PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Trong kinh Kim Cang chỉ rất rõ pháp. Chúng ta đọc đoạn đầu kinh Kim Cang gần như không thể hiểu: Đức Thế Tôn và Chư Vị Bồ Tát nói gì mà: Hết sức không thể hiểu nổi.
Dùng sự đa văn và diễn giải của tập luận này từ đầu đến giờ: Cũng mới chỉ có thể quán chiếu được: Vô lượng chúng sinh mà các Chư Bồ Tát và Đức Thế Tôn nói không phải là chỉ động vật, con người, sâu bọ - loài chúng sinh hữu tình di động - mà bao hàm toàn bộ chúng pháp sinh ra trong mỗi người. - Nhưng đây mới là khái niệm, còn dùng khái niệm này vẫn chưa tu được kinh - tức là sử dụng phương tiện mà Kinh nói.
Chúng ta biết Bồ Tát Quán Thế Âm - tu nhĩ căn. Nhưng đọc thấy Ngài nói pháp tu của Ngài xong cũng sửng sốt quá. Không khác gì Kinh Kim Cang vừa nhắc.
Làm sao mà chúng ta - có thể thực hành được như Bồ Tát Quán Thế Âm và Kinh Kim Cang?
- Đọc xong Hoa Nghiêm, chúng ta có khi nghi ngờ chính bản thân sao lại tin Đạo Đức Thế Tôn: “Có khi đây là nói láo”. - Vì dùng mọi cách để quán chiếu cũng thấy: Không thể tu được. Tức là: Không thể sử dụng được phương tiện, phương pháp tu của Bồ Tát Thừa - vì ai cũng thấy không thể nào làm, khoa trương và vĩ ngạn như các Kinh đã nói.
Nhưng đến đây chúng ta đã biết: Sự nhiệm màu của trang nghiêm Đại Thừa. Và thực sự quá sức bất khả tư nghì.
Chúng ta sẽ thấy: Khi có tia minh tâm. Bắt đầu thực hành Đạo Đức Thế Tôn - Vừa Quán niệm hơi thở một thời gian rất ngắn thì … sự nhen nhóm của tha tâm thông, thiên nhĩ thông đã hiện tiền ngay lập tức - Hai thứ này sau này, nâng cấp dần nó mới thành túc mạng minh và thiên thấy minh.
Vì tia minh tâm loé ra chiếu vào cái đối tượng trần đó mà nhờ sự tu tập Đạo Đức Thế Tôn ta đã thấy được hết về trần theo thời gian thực và realtime (hiện tại liên tục tiếp diễn). - Điều này có nghĩa là gì? - Là chúng ta biết hết tâm của trần đó. Mà trần này là gì? - Là một chúng sinh hữu tình hoặc 1 chúng sinh cụ thể, rất rõ - thứ đã làm chúng ta thấy tia tánh tâm đây.
Vì biết hết về tâm trần - chúng ta lúc này có là Bồ Tát với trần này? - Vì sao? - Vì trần này phản chiếu tia tánh tâm. Tia tánh tâm là gì - là từ bi.
Đến đây, câu hỏi: Chúng ta có hành được y như trong mọi Kinh nói về Bồ Tát hay không? - Dù chúng sinh này muốn gì, cần gì từ ta, những cái mà ta có… chúng ta có sẵn sàng cho ngay không, dù là mạng sống hay trái tim hay bất cứ thứ gì ta có?
Vậy chúng ta có là Bồ Tát với chính trần này không? - Rất rõ.
Nhưng nếu chúng ta bị kéo tâm theo điều này thì sao? - Kinh Kim Cang - Đức Thế Tôn đã nói: Nếu chúng ta không nhiếp theo đúng lời Đức Thế Tôn nói trong kinh này - chúng ta sẽ đoạ. Hãy nhớ.
Vậy là, đến đây mọi sự đã rất rõ:
Hàng bao nhiêu đời nay, các Chư Vị chỉ tu tiểu thừa. Đến đoạn này, đều chỉ dùng 1 phương pháp tự bịa ra (chưa ở đâu trong hệ thống giới Kinh nói) - Phương pháp: Ức chế tâm để chặt tưởng thanh, tưởng ý này…. Và đó là lý do: Chưa bao giờ thấy vị ngọt rốt ráo thù thắng của Đạo Quả Phật.
Còn các Chư Vị chỉ tu Đại Thừa. Lại làm (hành) quá nhiều mà không có chịu Quán niệm hơi thở (chẳng hạn) - và câu hữu mọi pháp phương tiện trong Đạo Đức Thế Tôn vào với nhau cộng tu.
Lại có người lý giải: Công tu là hàng trăm hàng nghìn hàng vạn người cùng tập trung tu cái gì đó. Tất nhiên, có tác dụng nhưng cộng tu là câu hữu vô lượng pháp Phật cùng tu mà cũng như chỉ tu 1 Pháp DUY NHẤT.
Chúng ta bắt buộc phải dùng phương tiện trên để nhiếp tâm khi bắt đầu thấy: Hiện tượng thiên thông này.
Đến đây, ai cũng bắt đầu rõ rồi: Túc mạng minh đến từ tha tâm thông tới đại viên mãn và tha tâm thông xuất hiện, được phát triển bằng phương tiện như đã bày (có thể còn những phương tiện kỳ đặc - vì Phật Pháp là vô biên nhiệm màu). Thiên nhãn minh đến từ thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông,… - các thông của 5 căn còn lại được tu tới viên mãn. Và thông này đến từ việc tu tập như đã trình đến đây.
Còn lậu tân minh - Tất nhiên là văn tu tư Quán tưởng tới Quán Thấy tới Dừng Quán chỉ thấy, tới viên bi tâm minh hoàn toàn viên mãn (chúng ta đã thấy 1 tia) - Từ đây cũng biết luôn, để viên bi tâm có thể sáng viên mãn tức biến mãn 10 phương thì… sự tu tập phải rốt ráo tinh tấn thế nào… vì từ 1 tia minh tới được vô lượng tia minh biến mãn khắp 10 phương… - Đâu dễ!
Dùng sự đa văn và diễn giải của tập luận này từ đầu đến giờ: Cũng mới chỉ có thể quán chiếu được: Vô lượng chúng sinh mà các Chư Bồ Tát và Đức Thế Tôn nói không phải là chỉ động vật, con người, sâu bọ - loài chúng sinh hữu tình di động - mà bao hàm toàn bộ chúng pháp sinh ra trong mỗi người. - Nhưng đây mới là khái niệm, còn dùng khái niệm này vẫn chưa tu được kinh - tức là sử dụng phương tiện mà Kinh nói.
Chúng ta biết Bồ Tát Quán Thế Âm - tu nhĩ căn. Nhưng đọc thấy Ngài nói pháp tu của Ngài xong cũng sửng sốt quá. Không khác gì Kinh Kim Cang vừa nhắc.
Làm sao mà chúng ta - có thể thực hành được như Bồ Tát Quán Thế Âm và Kinh Kim Cang?
- Đọc xong Hoa Nghiêm, chúng ta có khi nghi ngờ chính bản thân sao lại tin Đạo Đức Thế Tôn: “Có khi đây là nói láo”. - Vì dùng mọi cách để quán chiếu cũng thấy: Không thể tu được. Tức là: Không thể sử dụng được phương tiện, phương pháp tu của Bồ Tát Thừa - vì ai cũng thấy không thể nào làm, khoa trương và vĩ ngạn như các Kinh đã nói.
Nhưng đến đây chúng ta đã biết: Sự nhiệm màu của trang nghiêm Đại Thừa. Và thực sự quá sức bất khả tư nghì.
Chúng ta sẽ thấy: Khi có tia minh tâm. Bắt đầu thực hành Đạo Đức Thế Tôn - Vừa Quán niệm hơi thở một thời gian rất ngắn thì … sự nhen nhóm của tha tâm thông, thiên nhĩ thông đã hiện tiền ngay lập tức - Hai thứ này sau này, nâng cấp dần nó mới thành túc mạng minh và thiên thấy minh.
Vì tia minh tâm loé ra chiếu vào cái đối tượng trần đó mà nhờ sự tu tập Đạo Đức Thế Tôn ta đã thấy được hết về trần theo thời gian thực và realtime (hiện tại liên tục tiếp diễn). - Điều này có nghĩa là gì? - Là chúng ta biết hết tâm của trần đó. Mà trần này là gì? - Là một chúng sinh hữu tình hoặc 1 chúng sinh cụ thể, rất rõ - thứ đã làm chúng ta thấy tia tánh tâm đây.
Vì biết hết về tâm trần - chúng ta lúc này có là Bồ Tát với trần này? - Vì sao? - Vì trần này phản chiếu tia tánh tâm. Tia tánh tâm là gì - là từ bi.
Đến đây, câu hỏi: Chúng ta có hành được y như trong mọi Kinh nói về Bồ Tát hay không? - Dù chúng sinh này muốn gì, cần gì từ ta, những cái mà ta có… chúng ta có sẵn sàng cho ngay không, dù là mạng sống hay trái tim hay bất cứ thứ gì ta có?
Vậy chúng ta có là Bồ Tát với chính trần này không? - Rất rõ.
Nhưng nếu chúng ta bị kéo tâm theo điều này thì sao? - Kinh Kim Cang - Đức Thế Tôn đã nói: Nếu chúng ta không nhiếp theo đúng lời Đức Thế Tôn nói trong kinh này - chúng ta sẽ đoạ. Hãy nhớ.
Vậy là, đến đây mọi sự đã rất rõ:
Hàng bao nhiêu đời nay, các Chư Vị chỉ tu tiểu thừa. Đến đoạn này, đều chỉ dùng 1 phương pháp tự bịa ra (chưa ở đâu trong hệ thống giới Kinh nói) - Phương pháp: Ức chế tâm để chặt tưởng thanh, tưởng ý này…. Và đó là lý do: Chưa bao giờ thấy vị ngọt rốt ráo thù thắng của Đạo Quả Phật.
