CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH

Xem, hỏi đáp, luận giải về tử vi
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tử vi. Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
tuangianglion
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2692
Tham gia: 00:39, 07/03/12

TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH

Gửi bài gửi bởi tuangianglion »


Hoá giải Không Kiếp

Nhân dịp được xem bài viết "Hoá giải Không Kiếp" của tác giả Dịch học, tôi thấy có rất nhiều điều bổ ích cho diễn đàn nghiên cứu Tử vi, xin phép post ra đây để quý vị xem trong lúc nhàn rỗi.

"Không Kiếp là hai hung tinh hàng đầu trong tử vi, đóng đâu xấu đó, ai cũng muốn tránh. Ngay cả khi đắc địa cũng chưa chắc đã tốt, kinh nghiệm cho thấy Không Kiếp dù đắc mà gặp bộ chính tinh yếu như Cơ Nguyệt Đồng Lương thì vẫn cứ xấu. Chế ngự Không Kiếp là việc rất nên làm, nhưng sách vở xưa nay chỉ nêu chung chung là dùng các sao giải như Hóa Khoa, Thiên Giải, Tuần Triệt. Bài này cố gắng đưa ra các biện pháp cụ thể căn cứ lý thuyết và thực tế đã chiêm nghiệm được.

Trước hết thử cách ngăn chặn là tạo ra Tuần Triệt bằng cách kích động cung lục hại Mệnh. Tuy nhiên cách này chỉ áp dụng được với Mệnh vô chính diệu, còn nếu Mệnh có chính tinh thì chưa chắc đã hay, áp lực cùm khóa đè lên chính tinh lại thành có hại. Vậy chỉ còn cách làm tĩnh Không Kiếp để nó giảm thiểu tác hại và dụng Hóa Khoa đệ nhất giải thần để giải.

Một sao xấu trong cung chỉ có thể gây họa nếu nó có cơ hội phát động lên. Còn ở trạng thái tĩnh, nó ít làm gì được, như thanh kiếm để yên trong vỏ, cơ bản là vô hại. Không Kiếp cũng thế, ở Mệnh là bản chất con người có hạn chế, nhưng cái bản chất ấy chỉ lộ ra thành họa nếu nó động lên do tương giao với hoàn cảnh. Vậy để làm tĩnh Không Kiếp thì cần nhất là khóa chặt, làm tĩnh cung Di.

Hạn chế cung Di tức là đừng giao du dính mắc nhiều với bên ngoài. Người thường làm thế có thể tốt nhưng Mệnh Không Kiếp làm thế là đang thả Không Kiếp vào hoàn cảnh, sẽ tạo cơ hội cho nó tác họa. Không Kiếp lợi nghiên cứu, suy tư cá nhân, tìm tòi khám phá nên rất cần phải có không gian cá nhân trong nhà để làm những việc riêng tư như đọc sách, suy nghĩ, viết lách, Thiền, tìm hiểu cái gì đó. Các nhà khoa học thành công thường có Không Kiếp chính bởi vì cách sống của họ cơ bản là ngồi lỳ trong phòng để nghiên cứu, suy tư. Họ vận dụng Không Kiếp để đào sâu tư duy cá nhân, từ đó có các khám phá, phát minh mới. Họ tự nhiên làm tĩnh cung Di nên không để Không Kiếp thoát ra ngoại cảnh mà gây họa.

Các nhà văn cũng dùng cách tương tự, rất nhiều nhà văn nổi tiếng có Không Kiếp ở Mệnh. Họ thứ nhất dùng học hành, thứ hai tĩnh lặng để suy tư, để viết, đó chính là họ đang trấn an Không Kiếp, không để nó nổi lên theo cung Di. Có ông đóng cửa treo biển không tiếp khách cả tháng để tập trung viết, bản chất là gì, chính là vô hiệu hóa cung Di, không để cung Di xâm lấn lôi kéo mình. Nhà văn mà cứ lê la như người thường, bon chen đủ trò ắt là hỏng, không thể suy nghĩ viết được cái gì cho ra hồn. Tại sao hiện nay văn học kém, vì họ dù có Không Kiếp hay không đều phải bon chen kiếm sống, thêm vào đó là môi trường học thuật tiêu cực. Đăng bài cũng phải thân quen, lượn lách xí xớn với biên tập. Xuất bản sách cũng đòi lót tay, nhuận bút vài đồng có khi lại phải ra quán nghe thổi sáo bằng chai bia ! Để bị cuốn vào đó là thả Không Kiếp ra rồi, những trò bẩn đó là sở trường của Không Kiếp. Để Không Kiếp cuốn theo ngoại cảnh thì mất hết trí huệ, còn viết được cái gì ra hồn. Câu thành ngữ cổ :“Trí tuệ sinh ra trong yên lặng…” rất có thể là dành cho Không Kiếp!

Từ đó suy ra Không Kiếp hợp người tu hành là cực kỳ hợp lý, vì họ đã cách ly mình với xã hội rồi. Tu hành chính là biện pháp hóa giải Không Kiếp triệt để nhất. Không có cung Di kích động, Không Kiếp còn lại mình ta dưới trăng sáng, thế thì biết tiêu cực vào đâu, biết tham lam sân hận với ai ? Không Kiếp khi đó trở lại bản chất nội tâm thầm kín, đào luyện tâm thức đi đến chỗ sâu xa đại ngộ, vì thế Không Kiếp là cửa ngõ giác ngộ, là sao của nhiều bậc chân tu.

Cách thứ hai để giải Không Kiếp là dụng Hóa Khoa, như sách vở đã viết, nhưng sách vở không nêu cách làm cụ thể. Thực tế để dụng Hóa Khoa không có nghĩa là Mệnh, Thân phải có Hóa Khoa, mà là dụng tất cả các tượng thể hiện ra của Hóa Khoa. Đó là học hành, bằng cấp, trường lớp, khoa bảng, giáo dục…

Trước hết là học hành để có bằng cấp, việc này không chỉ giải Không Kiếp mà còn giải nhiều điều xấu khác. Cứ có bằng cấp là cơ bản hơn số đông thi trượt rồi. Sau khi có bằng cấp thì dụng tiếp khí Hóa Khoa, đó là làm nghề thầy, thầy giáo, thầy thuốc, thầy nghiên cứu. Gắn mình với các cơ sở giáo dục, học viện, trung tâm nghiên cứu. Cách này giải Không Kiếp rất hiệu quả, do tính mô phạm của Hóa Khoa nên Không Kiếp bị hạn chế ảnh hưởng. Giáo dục còn tạo ra môi trường học thuật để Không Kiếp chú tâm vào, phát huy điểm mạnh. Nếu có tiêu cực thì cũng ít hơn ngoài xã hội, thậm chí xã hội còn cố tình lôi kéo các ông thầy vào tiêu cực. Người ta thường quan niệm những trò mua bằng, bán điểm, gian lận thi cử là tệ nạn chung, không là gì cả. Nhận thức này vô tình có lợi cho bản chất tham lam sân hận của Không Kiếp.

Trong thực tế nghiệm lý, cùng mệnh Không Kiếp mà làm thầy bà so với không đã khác nhau hẳn rồi. Trên các diễn đàn huyền học có người công khai lá số có Không Kiếp mà xem ra vẫn bình thường, ấy chính là vì họ đang dụng Không Kiếp để nghiên cứu huyền học. Có người lại chính là giáo viên, bác sỹ, nhà khoa học nên vô tình làm Không Kiếp đi đúng đường, vì thế nó đỡ xấu. Ngoài ra, người mệnh Không Kiếp chỉ cần có nhà ở gần cơ sở giáo dục thôi thì cũng đã tự nhiên tốt hơn. Khí Hóa Khoa tỏa ra từ đó gây ảnh hưởng tốt đẹp lên môi trường sống, làm bản thân họ được lợi và cả con cháu thế hệ sau.

Nếu không thể làm thầy giáo, thầy thuốc, nhà khoa học thì làm việc trong ngành giáo dục cũng là tốt rồi. Hoặc hãy tìm hiểu, tu học cái gì đó, như lĩnh vực huyền bí chẳng hạn. Người Không Kiếp vốn sẵn căn cơ nên nếu học được, có trình độ cao thì tự biết cách hạn chế cái dở của mình, hơn hẳn kẻ chỉ biết dụng Không Kiếp mà gian lận đục khoét vơ váo riêng tư.

Ai cũng có thể trở thành nhà nghiên cứu huyền bí, người Không Kiếp học huyền học đến khi có trình độ nếu lại nổi bản tính tham sân si mà xem bói lấy tiền thì sao ? Việc dụng huyền học giúp người mà thực có ích thì có lấy tiền cũng chả sao. Đài Cảng người ta treo biển hành nghề đàng hoàng là có cái lý chính đáng của họ. Tuy nhiên dụng huyền học theo cách xây nhà hướng tốt, lập cửa hàng đắc cát khí để kinh doanh sẽ hay hơn là xem bói lấy tiền. Điều này tự “mệnh Không Kiếp” cân nhắc áp dụng. Bởi vì xem đúng rất khó, tưởng giúp được người ta mà thành ra hại họ, nên nhiều người hành nghề xem bói rồi về sau con cái đều bị họa nặng. Ăn lộc của người mà không thực làm gì có lợi cho người thì tức là đang tự gây nghiệp. Thầy bói Lợn nổi danh xưa kia chính là gương tày liếp !

Chung lại, Không Kiếp có thể giải bằng việc làm tĩnh nó, tức là khóa cứng cung Di, đi tu, đừng giao du nhiều với xã hội. Hai là dụng Hóa Khoa, dù mệnh không có cát tinh ấy nhưng nếu học hành để có bằng cấp trình độ là tự nhiên đã có cái linh phù may mắn để đè Không Kiếp rồi. Còn nếu học ra lại làm thầy, làm trong ngành giáo dục, nghiên cứu thì là đắc Khoa thực sự để giải Không Kiếp. Thứ nữa là có nhà ở ngay gần cơ sở giáo dục để hưởng khí Hóa Khoa cũng đại cát đại lợi. Tiếp theo là nghiên cứu học thuật để có chuyên môn cao. Hoặc tập viết văn, đào luyện cảm xúc cá nhân cho lên blog rên rỉ ỉ ôi cũng lợi hơn là không làm gì. Hiện nay các quý chị em nữ viết văn chuyên nghề khoe hàng, cố tình ưỡn ẹo hớ hênh đâu đã vô ích, biết đâu vì em có mệnh Không Kiếp…

Ông nhà văn Nguyễn Khải mệnh thân có Không Kiếp, ông làm việc ngay trong một tòa báo lớn, luôn gần chữ nghĩa Xương Khúc, ông lại chăm chỉ, rất chịu khó nghiền ngẫm viết lách, nên khởi đầu văn ông dở mà cuối đời ông rất thành công.

Ông Ma Văn Kháng thì làm ngay trong ngành giáo dục rồi mới bắt đầu viết lách nọ kia…

Ông Nguyễn Huy Thiệp cũng vốn là giáo viên…

Ông Trương Đình Anh dù Không Kiếp đắc nhưng tự nhiên vẫn hành động theo hướng vừa dụng vừa giải nó. Đó là ông chả bao giờ lê la giao du vớ vẩn, làm việc xong ông về nhà. Ông tự hạn chế không để cung Di động lên, ông ở trong tháp ngà riêng của ông, đó cũng là tu đấy. Ông âm thầm nhồi bom để làm nổ tung cho chứng khoán FPT nó bay tít lên 500, 600 trăm ngàn 1 cổ phiếu làm lóa mắt kẻ hấp tấp tung tiền mua vào…

Họ đều giải Không Kiếp theo hướng hoàn hảo, đi đến thành công hơn người.

Người bình thường có Không Kiếp đôi khi tự biết cách hành động để giải. Tại sao mẹ Mạnh Tử nhất định phải chuyển nhà đến gần trường học ? Vì lá số của bà hoặc của con bà có Không Kiếp chăng ? Mạnh Tử là Á Thánh sau Khổng Tử, biết đâu tất cả đều bắt nguồn từ việc chuyển nhà đó…"
Được cảm ơn bởi: vo_danh_00, HuongHate, linhanh1986, codai2810, Thienbinh2310
Đầu trang

tuangianglion
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2692
Tham gia: 00:39, 07/03/12

TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH

Gửi bài gửi bởi tuangianglion »

XIV. Phá Quân ở cung mệnh (thân):

Phá Quân có sao lộc rất tốt, là có gốc rễ, có thể tiêu trừ khuyết điểm hao tổn, phá tán của Phá Quân, làm tăng năng lực sáng tạo. Phá Quân Hoá Quyền ở cung Dần, có Lộc Tồn đồng độ cũng cát, có điều, tuy phú quý nhưng đời người ắt sẽ có khiếm khuyết. Ví dụ như bản thân sức khoẻ không tốt...Phá Quân Hoá Quyền ở cung Thân, có Lộc Tồn vây chiếu, cũng có cùng tình huống.

