Thiên Lương" ở hai cung Dần hoặc Thân, chủ về bất lợi trong hôn nhân, cung phu thê là Cự Môn Hoá Kị thì càng đúng.
Đối với "Thiên Đồng, Thiên Lương" ở hai cung Dần hoặc Thân, các cung hạn "Vũ Khúc, Thất Sát", Cự Môn, Thái Âm, Thái Dương là những lưu niên hay đại vận có tính then chốt.
Thiên Đồng độc toạ ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối nhau với Thái Âm. Trường hợp Thái Âm ở cung Dậu thì tốt hơn. Nếu người sinh năm Đinh, có tứ hoá diệu tụ hội, do Cự Môn Hoá Kị ở cung tài bạch, nên không chủ về lực kích phát, mà chỉ chủ về dùng lời nói để kiếm tiền, nếu không sẽ thành điều tiếng thị phi.
Thiên Đồng ở cung Dậu, nếu đối cung là Thái Âm Hoá Kị, thì dễ thất chí, hoặc nhiều mặc cảm tự ti. Thiên Đồng ở cung Mão, đối cung là Thái Âm Hoá Kị, sẽ chủ về thủ đoạn.
Thiên Đồng ở hai cung Mão hoặc Dậu, nếu hội Cự Môn Hoá Lộc hoặc Cự Môn Hoá Kị, thì cũng dể sinh nỗi đau khổ thầm kín, nhất là đau khổ vì mối tình không bình thường, giống như "Thiên Đồng, Cự Môn" ở hai cung Sửu hoặc Mùi.
Đối với Thiên Đồng ở hai cung Mão hoặc Dậu, các cung hạn Thiên Cơ, Thất Sát, Thiên Lương, Cự Môn là những niên hạn có tính then chốt.
Thiên Đồng ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối nhau với Cự Môn, cũng có đặc tính của "Thiên Đồng, Cự Môn". Có điều, Thiên Đồng ở cung Tuất ưa đối cung là Cự Môn Hoá Kị kích phát, gọi là cục "phản bối", chủ về gian khổ sáng lập sự nghiệp, cần phải chú ý điều hoà quan hệ nhân tế, vì có ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp.
Thiên Đồng ở cung Thìn, đối cung là Cự Môn Hoá Kị, cho nên không thành cục "phản bối", vì hội Thiên Lương có tính "cô kị" ở cung Tí không bằng hội Thiên Lương ở cung Ngọ, cho nên đời người khá thuận lợi toại ý, nhưng lại ít tính chất "qua cơn mưa trời lại sáng" để thành sự nghiệp lớn.
Thiên Đồng ở cung Thìn, thông thường đều độc đoán, có thành kiến. Vì vậy không nên hợp tác làm ăn với người khác.
Đối với Thiên Đồng ở hai cung Thìn hoặc Tuất, các cung hạn "Liêm Trinh, Thất Sát", Thiên Lương, Cự Môn, "Thiên Cơ, Thái Âm" là những niên vận có tính then chốt.
Thiên Đồng ở hai cung Tị hoặc Hợi, ở cung Tị tốt hơn. Ở cung Hợi thì Thiên Lương của đối cung ở cung Tị, dễ mang lại thị phi, kiện tụnh, khắc hại.
Thiên Đồng đối nhau với Thiên Lương, có tính lười biếng. Vì vậy nên thận trọng trong việc kết bạn, dễ giao du với bạn xấu, khiến ảnh hưởng xấu đến cuộc đời.
Thiên Đồng ở hai cung Tị hoặc Hợi, rất ngại Hoá Kị, nhất là ở cung Hợi, chủ về cuộc đời vất vả, rời xa người thân, lưu lạc, không nơi nương tựa; ở cung Tị thì có thể tự lập, chỉ cần giữ ổn định, không được thấy mới nới cũ, mới có thể lập nghiệp.
Thiên Đồng ở hai cung Tị hoặc Hợi, lúc hơi thành tựu, nhất thiết không được hợp tác với người khác, nếu không sẽ có kết cục rất xấu.
Đối với Thiên Đồng ở hai cung Tị hoặc Hợi, các cung hạn "Thiên Cơ, Cự Môn", Thất Sát, Liêm Trinh là những niên hạn có tính then chốt.