Còn các Chư Vị chỉ tu Đại Thừa. Lại làm (hành) quá nhiều mà không có chịu Quán niệm hơi thở (chẳng hạn) - và câu hữu mọi pháp phương tiện trong Đạo Đức Thế Tôn vào với nhau cộng tu.
Lại có người lý giải: Công tu là hàng trăm hàng nghìn hàng vạn người cùng tập trung tu cái gì đó. Tất nhiên, có tác dụng nhưng cộng tu là câu hữu vô lượng pháp Phật cùng tu mà cũng như chỉ tu 1 Pháp DUY NHẤT.
Chúng ta bắt buộc phải dùng phương tiện trên để nhiếp tâm khi bắt đầu thấy: Hiện tượng thiên thông này.
Đến đây, ai cũng bắt đầu rõ rồi: Túc mạng minh đến từ tha tâm thông tới đại viên mãn và tha tâm thông xuất hiện, được phát triển bằng phương tiện như đã bày (có thể còn những phương tiện kỳ đặc - vì Phật Pháp là vô biên nhiệm màu). Thiên nhãn minh đến từ thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông,… - các thông của 5 căn còn lại được tu tới viên mãn. Và thông này đến từ việc tu tập như đã trình đến đây.
Còn lậu tân minh - Tất nhiên là văn tu tư Quán tưởng tới Quán Thấy tới Dừng Quán chỉ thấy, tới viên bi tâm minh hoàn toàn viên mãn (chúng ta đã thấy 1 tia) - Từ đây cũng biết luôn, để viên bi tâm có thể sáng viên mãn tức biến mãn 10 phương thì… sự tu tập phải rốt ráo tinh tấn thế nào… vì từ 1 tia minh tới được vô lượng tia minh biến mãn khắp 10 phương… - Đâu dễ!
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Như vậy, lục đại thần thông là gì? - Là thứ tưởng đối với Đạo Đức Thế Tôn. Là ma đối với đời và chỉ có tác dụng duy nhất với người tu Đạo Đức Thế Tôn để: Dùng chính chúng tu tập Đạo.
Vậy, phước ở đâu, dễ không?
Nhưng chúng ta chỉ cần bị kéo tâm vào đó (tức hướng tâm vào đó) - chúng ta nguy rồi.
Chúng ta có thể hướng tâm theo những cách thực tế của mỗi chúng ta - vì dù sao cũng đang ở đời và có là cái gì với “thế giới”. Không dùng, thế giới gọi là “ngu”. Dù sao đều có giá của nó. Mỗi người tự lượng. Bởi vì, tại vị trí này, chúng ta còn cách nơi cô đọng viên bi tâm sáng suốt nhiệm màu tám vạn bốn nghìn vô lượng tia ánh sáng. Nhưng tâm từ bi mà - nên chuyện mỗi người mỗi căn cơ nghiệp quả rất khác nhau. Cần phải biết dùng thứ nhiệm màu này. Không dùng, ta tu làm gì?
Đừng thất niệm, thất tâm (tản mát tâm) và trở lại vô minh là được. Ma thì ma chứ mấy ai có được đủ điều kiện làm ma kiểu này?
Nên thật nực cười khi người thường chúng ta đi chửi một số người thấy được cái tia tâm chân như này. - Mọi thứ nên “kính nhi viễn chi” - trừ khi thấy Đạo Hạnh đủ để “độ ma”. - Bằng không, chúng ta chắc chắn được hãnh diện: Ma tới độ!
Vậy, phước ở đâu, dễ không?
Nhưng chúng ta chỉ cần bị kéo tâm vào đó (tức hướng tâm vào đó) - chúng ta nguy rồi.
Chúng ta có thể hướng tâm theo những cách thực tế của mỗi chúng ta - vì dù sao cũng đang ở đời và có là cái gì với “thế giới”. Không dùng, thế giới gọi là “ngu”. Dù sao đều có giá của nó. Mỗi người tự lượng. Bởi vì, tại vị trí này, chúng ta còn cách nơi cô đọng viên bi tâm sáng suốt nhiệm màu tám vạn bốn nghìn vô lượng tia ánh sáng. Nhưng tâm từ bi mà - nên chuyện mỗi người mỗi căn cơ nghiệp quả rất khác nhau. Cần phải biết dùng thứ nhiệm màu này. Không dùng, ta tu làm gì?
Đừng thất niệm, thất tâm (tản mát tâm) và trở lại vô minh là được. Ma thì ma chứ mấy ai có được đủ điều kiện làm ma kiểu này?
Nên thật nực cười khi người thường chúng ta đi chửi một số người thấy được cái tia tâm chân như này. - Mọi thứ nên “kính nhi viễn chi” - trừ khi thấy Đạo Hạnh đủ để “độ ma”. - Bằng không, chúng ta chắc chắn được hãnh diện: Ma tới độ!
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Hôm nay, nói tới thầy, dù thầy cũng như nhiều thầy khác, đều đã chết ở đời.
Thầy công Đức vô lượng và Đạo Hạnh của thầy xứng đáng được chư chúng sinh cúng dường. Nhưng hôm vừa rồi, khi trước tác đến “an trú tâm trong chánh niệm” - chúng ta cảm ứng thầy. Một vị thầy rất nhiều người kính ngưỡng.
Thầy đã thấy lầm lỡ ở đâu chưa? - Tại sao thầy bỏ phí mất mấy chục năm cuộc đời?
- Nếu chư chúng ta - những người vấy đầy thân tâm mùi đời - vừa đến đây, chưa có giới hạnh cụ túc đã đành. Vậy mà thầy cũng lầm lỡ? - Một người thực sự đạt văn tu tư trên thế mấy ai sánh bằng?
Thầy - một người quyết thọ giới cụ túc để vào đó mà lại lầm lỡ: Nhiều lúc cũng phải nói dối vì nó mang lại lợi lạc cho người, cho chúng sinh, không thấy hại gì thì nên… Ôi!
Thầy đã biết: Đức Thế Tôn là bậc vô thượng trí. Sẽ không có gì mà Ngài nói thừa, nói thiếu, lầm lẫn.v.v.
Vì vậy, kính thầy một vé Pháp Hoa, nhưng thầy cần cảm!
Thầy đã thấy rất rõ: Bao nhiêu Chư Vị Tôn túc - không phải lầm lẫn lớn đến mức nào mà lại bị “gọi” là ma. Tất cả các Chư Vị Tôn túc xứng đáng “vé Pháp Hoa” cả đời khả năng chỉ lầm lẫn 1 niệm, 1 ý niệm. Lầm lẫn 1 thứ gì đó mà ở đời sẽ luôn nói: “quá nhỏ nhoi, mà sao lại nặng nề vậy”. Thầy đã biết: Vì một niệm vô minh. Một niệm vô minh. Một niệm thôi. Chỉ cần 1 niệm thôi…. Đã là Kinh Đại Nhân duyên - hay còn gọi là luân hồi vô lượng…
Kính thầy!
Thầy công Đức vô lượng và Đạo Hạnh của thầy xứng đáng được chư chúng sinh cúng dường. Nhưng hôm vừa rồi, khi trước tác đến “an trú tâm trong chánh niệm” - chúng ta cảm ứng thầy. Một vị thầy rất nhiều người kính ngưỡng.
Thầy đã thấy lầm lỡ ở đâu chưa? - Tại sao thầy bỏ phí mất mấy chục năm cuộc đời?
- Nếu chư chúng ta - những người vấy đầy thân tâm mùi đời - vừa đến đây, chưa có giới hạnh cụ túc đã đành. Vậy mà thầy cũng lầm lỡ? - Một người thực sự đạt văn tu tư trên thế mấy ai sánh bằng?
Thầy - một người quyết thọ giới cụ túc để vào đó mà lại lầm lỡ: Nhiều lúc cũng phải nói dối vì nó mang lại lợi lạc cho người, cho chúng sinh, không thấy hại gì thì nên… Ôi!
Thầy đã biết: Đức Thế Tôn là bậc vô thượng trí. Sẽ không có gì mà Ngài nói thừa, nói thiếu, lầm lẫn.v.v.
Vì vậy, kính thầy một vé Pháp Hoa, nhưng thầy cần cảm!
Thầy đã thấy rất rõ: Bao nhiêu Chư Vị Tôn túc - không phải lầm lẫn lớn đến mức nào mà lại bị “gọi” là ma. Tất cả các Chư Vị Tôn túc xứng đáng “vé Pháp Hoa” cả đời khả năng chỉ lầm lẫn 1 niệm, 1 ý niệm. Lầm lẫn 1 thứ gì đó mà ở đời sẽ luôn nói: “quá nhỏ nhoi, mà sao lại nặng nề vậy”. Thầy đã biết: Vì một niệm vô minh. Một niệm vô minh. Một niệm thôi. Chỉ cần 1 niệm thôi…. Đã là Kinh Đại Nhân duyên - hay còn gọi là luân hồi vô lượng…
Kính thầy!
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Bây giờ, thầy có cơ hội và khả năng đi tới nơi đó - nhưng tại sao, gần ngay trước mắt mà xa tận chân trời? - Khiến phí hoài tất cả?
Thầy thấy, nói dối 1 câu - đâu có hại gì. Đúng à. Đối với đời thì chắc chắn đúng. Không những một câu mà vô lượng câu không có hại thì ai ai cũng gật đầu đồng ý. Vậy mà, một người chỉ khuyết một tia đến không thể nào nói cho rõ: Nhỏ hơn được nữa. Một tia khuyết nhỏ như vậy mà - công cốc.
Vì sao? - Vì thầy không cụ túc tia này, thầy đã thấy: Ở chỗ đó thầy không bao giờ chặt được sợi dây triền cái NGHI. Để có thể “tự sáng vô lượng màu”…
Quá oan ức!