Phá Quân gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, chủ về phú quý, nhưng quý lớn hơn phú, tức tiền bạc nhờ địa vị mà có. Nhưng nếu có tứ sát lẫn lộn trong đó, thì thích hợp làm việc trong ngành công thương nghiệp; nếu gặp Văn Xương, Văn Khúc mà có sát tinh, người này là hàn sĩ mang tâm trạng có tài mà không gặp thời. Nếu gặp sát tinh nặng mà cát tinh nhẹ, thì nên theo ngành công nghệ, hoặc làm công nhân chuyên nghiệp.

Phá Quân ở ba cung Hợi, Tí, Sửu, đều không nên có Văn Khúc đồng độ, ngại nhất là Văn Khúc Hoá Kỵ, chủ về tuổi trẻ rời xa quê hương, hoặc bị tàn tật, hoặc trắc trở nghiêm trọng. Cổ nhân nói: "Cùng với Văn KHúc vào thuỷ vực, thì tàn tật rời xa quê hương." (Dữ Văn Khúc nhập vu thuỷ vực, tàn tật ly hương.), là nói lý luận này, "thuỷ vực" là nói 3 cung Hợi, Tí, Sửu, thuộc hành thuỷ.

Phá Quân sợ Kình Dương, Đà La hơn là sợ Hoả Tinh, Linh Tinh. Gặp Hoả Tinh, Linh Tinh chủ về vất vả, bôn ba mà thôi; gặp Kình Dương, Đà La thì có hoạ tai, cũng chủ về cuối mang tật, hoặc nhiễm thú vui không lành mạnh.

Phá Quân có đặc tính thừa kế cái cũ mà đổi mới, cho nên phần nhiều đều làm kiêm nghề, hay kiêm nhiều chức vụ khác nhau. Hoá Lộc sẽ chủ về nhờ sự nghiệp cũ mà có sự nghiệp mới, mà còn đồng thời kinh doanh cả hai, mới lẫn cũ.

Lực phá hoại của Phá Quân tuy lớn, nhưng lại khác với Thất Sát, lực phá hoại của Phá Quân chủ về xảy ra thay đổi lập tức, biểu hiện chủ yếu là "thà là ngọc nát, chứ không chịu là gạch ngói nguyên vẹn", cho nên có tính chất hao tán. Nếu đồng độ với Kình Dương, tức là "hình hao", thường thường làm mạnh thêm ý vị "thà là ngọc nát".

Phá Quân cũng ưa đồng độ với Tử Vi, hoặc có Tử Vi vây chiếu, chủ về có quyền, nhưng khác quyền của "Tử Vi, Thất Sát". Quyền của "Tử Vi, Phá Quân" là ở phương diện lớn, mở rộng; còn quyền của "Tử Vi, Thất Sát" chỉ thuộc phạm vi nhỏ, nội bộ, như quản đốc công xưởng. Một công, một tư, một lớn, một nhỏ; cần phân biệt tỉ mỉ.

Hễ Phá Quân ở cung mệnh hay cung thân, bất kể cát tinh hội hợp như thế nào, ắt cũng không toàn mỹ. Phú thì không quý, hoặc quý thì không phú, hoặc vợ (chồng) bất toàn, hoặc mắc bệnh mạn tính, phá tướng.

Phá Quân Hoá Lộc mà gặp các sao sát, hình; nữ mệnh chủ về giải phẩu thẩm mỹ, nam mệnh chủ về bị tổn thương làm phá tướng phải giải phẩu thẩm mỹ.

Phá Quân thủ mệnh, chủ về tay trắng lập nên sự nghiệp, nhưng khác với Thiên Đồng là phá sạch tổ nghiệp rồi mới lập nên sự nghiệp. Phá Quân có thể nhờ sự che chở, giúp đỡ của cha mẹ, rồi tự khai sáng, cải cách mà tạo sự nghiệp.

Phá Quân ắt sẽ đối nhau với Thiên Tướng, Thiên Tướng ngoại trừ bị ảnh hưởng của các sao Tả Phụ, Hữu Bật giáp cung ra, còn bị ảnh hưởng của Phá Quân cũng khá lớn. Do người Phá Quân thủ mệnh phần nhiều đều rời xa quê hương, vì vậy cát hung của Phá Quân có thể ảnh hưởng đến cát hung của Thiên Tướng ở cung thiên di. Mức độ chịu ảnh hưởng của Thiên Tướng cũng quan hệ rất lớn đến đời người, cho nên không thể xem thường cung thiên di.

Phá Quân ở hai cung Tí hoặc Ngọ, đối cung là "Liêm Trinh, Thiên Tướng", Liêm Trinh có thể hoà với khí của Phá Quân, vì vậy nếu được cát hoá và có sao cát thì có thể phú quý. Có điều, nếu Liêm Trinh Hoá Kị, hoặc Thiên Tướng bị "Hình kỵ giáp ấn" thì thành bại cục.

Phá Quân ở hai cung Tí hoặc Ngọ, được cát hoá, gọi là cách "Anh tinh nhập miếu", rất ưa đối cung là Thiên Tướng gặp sao lộc, ở thời cổ đại chủ về lập công ở biên cương, hoặc là trọng thần quân lữ. Ở thời hiện đại thì chủ về đột nhiên hưng phát sự nghiệp, cho nên cũng có thể thành nhân tài lãnh đạo công ty.

Cách cục "Anh tinh nhập miếu" bắt đầu phát đạt ở vận Thái Âm hoặc vận Thiên Đồng; nhưng không nên đến lưu niên Phá Quân, cũng không ưa đến cung hạn Vũ Khúc Hoá Kị, hoặc Liêm Trinh Hoá Kị, cung hạn chỉ hơi có chút sát tinh, thì không toàn mỹ. Vì vậy nên xem xét kỹ những khiếm khuyết ở 12 cung.

Phá Quân ở hai cung Tí hoặc Ngọ mà không thành cách "Anh tinh nhập miếu" thì không có duyên với lục thân, việc gì cũng phải đích thân làm, mà còn dễ mắc bệnh.

Đối với Phá Quân ở hai cung Tí hoặc Ngọ, các cung hạn "Tử Vi, Thiên Phủ", Cự Môn, Vũ Khúc, Thiên Lương toạ thủ, là những lưu niên có tính then chốt. Đại vận thì xem các cung hạn Vũ Khúc, hoặc "Tử Vi, Thiên Phủ" là có tính then chốt. Vũ Khúc và Thiên Phủ là hai sao tiền tài, nếu Phá Quân của nguyên cục không có sao lộc, mà gặp sát tinh, thì cũng có thể bổ cứu; nếu không gặp sao lộc mà gặp sát tinh, thì vận trình cuộc đời nhiều trắc trở.

Phá Quân ở hai cung Dần hoặc Thân, hội "Hoả Tham", "Linh Tham", chủ về cuộc đời gặp nhiều sóng gió, trắc trở rất lớn, bạo phát bạo bại, hoạnh phát hoạnh phá. Nguyên do gây ra thất bại thường là vì quá chủ quan, lại cố xuất đầu lộ diện, hoặc không tự lượng sức đi cạnh tranh người khác.

Đối với Phá Quân ở hai cung Dần hoặc Thân, hai cung hạn Thiên Cơ, "Liêm Trinh, Thiên Phủ" là có tính then chốt. Nếu cung hạn cát thì hậu vận cũng khá thuận lợi toại ý. Nếu không, năm cung hạn hội hợp Vũ Khúc Hoá Kỵ, hoặc Thiên Tướng bị "Hình kị giáp ấn" thì sẽ suy sụp nhanh chóng, mà có thể từ đó không còn đứng lên được.

Phá Quân và Tham Lang mà gặp Lộc Tồn, Thiên Mã, cổ nhân cho rằng, nam phần nhiều phóng đãng, nữ phần nhiều đa dâm, tức là nói Phá Quân ở hai cung Dần hoặc Thân, hội Tham Lang. Rất kỵ có Địa Không, Địa Kiếp đồng độ, sẽ chủ về cuộc đời cô độc, nếu đối cung là "Vũ Khúc, Thiên Tướng" hội Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc mà còn kèm sát tinh, ở thời cổ đại là mạng lang thang khắp nơi.

Đối với Phá Quân ở hai cung Dần hoặc Thân, đại khái các cung hạn "Vũ Khúc, Thiên Tướng", "Thái Dương, Thiên Lương", "Thiên Đồng, Cự Môn", "Liêm Trinh, Thiên Phủ" là lưu niên hay đại hạn có tính then chốt.

Phá Quân ở hai cung Thìn hoặc Tuất, chịu ảnh hưởng của đối cung là "Tử Vi, Thiên Tướng", cho nên danh lớn hơn lợi. Cổ nhân nói: "Gặp Tử Vi thì mất uy quyền" (Phùng Tử Vi tắc thất uy quyền.), tức là nói trường hợp này. Vì vậy, tuy có danh vọng, cũng chỉ thuộc hư danh, chẳng có thực quyền, thực chức.

Phá Quân ở hai cung Thìn hoặc Tuất, gặp các sao sát, hình, hao, thì phần nhiều đều có cuộc đời cô độc, mà hôn nhân cũng không cát tường, sinh ly hay tử biệt, còn chủ về thân mang bệnh tật. Trường hợp chỉ có Văn Xương, Văn Khúc đồng độ, mà không có các sao phụ, tá cát khác, thì cuộc đời bần hàn. Phá Quân cần phải được Hoá Lộc, Hoá Quyền mới là cát lợi, Thất sát kèm sao lộc đến hội cũng cát, có thể giàu có.

Phá Quân ở hai cung Thìn hoặc Tuất, nữ mệnh, nếu Liêm trinh Hoá Kỵ hoặc Tham Lang Hoá Kỵ ở cung phu thê, chủ về tái giá.

Đối với Phá Quân ở hai cung Thìn hoặc Tuất, các cung hạn Thất Sát, Tham Lang, "Tử Vi, Thiên Tướng", "Thiên Cơ, Cự Môn" là những lưu niên hay đại hạn có tính then chốt.

Phá Quân ở hai cung Thìn hoặc Tuất, gặp "Hoả Tham", "Linh Tham", phát cũng chỉ chủ về danh mà không chủ về lợi.
Được cảm ơn bởi: Mattroinho
Đầu trang

tuangianglion
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2692
Tham gia: 00:39, 07/03/12

TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH

Gửi bài gửi bởi tuangianglion »

Thiên di tối kỵ Kiếp Không lâm vào

Đây là một câu phú mà hầu như chả ai luận bàn, chả ai giải thích. Vì chỉ nghĩ là Di có Kiếp Không thì đi ra ngoài gặp xấu, cẩn thận trộm cướp tai nạn thôi. Hoặc cho cung Di là đối phương, đối phương bị Không Kiếp thì dính gì đến mình. Nhưng thực ra câu này ẩn chứa nhiều điều quan trọng.

Tại sao không phải là cường cung nào khác như Tài, Quan mà lại là cung Di. Nếu Di không là mình thì chả cần đặt ra câu đó làm gì. Nếu Di chỉ là đi xa thì thời xưa người ta vốn ít hoạt động, chỉ quanh quẩn làng xóm quê nhà, hiếm khi đi xa nên cũng không cần chú ý. Di rõ ràng phải là cái gì đó rất quan trọng với chính ta thì mới mọc ra câu phú nhấn mạnh như thế.

Chỉ vì Di sự biểu lộ của ta trong tương tác với hoàn cảnh. Di là tất cả các hành vi, động sự, tạo tác, giao dịch giữa ta với môi trường.

Di bị Không Kiếp là có hành vi tạo ra cái tiêu cực đen tối cho hoàn cảnh, là khi động sự chỉ chực làm bậy, là gian lận lừa lọc để thủ lợi, hoặc chỉ đơn giản để cảm thấy hả hê thỏa mãn vì đã làm được việc xấu, đã ”thể hiện” được bản thân mình.

Di là bản thân lộ ra khi tương giao với hoàn cảnh, bị Không Kiếp tức là chính mình có nghiệp chướng, có cái bất ưng để thiên hạ đều thấy. Đó là kẻ có điều xấu bị bộc lộ, hoặc gặp tai nạn từ môi trường, đi ra ngoài gặp xui xẻo.

Di là cung Thân thứ hai của mình, bị Không Kiếp là tự mình xây tạo chồng chất các nghiệp xấu, là bị nghiệp báo từ những hành vi của mình ngay trong kiếp này. Nghiệp chướng có nhiều loại, có những kẻ cả đời làm bậy nhưng chả làm sao, vì quả báo ở kiếp sau. Còn Di bị Không Kiếp là ngay kiếp này sẽ phải trả nợ nghiệp tức thì.

Cung Di giống như một cái túi nhân quả ta đeo chặt bên người. Mỗi hành vi, mỗi hiện thực ta tạo ra đều rơi vào cái túi đó. Di là một tồn tại chủ quan gắn với Mệnh nên mỗi người đều có cái túi riêng khác cho dù cùng sống trong môi trường y hệt. Những gì rơi vào cái túi đó sẽ không bao giờ mất đi, nó luôn dính vào ta và chỉ lộ ra lúc này hay lúc khác. Các khoa cận tâm lý hiện nay đã chứng minh được sự tồn tại của trường nhân thể, trong cái trường đó có những khu vực lưu trữ tất cả các hành vi của chủ thể, đó như là cái túi nghiệp tự tạo của mỗi người.

Di bị Không Kiếp là tự mình bỏ vào cái túi của mình những chổi cùn, giẻ rách, bùn đất, cặn bã. Tưởng rằng thế là vứt bỏ vào ngoại cảnh, nhưng thực ra chúng luôn nằm ở đó, chính chủ thể đến lúc thò tay vào túi lấy ra dùng!

Từ tính nghiệp quả của cung Di, ta có thể giải thích được một vài câu thành ngữ cổ mà các loại Phật, Chúa, Thánh nhân hay dùng.

Chúa: ”Ngươi nhận được cái gì ngươi đã cho đi”. Chỉ bởi vì cho đi là bỏ nó vào cái túi cung Di của mình. Cho hoàn cảnh nhưng Thân ta cũng nằm trong hoàn cảnh, nên cho cung Di cốc nước thì nước ấy đến lúc chính mình lại uống.

Khổng Tử: ”Cái gì không muốn thì đừng làm nó cho người”. Làm gì cho ngoại cảnh thì cũng là làm với mình, cái điều tưởng như đã đẩy sang người khác ấy nhưng một lúc nào đó nó lại xảy ra với ta. Khi ta tương tác với ngoại cảnh, nó sẽ có cách để ”trở về”.

Phật bảo một nắm muối ném vào bát nước có thể khiến nước rất mặn nhưng ném vào dòng sông thì chả làm sao. Bát nước và dòng sông đều có thể coi như cung Di, cái hoàn cảnh nơi mỗi cá nhân đang ngụp lặn chìm trong đó để bơi lội, tìm kiếm cái gì đó cho riêng mình. Nắm muối chính là Không Kiếp, Di tối kỵ Không Kiếp vì thiên hạ đa phần chỉ có bát nước nhỏ. Mấy ai có được dòng sông để vô hiệu hóa được độ mặn.

Di bị Không Kiếp là gặp phải bát nước mặn, hoặc tự thả nắm muối vào bát nước của mình, để đến lúc chính mình lại uống.

Suy ra một trong các cách cải số chính là bơm nước ngọt vào trong cái túi cung Di của mình, để lỡ chỗ nào đó có bị nắm muối Không Kiếp thì ta vẫn còn nước ngọt ở chỗ khác để mà dùng. Đây chính là nguyên lý của luật nhân quả. Cho đi chẳng qua là tự bỏ vào cái túi của mình mà thôi. Nếu ta có túi nước cung Di thật rộng, thật sâu, nghiệp không thể làm ta chết khát !

Phật luôn khuyên con người đừng ích kỷ vì như thế là tự làm hẹp cái bát nước của mình lại, khiến nó có thể sẽ trở nên mặn chát khi lỡ gặp Không Kiếp.

Việc coi cung Di có liên quan chặt chẽ với mình trong mối quan hệ nhân quả là điều hợp lý. Tử vi vốn xuất phát từ đạo giáo, nó thể hiện quan điểm của đạo giáo không chỉ trong các sao phúc thiện mà còn ở các cung nào đó, một trong số đó là cung Di.

Như vậy câu phú ”Thiên di tối kỵ Kiếp Không lâm vào” ẩn chứa những nội hàm sâu xa, không hề đơn giản để chả có gì cần giải thích như xưa nay thường quan niệm.

Di bị Không Kiếp thì độ xấu có khi chả kém gì lâm vào Mệnh Thân. Chính chủ thể sẽ tạo ra cái tật nghiệp bất ưng tồi tệ. Đó là kẻ rải đinh ra đường để vá xe, là đứng đường chặn xe để vòi tiền, là bệnh nhân đang cần cấp cứu nhưng hỏi tiền đâu trước…

Tạo ra cái đen tối tiêu cực, đâu chỉ có Mệnh Thân !
Đầu trang

tuangianglion
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2692
Tham gia: 00:39, 07/03/12

TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH

Gửi bài gửi bởi tuangianglion »

10 trạng thái kỳ thú của Tử-vi


Sau loạt bài "10 điều tâm niệm khi đoán số Tử-Vi" cho khoa Đẩu Số Tử-Vi. Người viết vẫn chỉ mong làm một công việc bình thường nhất là truyền thông đến quý vị say mê nghiên cứu Tử-Vi, một vài suy nghiệm thâm thúy đã tìm thấy ở khoa lý học Đông Phương này. Trong khuôn khổ tổng quát vừa nói, kẻ viết xin trình bày thêm "10 trạng thái kỳ thú của Tử-vi" như sau :

1 - Vó câu nghị lực
2 - Đối kháng của định mệnh
3 - Liên minh kỳ diệu
4 - Hạnh phúc lâm nguy
5 - Đường đời cô đơn
6 - Bạn là ai
7 - Nên sống hay chết
8 - Sung sướng hay đau khổ
9 - Nhân diện ác quỷ
10-Anh hùng chiến trận.

1- Vó câu nghị lực

Biết xem Tử-vi ai cũng phải công nhận giá trị quan hệ của các sao Thiên Mã, nó tượng trưng cho nghị lực ở đường đời, cũng như chiếc xe đi của đương số. Thiên Mã chỉ đóng ở 4 cung thuộc Tứ sinh : Dần, Thân, Tỵ, Hợi. Khi Mã đóng ở cung nào, thì Mã thuộc hành của cung đó.

Thí dụ : Thiên Mã đóng ở cung Thân, tức là Mã Kim, Thiên Mã đóng ở cung Dần là Mã Mộc .... Tuy vậy, có điều lý thú nhất, là khi Mã đóng ở cung nào có sao Tuần thì phải nên hiểu rằng : Mã không còn ở cung đó nữa, mà Thiên Mã đã nhờ chiếc cầu Tuần nhảy tới (theo chiếu thuận) vị trí mới để trở thành Mã của hành ở cung mới nhảy tới. Thí dụ : Thiên Mã đóng ở cung Thân mà cung Thân có sao Tuần thì phải hiểu rằng Thiên Mã đã nhảy tới cung Hợi, để trở thành Mã Thủy (chứ không phải là Mã Kim nữa). Do đó, khi đối chiếu ngũ hành của Mã với ngũ hành của Mệnh, ta nên để ý tới sự kiện Mã ngộ Tuần (Sao Triệt không kể tới) mà luận giải về tính cách phấn đấu của đương số trong đời sống cũng như về những tai họa do xe cộ gây ra ...

2- Đối kháng của Định Mệnh

Lá số Tử-Vi gồm 12 cung, mỗi cung mang một chủ đề trong 12 chủ đề của đương số là :Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Ách, Tài, Tử, Phối, Bào. Ta hãy để ý có 6 đôi cung xung phá nhau, lần lượt là :

- Dần với Tị
- Sửu với Ngọ
- Tý với Mùi
- Hợi với Thân
- Mão với Thìn
- Dậu với Tuất.

Cho nên khi nhìn vào các cung trên, ta thấy ngay các vấn đề đã trở thành nên những đối tượng tranh chấp (một thắng một bại, một mất một còn, một chánh một tà, một thịnh một suy) nhau thật rõ ràng.

Thí dụ : Mệnh đóng tại cung Tý ta có :
Mệnh - Ách : xung phá.
Phụ - Di : xung phá
Phúc - Nô : xung phá
Điền - Quan : xung phá
Tử - Phối : Xung phá
Tài - Bào : xung phá

Rồi giữa những cặp cung tranh chấp ấy, ta để ý những sao của cung nào hợp và lợi cho ngũ hành của bản Mệnh, thì cung ấy cường và cung kia nhược. Thí dụ : Phúc - Nô xung phá, nếu Nô cung cường thỉ Phúc cung nhược, Tử phối xung phá, nếu Phối thịnh thỉ Tử suy .....

3- Liên minh kỳ diệu

Nếu đã có 6 đôi cung phá nhau, thì cũng có 6 đôi cùng hạp nhau (nhưng chỉ là hạp một chiều) được gọi là 6 đôi nhị hợp :

- Tý với Sửu (Sửu lo cho Tý)
- Dần với Hợi (Hợi lo cho Dần)
- Mão với Tuất (Mão lo cho Tuất)
- Thìn với Dậu (Dậu lo cho Thìn)
- Tỵ với Thân (Tỵ lo cho Thân)
- Mùi với Ngọ (Mùi lo cho Ngọ)

Từ căn bản này, 12 chủ đề của bản số Tử-Vi đã thu lại làm 6 hành động làm lợi cho 6 chủ đề mà thôi. Thí dụ : Mệnh đóng tại Tý, thì bản số có giải đáp tổng quát ngay : cha mẹ lo cho đương số, bạn bè đem tài lộc tới cho đương số ....

Một lý thú căn bản suy gẫm : cung an Mệnh (tượng trưng cho đời sống tiêu cực của con người) luôn luôn được cung phụ mẫu che chở, nhưng cung an Thân (tượng trưng cho hành động của con người) lại luôn luôn sinh phò cho cung Phụ Mẫu (có ý nghĩa như sự báo hiếu vậy). Vấn đề này đã được cụ Thiên Lương cho là một bố cục tế vi của cổ nhân khi soạn ra cách an sao lập số Tử-vi vậy.

4- Hạnh phúc lâm nguy

Bộ Sát Phá Tham là nhóm tinh đẩu quá khích, chủ về các hành động sát phạt, cho nên khi người ở cách Cơ Nguyệt Đồng Lương mà sang Đại hạn Sát Phá Tham thì hãy coi chừng sự xông xáo thái quá của nhóm sao vừa nói gây ra phản ứng phũ phàng không sao lường được (điều này thì ai cũng biết cả). Tuy nhiên ở đây, ta hãy để tâm kiểm nghiệm hai trường hợp :

- Bộ Sát Phá Tham ở cung Phụ Mẫu.
- Và Bộ Sát Phá Tham ở cung Phu Thê.

Luôn luôn là khuynh hướng báo trước sự hình khắc chia ly (nhẹ cũng là cảnh ông nói gà, bà nói vịt, cha ở nhà trước mẹ ở sân sau... ) Trong trường hợp bộ Sát Phá Tham (dù đặc địa hay hãm địa) ở trong vòng Thái Tuế thì còn đỡ (giảm 50 % hiệu lực ), chứ nếu chúng ở ngoài vòng Thái Tuế của bản số (Vòng Thái Tuế là vòng tam hợp cung tuổi của bản số) thì thật là tai hại vô cùng.