…
Nay chúng ta đang trên đà tưởng. Còn vô lượng thầy kiểu gì cũng nhảy ra “xin” vé Pháp Hoa trên đường tưởng phía trước. Nhưng chúng ta đâu có vé, đâu có quyền phát vé. Chúng ta chỉ duy nhất có 1 cơ hội: Đi tới chỗ đó, mới có mà “vô lượng xả vé”. Còn chúng ta bây giờ, ngay hiện tại: Thực sự không có gì, cũng không được bất cứ cái gì trên đường thực hành Đạo Đức Thế Tôn - nói gì đến vọng ngữ “phát vé”. Nhưng tưởng là vậy, thì là tưởng vậy, mới là tưởng. Ai biết chân?
Thầy thấy, nói dối 1 câu - đâu có hại gì. Đúng à. Đối với đời thì chắc chắn đúng. Không những một câu mà vô lượng câu không có hại thì ai ai cũng gật đầu đồng ý. Vậy mà, một người chỉ khuyết một tia đến không thể nào nói cho rõ: Nhỏ hơn được nữa. Một tia khuyết nhỏ như vậy mà - công cốc.
Vì sao? - Vì thầy không cụ túc tia này, thầy đã thấy: Ở chỗ đó thầy không bao giờ chặt được sợi dây triền cái NGHI. Để có thể “tự sáng vô lượng màu”…
Quá oan ức!
…
Nay chúng ta đang trên đà tưởng. Còn vô lượng thầy kiểu gì cũng nhảy ra “xin” vé Pháp Hoa trên đường tưởng phía trước. Nhưng chúng ta đâu có vé, đâu có quyền phát vé. Chúng ta chỉ duy nhất có 1 cơ hội: Đi tới chỗ đó, mới có mà “vô lượng xả vé”. Còn chúng ta bây giờ, ngay hiện tại: Thực sự không có gì, cũng không được bất cứ cái gì trên đường thực hành Đạo Đức Thế Tôn - nói gì đến vọng ngữ “phát vé”. Nhưng tưởng là vậy, thì là tưởng vậy, mới là tưởng. Ai biết chân?
- Tôn Ngộ Không !!!
- Lục đẳng
- Bài viết: 2741
- Tham gia: 19:29, 25/01/22
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
cái hay của loại phàm phu, sáng nắng chiều mưa như Lão Tôn là dễ uốn nắn, dễ chỉnh sửa.
chứ người ngồi thiền đạt đến tầng cao thì định lực rất khủng khiếp, nếu giác ngộ thì không gì lay chuyển được
nếu thiền mà chấp vào ma đạo thì cũng thua hoàn toàn, không thay đổi được vì trụ vững như núi rồi.
chứ người ngồi thiền đạt đến tầng cao thì định lực rất khủng khiếp, nếu giác ngộ thì không gì lay chuyển được
nếu thiền mà chấp vào ma đạo thì cũng thua hoàn toàn, không thay đổi được vì trụ vững như núi rồi.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(95 tiếp)
Đến đây, chúng ta bắt đầu sử dụng những “kết quả đạt được” trên đường tu tập Đạo để “phục vụ đời” để từ đó đạt mục đích tối cao chung cuộc cuối cùng của Đạo Đức Thế Tôn ở thế: “giải thoát”
Chúng ta cần phải xác định rõ, Đức Thế Tôn đã nói đi nói lại: “ ..lSinh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, từ nay về sau không còn đời nào khác nữa…”
Ở đây, chúng ta giải quyết câu: “… những việc cần làm đã làm…”
Chúng ta không tu Đạo ở trên mây, chúng ta cũng không ảo tưởng sức mạnh được như các vị thần nhân nào đó, trong mấy hôm vài ngày mà có thể “liễu sinh thoát tử”. Chúng ta dù đã văn tu tư, đã thấy tia minh, đã dục như ý túc, đã an trú được tâm trong chánh niệm…v.v. - Chúng ta chưa thể đạt được “…sinh đã tận, phạm hạnh đã thành…” bằng cách “bịt tại chộm chuông” rằng: Đã ngộ lý rồi thì cân phải ép tâm dứt bỏ ngay tất cả, ngay lập tức dứt bỏ mọi thứ, dứt bỏ hết mọi việc để nhanh nhanh chóng chóng thành Đạo…
- Đức Thế Tôn đã nói: “…về lý thì có thể gọi là ngộ, về sự thì cần thời gian…”. Tại sao? - Bởi vì chúng ta cần phải làm hết các việc cần phải làm. Chúng ta không làm việc cần phải làm, chúng ta sao giải thoát được?
Việc gì?
- Chẳng lẽ, chúng ta ngộ xong, ngay bây giờ chúng ta sẽ: Mặc thây cha mẹ mình có khổ sở ra sao, dứt áo ra đi khỏi nhà. Mặc kệ con thơ bơ vơ khóc khổ, mặc xác vợ/chồng, người thương, người thân, và mặc kệ cả 1 xã hội không còn một ai làm việc, ai cũng chực “đi xin” và thành Đạo… mà nói 1 câu: “Tôi đã ngộ giải thoát. Mặc kệ các chúng sinh, từ nay không duyên không nghiệp. Chúng sinh sướng khổ là do chúng sinh, không phải do tôi. Tôi đi đây, tôi đi hưởng an lạc giải thoát của tôi đây. Bye bye …” - Làm vậy, chúng ta sẽ giải thoát hay đoạ ma?
Như vậy, chúng ta sẽ bắt đầu thấy nhiệm màu của Đạo Đức Thế Tôn khi đã bắt đầu thấy tia minh. Bởi nếu cả một xã hội mà cùng ngộ (vì tánh tâm chân như ai cũng có, ai cũng như ai), cùng ngộ và cùng ép tâm “dứt bỏ hết mọi việc, không làm gì nữa, chực đi xin nhau để thành Đạo - thì “ai sẽ thành Đạo khi này”?
Bởi vậy, chúng ta biết nhiệm màu của câu nói: “… những việc cần làm đã làm…” là gì? - Chính là, đêt đạt được sinh đã tận, đạt được phạm hạnh đã thành thì người ngộ Đạo, người thực hành Đạo Đức Thế Tôn bây giờ cần: “Làm hết mọi việc cần làm” ở thế thì mới có thêt tiến bước tiếp theo.
Làm gì có chuyện: Những việc cần làm nhưng do ngộ nên nó tự nhiên trở thành “đã làm”.
Chỉ có minh tâm (tia từ bi) mới thấy điều hiển nhiên trong câu nói của Đức Thế Tôn. Bằng không đều sẽ sớm ngã mãn tự ảo tưởng rằng: Tôi đã ngộ, đã thấy đường giải thoát và từ đây, tôi bye bye tất cả mọi việc không cần làm gì nữa, mặc kệ, từ bỏ, vứt đó và “mặc nhiên giải thoát”. Làm được dễ thế này mà thành Đạo giải thoát thì xưa nay chẳng cần ngộ. Điên điên khùng khùng, dở hơi, tâm thần, sống thực vật mất thức…. Cũng “không cần làm gì nữa” và tự nhiên giải thoát.
Chúng ta phải làm hết các việc cần làm. Ở đây, chính là gì? - Là thọ quả đã gây ra từ vô lượng kiếp tới nay. Thọ xong mới gọi là “hết việc cần làm”.
Thọ quả, thời gian tuỳ vào căn cơ nghiệp quả của mỗi người cụ thể. Chúng ta sẽ biết không có một mốc thời gian cụ thể chung. Có người quả nghiệp ít, ngộ một cái là gần như đã hết mọi việc. Có người nghiệp quả nhiều, ngộ rồi mà cả đời vẫn “tiếp tục phải trả”. Do vậy, chúng ta cần có phương pháp, ở đây chính là: Dùng nhiệm màu Đạo Đức Thế Tôn đã tu tập được đến chỗ này để sử dụng nó phục vụ cho việc “thọ quả” - làm các việc cần làm.
…
Đến đây, chúng ta bắt đầu sử dụng những “kết quả đạt được” trên đường tu tập Đạo để “phục vụ đời” để từ đó đạt mục đích tối cao chung cuộc cuối cùng của Đạo Đức Thế Tôn ở thế: “giải thoát”
Chúng ta cần phải xác định rõ, Đức Thế Tôn đã nói đi nói lại: “ ..lSinh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, từ nay về sau không còn đời nào khác nữa…”
Ở đây, chúng ta giải quyết câu: “… những việc cần làm đã làm…”
Chúng ta không tu Đạo ở trên mây, chúng ta cũng không ảo tưởng sức mạnh được như các vị thần nhân nào đó, trong mấy hôm vài ngày mà có thể “liễu sinh thoát tử”. Chúng ta dù đã văn tu tư, đã thấy tia minh, đã dục như ý túc, đã an trú được tâm trong chánh niệm…v.v. - Chúng ta chưa thể đạt được “…sinh đã tận, phạm hạnh đã thành…” bằng cách “bịt tại chộm chuông” rằng: Đã ngộ lý rồi thì cân phải ép tâm dứt bỏ ngay tất cả, ngay lập tức dứt bỏ mọi thứ, dứt bỏ hết mọi việc để nhanh nhanh chóng chóng thành Đạo…
- Đức Thế Tôn đã nói: “…về lý thì có thể gọi là ngộ, về sự thì cần thời gian…”. Tại sao? - Bởi vì chúng ta cần phải làm hết các việc cần phải làm. Chúng ta không làm việc cần phải làm, chúng ta sao giải thoát được?
Việc gì?
- Chẳng lẽ, chúng ta ngộ xong, ngay bây giờ chúng ta sẽ: Mặc thây cha mẹ mình có khổ sở ra sao, dứt áo ra đi khỏi nhà. Mặc kệ con thơ bơ vơ khóc khổ, mặc xác vợ/chồng, người thương, người thân, và mặc kệ cả 1 xã hội không còn một ai làm việc, ai cũng chực “đi xin” và thành Đạo… mà nói 1 câu: “Tôi đã ngộ giải thoát. Mặc kệ các chúng sinh, từ nay không duyên không nghiệp. Chúng sinh sướng khổ là do chúng sinh, không phải do tôi. Tôi đi đây, tôi đi hưởng an lạc giải thoát của tôi đây. Bye bye …” - Làm vậy, chúng ta sẽ giải thoát hay đoạ ma?
Như vậy, chúng ta sẽ bắt đầu thấy nhiệm màu của Đạo Đức Thế Tôn khi đã bắt đầu thấy tia minh. Bởi nếu cả một xã hội mà cùng ngộ (vì tánh tâm chân như ai cũng có, ai cũng như ai), cùng ngộ và cùng ép tâm “dứt bỏ hết mọi việc, không làm gì nữa, chực đi xin nhau để thành Đạo - thì “ai sẽ thành Đạo khi này”?
Bởi vậy, chúng ta biết nhiệm màu của câu nói: “… những việc cần làm đã làm…” là gì? - Chính là, đêt đạt được sinh đã tận, đạt được phạm hạnh đã thành thì người ngộ Đạo, người thực hành Đạo Đức Thế Tôn bây giờ cần: “Làm hết mọi việc cần làm” ở thế thì mới có thêt tiến bước tiếp theo.
Làm gì có chuyện: Những việc cần làm nhưng do ngộ nên nó tự nhiên trở thành “đã làm”.
Chỉ có minh tâm (tia từ bi) mới thấy điều hiển nhiên trong câu nói của Đức Thế Tôn. Bằng không đều sẽ sớm ngã mãn tự ảo tưởng rằng: Tôi đã ngộ, đã thấy đường giải thoát và từ đây, tôi bye bye tất cả mọi việc không cần làm gì nữa, mặc kệ, từ bỏ, vứt đó và “mặc nhiên giải thoát”. Làm được dễ thế này mà thành Đạo giải thoát thì xưa nay chẳng cần ngộ. Điên điên khùng khùng, dở hơi, tâm thần, sống thực vật mất thức…. Cũng “không cần làm gì nữa” và tự nhiên giải thoát.
Chúng ta phải làm hết các việc cần làm. Ở đây, chính là gì? - Là thọ quả đã gây ra từ vô lượng kiếp tới nay. Thọ xong mới gọi là “hết việc cần làm”.
Thọ quả, thời gian tuỳ vào căn cơ nghiệp quả của mỗi người cụ thể. Chúng ta sẽ biết không có một mốc thời gian cụ thể chung. Có người quả nghiệp ít, ngộ một cái là gần như đã hết mọi việc. Có người nghiệp quả nhiều, ngộ rồi mà cả đời vẫn “tiếp tục phải trả”. Do vậy, chúng ta cần có phương pháp, ở đây chính là: Dùng nhiệm màu Đạo Đức Thế Tôn đã tu tập được đến chỗ này để sử dụng nó phục vụ cho việc “thọ quả” - làm các việc cần làm.
…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Phần 72 chúng ta đã phân nhóm “khách trần” đầu tiên: Nhóm khách trần tham muốn. Vậy có bao nhiêu nhóm khách trần, mà vẫn chưa thấy trước tác những nhóm khách trần khác cho rộng đường đa văn?
Nhóm khách trần tham muốn còn kéo dài. Bởi sao? - Bởi vì: Trong các nhóm khách trần cơ bản sẽ được giới thiệu ở đây nó được phân loại bao gồm: Nhóm khách trần tham muốn (mong muốn có/đạt), nhóm khách trần mang thọ quả khổ, nhóm khách trần mang thọ quả lạc, nhóm khách trần mang quả thọ không khổ không lạc.
Như vậy, rất rõ: Nhóm khách trần tham muốn là nhóm khách trần ở tương lai sẽ mang đến 1 trong 3 nhóm khách trần còn lại. 3 nhóm khách trần còn lại đang ở trong chúng ta về mặt bản chất: Là do chúng ta đã hành ở giây phút đã qua rồi, nó đã ra quả rồi, đang thọ quả rồi. Chúng ta không trốn được quả.
Như vậy, việc đầu tiên khi đã tu tập đến đây chính là: Các công việc cần phải làm để xử lý hết nhóm khách trần tham muốn. Xử lý xong cái nhóm này thì 3 nhóm kia “tự hết, tự tản, tự hoại diệt, hấp hối” - rất dễ xử lý 3 nhóm còn lại. Bởi vậy, chúng ta chỉ cần và trọng tâm cần “làm việc” để mời hết nhóm khách trần tham muốn ra khỏi ngôi nhà tâm.
Vì có 1 tia minh tâm nên chúng ta đã biết: Chưa bao giờ chúng ta có “bất cứ một tham muốn gì” với cái trần mà tia minh tâm đó chiếu rọi tới. - Dù đó là ai và kết quả thế nào.
Ví dụ: Tia minh tâm xuất hiện ở “người thương”. - Chúng ta đã tự chứng thấy và biết rất rõ rằng: Chúng ta có thể dâng hiến tất cả mọi thứ được gọi là “chúng ta đang có” cho cái trần này kể cả hơi thở, máu, nước mắt hay “bất cứ thứ gì” nhưng dù vậy chúng ta lại không có một cầu muốn gì từ trần này, chỉ một cầu muốn trần này được thoả mãn cái muốn của họ. (Đây chính là đại Bồ Tát hành Bố Thí và lý do hành chỉ một cầu muốn cho chúng sinh đó được cứu độ - tức thoả cái muốn của họ). Chúng ta không cầu muốn gì, kể cả việc chúng sinh đó có biết có nhớ có đáp ơn hay không. - Tức là chúng ta không cần đạt gì dù đã sẵn sàng “xả” mọi thứ (gọi là bố thí).
Vì lẽ trên: Nó có khác với việc: Chúng ta không cầu muốn gì, nên chúng ta “xả hết mọi việc” từ nay không còn việc gì nữa, mặc kệ trần, mặc kệ chúng sinh… ép tâm đuổi hết khách trần đi theo phương pháp: Định diệu Không.
Chúng ta sẽ thấy kết quả. Kết quả của định diệu không bao năm qua ở thế đã tự chứng. Kết quả của việc Bồ Tát hành như Kim Cang Kinh thế nào… phía sau chúng ta tự thấy.
Như vậy, việc cần làm ở đây là gì?
- Chính là cái chúng sinh (trần) ở trong phạm vi tia minh chiếu (vì có tia minh nên chúng ta mới thấy chứ không phải thấy do tưởng) - khách trần muốn gì chúng ta có thì sẽ “bố thí ba la mật” là vậy… là hành vô lượng “bố thí ba la mật” là vậy. Là chính là chúng ta đang thực hành.
Thực hành - có nghĩa là hành động thực. Không phải hành trong thế giới ảo mộng này.
Như vậy, chúng ta bắt đầu thực hành “ba la mật”
Đầu tiên, chúng ta phải xác định rất rõ các “khách trần tham muốn”. Chúng ta có tia minh nhưng đâu có phải cứ có tia minh là ngay lập tức “mọi khách trần tham muốn” đã ở trong ngôi nhà tâm bị xua đi ngay. - Được thế này thì đúng không cần phải làm gì nữa. Ngộ 1 cái là thành Phật rồi. Dễ quá.
Hiện giờ, chúng ta chưa thể nào diệu dụng toàn bộ cái gọi là “tâm chân như thường hằng”. Nó thực tế hình thù ra sao chúng ta về bản chất hiện thời: Không rõ hình hài tánh thể. Chúng ta, vẫn phải văn tu tư - Quán tưởng:
- Phương tây có khái niệm “đa nhân cách”. Vậy đa nhân cách là gì? - Trong phạm trù ngôn ngữ “khách trần” chúng ta ngay lập tức rất rõ: Mỗi một nhóm khách trần đặc trung sẽ mang một “nhân cách” đặc trưng. Bình thường nhóm khách trần này hiện (hiện niệm) thì các nhóm khách trần khác lặn. Đến thời điểm khác, nhóm khách trần khác hiện thì “nhân cách” khác theo đó hiện, nhân cách trước lặn. Nếu có các nhóm khách trần có đặc tính thể hiện quá khác biệt nhau: Chúng ta được phương tây gọi là: Đa nhân cách.
Ví dụ: Nếu một con người bình bình, các đặc tính khách trần tương đối giống nhau, phương tây sẽ gọi là người bình thường ổn định. Đây là nhóm thứ nhất.
Cùng vậy: Một người lúc thì sân hận tức tối, lúc thì buồn thiu thiu yếm thế, lúc thì hoạt bát vui vet, lúc thì điềm tĩnh điềm nhiên, lúc đi nói lắm, lúc thì ít nói chẳng muốn nói, lúc thì yêu thương và yêu đời, lúc thì chán đời và ghét thù tất cả, lúc thì hưng phấn cảm giác đời quá yêu, lúc thì nhạt nhẽo chẳng khổ chẳng lạc chỉ muốn nằm im….. - Đây được gọi là đa khách trần đa nhân cách.
Chúng ta sẽ bắt đầu diệu dụng sự tu tập Đạo được đến đây để xử lý nhóm khách trần đa nhân cách.
Chắc chắn rồi: Đạo thì không bao giờ có “đa nhân cách”.
…
Nhóm khách trần tham muốn còn kéo dài. Bởi sao? - Bởi vì: Trong các nhóm khách trần cơ bản sẽ được giới thiệu ở đây nó được phân loại bao gồm: Nhóm khách trần tham muốn (mong muốn có/đạt), nhóm khách trần mang thọ quả khổ, nhóm khách trần mang thọ quả lạc, nhóm khách trần mang quả thọ không khổ không lạc.
Như vậy, rất rõ: Nhóm khách trần tham muốn là nhóm khách trần ở tương lai sẽ mang đến 1 trong 3 nhóm khách trần còn lại. 3 nhóm khách trần còn lại đang ở trong chúng ta về mặt bản chất: Là do chúng ta đã hành ở giây phút đã qua rồi, nó đã ra quả rồi, đang thọ quả rồi. Chúng ta không trốn được quả.
Như vậy, việc đầu tiên khi đã tu tập đến đây chính là: Các công việc cần phải làm để xử lý hết nhóm khách trần tham muốn. Xử lý xong cái nhóm này thì 3 nhóm kia “tự hết, tự tản, tự hoại diệt, hấp hối” - rất dễ xử lý 3 nhóm còn lại. Bởi vậy, chúng ta chỉ cần và trọng tâm cần “làm việc” để mời hết nhóm khách trần tham muốn ra khỏi ngôi nhà tâm.