5- Đường đời cô đơn

Xem số Tử-Vi, nhiều người có thói quen nhìn ngắm các chính diệu đắc địa hay hãm địa mà luận giải sự tốt xấu. Tôi thấy điều này có vẻ phiến diện, hời hợt, khi đúng khi không. Thật ra vấn đề ngũ hành của chính tinh mới là hệ trọng. Đối với hai cung Phối và Nô là hai nơi quần tụ của mỗi cá nhân trong xã hội, cần phải đẹp đẽ để đời sống thêm ý nghĩa (từ đời tư đến đời công). Cái đẹp ở hai cung Phối và Nô có nghĩa là có bạn đời và bạn đường chung thủy khả tín. Chúng ta hãy chú ý đến các ngũ hành của chính diệu đóng tại cung Phối và Nô như sau :

a)- Đối với cung Phối

Nếu ngũ hành của chính tinh cung Phối sinh nhập với ngũ hành của bản mệnh thì đời sống vợ chồng lâu dài đầm thắm, nếu cung Phối có chính tinh xung khắc với ngũ hành bản Mệnh thì : anh đường anh, tôi đường tôi, tình nghĩa đôi ta chỉ có thế thôi ... Đặc biệt, cung Phối có hai chính diệu (một hạp, một khắc) nghĩa là trong đời tình cảm thế nào cũng hai lần hát khúc tào khang là ít.

b)- Đối với cung Nô

Ngũ hành chính diệu sinh nhập ngũ hành bản Mệnh thì có bản bè, thuộc hạ tốt, trông cậy được. Bằng như ngũ hành chính diệu xung khắc ngũ hành bản Mệnh là kể như đường đời cô độc, không ai là Chung Tử Kỳ của Bá Nha cả. Khi ngũ hành của bản Mệnh sinh xuất ngũ hành của chính diệu tại Nô cung, phải coi như một đời tôi mọi cho bằng hữu.

Thí dụ :Người Mạng Thổ, Nô cung có Vũ Tướng, là kể như không có bạn tri kỷ !. (vì Vũ Khúc là Kim,Thiên Tướng là Thủy, ngũ hành bản Mệnh là Thổ không hợp và lợi gì với Kim và Thủy cả). Còn các bàng tinh và phụ tinh chỉ là chuyện thứ yếu, thêm bớt chút đỉnh ý nghĩa thôi .

6- Bạn là ai ?

Cuốn Tử-Vi nghiệm lý của cụ Thiên Lương có nói : " Môn Tử-Vi khoa tính tình học tiềm ẩn ", tôi thấy điều này rất chí lý. Muốn tìm hiểu tính tình của một bản số, ta nên vẽ ra 3 vòng Tam hợp là :

- Vòng Thái Tuế : tượng trựng tư tưởng của mình.
- Vòng Thân : Tượng trưng hành động của mình.

Vòng Thái Tuế là Tam hợp của ba cung có tên giống địa chỉ năm sinh. Vòng Mệnh là Tam hợp của ba cung an Mệnh, cung Quan Lộc và cung Tài Bạch. Vòng Thân là tam hạp của ba cung liên quan với cung an Thân. Sau đó, ta ghi nhận ngũ hành của mỗi vòng :

- Hợi Mão Mùi là Mộc;
- Dần Ngọ Tuất là Hỏa;
- Thân Tí Thìn là Thủy;
- Tỵ Dậu Sửu là Kim.

Rồi lý luận theo tám trường hợp kể sau :

- Vòng Mệnh cùng hành với vòng Thái Tuế, còn Vòng Thân ở thế ngũ hành tương khắc, là người ngụy quân tử nói hay mà làm điều ác hiểm (giống như vai trò Nhạc Bất Quần trong Tiếu Ngạo Giang Hồ của Văn sĩ Kim Dung)

- Vòng Thân cùng hành với vòng Thái Tuế, còn Vòng Mệnh ở thế ngũ hành tương khắc, là người nói dữ dằn nhưng hành động lại quang minh chính trực (như mẫu người Từ Hải trong truyện Kiều)

- Vòng Mệnh, Vòng Thân cùng hành với vòng Thái Tuế : tốt nhất, quân tử chính danh.

- Vòng Mệnh cùng hành với Vòng Thân nhưng xung khắc ngũ hành với vòng Thái Tuế, là người chung thân bất mãn, lãnh tụ của đối lập, thích nghi và làm điều ngang trái.

- Vòng Thái Tuế sinh xuất vòng Mệnh nhưng Vòng an Thân lại sinh nhập Vòng Thái Tuế, là mẫu người cực kỳ khôn ngoan, chủ trương nhượng bộ trong lý thuyết rồi lấn lướt trong hành động.

- Vòng Mệnh cùng hành với Vòng Thân nhưng sinh nhập vòng Thái Tuế là người luôn chủ trương lấn lướt tha nhân, chuyên nghĩ và xếp đặt chuyện ăn người, mẫu người tham vọng.

- Vòng Mệnh cùng hành với vòng Thân nhưng được Vòng Thái Tuế sinh xuất là người hiền lành đến nhu nhược, luôn cam phận thiệt thòi (một sự nhịn, chín sự lành).

- Vòng Mệnh sinh nhập Vòng Thái Tuế, rồi Vòng Thái Tuế sinh xuất Vòng Thân là người nói hay làm dở, nói nhiều làm ít đa lý thuyết, thiếu thực hành, dốt hay nói chữ.

7- Nên sống hay chết

Đời có vinh kẻ nhục, số Tử-Vi cũng có những nét bàng bạc đồng sao mà dị nghĩa, cả hai người nhe răng nhưng người này cười mà kẻ kia lại khóc. Đó là trường hợp bộ ba Mã-Khốc-Khách. Nhiều sách đều khẳng định hạn gặp Mã-Khốc-Khách là vận tốt, tôi đã kiểm nghiệm thấy không đúng mà phải luận giải thế tương quan giữa ngũ hành của Mã với hành của Mệnh trước tiên đã, nếu thấy Mã phò người là thì mới là nhạc ngựa khánh vàng reo vui, còn thấy Mã hại người thì chỉ là tiếng kèn trống đám ma thôi (hoặc đến hạn đó gặp nhiều cái rủi ro đưa tới như bệnh, tật, mất xe, hao tài tốn của, nhiều chuyện bực mình ... )

Thí dụ : Người tuổi Ngọ, mạng Mộc Mã ở cung Thân (Mã Kim) vậy là Mã hại người. Ôi ! còn ghê rợn nào bằng hạn Mã-Khốc-Khách, khóc dở, mếu dở ... Người tuổi Dần, mạng Thủy, Mã đóng ở cung Thân (Mã Kim), đây là Mã phò người, nên gặp hạn Mã-Khốc-Khách là đến hồi thái lai vậy. Từ đó mà suy luận rộng thêm ra các trường hợp khác

8- Sung sướng hay đau khổ

Khi nào chính diệu xung chiếu được coi như chính diệu tọa thủ ở cung vô chính diệu ?

- Khi nào Vòng tam hợp của cung vô chính diệu có hành khắc chế được hành của Vòng tam hợp cung xung chiếu có chứa chính diệu .

Thí dụ : Mệnh vô chính diệu tọa thủ ở cung Dậu (vòng tam hợp là Tỵ Dậu Sửu : Kim). Cung xung chiếu là Mão (vòng tam hợp Hợi Mão Mùi : Mộc) chứa hai chính diệu Thái Dương và Thiên Lương. Vậy vòng Kim khắc chế vòng Mộc, nên chiếm đoạt được hai chính tinh Thái Dương và Thiên Lương đem về cung Dậu xử dụng. Ngược lại nếu hành của cung vô chính diệu bị hành của cung xung chiếu áp đảo thì kể như "Hư không chi địa" hoàn toàn, lúc này cung vô chính diệu lại càng lâm nguy và dễ dàng để cho các "Hung tinh chiếu lược" hoành hành.

9- Nhận diện ác quỉ

Cụ Hà-Lạc Dã Phu Việt-Viêm-Tử trong " Tử-Vi Áo Bí " đã đề cao vai trò của bộ Tả Phù và Hữu Bật. Thật tình mà nói, thì hai sao này là những " gián điệp hai mang " nghĩa là nó vừa hữu ích mà vừa nguy hiểm khi tìm biết tánh nết của một người qua bản số Tử-Vi. Khi Tả-Hữu đóng vào vòng Thái Tuế có hai trường hợp xảy ra :

- Nếu trong vòng Thái Tuế không có Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ, Đà La, là người chính nhân quân tử.

- Nếu trong vòng Thái Tuế có thêm Không, Kiếp, Kỵ, Đà thì hẩm hiu cho người có tài mà không có thời (sinh bất phùng thời )

Riêng trường hợp hai sao Tả Hữu đứng ở thế đối lập với vòng Thái Tuế hay đứng ở thế sinh nhập vòng Thái Tuế [Ví dụ : tuổi Ngọ, vòng Thái Tuế là Hỏa và hai sao Tả-Hữu đóng cung Mùi (thuộc hành Mộc)] thì dù có thêm Không, Kiếp, Kỵ, Đà hay không vẫn là hạng hữu tài vô hạnh, làm điều quấy đảo thiên hạ.

10- Anh Hùng chiến trận

Sao Phá Toái chỉ chịu đứng ở ba cung Tỵ-Dậu-Sửu. Nó tượng trưng cho sự ương ngạnh, thích làm điều phá tán, vỡ đổ (giống như nhân vật Na-Tra trong chuyện Phong Thần). Sao này coi như con đẻ của Phá Quân, nên khi Phá Toái đồng cung với Phá Quân thì kết hợp thành sức mạnh vô song (tương tự như Vũ Khúc gặp Văn Khúc) chủ về võ nghiệp thời danh. Nếu vòng Thái Tuế lại chứa " Toái Quân lưỡng Phá " này thì không cần phải nói nhiều : rõ ràng là bậc anh hùng trong thiên hạ, ấn chức nguyên nhung trao vào tay này không hổ thẹn chọn lầm người.

Tóm lại, để kết luận cho bài Tham luận này, ta có thể tạm bắt chước người Tây Phương để nói rằng :" Đưa Lá số Tử vi của bạn đây, tôi sẽ nói bạn là ai ! "
Được cảm ơn bởi: babiegirl02, vo_danh_00, Viendanho, Nobi_Nguyen
Đầu trang

tuangianglion
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2692
Tham gia: 00:39, 07/03/12

TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH

Gửi bài gửi bởi tuangianglion »

Bình giải các cách trong Tử Vi - Cách khoa bảng
1. Những chính tinh chỉ học vấn:

Thái Dương, Thái Âm sáng sủa: ở Mệnh hay chiếu Mệnh: con người rất thông minh, lãnh hội mau chóng, phong phú và sâu sắc, phân biện tinh vi các góc cạnh của vấn đề. Về mặt khoa bảng, Âm Dương sáng thì học giỏi, học rộng, học cao, có bằng cấp lớn, có thực học. Nếu được thêm các văn tinh khác đi kèm thì trình độ học vấn càng cao, học lực có thể lên mức quốc gia hay quốc tế.

Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung: Đắc địa trở lên, hai sao này gần như đồng nghĩa, chỉ sự thông minh sắc sảo, trí đa mưu, óc quyền biến, khả năng khảo cứu chính trị, chiến lược. Cơ Lương đồng cung chỉ năng khiếu sư phạm, có tài dạy học, nghiên cứu, tìm tòi đồng thời với tài tham mưu, cố vấn. Về mặt học vấn, Cơ Lương là bộ khoa bảng quan trọng, dường như nặng ý nghĩa ứng dụng.

Thiên Cơ, Cự Môn đồng cung: đắc địa ở Mão và Dậu, ở Mão hay hơn. Có ý nghĩa tương tự như Cơ Lương, ngành học của Cự Cơ thiên về pháp lý, chính trị học, luật học nhiều hơn.

Tử, Phủ, Vũ, Tướng: cũng chỉ khoa bảng, cả văn lẫn võ, nhưng nặng về quý cách hơn là khoa cách. Nếu có thêm văn tinh hội tụ thì nhất định khoa bảng sẽ rõ rệt.

Sát, Phá, Liêm, Tham: chỉ năng khiếu võ nghiệp, học võ lợi và dễ hơn học văn, làm ngành quân sự đắc dụng.

Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương: nếu đắc địa, chỉ sự thông minh, học giỏi và học cao, có bằng cấp lớn. Nếu các sao trong bộ cùng đắc địa thì chắc chắn có khoa bảng cao. Nếu không, các sao đó chỉ tư chất thông minh. Nếu hãm địa thì học vấn bị trở ngại, bị chậm lụt, dang dở. Bất lợi này chỉ được bù trừ nếu có nhiều phụ tinh khoa bảng hội tụ đông đảo.

2. Những phụ tinh chỉ khoa bảng:

Hóa Khoa: điển hình cho khoa bảng. Ngoài đức tính thông minh, hiếu học, Hóa Khoa còn chỉ sự đỗ đạt, trình độ học vấn cao và rộng. Năng khiếu học vấn còn đi liền với khả năng sư phạm, khả năng sáng tác, sưu tầm. Có Hóa Khoa ở Mệnh hay chiếu Mệnh, học trò thì xuất sắc, thầy giáo thì dạy hay, khảo cứu thì nổi danh, có viết sách. Hóa Khoa chỉ phương pháp dạy và học độc đáo, cách thức trình bày ngăn nắp, hệ thống hóa các điều hiểu biết một cách mạch lạc, trật tự, diễn tả tư tưởng rất rõ ràng và thông thái. Hóa Khoa là một sao hùng biện, lối hùng biện của người có học vấn uyên thâm.

Văn Xương, Văn Khúc: Xương Khúc tượng trưng cho tình cảm và trí tuệ. Xương Khúc rất xuất sắc trong những ngành học nào mình thích còn Hóa Khoa thì giỏi về nhiều môn. Xương Khúc thiên về chuyên khoa nên khó ai vượt nổi Xương Khúc trong chuyên môn sở trường. Vì nặng về tình cảm nên ngành học của Xương Khúc là văn chương, triết lý, thi ca, nhạc kịch, vốn là các bộ môn làm rung động mãnh liệt tâm hồn con người.

Thiên Khôi, Thiên Việt: biểu tượng cho học trò giỏi và đỗ đạt. Khôi Việt chỉ sự lỗi lạc, xuất chúng trong nhiều ngành. Khôi còn có nghĩa là đứng đầu, cầm đầu, vì thế có tinh thần ganh đua mãnh liệt để chiếm giải nhất, không chấp nhận nổi sự thua thiệt. Đức tính quý báu của Khôi Việt là óc lãnh tụ, sự mưu cơ, tài tổ chức, chí hướng chỉ huy, lãnh đạo vì vậy Khôi Việt hữu dụng cho xã hội trong khi Hóa Khoa và Xương Khúc thường đắc dụng cho học đường, cho ngành giáo dục thuần túy. Khôi Việt vừa là người có học vừa biết ứng dụng cái học vào trường đời, cũng bằng ý chí tranh thắng thi đua, vốn là động cơ thành công trong nhiều lãnh vực.

Long Trì, Phượng Các: bằng cấp của hai sao này rất cao, đặc biệt là khi đồng cung ở Mùi (với người tuổi Mão) hoặc ở Sửu (với người tuổi Dậu).

Thiên Hình: chỉ năng khiếu nhận xét tinh vi, phê phán phân minh, óc phân tích tỷ mỉ và sự lý luận sắc bén. Sao này đắc dụng cho người khảo cứu, cho luật gia, cho học trò, cho nhà phê bình nghệ thuật, văn chương. Văn của Thiên Hình lại khô khan, kỹ thuật, nhưng vô cùng chính xác.

Thái Tuế: sao này lanh lợi, nói giỏi, nhiều ý và nhất là nhiều lời, hoạt bát. Thái Tuế chỉ hợp với luật sư, công tố, ứng cử viên tranh cử, chính trị gia ...
Văn Tinh, Lưu Hà, Bác Sỹ: Văn Tinh chỉ sự ham học. Lưu Hà và Bác Sỹ chỉ sự hùng biện sự diễn đạt tư tưởng thâm thúy. Cả ba đều cần cho học trò, giáo sư, thuyết khách.

Hỏa Tinh, Linh Tinh đắc địa: Đi với Thái Dương sáng sủa, Hỏa Linh làm tăng thêm sự mẫn tiệp, có lợi cho sự học hỏi và khảo cứu, điều tra. Cả ba cùng là sao hỏa nên rất sắc bén, linh động.

Thiên Không: chỉ sự thông minh của hạng mưu sĩ, lưu manh, cắc cớ, gian xảo, dùng trí để hại, để phá, để diệt kẻ khác.

3. Các sao trợ lực khoa bảng:

a. Sao mở rộng học vấn:
Tả Phù, Hữu Bật, Đế Vượng, Tràng Sinh: Có Tả Hữu đi với khoa tinh, sức học sẽ rộng hơn. Sinh và Vượng thì chỉ sự phong phú, tương hợp với học gạo, học ráo riết thật nhiều. Đi với khoa tinh, Sinh Vượng là hệ số làm tăng thêm kiến thức tổng quát. Ví dụ như Khoa-Sinh nghĩa là học rộng, sáng tác nhiều. Khôi-Vượng sẽ đỗ cao, thủ khoa hay được Hội đồng Giám khảo tuyên dương.

b. Những sao thúc đẩy học vấn
Quan Phù, Quan Phủ: chỉ sự cạnh tranh, ganh tị, thi đua, ích kỷ. Về việc học, Phù Phủ chỉ sự cầu tiến, cố gắng thường đưa đến ganh đua, đôi khi có đố kỵ nhỏ nhen, cạnh tranh bất chính. Nếu gặp Hóa Kỵ hay Phục Binh hay các sao chỉ tính tham lam thì sự cạnh tranh dùng đến thủ đoạn không cao thượng.

c. Những sao may mắn cho học vấn:
Ân Quang, Thiên Quý, Thiên Quan, Thiên Phúc, Tả Phù, Hữu Bật: đều có nghĩa hên may, được giúp đỡ, được phù hộ, ví dụ như thi trúng tủ hoặc được báo mộng bài thi (Quang, Quý) gặp thầy dễ, bài dễ, được khoan hồng (Tả, Hữu, Quan, Phúc). Cả sáu sao này chỉ sự phù trì của linh thiêng hoặc sự trợ giúp của người đời.

- Thanh Long, Hóa Kỵ hay Lưu Hà
- Bạch Hổ, Phi Liêm hay Tấu Thư
- Thiên Mã, Tràng Sinh hay Phi Liêm
- Thiên Hỷ, Hỷ Thần
những bộ này nếu đóng ở Mệnh hay chiếu vào Mệnh thì thường gặp vận hội tốt đẹp. Nếu đóng ở cung hạn thì gặp hên may trong hạn đó. Nếu bộ sao hên rơi đúng vào kỳ thi thì dễ đậu.

4. Các sao cản trở khoa bảng:

Triệt: sao này có hiệu lực chế khắc rất mạnh, cụ thể như làm cho khoa bảng bất thành, không cao, chật vật, thi rớt, đậu thấp hay đậu vớt.

Tuần: cũng có hiệu lực khắc chế khá mạnh nhưng kém hơn sao Triệt. Văn tinh mà gặp Tuần đồng cung báo hiệu sự thi rớt, thi khó, thi nhiều keo ...

Tuy nhiên, nếu cung hạn vô chính diệu gặp Tuần, Triệt thì lại tốt.

Hóa Kỵ: báo hiệu việc thi rớt, thi khó, khoa bảng lận đận, dở dang. Hóa Kỵ chỉ sự nông nổi hay thay đổi chí hướng, sự bất mãn vì thất bại. Hiệu lực của Hóa Kỵ khá mạnh vì có thể làm lu mờ cả Khôi, Việt, Xương, Khúc, Hóa Khoa. Người có Khôi Việt gặp Kỵ thì chỉ là kẻ ẩn dật, bất đắc chí. Hóa Kỵ chỉ tốt khi gặp Thanh Long đồng cung mà thôi.

Kình Dương, Đà La hãm: đều chỉ sự cản trở, sự gian nan, sự chậm lụt trong khoa trường. Nếu Kình Dương miếu địa, đối với hai tuổi ất, Tân thì lại là người có tài văn chương từ đó có nghĩa thi đỗ.

Địa Không, Địa Kiếp hãm: Đi với văn tinh thì rất bất lợi: không thể thi được, thi rớt, bị tai họa lúc thi (cóp bài bị đuổi ...)

Thiên Không hãm (ở Tý, Sửu, Mão, Thìn, Ngọ, Mùi, Dậu, Tuất, Hợi): gặp phải khoa tinh, Thiên Không làm cho khoa trường lận đận.

Đại Hao, Tiểu Hao: chủ sự thay đổi, hao tán, ứng dụng vào khoa bảng có thể có nghĩa: thi rớt keo đầu, thi hai ngành trong đó rớt một, có thể tốn tiền về thi cử.

Thiên Khốc, Thiên Hư: chỉ sự lo âu, nước mắt, xui xẻo, do đó có thể báo hiệu việc thi rớt hoặc học mà không chịu thi. Nếu đăc địa ở Tý Ngọ thì có thể đỗ ở kỳ hai vì hai sao này đắc địa lợi về hậu vận hơn.

5. Các ngành trong khoa tử vi:

a. Võ học:
Sát, Phá, Liêm, Tham: nếu hội đủ cả bốn sao chiếu Mệnh thì nghiệp võ của đương số sẽ rõ ràng. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp quân nhân vẫn không hội đủ bốn sao. Mặt khác, cũng có trường hợp có đủ bốn sao mà vẫn không phải là nhà binh. Trong trường hợp này, những sao đó nói lên võ tính của đương sự hơn là võ học hay võ nghiệp: biểu lộ tính can đảm, táo bạo, liều lĩnh, hay sát phạt, có hành động võ phu.

Binh Hình Tướng ấn: cách này chỉ sự hiển đạt trong nghiệp võ, chỉ quân nhân có tài tác chiến, tài tham mưu, đồng thời cũng là quân nhân có chiến công, có cầm quân, có huy chương.

Vũ Tướng: hai sao này kết hợp cũng chỉ võ nghiệp rất đặc sắc.

Tử Phủ Vũ Tướng: cách này vừa chỉ văn, vừa chỉ võ cho nên đặc biệt có quyền uy: đó là ngành võ cầm quyền chính trị.

Tướng Quân, Thiên Mã: chỉ quân nhân có tài. Tướng Quân chỉ võ tính, sự cương cường, hiếu thắng, phách lối còn Thiên Mã chỉ tài năng. Nếu Thiên Mã đi với Thiên Tướng cũng đồng nghĩa nhưng đây là một quân nhân có kỷ luật hơn vì Thiên Tướng vốn đôn hậu, có tư cách hơn Tướng Quân.

Thiên Mã, Lực Sỹ: là cách của võ tướng có sức mạnh từ đó vũ dũng (ít có mưu lược).

Thiên Tướng-Tướng Quân hay Thiên Tướng-Phục Binh hay Tướng Quân-Phục Binh: là tướng có quân, có quyền.

Ngoài ra có thể kể một số sao trợ võ, nghĩa là đi chung với các võ tinh khác thì làm cho võ nghiệp rõ rệt hơn. Đó là Không, Kiếp, Kình, Đà, Hỏa, Linh là những sát tinh, hung tinh nói lên tính nết mạnh bạo, dám làm, tác phong của võ cách. Ví dụ, hai sao Kình, Hỏa miếu địa đồng cung là số danh tướng, hợp vớ cách Sát Phá Liêm Tham. Tướng Mã Không Kiếp đắc địa chỉ quân nhân cầm binh, vị tướng cầm quân có nhiều binh tướng dưới tay, thường lập nghiệp vẻ vang trong thời tao loạn. Sát Phá Liêm Tham gặp Kình hãm địa ở Mão và Dậu là tướng làm loạn, đảo chánh, binh biến, khát máu, giết người không gớm tay.

b. Văn học
Văn Xương, Văn Khúc: chỉ các môn về văn chương, triết lý hoặc chỉ môn học nói chung.

Thái Tuế, Thiên Hình, Cự Môn, Quan Phù: một trong bốn sao này chỉ các môn học về luật pháp.
Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phù, Hữu Bật: cả bốn sao này chỉ ngành dịch thuật. Đây là bộ sao của các thông ngôn, hành nghề dịch sách, tu thư, khảo cứu cổ ngữ, kim ngữ.

Lưu Hà, Tấu Thư, Hóa Khoa, Thái Tuế, Cự Môn, Hóa Kỵ: chỉ sự hùng biện, tài dùng ngôn ngữ, ứng dụng đắc cách vào ngành sư phạm, vào khoa hùng biện, chính trị học.

Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương: chỉ người công chức. Ngành học là hành chính, quản trị công sở.