Vì có 1 tia minh tâm nên chúng ta đã biết: Chưa bao giờ chúng ta có “bất cứ một tham muốn gì” với cái trần mà tia minh tâm đó chiếu rọi tới. - Dù đó là ai và kết quả thế nào.
Ví dụ: Tia minh tâm xuất hiện ở “người thương”. - Chúng ta đã tự chứng thấy và biết rất rõ rằng: Chúng ta có thể dâng hiến tất cả mọi thứ được gọi là “chúng ta đang có” cho cái trần này kể cả hơi thở, máu, nước mắt hay “bất cứ thứ gì” nhưng dù vậy chúng ta lại không có một cầu muốn gì từ trần này, chỉ một cầu muốn trần này được thoả mãn cái muốn của họ. (Đây chính là đại Bồ Tát hành Bố Thí và lý do hành chỉ một cầu muốn cho chúng sinh đó được cứu độ - tức thoả cái muốn của họ). Chúng ta không cầu muốn gì, kể cả việc chúng sinh đó có biết có nhớ có đáp ơn hay không. - Tức là chúng ta không cần đạt gì dù đã sẵn sàng “xả” mọi thứ (gọi là bố thí).
Vì lẽ trên: Nó có khác với việc: Chúng ta không cầu muốn gì, nên chúng ta “xả hết mọi việc” từ nay không còn việc gì nữa, mặc kệ trần, mặc kệ chúng sinh… ép tâm đuổi hết khách trần đi theo phương pháp: Định diệu Không.
Chúng ta sẽ thấy kết quả. Kết quả của định diệu không bao năm qua ở thế đã tự chứng. Kết quả của việc Bồ Tát hành như Kim Cang Kinh thế nào… phía sau chúng ta tự thấy.
Như vậy, việc cần làm ở đây là gì?
- Chính là cái chúng sinh (trần) ở trong phạm vi tia minh chiếu (vì có tia minh nên chúng ta mới thấy chứ không phải thấy do tưởng) - khách trần muốn gì chúng ta có thì sẽ “bố thí ba la mật” là vậy… là hành vô lượng “bố thí ba la mật” là vậy. Là chính là chúng ta đang thực hành.
Thực hành - có nghĩa là hành động thực. Không phải hành trong thế giới ảo mộng này.
Như vậy, chúng ta bắt đầu thực hành “ba la mật”
Đầu tiên, chúng ta phải xác định rất rõ các “khách trần tham muốn”. Chúng ta có tia minh nhưng đâu có phải cứ có tia minh là ngay lập tức “mọi khách trần tham muốn” đã ở trong ngôi nhà tâm bị xua đi ngay. - Được thế này thì đúng không cần phải làm gì nữa. Ngộ 1 cái là thành Phật rồi. Dễ quá.
Hiện giờ, chúng ta chưa thể nào diệu dụng toàn bộ cái gọi là “tâm chân như thường hằng”. Nó thực tế hình thù ra sao chúng ta về bản chất hiện thời: Không rõ hình hài tánh thể. Chúng ta, vẫn phải văn tu tư - Quán tưởng:
- Phương tây có khái niệm “đa nhân cách”. Vậy đa nhân cách là gì? - Trong phạm trù ngôn ngữ “khách trần” chúng ta ngay lập tức rất rõ: Mỗi một nhóm khách trần đặc trung sẽ mang một “nhân cách” đặc trưng. Bình thường nhóm khách trần này hiện (hiện niệm) thì các nhóm khách trần khác lặn. Đến thời điểm khác, nhóm khách trần khác hiện thì “nhân cách” khác theo đó hiện, nhân cách trước lặn. Nếu có các nhóm khách trần có đặc tính thể hiện quá khác biệt nhau: Chúng ta được phương tây gọi là: Đa nhân cách.
Ví dụ: Nếu một con người bình bình, các đặc tính khách trần tương đối giống nhau, phương tây sẽ gọi là người bình thường ổn định. Đây là nhóm thứ nhất.
Cùng vậy: Một người lúc thì sân hận tức tối, lúc thì buồn thiu thiu yếm thế, lúc thì hoạt bát vui vet, lúc thì điềm tĩnh điềm nhiên, lúc đi nói lắm, lúc thì ít nói chẳng muốn nói, lúc thì yêu thương và yêu đời, lúc thì chán đời và ghét thù tất cả, lúc thì hưng phấn cảm giác đời quá yêu, lúc thì nhạt nhẽo chẳng khổ chẳng lạc chỉ muốn nằm im….. - Đây được gọi là đa khách trần đa nhân cách.
Chúng ta sẽ bắt đầu diệu dụng sự tu tập Đạo được đến đây để xử lý nhóm khách trần đa nhân cách.
Chắc chắn rồi: Đạo thì không bao giờ có “đa nhân cách”.
…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Phía trước đã nhắc về lý “mời khách trần đi” như thế nào. Nay trình bày “diệu dụng phương tiện”.
Chúng ta phải đối diện với khách trần - gọi là đối thoại. Thế nên Kinh mới có ví dụ: Quán trọ 6 cửa chứ không thì sao không nói một ngữ văn “nhà Như Lai”. Quán trọ thì sẽ có Chủ - Khách. Chủ - khách thì phải đối thoại. Không đối thoại - Không làm được quán trọ.
Nhưng chủ - chúng ta đã biết. Chúng ta không biết chủ. Nhóm khách trần nào cũng tự xưng là chủ, chính cái tôi đây cũng đang xưng làm chủ - mà chả thực biết đây là nhóm khách trần nào. Vì có chủ mà chúng ta không biết chủ ở đâu, thì làm sao nghe được tiếng nói của chủ. Vì chủ là chân như thường hằng, là chính ngôi nhà tâm nên chủ vốn vẫn vậy từ xưa nay - không nói một lời. Nên không thể mang chủ ra đối thoại. Mang được ra thì: Đắc Đạo rồi còn đâu. - Nhưng rất tiếc: Chủ không nói, và cũng không bao giờ nói gì. Chủ vốn có tánh định mà, còn nói được thì…. Hoá ra chủ rởm à?
Những cái chúng ta biết về chủ, hiểu về chủ, xác định tánh của chủ…v.v. - Chỉ là văn trí - đồ hữu lậu - đâu phải Đạo.
Như vậy, làm sao để đối thoại?
Ví dụ: Chúng ta nổi sân lên, sự tức giận khủng khiếp, sự giận dữ và không hài lòng là cảm thọ thực tế trong ta vì một việc: Có tác động của trần làm cho chúng ta cảm thấy bị tổn hại. Ví dụ: Trần lừa đảo ta. Trần ám hại ta, trần đe doạ tính mạng ta.v.v.. hoặc trần làm các việc trên với “người ta thấy tia từ bi”. - Lúc này, chúng ta sẽ thấy một cảm thọ gọi là sân.
Bởi vì những gì chúng ta đã thực tập khi đến được chỗ đây. Nên chúng ta có sức tỉnh thức và tỉnh giác nhất định. Chúng ta còn rất tỉnh - Chúng ta chắc chắn chúng ta khi thực tập được những điều phía trước tới được đây, khi ở ví dụ đây, chúng ta chắc chắn chúng ta có tri giác tỉnh giác và tỉnh thức. - Điều này, được tự chứng thấy bởi: Chúng ta biết rất rõ chúng ta nổi sân
Bây giờ, làm sao để diệt độ - độ hoá khách trần sân này.
Thường nghe nói: Dùng từ bi mà ôm ấp lấy sân. Chỉ có từ bi mới cảm hoá được sân..v.v. - Đây là câu nói sáo rỗng Đạo lý, mang đậm tính lý thuyết triết lý. Vì điều này là đúng nhưng “làm được không” mới là thực tế hành Đạo.
Chúng ta phải làm được, và ở đây, chúng ta rất rõ cách làm (cách sử dụng phương tiện). Sử dụng thế nào?
- Chúng ta phải đối thoại. - Đối thoại với trần sao? - Nếu đối thoại với trần, chỉ có một kết quả: Cãi chửi nhau càng lớn và hậu quả càng lớn hơn - giết nhau có khi là thường thấy ở thế.
Kìm nén, chịu nhục. Ức chế tâm kìm nén. Dùng định lực “to lớn” mà chúng ta tu tập được chịu đựng để “cho qua”. - “Một điều nhịn là chín điều lành”. - Những cách dùng phương tiện này chỉ là cách “tạm thời” ngay lúc đó. Giống như cháy nhà thì đây là cứu hoả. Trước tiên chúng ta phải dùng sức tỉnh thức và tỉnh giác hiện có - chính là định lực đó: Dừng tiếp nhận “khách trần” tại vị trí này. Nó đã vào rồi, mặc kệ việc ít hay nhiều, to lớn và khủng bố ra sao, ngay khi chúng ta nhận thấy “nhóm khách trần sân” này: Phải “cứu hoả” - tức là “làm mọi cách thủ hộ 6 căn” để tiếp nhận khách trần thêm nữa. Dừng ngay tại đây, là bước 1.
Nhiều người, làm được đến đây, hoả tắt, và nghĩ rằng: Mình giỏi quá, có kết quả rồi. Rất ok, mình tha thứ cho họ. Mình không thèm chấp họ, mình nhịn họ thế này, và mình mặc kệ họ.v.v.
Nhưng: Thứ chúng ta cần giải quyết (việc cần làm) đó là thứ: Sau khi trần cảnh đó đã qua nhưng ở những thời gian khác, chúng ta lại tưởng đến trần cảnh này (niệm trở về) bằng những hình thức: Nhớ mãi không quên, suy nghĩ, kể lể lại, hay gặp lại trần sắc đó là chúng ta lại “bị biến đổi cảm xúc thọ”… - Đó! Khách trần về mặt thực tế có ra khỏi ngôi nhà tâm đâu. Nó vào rồi, đợi thời cơ tiến lên làm chủ thôi, dù thời gian có trôi, thi thoảng nó vẫn về là: Nó chưa được độ hoá. - Nên việc của chúng ta chính là: Độ hoá nó khi nó về hoặc tự kiết già quán, mời nó về để độ hoá (khi biết có 1 nhóm khách trần như vậy vẫn tồn tại như vậy trong nhà tâm).