Lộc Tồn: chỉ tài năng tổ chức, sắp xếp công việc, do đó cũng liên quan đến ngành quản trị hành chính hay công sở đặc biệt là quản trị tài chính, kế toán, ngân sách, kho bạc, ngân hàng.

c. Khoa học:
Thiên Tướng, Thiên Y: Hai sao này đi chung (đồng cung hay hội chiếu) có nghĩa là y học. Ngoài ra, nếu Thiên Y đi kèm với các sao phù trợ khác cũng có nghĩa về y học: Thiên Quan, Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Phúc, Thiên Lương, Thái Âm, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần ...

Thiên Y, Hóa Kỵ: có ý nghĩa bào chế thuốc men, có liên quan đến y dược học.

Thiếu Âm, Thiếu Dương, Thái Âm, Thái Dương: các sao này có nghĩa là điện, liên quan đến ngành điện học, điện tử hay nguyên tử.

Thiên Cơ: liên quan đến máy móc, ngành cơ khí, kỹ thuật. Đây có thể là sao của kỹ sư, chuyên viên kỹ thuật, kỹ nghệ gia.

d. Kinh tế học:
Vũ Khúc, Tham Lang: Vũ Khúc chỉ tài lộc, tiền bạc. Tham Lang chỉ sự đua chen tham lợi. Đây là cách chỉ nghề thương mại, kinh doanh.

Hóa Lộc, Lộc Tồn và Thiên Mã: Hai sao Lộc chỉ tiền tài. Thiên Mã chỉ tài năng, sự tháo vát, giao dịch. Hai sao này đi chung chỉ ngành thương mại, đặc biệt là ngành thương mại lưu động. Người có bộ sao Mã Lộc hay Mã Tồn là kẻ mua sỉ bán lẻ hay đại lý thương mại hay người phân phối, đóng vai luân lưu hàng hóa trong hệ thống kinh tế.

Vũ Khúc, Thiên Phủ: Thiên Phủ chỉ cái kho tàng hay kho bạc. Ngành học của Phủ có thể là ngân hàng, tín dụng, thuế khóa. Vũ Khúc có thể chỉ kinh tế học. Đây là cách chỉ ngành kinh tế, tài chính.

Vũ Khúc, Tham Lang, Kình Dương, Thất Sát: bốn sao này sáng sủa hội họp thường thiên về kỹ nghệ.

e. Nghệ thuật:
Phượng Các, Tấu Thư, Xương Khúc: Phượng Các là thính giác. Tấu Thư là sự linh mẫn, êm dịu, ngọt ngào. Xương Khúc chỉ môn học. Bốn sao này đi cùng chỉ môn âm nhạc.

Tấu Thư, Hồng Loan: Hồng Loan có nghĩa là hoa tay, từ đó chỉ ngành học liên quan đến sự khéo tay như hội họa, điêu khắc, thêu may, hay thủ công nghệ nói chung.

Đào Hoa, Tấu Thư, Thiên Hỷ, Vũ Khúc: bộ sao của ca sĩ, kịch sĩ, diễn viên màn ảnh, tài tử, minh tinh, có liên quan đến ngành học như hát, đóng kịch, đóng phi. Đào Hoa chỉ sự hâm mộ, Thiên Hỷ chỉ sự giúp vui, Vũ Khúc chỉ danh giá, sự nổi tiếng.

Thiên Trù, Tấu Thư, Hóa Lộc hay Hồng Loan: chỉ ngành nấu bếp, nấu rượu, chế tạo thức ăn thức uống hoặc gia chánh.

Đào Hoa, Hồng Loan với Mộc Dục hay Hoa Cái: chỉ môn thẩm mỹ học, chuyên về sửa sắc đẹp. Nếu đi với Thiên Hình hay Kiếp Sát chỉ môn giải phẫu thẩm mỹ.
Được cảm ơn bởi: HuongHate, buidngocdiep
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
JACKSPARROW
Đang bị cấm
Đang bị cấm
Bài viết: 860
Tham gia: 19:16, 25/07/11

TL: Re: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH

Gửi bài gửi bởi JACKSPARROW »

tuangianglion đã viết: Thiên di tối kỵ Kiếp Không lâm vào

Đây là một câu phú mà hầu như chả ai luận bàn, chả ai giải thích. Vì chỉ nghĩ là Di có Kiếp Không thì đi ra ngoài gặp xấu, cẩn thận trộm cướp tai nạn thôi. Hoặc cho cung Di là đối phương, đối phương bị Không Kiếp thì dính gì đến mình. Nhưng thực ra câu này ẩn chứa nhiều điều quan trọng.

Tại sao không phải là cường cung nào khác như Tài, Quan mà lại là cung Di. Nếu Di không là mình thì chả cần đặt ra câu đó làm gì. Nếu Di chỉ là đi xa thì thời xưa người ta vốn ít hoạt động, chỉ quanh quẩn làng xóm quê nhà, hiếm khi đi xa nên cũng không cần chú ý. Di rõ ràng phải là cái gì đó rất quan trọng với chính ta thì mới mọc ra câu phú nhấn mạnh như thế.

Chỉ vì Di sự biểu lộ của ta trong tương tác với hoàn cảnh. Di là tất cả các hành vi, động sự, tạo tác, giao dịch giữa ta với môi trường.

Di bị Không Kiếp là có hành vi tạo ra cái tiêu cực đen tối cho hoàn cảnh, là khi động sự chỉ chực làm bậy, là gian lận lừa lọc để thủ lợi, hoặc chỉ đơn giản để cảm thấy hả hê thỏa mãn vì đã làm được việc xấu, đã ”thể hiện” được bản thân mình.

Di là bản thân lộ ra khi tương giao với hoàn cảnh, bị Không Kiếp tức là chính mình có nghiệp chướng, có cái bất ưng để thiên hạ đều thấy. Đó là kẻ có điều xấu bị bộc lộ, hoặc gặp tai nạn từ môi trường, đi ra ngoài gặp xui xẻo.

Di là cung Thân thứ hai của mình, bị Không Kiếp là tự mình xây tạo chồng chất các nghiệp xấu, là bị nghiệp báo từ những hành vi của mình ngay trong kiếp này. Nghiệp chướng có nhiều loại, có những kẻ cả đời làm bậy nhưng chả làm sao, vì quả báo ở kiếp sau. Còn Di bị Không Kiếp là ngay kiếp này sẽ phải trả nợ nghiệp tức thì.

Cung Di giống như một cái túi nhân quả ta đeo chặt bên người. Mỗi hành vi, mỗi hiện thực ta tạo ra đều rơi vào cái túi đó. Di là một tồn tại chủ quan gắn với Mệnh nên mỗi người đều có cái túi riêng khác cho dù cùng sống trong môi trường y hệt. Những gì rơi vào cái túi đó sẽ không bao giờ mất đi, nó luôn dính vào ta và chỉ lộ ra lúc này hay lúc khác. Các khoa cận tâm lý hiện nay đã chứng minh được sự tồn tại của trường nhân thể, trong cái trường đó có những khu vực lưu trữ tất cả các hành vi của chủ thể, đó như là cái túi nghiệp tự tạo của mỗi người.

Di bị Không Kiếp là tự mình bỏ vào cái túi của mình những chổi cùn, giẻ rách, bùn đất, cặn bã. Tưởng rằng thế là vứt bỏ vào ngoại cảnh, nhưng thực ra chúng luôn nằm ở đó, chính chủ thể đến lúc thò tay vào túi lấy ra dùng!

Từ tính nghiệp quả của cung Di, ta có thể giải thích được một vài câu thành ngữ cổ mà các loại Phật, Chúa, Thánh nhân hay dùng.

Chúa: ”Ngươi nhận được cái gì ngươi đã cho đi”. Chỉ bởi vì cho đi là bỏ nó vào cái túi cung Di của mình. Cho hoàn cảnh nhưng Thân ta cũng nằm trong hoàn cảnh, nên cho cung Di cốc nước thì nước ấy đến lúc chính mình lại uống.

Khổng Tử: ”Cái gì không muốn thì đừng làm nó cho người”. Làm gì cho ngoại cảnh thì cũng là làm với mình, cái điều tưởng như đã đẩy sang người khác ấy nhưng một lúc nào đó nó lại xảy ra với ta. Khi ta tương tác với ngoại cảnh, nó sẽ có cách để ”trở về”.

Phật bảo một nắm muối ném vào bát nước có thể khiến nước rất mặn nhưng ném vào dòng sông thì chả làm sao. Bát nước và dòng sông đều có thể coi như cung Di, cái hoàn cảnh nơi mỗi cá nhân đang ngụp lặn chìm trong đó để bơi lội, tìm kiếm cái gì đó cho riêng mình. Nắm muối chính là Không Kiếp, Di tối kỵ Không Kiếp vì thiên hạ đa phần chỉ có bát nước nhỏ. Mấy ai có được dòng sông để vô hiệu hóa được độ mặn.

Di bị Không Kiếp là gặp phải bát nước mặn, hoặc tự thả nắm muối vào bát nước của mình, để đến lúc chính mình lại uống.

Suy ra một trong các cách cải số chính là bơm nước ngọt vào trong cái túi cung Di của mình, để lỡ chỗ nào đó có bị nắm muối Không Kiếp thì ta vẫn còn nước ngọt ở chỗ khác để mà dùng. Đây chính là nguyên lý của luật nhân quả. Cho đi chẳng qua là tự bỏ vào cái túi của mình mà thôi. Nếu ta có túi nước cung Di thật rộng, thật sâu, nghiệp không thể làm ta chết khát !

Phật luôn khuyên con người đừng ích kỷ vì như thế là tự làm hẹp cái bát nước của mình lại, khiến nó có thể sẽ trở nên mặn chát khi lỡ gặp Không Kiếp.

Việc coi cung Di có liên quan chặt chẽ với mình trong mối quan hệ nhân quả là điều hợp lý. Tử vi vốn xuất phát từ đạo giáo, nó thể hiện quan điểm của đạo giáo không chỉ trong các sao phúc thiện mà còn ở các cung nào đó, một trong số đó là cung Di.

Như vậy câu phú ”Thiên di tối kỵ Kiếp Không lâm vào” ẩn chứa những nội hàm sâu xa, không hề đơn giản để chả có gì cần giải thích như xưa nay thường quan niệm.

Di bị Không Kiếp thì độ xấu có khi chả kém gì lâm vào Mệnh Thân. Chính chủ thể sẽ tạo ra cái tật nghiệp bất ưng tồi tệ. Đó là kẻ rải đinh ra đường để vá xe, là đứng đường chặn xe để vòi tiền, là bệnh nhân đang cần cấp cứu nhưng hỏi tiền đâu trước…

Tạo ra cái đen tối tiêu cực, đâu chỉ có Mệnh Thân !
:(( :(( :(( Số Jack có kiếp không lâm vào di cung đây, chã nhẻ chết bụi chết bờ sao??? hông chịu đâu, hông chịu đâu :(( :(( :((
Đầu trang

tuangianglion
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2692
Tham gia: 00:39, 07/03/12

TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH

Gửi bài gửi bởi tuangianglion »

Phần 4 : Những cách cục hay trong tử vi


1. Cách cục Tử Phủ đồng cung
Sao Tử vi, Thiên phủ cùng chấn mệnh tại cung Dần hoặc cung Thân

Ưu điểm: Đời sống vật chất sung túc đủ đầy, một đời hưởng phúc, giàu sang trọn vẹn, phúc lộc song toàn.

Khuyết điểm: Hai đế tinh đồng cung, về mặt tinh thần dễ xuất hiện cảm giác cô độc mang tính chu kỳ, nên chậm kết hôn - Nếu gặp sao Kình dương, sẽ trở thành thương gia lớn, nhưng tâm địa thường bất chính.Cung mệnh an tại cung Dần hoặc Thân, có sao Tử vi và Thiên Phủ cùng cung, lại có Lộc Tồn, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, gia hội mới được coi là hợp cách cục. Nếu lá số sở hữu cách cục này, chủ về đại phú, đại quý, phúc thọ song toàn. Người sinh năm Giáp gặp hóa cát cực tốt, Người sinh năm Đinh, Kỷ, Canh, Quý cát. Ca quyết như sau: Phiên âm: Đồng cung Tử Phủ quý sinh nhânThiên tại thanh minh vạn tượng tânHỷ phùng Dần Thân đồng đắc địa

Thanh danh lỗi lạc động càn khôn Nghĩa là:Tử phủ đồng cung sinh phú quý

Muôn sự đổi mới trời sáng trongƯa gặp Dần Thân thêm đắc địa

Thanh danh lỗi lạc khắp càn khônLá số ví dụ về cách Tử Phủ đồng cung: Trương Lương

Sinh ngày: Giờ thìn, mùng 6 tháng năm năm Giáp NgọTử vi, Thiên phủ cùng trấn mệnh, tại cung Dần, Song lộc triều viên (Hai sao lộc chầu về cung mệnh), được Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Vũ Khúc gia hội.

2. Cách cục Tử Phủ triều viên (Tử Phủ chầu mệnh).
Sao Tử vi hoặc Thiên Phủ miếu vượng trấn cung mệnh, tại cung tam phương tứ chính có cát tinh gia hội.

Ưu điểm: Thanh cao, phúc thọ song toàn, đời sống vật chất đủ đầy, hưởng lộc dồi dào.Sao Tử vi và Thiên Phủ tại cung miếu vượng hợp chiếu cung mệnh, tại cung tam phương, tứ chính của cung mệnh có các cát tinh, Lộc Tồn, Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt mới được coi là phù hợp với cách cục này, cách cục này có bốn loại:

1. Sao Vũ Khúc, Thiên Tướng trấn mệnh tại cung Dần hoặc Thân, cung tam hợp có Tử vi, Thiên phủ.

2. Sao Liêm Trinh trấn mệnh tại cung Dần hoặc Thân, cung tam hợp có Tử Vi Thiên Phủ

3. Sao Liêm Trinh, Thiên Tướng trấn mệnh tại cung Tý hoặc Ngọ, cung tam hợp có Tử vi, Thiên Phủ

4. Sao Thiên Tướng trấn mệnh tại cung Sửu hoặc Mùi, cung tam hợp có sao Thiên Phủ, cung đối diện có sao Tử vi. Nhập cách cục này sẽ sang trọng tột đỉnh, giàu có nức tiếng.

Ca quyết: Nhất đẩu tôn tinh mệnh nội lâmThanh cao họa hoạn vĩnh vô xâmCánh gia cát diệu trùng tương hộiThực lộc hoàng triều quán cổ kim

Nghĩa là: Sao quý Tử vi nhập cung mệnhThanh cao chẳng phải gặp họa taiLại thêm sao cát cùng gia hộiTước lộc tôn quý khắp xưa nayTrong kinh sách có viết: "


3. Cách cục Thiên Phủ triều viên (Thiên Phủ chầu mệnh).
Sao Thiên Phủ nhập miếu trấn mệnh tại cung Thìn hoặc Tuất, đồng cung với Liêm Trinh, không bị sát tinh xung phá.
Ưu điểm: Quan cao, chức trọng, phúc, quý song toàn. Mệnh nữ trung trinh hiền thục. Nếu sao Tả Phụ cùng trấn mệnh, tại cung tam phương tứ chính có sao hóa cát chầu về là cực quý.
Khuyết điểm: Bất lợi cho hôn nhân, tình duyên, nên kết hôn muộn.

Hai sao Thiên Phủ, Liêm Trinh trấn mệnh tại cung Tuất, lại gặp các cát tinh Lộc Tồn, Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt gia hội, không có sát tinh mới được coi là phù hợp với cách cục này,. Nếu có Tả Phụ hoặc Hữu Bật tại cung mệnh mới tốt đẹp, tốt nhất cho người sinh năm Giáp, Kỷ, tiếp đến là sinh năm Đinh. Cung Tuất là vị trí của quẻ Càn, là ngôi vị của Vua, Thiên Phủ là bề tôi. Nếu lá số được cách cục này, chủ về đại phú, đại quý.

Ca quyết:
Càn vi quân tượng, Phủ vi thần
Đắc địa lai triều phúc tự tân
Phụ Bật trung thần thân báo quốc
Yêu kim y tử bái trùng huy

Nghĩa là:
Càn là tượng vua phủ bầy tôi
Đắc địa đến chầu phúc tự đầy
Phụ Bật tôi trung vì đất nước
Đai vàng áo tía tại cung mây

Trong kinh có viết: " Thiên phủ tại Tuất có sao phò trợ, đai vàng áo tía", " Phụ phủ đồng cung, tôn cư vạn thặng" (Tả phụ, Thiên phủ đồng cung, ngôi cao chót vót).

4. Cách cục quân thần khánh hội (Vua tôi quần tụ).

Sao Tử vi cùng Tả Phụ, Hữu Bật đóng tại cung mệnh.
Ưu điểm: Có được nhiều sự trợ giúp, gặp nhiều quý nhân phò trợ, được quần chúng hưởng ứng, phú quý trọn đời. Nếu sao tử vi đóng tại cung Mệnh, Tả Phụ, Hữu bật nằm tại cung tam phương, tứ chính chiếu cung mệnh, hoặc nằm ở hai cung bên cạnh kèm lấy cung mệnh (giáp), là cách cục Phụ, Bật củng chủ (Phụ, Bật chầu vua), ưu điểm cũng tương tự như cách cục Quân thần khánh hội.

5. Cách cục Phủ Tướng triều viên (Thiên phủ, Thiên tướng chầu mệnh).

Thiên phủ (hoặc Thiên Tướng) tại cung mệnh, Thiên Tướng (hoặc Thiên Phủ) tại cung Tài Bạch hoặc Quan Lộc hội chiếu, không bị sát tinh xung phá (Sao Thiên Tướng cần miếu vượng và không bị Tuần Triệt trấn đóng mới phù hợp).
Ưu điểm: Phú quý song toàn, hưởng lộc dồi dào, được người khác kính trọng, quan hệ xã hội tốt, được quý nhân phù trợ.
Khuyết điểm: Cẩn thận trong chuyện tình cảm và hôn nhân (Phá Quân hoặc Tham Lang đóng tại cung Phu Thê).
Hai sao Thiên Phủ và Thiên Tướng, một sao nằm tại cung Tài Bạch, một sao nằm tại cung Quan Lộc, cùng hợp chiếu cung mệnh, tại cung vị tam phương tứ chính của cung mệnh có Lộc Tồn, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt gia hội mới phù hợp cách cục này. Nếu có tứ sát hoặc Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ gia hội là phá cách. Cách cục này chủ về có tình cảm sâu sắc với người thân và bạn bè, trọng tình cảm.

Cách cục này có 3 trường hợp sau:

1. Cung mệnh an tại cung Sửu không có chủ tinh, tại cung Tỵ có sao Thiên Phủ tại cung Dậu có sao Thiên Tướng chầu về, Cung mệnh an tại cung Mùi không có chủ tinh, tại cung hợi có sao Thiên Phủ, cung Mão có sao Thiên Tướng chầu về, Cung mệnh an tại cung Mão không có chủ tinh, cung Hợi có sao Thiên Tướng, cung mùi có sao Thiên Phủ chầu về, Cung mệnh an tại cung Dậu không có chủ tinh, cung Tỵ có sao Thiên Tướng, cung Sửu có sao Thiên Phủ chầu về.

2. Sao Thiên Phủ trấn mệnh tại cung Sửu (Mùi), sao Thiên tướng tại cung Tỵ (hoặc Hợi) chầu về, Sao Thiên Phủ trấn mệnh tại cung Mão (Dậu), sao Thiên Tướng tại cung Mùi (Sửu) chầu về, sao Thiên Phủ trấn mệnh tại cung Tỵ (Hợi), sao Thiên Tướng tại cung Dậu (Mão) chầu về.

3. Sao Liêm Trinh trấn mệnh tại cung Dần (Thân), sao Thiên Phủ, Thiên Tướng tại cung Ngọ và Tuất (Tý và Thìn) chầu về, trường hợp này xem thêm cách cục Tử Phủ triều viên tại phần trước.

Ca Quyết:
Mệnh cung Phủ Tướng đắc cụ phùng
Vô sát thân đương đãi thánh quân
Phú quý song toàn nhân cảnh ngưỡng
Nguy nguy đức nghiệp mãn càn khôn
Nghĩa là:
Cung mệnh gặp được Phủ cùng Tướng
Chẳng gặp sát tinh đợi vua hiền
Phú quý song toàn người ngưỡng vọng
Công đức lấy lừng khắp nhân gian

Trong kinh văn có câu: " Thiên Phủ, Thiên Tướng là thần tước lộc, xuất sĩ làm quan, ắt là điềm hanh thông" Phủ Tướng gặp gỡ tại cung mệnh, cả nhà ăn lộc", Phủ Tướng triều viên là cực tốt, xuất sĩ làm quan rất tốt lành" (Cũng cần không bị tứ sát và các sao ác sát xung phá), Cung Dần gặp Phủ Tướng được làm quan nhất phẩm, mệnh nữ gặp sao Phủ, Tướng, con cái hiển đạt chồng vinh hoa".

CÒn nữa........
Đầu trang

tuangianglion
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2692
Tham gia: 00:39, 07/03/12

TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH

Gửi bài gửi bởi tuangianglion »

6. Cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương
Bốn sao Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương tập trung tại các cung mệnh, tài, quan (Cần phải xuất hiện đồng thời cả 4 sao).
Ưu điểm: Có tài hoạch định, có năng lực làm việc và trợ giúp, nếu làm việc tại các cơ quan nhà nước, sự nghiệp hành chính sẽ có triển vọng tốt, đảm nhiệm chức vụ cao, phù hợp với các lĩnh vực giáo dục, truyền thông, văn hóa hoặc các công việc đòi hỏi chất xám, kỹ thuật, hoặc các nghề môi giới, tư vấn, đại lý, kinh doanh cửa hàng.
Khuyết điểm: Nếu bốn sao trên trấn mệnh tại cung Dần Thân sẽ bất lợi về mặt tình cảm, tính cách trầm lặng hoặc dễ kích động.

Với cách cục này, Thiên Đồng, Thiên Lương trấn mệnh tại cung Dần, Thân, hoặc Thiên Cơ, Thái Âm chấn mệnh tại cung Dần Thân, tại cung tam phương tứ chính nhất định phải có 4 sao Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Lương, Thái Âm gia hội, lại có các sao Lộc Tồn, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật gia hội mới phù hợp cách cục này hoặc tại cung Thân cung Mệnh có đầy đủ bốn sao trên hội cát tinh cũng được coi là cách cục này, nhưng tại cung tam hợp bắt buộc phải có sao Văn Xương, Văn Khúc. Người nào sở hữu được cách cục này phần nhiều làm trong cơ quan nhà nước hoặc các doanh nghiệp quy mô lớn, giữ các chức vụ như quản lý, ngoại vụ, kế hoạch, văn thư, thiết kế, sự nghiệp thường ổn định, ít gặp rủi ro. Nếu có cách cục tốt sẽ được phú quý hơn người, nếu gặp sát tinh là phá cục. Cũng có khi làm nghề tự do nhưng vẫn được thành danh nhờ tài nghệ sở trường. Nếu cung mệnh an tại cung khác nhưng được 4 sao trên hội chiếu, cũng được coi là thuộc cách cục này.

Ca Quyết như sau:
Dần Thân tứ diệu mệnh gia lâm
Tổ tông căn nguyên định hữu thành
Đao bút chỉ trung nghi tác lực
Vinh hoa phát vượng tại công môn

Dịch nghĩa:
Dần Thân cung mệnh bốn sao cát
Sự nghiệp tổ tông ắt có nguồn
Ngọn bút, lưỡi gươm nên có lực
Vinh hoa vượng phát tại công môn

Trong kinh văn có viết: "Cơ Nguyệt Đồng Lương được làm quan", " Cơ Nguyệt Đồng Lương có phúc" " Dần Thân Tối hỷ Đồng Lương hội (Dần Thân thích nhất gặp Đồng Lương), "Tỵ Hợi gặp Đồng Lương, Cơ, Nguyệt phần nhiều chủ làm quan" (Tại cung Thân tập hợp đủ bốn sao này mới hợp cách), " Thái Âm cùng Thiên Cơ, Xương Khúc cùng ở Dần, Nam làm nô bộc, nữ nô tì".