Độ hoá bằn cách nào? - Đối thoại.
Đối thoại thế nào?
- Bây giờ, chúng ta mời nhóm khách trần này về (hiện niệm). - Chúng ta lúc này là ai? - Thì chúng ta là chúng ta thôi, đừng nghĩ nhiều về việc chúng ta tại giây phút này là ai. Chúng ta chỉ biết, tại giây phút này, chúng ta có tỉnh thức, có tri giác tỉnh giác, chánh niệm. Chúng ta mời khách trần về hoặc khách trần về. (Tức là xuất hiện các niệm về nhóm khách trần này). Khi này chúng ta đối thoại.
Để đối thoại, phải có 2. Như vậy, đúng câu “đối diện”. Ví dụ: Một người tên là A thì chúng ta sẽ “thừa nhận luôn” nhóm khách trần đang về này là A. Một nhân cách A. Chúng ta cũng là A. Chúng ta tự đối thoại với chúng ta. (A tự đối thoại với A).
Ví dụ:
A: - Tao biết mày đang rất tức giận (các cảm thọ hiện ra).
A: Nó sẽ lan man một số câu thể hiện cái thọ của nó trong đầu.
A: - Tao đã thấy và mày cũng biết. Chúng ta cần tha thứ, bao dung cho chính chúng ta.
A: - Mày không biết. Mày đã thấy nó hại mình ra sao. Tao phải cho nó tỉnh ngộ, phải cho nó rõ ràng rằng nó sai.
A: - Ừ. Tao không biết. A à. Nhưng tao biết mày thực sự đang rất đau khổ, tức giận, bực bội và muốn được chứng minh. Hãy để việc này cho tao.
A: - Họ/nó sẽ không bao giờ nghe. Họ sẽ không bao giờ tin mày nói gì. Dù mày có nói gì thì họ sẽ vẫn vậy. Mày có nói thế, nói nữa, họ cũng vẫn vậy.
A: Nó sẽ lan man một số câu thể hiện cái thọ của nó trong đầu.
A: - Chúng ta cần tha thứ, bao dung cho chính chúng ta. Chúng ta cần bước tiếp…
A: Lan man tiếp
…
A: Chúng ta cần bao dung cho chính chúng ta. Hãy độ diệt đi. Những gì mày muốn, tao sẽ làm được. Mày cũng sẽ thấy. Chúng ta là một, hãy để tao. Với lòng từ bi và tia minh tâm của mình. Chúng ta làm được. Chúng ta là một.
…
- Chúng ta đã sử dụng phương tiện gì để làm việc, để độ hoá “chúng ta” và chắc chắn là độ hoá được, hợp nhất được chúng ta? - Chính là sử dụng pháp Như Lý Tác Ý - Không phải sao?
Thế mới thấy Pháp Phật không phải là trò đùa hay chỉ ra cho có. Nó rất nhiệm màu.
Nhưng muốn thấy nhiệm màu - với pháp này ở chỗ này, chúng ta đã biết: Chúng ta phải hiểu lý. Mà lý thì rất rõ ở đây, lý chân như là lý từ bi, lý bao dung, lý độ diệt niệm sân (xả khách trần sân). Có thấy lý này, mới tác được, mới “ba la mật” được. Mới làm công việc “nhất nhân” được.
…
Thời gian chúng ta độ hoá mọi nhóm khách trần (mọi nhân cách khác nhân cách từ bi - Phật) sẽ tuỳ thuộc vào căn cơ nghiệp quả - mức độ tham muốn, mức đa văn quán thấy lý, mức tinh cần hành pháp, mức rốt ráo và độ buông lung.
Chúng ta đang thực hành nhất nhân Phật.
Chúng ta phải đối diện với khách trần - gọi là đối thoại. Thế nên Kinh mới có ví dụ: Quán trọ 6 cửa chứ không thì sao không nói một ngữ văn “nhà Như Lai”. Quán trọ thì sẽ có Chủ - Khách. Chủ - khách thì phải đối thoại. Không đối thoại - Không làm được quán trọ.
Nhưng chủ - chúng ta đã biết. Chúng ta không biết chủ. Nhóm khách trần nào cũng tự xưng là chủ, chính cái tôi đây cũng đang xưng làm chủ - mà chả thực biết đây là nhóm khách trần nào. Vì có chủ mà chúng ta không biết chủ ở đâu, thì làm sao nghe được tiếng nói của chủ. Vì chủ là chân như thường hằng, là chính ngôi nhà tâm nên chủ vốn vẫn vậy từ xưa nay - không nói một lời. Nên không thể mang chủ ra đối thoại. Mang được ra thì: Đắc Đạo rồi còn đâu. - Nhưng rất tiếc: Chủ không nói, và cũng không bao giờ nói gì. Chủ vốn có tánh định mà, còn nói được thì…. Hoá ra chủ rởm à?
Những cái chúng ta biết về chủ, hiểu về chủ, xác định tánh của chủ…v.v. - Chỉ là văn trí - đồ hữu lậu - đâu phải Đạo.
Như vậy, làm sao để đối thoại?
Ví dụ: Chúng ta nổi sân lên, sự tức giận khủng khiếp, sự giận dữ và không hài lòng là cảm thọ thực tế trong ta vì một việc: Có tác động của trần làm cho chúng ta cảm thấy bị tổn hại. Ví dụ: Trần lừa đảo ta. Trần ám hại ta, trần đe doạ tính mạng ta.v.v.. hoặc trần làm các việc trên với “người ta thấy tia từ bi”. - Lúc này, chúng ta sẽ thấy một cảm thọ gọi là sân.
Bởi vì những gì chúng ta đã thực tập khi đến được chỗ đây. Nên chúng ta có sức tỉnh thức và tỉnh giác nhất định. Chúng ta còn rất tỉnh - Chúng ta chắc chắn chúng ta khi thực tập được những điều phía trước tới được đây, khi ở ví dụ đây, chúng ta chắc chắn chúng ta có tri giác tỉnh giác và tỉnh thức. - Điều này, được tự chứng thấy bởi: Chúng ta biết rất rõ chúng ta nổi sân
Bây giờ, làm sao để diệt độ - độ hoá khách trần sân này.
Thường nghe nói: Dùng từ bi mà ôm ấp lấy sân. Chỉ có từ bi mới cảm hoá được sân..v.v. - Đây là câu nói sáo rỗng Đạo lý, mang đậm tính lý thuyết triết lý. Vì điều này là đúng nhưng “làm được không” mới là thực tế hành Đạo.
Chúng ta phải làm được, và ở đây, chúng ta rất rõ cách làm (cách sử dụng phương tiện). Sử dụng thế nào?
- Chúng ta phải đối thoại. - Đối thoại với trần sao? - Nếu đối thoại với trần, chỉ có một kết quả: Cãi chửi nhau càng lớn và hậu quả càng lớn hơn - giết nhau có khi là thường thấy ở thế.
Kìm nén, chịu nhục. Ức chế tâm kìm nén. Dùng định lực “to lớn” mà chúng ta tu tập được chịu đựng để “cho qua”. - “Một điều nhịn là chín điều lành”. - Những cách dùng phương tiện này chỉ là cách “tạm thời” ngay lúc đó. Giống như cháy nhà thì đây là cứu hoả. Trước tiên chúng ta phải dùng sức tỉnh thức và tỉnh giác hiện có - chính là định lực đó: Dừng tiếp nhận “khách trần” tại vị trí này. Nó đã vào rồi, mặc kệ việc ít hay nhiều, to lớn và khủng bố ra sao, ngay khi chúng ta nhận thấy “nhóm khách trần sân” này: Phải “cứu hoả” - tức là “làm mọi cách thủ hộ 6 căn” để tiếp nhận khách trần thêm nữa. Dừng ngay tại đây, là bước 1.
Nhiều người, làm được đến đây, hoả tắt, và nghĩ rằng: Mình giỏi quá, có kết quả rồi. Rất ok, mình tha thứ cho họ. Mình không thèm chấp họ, mình nhịn họ thế này, và mình mặc kệ họ.v.v.
Nhưng: Thứ chúng ta cần giải quyết (việc cần làm) đó là thứ: Sau khi trần cảnh đó đã qua nhưng ở những thời gian khác, chúng ta lại tưởng đến trần cảnh này (niệm trở về) bằng những hình thức: Nhớ mãi không quên, suy nghĩ, kể lể lại, hay gặp lại trần sắc đó là chúng ta lại “bị biến đổi cảm xúc thọ”… - Đó! Khách trần về mặt thực tế có ra khỏi ngôi nhà tâm đâu. Nó vào rồi, đợi thời cơ tiến lên làm chủ thôi, dù thời gian có trôi, thi thoảng nó vẫn về là: Nó chưa được độ hoá. - Nên việc của chúng ta chính là: Độ hoá nó khi nó về hoặc tự kiết già quán, mời nó về để độ hoá (khi biết có 1 nhóm khách trần như vậy vẫn tồn tại như vậy trong nhà tâm).
Độ hoá bằn cách nào? - Đối thoại.
Đối thoại thế nào?
- Bây giờ, chúng ta mời nhóm khách trần này về (hiện niệm). - Chúng ta lúc này là ai? - Thì chúng ta là chúng ta thôi, đừng nghĩ nhiều về việc chúng ta tại giây phút này là ai. Chúng ta chỉ biết, tại giây phút này, chúng ta có tỉnh thức, có tri giác tỉnh giác, chánh niệm. Chúng ta mời khách trần về hoặc khách trần về. (Tức là xuất hiện các niệm về nhóm khách trần này). Khi này chúng ta đối thoại.
Để đối thoại, phải có 2. Như vậy, đúng câu “đối diện”. Ví dụ: Một người tên là A thì chúng ta sẽ “thừa nhận luôn” nhóm khách trần đang về này là A. Một nhân cách A. Chúng ta cũng là A. Chúng ta tự đối thoại với chúng ta. (A tự đối thoại với A).