7. Cách cục Cơ Lương gia hội.

Hai sao Thiên Cơ và Thiên Lương Trấn mệnh tại cung Thìn Tuất lại có Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt gia hội là hợp cách cục này, phần nhiều chủ về học hành giỏi giang, kiến thức uyên bác, quan tâm đến chính trị, có khả năng dự đoán, tính toán, nắm giữ binh quyền. Gặp được nhiều cát tinh, chủ đại phú, đại quý. Cát tinh ít thì phần nhiều theo những công việc liên quan đến quân đội, cánh sát, tư pháp. Nếu gặp sát tinh, phần nhiều trở thành giáo chủ về tôn giáo, hoặc người sáng lập nên tà giáo, nhà nghiên cứu thần học, triết gia, nhà tư tưởng, đại sư khí công. Nếu không gặp cát tinh cũng không gặp sát tinh là phá cách, chủ về tư duy kỳ quặc lập dị, có tài hùng biện, hợp với các nghề thuật sĩ giang hồ, tăng ni đạo sĩ, kỹ nghệ.

Ca Quyết:
Cơ Lương nhập miếu tối kham ngôn
Đắc địa giao quân phúc thọ toàn
Diệu toán thần sách ưng cái thế
Uy phong lẫm lẫm chưởng binh quyền

Nghĩa là:

Cơ Lương nhập miếu chẳng phải bàn
Đắc địa được phúc thọ song toàn
Dự đoán, tiên tri tài nức tiếng
Uy phong lẫm liệt nắm binh quyền

Trong kinh văn có viết: "Thiên Cơ lại gặp Thiên Lương ắt có tài nghệ cao cường". "Thiên Lương đi cùng Thiên Đồng làm đến hàn lâm, có tài binh lược" " Thiên cơ, Thiên Lương gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc theo nghiệp văn thì thanh cao hiển đạt, theo nghiệp võ là trung thần lương tướng".

8. Cách cục Văn Lương chấn kỷ (Văn lương giữ kỷ cương)

Thiên Cơ, Văn Khúc cùng trấn mệnh tại cung Dần hoặc Ngọ, hoặc sao Thiên Lương trấn mệnh tại cung Ngọ, có sao Văn Khúc tại cung Tý củng chiếu.

Ưu điểm: Quyền cao chức trọng, phúc thọ song toàn, giỏi tính toán, dự đoán, theo nghiệp võ sẽ hiển đạt.

Văn Khúc hoặc Văn Xương và Thiên Lương trấn mệnh tại Vượng địa, tại cung tam phương có các sao Lộc tồn, Hóa Khoa, Hóa quyền, Hóa Lộc, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt gia hội là thuộc cách cục này. Nên theo nghiệp chính trị, nếu gặp nhiều cát tinh, chủ về cực hiển quý.

Ca quyết như sau:
Văn tinh cảnh trực ngộ Thiên Lương
Vị liệt hoàng môn điểu phủ hành
Cương kỷ triều trung công nghiệp kiến
Bức nhân thanh khí mãn càn khôn

Nghĩa là:
Sao văn chính trực gặp Thiên Lương
Quan tại triều đình chức đường đường
Chấn chỉnh kỷ cương sự nghiệp lớn
Thanh cao nức tiếng khắp xa gần

Kinh văn có câu: " Thiên lương, Văn Khúc nhập miếu vượng, làm quan lớn", "Thiên Lương miếu vượng, Tả, Hữu, Xương, Khúc, gia hội chức trọng, quyền cao".
Đầu trang

tuangianglion
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2692
Tham gia: 00:39, 07/03/12

TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH

Gửi bài gửi bởi tuangianglion »

9. Cách cục Cự Nhật đồng cung (Cự Môn, Thái Dương đồng cung)

Thái Dương, Cự Môn cùng trấn mệnh tại cung Dần, Thân (Cung Dần tốt hơn cung Thân, vì Cự Môn và Thái Dương đều miếu vượng).

Ưu điểm: Tài vận vượng thịnh, có chí tiến thủ, có tài hùng biện, hết lòng với sự nghiệp công ích, cần phải gắng gỏi cần cù, có công mài sắt có ngày nên kim.

Khuyết điểm: Cần phải cạnh tranh với địch thủ mới giành được thành công, nên dễ vướng vào điều tiếng, thị phi, gặp sao Hóa Kỵ thị phi càng nhiều.

Cự Môn, Thái Dương tại cung Dần, cung tam phương tứ chính có các cát tinh như Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt gia hội là phù hợp với cách cục này. Lá số sở hữu cách cục này chủ về hiển đạt, nên theo nghiệp chính trị, có khả năng trở thành người nổi tiếng trong xã hội, được danh nhiều hơn lợi. Người sinh năm Canh, Tân, Quý mà không bị bốn sát tính gia hội là thượng cách. Tiếp đến là cung Thân, nếu cung tam phương không có sát tinh cũng không được toàn mỹ.

Có ca quyết rằng:
Cự Nhật củng chiếu đối tam thai
Trị thử ưng vi cái thế tài
Nhược thị hung tinh vô chiếu khắc
Tử bào ngọc đới biên công lai
Nghĩa là:
Cự Nhật cùng chiếu trước tam thai
Gặp được tài năng, ắt phi thường
Chẳng bị hung tinh đến xung khắc
Áo tía đai vàng lập chiến công

Kinh văn có viết: "Cự Môn, Thái Dương đồng cung quan phong tam đại (3 đời làm quan), " Cự Môn, Thái Dương trấn mệnh tại cung Dần, không gặp Kiếp Không, tứ sát, hưởng lộc, hiển danh".

10. Cách cục Kim sán quang huy (ánh vàng chói lọi).

Sao Thái Dương trấn mệnh tại cung Ngọ, lại gặp các sao Lộc Tồn, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn gia hội là hợp cách cục này. Lá số gặp cách cục này, chủ một đời cực hiển quý, giàu sang. Nếu không gặp Xương, Khúc, Phụ, Bật hoặc gặp Không, Kiếp sẽ bị giảm tốt. Người sinh năm Canh, Tân sẽ được phú quý song toàn, tiếp đến là người sinh năm Giáp, Quý, Đinh, Kỷ.

Kinh văn có đoạn: " Thái dương tại cung Ngọ là " Nhật lệ trung thiên" (Mặt trời giữa trời), hiển quý có quyền lực, giàu có nhất nước, " Cự Môn, Thái Dương củng chiếu là cách cục rất tốt".

11. Cách cục Nhật chiếu lôi môn (Mặt trời chiếu cửa sấm).

Hay còn được gọi là cách cục Nhật xuất phù tang (mặt trời mới mọc), tức sinh vào ban ngày, sao Thái Dương và Thiên Lương trấn mệnh tại cung Mão được Lộc Tồn, Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc hội chiếu là phù hợp với cách cục này. Nhưgn chỉ có người sinh năm Ất, Tân, Nhâm mới hợp cách, trong đó tốt nhất là sinh năm Ất. Nếu Sinh vào những năm khác cũng chủ về cát lợi, nhưng tại cung tam phương, tứ chính không được có sát tinh xung phá. Nếu gặp sát tinh là phá cách, chủ về bị tiểu nhân ám hại.

Ưu điểm: Tính tình thẳng thắn, có tài năng lãnh đạo nổi trội, có tinh thần trách nhiệm, giàu lòng nghĩa hiệp, có tài giao tiếp, xuất thân giàu sang hoặc sớm thành đạt trở nên nổi tiếng.

Khuyết điểm: Không hợp với mệnh nữ, vì có chí khí của nam giới, lấn át chồng, dễ bị sa ngã bởi đàn ông.

Ca quyết như sau:
Thái Dương Mão vị quý kham khoa
Tất chủ bình sinh phú quý gia
Thuần túy thiếu niên đăng giáp đệ
Chinh chiến thanh thế động di Hoa

Nghĩa Là:
Thái dương tại Mão thật hiển quý
Ắt chủ bình sinh được giàu sang
Tuổi trẻ khoa danh sớm đỗ đạt
Chiến công lừng lẫy khắp biên cương

Trong kinh văn có viết: " Mặt trời (Thái Dương" chiếu cổng sấm, phú quý vinh hoa".
Đầu trang

tuangianglion
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2692
Tham gia: 00:39, 07/03/12

TL: CAO NHÂN ĐÃ XUẤT HIỆN...THAM VỌNG THÀNH THƯỢNG KHÁCH

Gửi bài gửi bởi tuangianglion »

12. Cách cục Dương Lương Xương Lộc

Cũng chính là cách cục Nhật chiếu lôi môn, sao Thái Dương và sao Thiên Lương trấn mệnh tại cung Mão, ngoài ra còn phải là người sinh năm Ất, cung mệnh đồng thời xuất hiện Lộc Tồn và Văn Xương mới hợp cách. Nếu lá số được cách cục này, sự nghiệp học hành cực kỳ xuất sắc, thi cử đỗ đạt cao, đảm nhiệm các vị trí, chức vụ trọng yếu của nhà nước, trở thành nhân vật nổi tiếng trong chính giới, cực hiển quý.

Ưu điểm: Dự thi công chức hoặc các kỳ thi quốc gia sẽ có thành tích cao, tiền tài chức vị song toàn, hợp với nghề kinh doanh.

Trong kinh văn có viết: " Lương, Dương, Xương, Lộc tề tựu, thi cử đỗ đầu bảng".

13. Cách cục Minh châu xuất hải (Ngọc quý rời mặt biển).

Mệnh an tại cung Mùi không có chủ tinh, cung Mão có Thái Dương, Thiên Lương, cung Hợi có Thái Âm nhập miếu vượng hợp chiếu cung mệnh, cung tam phương tứ chính lại có các cát tinh như Lộc Tồn, Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt gia hội là hợp cách cục này. Tại cung mệnh cung thân có các cát tinh trấn giữ, hội chiếu mà không bị bốn sát tinh, Không, Kiếp xung phá, chủ về thi cử đỗ đạt, cực hiển quý, giữ chức vụ trọng yếu trong chính giới, tiền tài chức vị đều viên mãn, phúc thọ song toàn. Người sinh năm Ất, Bính, Tân, Nhâm là thượng cách.

Kinh văn có viết: " Tam hợp minh châu sinh cung vượng, rộng bước cung quế", " Nhật (Thái Dương) tại Mão, Nguyệt (Thái Âm) tại Hợi, mệnh tại Mùi thênh thang bẻ quế cung trăng".

Ưu điểm: Nhiều sở thích, sôi nổi, giàu nhiệt huyết, có tài hoa, xử thế quang minh lỗi lạc, đường công danh rộng mở, có danh tiếng. Là mệnh nữ, tài đức kiêm toàn.

Khuyết điểm: Cung mệnh không có các sao Tả, Hữu, Xương, Khúc lại gặp Dương, Đà, Kỵ xung phá sẽ không có thành tựu, chỉ có hư danh.

14. Cách cục Nguyệt lãng thiên môn (Trăng sáng cổng trời).


Hay còn gọi là Nguyệt lạc Hợi cung (Trăng rơi cung Hợi), tức người sinh vào ban đêm, gặp sao Thái Âm trấn mệnh tại cung Hợi, lại được Lộc Tồn, Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt gia hội là hợp cách cục này. Lá số hợp cách cục này không đại quý cũng là đại phú. Sao Thái Âm cùng cung với Xương, Khúc là tốt nhất, người sinh năm Ất, Bính, Mậu là đẹp nhất, tiếp theo là các năm Đinh, Tân, Canh. Tại cung mệnh có sát tinh là phá cách.

Ưu điểm: Sao Thái Âm nhập miếu Hợi cung, người Nam dung mạo thanh tú cử chỉ lịch thiệp, người nữ xinh đẹp yêu kiều. Thông minh tài trí, học vấn, tài nghệ xuất chúng, tài vận tốt đẹp, sớm thành tựu, giàu sang trọn vẹn.

Ca quyết:
Chính ngộ phong vân tế hội kỳ
Hải môn cao xứ nhất long phi
Văn chương gian xuất anh hùng hán
Vạn lý công danh đắc giả hy
Thái Âm nhập miếu hữu quang huy
Tài nhập tài hương phân ngoại kỳ
Phá hao hung tinh giai bất phạm
Đôi kim tích ngọc phú hào nhi

Nghĩa là:
Gặp hội phong vân nhiều cơ hội
Non cao bể rộng gặp rồng bay
Từ văn chương phất người hào kiệt
Giành được công danh thực hiếm thay
Thái Âm nhập miếu hào quang rọi
Tài nhập cung tài ắt được may
Hung tinh phá bại đều không phạm
Nên nhà giàu có vàng ngọc đầy

Kinh văn có câu: " Trăng sáng cổng trời, thăng quan tiến bước".
Đầu trang

Trả lời bài viết