Ví dụ:
A: - Tao biết mày đang rất tức giận (các cảm thọ hiện ra).
A: Nó sẽ lan man một số câu thể hiện cái thọ của nó trong đầu.
A: - Tao đã thấy và mày cũng biết. Chúng ta cần tha thứ, bao dung cho chính chúng ta.
A: - Mày không biết. Mày đã thấy nó hại mình ra sao. Tao phải cho nó tỉnh ngộ, phải cho nó rõ ràng rằng nó sai.
A: - Ừ. Tao không biết. A à. Nhưng tao biết mày thực sự đang rất đau khổ, tức giận, bực bội và muốn được chứng minh. Hãy để việc này cho tao.
A: - Họ/nó sẽ không bao giờ nghe. Họ sẽ không bao giờ tin mày nói gì. Dù mày có nói gì thì họ sẽ vẫn vậy. Mày có nói thế, nói nữa, họ cũng vẫn vậy.
A: Nó sẽ lan man một số câu thể hiện cái thọ của nó trong đầu.
A: - Chúng ta cần tha thứ, bao dung cho chính chúng ta. Chúng ta cần bước tiếp…
A: Lan man tiếp
…
A: Chúng ta cần bao dung cho chính chúng ta. Hãy độ diệt đi. Những gì mày muốn, tao sẽ làm được. Mày cũng sẽ thấy. Chúng ta là một, hãy để tao. Với lòng từ bi và tia minh tâm của mình. Chúng ta làm được. Chúng ta là một.
…
- Chúng ta đã sử dụng phương tiện gì để làm việc, để độ hoá “chúng ta” và chắc chắn là độ hoá được, hợp nhất được chúng ta? - Chính là sử dụng pháp Như Lý Tác Ý - Không phải sao?
Thế mới thấy Pháp Phật không phải là trò đùa hay chỉ ra cho có. Nó rất nhiệm màu.
Nhưng muốn thấy nhiệm màu - với pháp này ở chỗ này, chúng ta đã biết: Chúng ta phải hiểu lý. Mà lý thì rất rõ ở đây, lý chân như là lý từ bi, lý bao dung, lý độ diệt niệm sân (xả khách trần sân). Có thấy lý này, mới tác được, mới “ba la mật” được. Mới làm công việc “nhất nhân” được.
…
Thời gian chúng ta độ hoá mọi nhóm khách trần (mọi nhân cách khác nhân cách từ bi - Phật) sẽ tuỳ thuộc vào căn cơ nghiệp quả - mức độ tham muốn, mức đa văn quán thấy lý, mức tinh cần hành pháp, mức rốt ráo và độ buông lung.
Chúng ta đang thực hành nhất nhân Phật.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Như vậy, chúng ta cũng đã biết rõ cách đối trị các “hiện tượng tưởng” do 6 thần thông sơ khởi mang lại chưa?
Tại sao? - Vì lúc này, thần thông chưa ra thần thông, bởi: Định lực của chúng ta phải nói 1 câu: Hiện giờ còn quá kém để kiểm soát thần thông - dù là sơ khởi (hình thù ban đầu và chưa mang tính chất thần thông đủ đầy). Chúng ta không kiểm soát được thần thông - nhưng mà nó cứ hiện. Chúng ta đã biết rất rõ: Thứ này đang ở thế thì chắc chắn là tưởng dù đây có là tưởng thật về trần (ví dụ: Biết được rõ tâm của trần đang thế nào). Khi này, chỉ có 2 ngã rẽ:
Hoặc sẽ mất tỉnh thức, bị thứ “thần thông” này cuốn theo - nó sớm sẽ làm mê muội đầu óc người thực hành. Nó sớm làm người thực hành mất tỉnh thức về tri kiến về quán chiếu về con đường Đạo Đức Thế Tôn. Họ chìm đắm mà hoàn toàn không biết họ chìm đắm (dù về mặt thực tế, nhiều người chìm đắm không phải là do sử dụng thần thông bừa bãi). Mà chìm đắm là do cái thứ thần thông tưởng này nó kéo đi chệch ra những con đường khác mà không hề biết và luôn luôn cho rằng: Bản thân vẫn đang đi đúng đường…. Nhưng có đi mãi, đi mãi, đi đi mãi và đạt được đủ mọi kết quả nhiệm màu gì đó (do các thứ thần thông mang lại) thì… mãi rồi đến 1 lúc họ vẫn thấy: Không thấy lậu tận minh là gì.
- Một sự thực mà ai cũng đã biết, Đức Thế Tôn đã nói, cũng đã trích ra đây: Thiên ma có đủ các thần thông (oai thần hạnh lực), chỉ thiếu: Lậu tận thông (minh).
Hoặc ngã rẽ thứ 2: Mặc kệ các tưởng này - thứ này không khác gì: Dùng định lực để mặc kệ trần và tưởng. Bởi sao? - Bởi vì: Người thực hành sớm muộn đạt đến cảnh giới: Không phân biệt được đâu là trần đâu là tưởng trần và kết quả chúng ta cũng đã thấy: Người thực hành tự xưng: Đã tu đến không còn phân biệt gì nữa rồi. Và họ sống trong vô minh như vậy hết đời.
Con đường không ngã rẽ - tức là vẫn là con đường Đạo Đức Thế Tôn: - Cả 2. Không chấp, không không chấp.
Không chấp: Đừng chấp vào các thứ thần thông này - hãy cứ nhiếp tâm an trú vào chánh niệm. Còn quá nhiều việc phải làm ở thực tế đời sống hàng ngày, lấy đâu ra thời gian mà chấp thần thông..v.v.
Không không chấp: Nhưng cần để phục vụ “ba la mật”, cần để phục vụ việc tu tập Đạo là phải sử. Không sử thì chúng ta làm sao tiến bước trên đương Đạo? (Độ hoá khách trần..v.v.)
Sống chung với các thứ đó đừng “sừng cồ” lên. Vừa không thọ vui mừng vừa không thọ phiền phức chính là vừa không chấp vừa không không chấp. Cần tỉnh thức, sáng suốt.
Chán rồi các “thần thông” nó cũng tự “an ổn” trở lại ấy mà (ý nói với bước tiến ở mấy nữa và phía sau thì đã kiểm soát được).
Mấy thứ này, thực tế mới chỉ là “tiểu sự kỳ đặc” - không đáng để ý tới. Tuy nhiên, do hiện tại chúng ta đâu đã đạt giới hạnh gì (giới chưa thể đầy đủ) nên định lực là “yếu”. Bởi chúng ta vẫn đang ở đời, còn đầy việc quấn thân. Như vậy, dù là tiểu ma sự - vẫn có những tác hại nhất định. Cần rất tỉnh thức!
Tại sao? - Vì lúc này, thần thông chưa ra thần thông, bởi: Định lực của chúng ta phải nói 1 câu: Hiện giờ còn quá kém để kiểm soát thần thông - dù là sơ khởi (hình thù ban đầu và chưa mang tính chất thần thông đủ đầy). Chúng ta không kiểm soát được thần thông - nhưng mà nó cứ hiện. Chúng ta đã biết rất rõ: Thứ này đang ở thế thì chắc chắn là tưởng dù đây có là tưởng thật về trần (ví dụ: Biết được rõ tâm của trần đang thế nào). Khi này, chỉ có 2 ngã rẽ:
Hoặc sẽ mất tỉnh thức, bị thứ “thần thông” này cuốn theo - nó sớm sẽ làm mê muội đầu óc người thực hành. Nó sớm làm người thực hành mất tỉnh thức về tri kiến về quán chiếu về con đường Đạo Đức Thế Tôn. Họ chìm đắm mà hoàn toàn không biết họ chìm đắm (dù về mặt thực tế, nhiều người chìm đắm không phải là do sử dụng thần thông bừa bãi). Mà chìm đắm là do cái thứ thần thông tưởng này nó kéo đi chệch ra những con đường khác mà không hề biết và luôn luôn cho rằng: Bản thân vẫn đang đi đúng đường…. Nhưng có đi mãi, đi mãi, đi đi mãi và đạt được đủ mọi kết quả nhiệm màu gì đó (do các thứ thần thông mang lại) thì… mãi rồi đến 1 lúc họ vẫn thấy: Không thấy lậu tận minh là gì.
- Một sự thực mà ai cũng đã biết, Đức Thế Tôn đã nói, cũng đã trích ra đây: Thiên ma có đủ các thần thông (oai thần hạnh lực), chỉ thiếu: Lậu tận thông (minh).
Hoặc ngã rẽ thứ 2: Mặc kệ các tưởng này - thứ này không khác gì: Dùng định lực để mặc kệ trần và tưởng. Bởi sao? - Bởi vì: Người thực hành sớm muộn đạt đến cảnh giới: Không phân biệt được đâu là trần đâu là tưởng trần và kết quả chúng ta cũng đã thấy: Người thực hành tự xưng: Đã tu đến không còn phân biệt gì nữa rồi. Và họ sống trong vô minh như vậy hết đời.
Con đường không ngã rẽ - tức là vẫn là con đường Đạo Đức Thế Tôn: - Cả 2. Không chấp, không không chấp.
Không chấp: Đừng chấp vào các thứ thần thông này - hãy cứ nhiếp tâm an trú vào chánh niệm. Còn quá nhiều việc phải làm ở thực tế đời sống hàng ngày, lấy đâu ra thời gian mà chấp thần thông..v.v.
Không không chấp: Nhưng cần để phục vụ “ba la mật”, cần để phục vụ việc tu tập Đạo là phải sử. Không sử thì chúng ta làm sao tiến bước trên đương Đạo? (Độ hoá khách trần..v.v.)
Sống chung với các thứ đó đừng “sừng cồ” lên. Vừa không thọ vui mừng vừa không thọ phiền phức chính là vừa không chấp vừa không không chấp. Cần tỉnh thức, sáng suốt.
Chán rồi các “thần thông” nó cũng tự “an ổn” trở lại ấy mà (ý nói với bước tiến ở mấy nữa và phía sau thì đã kiểm soát được).
Mấy thứ này, thực tế mới chỉ là “tiểu sự kỳ đặc” - không đáng để ý tới. Tuy nhiên, do hiện tại chúng ta đâu đã đạt giới hạnh gì (giới chưa thể đầy đủ) nên định lực là “yếu”. Bởi chúng ta vẫn đang ở đời, còn đầy việc quấn thân. Như vậy, dù là tiểu ma sự - vẫn có những tác hại nhất định. Cần rất tỉnh thức!
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(95 tiếp)
Khi bắt đầu thực hành “nhiếp tâm”, chúng ta có thể phát hiện ra ngay vấn đề: - Dụng công nhiếp tâm đạt kết quả quá mức trong khi định lực và trí lực chưa phát triển theo kịp. Đây là một vấn đề xuất hiện cần giải quyết:
Hiện tượng: Người thực hành Đạo Đức Thế Tôn dụng công “nhiếp tâm” bằng những phương tiện cụ thể nào đó, xuất hiện hiện tượng “trống vắng” niệm. Bình thường, chúng ta “trôi nổi” ở đời với 24 giờ một ngày và nó được lấp đầy đủ bởi: Lúc ngủ và lúc thức. Dù ngủ ít hay thức ít thì hai pháp này lấp kín 24 giờ một ngày của một người. Ở đây, chưa nói lúc ngủ, nói lúc thức: Khi thức chúng ta “trôi nổi” với đầy đủ các niệm lấp đầy toàn bộ thời gian thức - dù chúng ta có ý thức được chúng ta đang niệm hay không và đang niệm niệm gì.
Bây giờ, chúng ta bắt đầu thực hành an trú tâm trong chánh niệm và tỉnh giác, tỉnh thức, tích hợp (diệt độ) khách trần, nhiếp tâm vào chánh niệm..v.v - các thực hành này sẽ làm cho chúng ta thực tế tắt đi rất nhiều niệm thuộc loại vọng tưởng về các nhóm khách trần khác.
Nếu tắt được nhóm khách trần thọ khổ hoặc nhóm khách trần sân hận… người thực hành có thể tự “mỉm cười”. Tuy nhiên, không phải chỉ nhóm khách trần này bị tắt đi mà kể cả những nhóm khách trần mang thọ lạc và mang tham cầu hữu (ý chí phấn đấu vươn lên để đạt cái gọi là “thành công” ở đời) … cũng sẽ có thể bị tắt theo. Điều này mang đến hiện tượng chới với với người vừa thực hành Đạo Đức Thế Tôn khi này.
Ví dụ: Do chúng ta thực hành Đạo Đức Thế Tôn đến đây, đã đem đến những kết quả tự thấy rõ. Trong đó rất rõ: Dù không ép tâm nhưng chúng ta lại “tự nhiên” từ bỏ một số thọ lạc ngay trước đó hiện có, một số tham cầu thọ lạc mà trước đó có và biết về khả năng chỉ cần chúng ta hành là có thể đạt quả thọ lạc. Nhưng mà nay, vì thực hành Đạo Đức Tôn, tự nhiên chúng ta lại không tham muốn hành thủ nữa, từ bỏ tham muốn, cũng từ bỏ nhiều lạc thú đang thọ quả.
Tuy nhiên, tại ngay vị trí này, chúng ta chưa ly dục. Chúng ta đã ly dục hoàn toàn được đâu. Chúng ta mới ly một số dục, một số lạc… đang thọ. Và như vậy, cái hỉ của ly dục thì chưa sinh hoàn toàn. Nhưng cái hỉ lạc của dục thọ lạc hỉ đã đang có thì đã mất. - Một cảm giác chới với xuất hiện.
Chúng ta phải vượt qua giai đoạn này. Nếu chúng ta để cảm giác chới với kia kéo trở lại: Chúng ta chẳng bao giờ tu ra kết quả rốt ráo gì trên đường thực hành Đạo Đức Thế Tôn.
Sự chới với nó sẽ kéo rất mạnh và chúng ta lại bị kéo trở về thế với một lố khách trần mới. Rất giống như đuổi khách cửa này, khách khác vào cửa kia.
Giai đoạn này là do chúng ta chưa tiến lên được chỗ ly dục để vào sơ thiền Đạo Đức Thế Tôn nhưng đã bắt đầu ly từng phần dục. Mỗi lần ly được mỗi phần dục thì thiếu đi một phần thọ (lạc, hỉ, cảm). Do huân tập khí, do thức thói quen, do tính (tánh) điên đảo về vọng tưởng bao nhiêu đời kiếp và bao nhiêu năm ở kiếp này. Khi những điều này (những dục lạc) tự nhiên thiếu đi - một cảm giác chới với tự nhiên xuất hiện là vậy.
Pháp của Đức Thế Tôn ở đây chỉ là: Duy trì sự tỉnh giác, tỉnh thức để tiếp tục tiến bước và tự khắc sẽ vượt qua hiện tượng này bởi cái hỷ của ly dục sẽ xuất hiện dần.
Khi chúng ta có được pháp “dục như ý túc” - ở đây chúng ta sẽ biết tác dụng ngay lúc này của nó: Mỗi lần tắt được bất kỳ nhóm khách trần nào - chúng ta sẽ “mỉm cười” vì chúng ta đang thực hành “dục như ý túc”, cảm giác tiến tới được gần hơn sự “giải thoát” sẽ duy trì “sự ổn định tâm lý - theo ngôn ngữ phương tây” - và với dục như ý túc: Cái hỷ lạc xuất hiện khi ly dục ly ác pháp chính là “cảm giác hỉ lạc của dục như ý túc được chúng ta thủ hữu”.
Rất nhiều người trong chúng ta đã được đọc, nghe, giảng và được giảng về sơ thiền của Đạo Đức Thế Tôn: “- Người hành giả ly dục, ly ác pháp chứng và trú sơ thiền, một cảm giác hỉ lạc xuất hiện khi ly dục ly ác pháp với tầm và tứ”.
Nhưng gần như tất cả đều “chẳng biết cái vị của nó - vị hỉ lạc có tầm, tứ của ly dục ly ác pháp” giống khác gì so với vị hỉ lạc của dục (dục lạc dục hỉ - nhóm ngũ dục lạc). Nhiều người cũng biết cái hỉ lạc này cũng là do dục, vẫn là hỉ lạc dục ở đời nhưng không rõ về đã ly dục ly ác pháp mà lại sinh ra hỉ lạc của dục ở chỗ sơ thiền này….
Còn chúng ta ở đây đã thấy rõ: Hỉ lạc của sơ thiền có là do hỉ lạc của dục - Dục như ý túc. Chúng ta đạt được (thủ được, tầm cầu được) một kết quả nhất định (Thế Tôn gọi là chứng trạng thái sơ thiền và an trú được) về việc từ bỏ dục ở đời khi chỉ cần một dục là dục như ý túc (dục Đạo, dục giải thoát). Chúng ta mới có cảm giác thọ hỉ lạc này. Cái thọ hỉ lạc này là do dục như ý túc mang lại.
Tuy nhiên, ở vị trí vừa thực hành Đạo Đức Thế Tôn tại chỗ này: Chúng ta chưa đạt được sơ thiền - chứng và trú vào đây, nên cảm giác chới với xuất hiện, kéo chúng ta về “hiện thực” - hay còn gọi là về thực tế thế giới này - thế giới điên đảo. Chúng ta phải vượt qua. Với dục như ý túc đã được tác - chúng ta vượt qua và sớm thấy cảm giác hỷ lạc của sơ thiền tràn ra khắp xung quanh người dù … dù chúng ta lại đang tắt “khách trần” - trong đó lại có cả những khách trần đang mang thọ hỉ, thọ lạc của dục cầu ở đời… nhưng chúng ta lại vẫn sẽ sớm có cảm giác hỉ lạc toàn thân tâm vì dục như ý túc sẽ mang lại.
Điều chúng ta cần là nhẫn (kiên trì) thực hành Đạo Đức Thế Tôn, duy trì tỉnh giác, tỉnh thức… sớm vượt qua cảm giác chới với này. Không cho nó kéo tâm trở lại với “những vấn đề ở thế”.
…
Khi bắt đầu thực hành “nhiếp tâm”, chúng ta có thể phát hiện ra ngay vấn đề: - Dụng công nhiếp tâm đạt kết quả quá mức trong khi định lực và trí lực chưa phát triển theo kịp. Đây là một vấn đề xuất hiện cần giải quyết:
Hiện tượng: Người thực hành Đạo Đức Thế Tôn dụng công “nhiếp tâm” bằng những phương tiện cụ thể nào đó, xuất hiện hiện tượng “trống vắng” niệm. Bình thường, chúng ta “trôi nổi” ở đời với 24 giờ một ngày và nó được lấp đầy đủ bởi: Lúc ngủ và lúc thức. Dù ngủ ít hay thức ít thì hai pháp này lấp kín 24 giờ một ngày của một người. Ở đây, chưa nói lúc ngủ, nói lúc thức: Khi thức chúng ta “trôi nổi” với đầy đủ các niệm lấp đầy toàn bộ thời gian thức - dù chúng ta có ý thức được chúng ta đang niệm hay không và đang niệm niệm gì.
Bây giờ, chúng ta bắt đầu thực hành an trú tâm trong chánh niệm và tỉnh giác, tỉnh thức, tích hợp (diệt độ) khách trần, nhiếp tâm vào chánh niệm..v.v - các thực hành này sẽ làm cho chúng ta thực tế tắt đi rất nhiều niệm thuộc loại vọng tưởng về các nhóm khách trần khác.
Nếu tắt được nhóm khách trần thọ khổ hoặc nhóm khách trần sân hận… người thực hành có thể tự “mỉm cười”. Tuy nhiên, không phải chỉ nhóm khách trần này bị tắt đi mà kể cả những nhóm khách trần mang thọ lạc và mang tham cầu hữu (ý chí phấn đấu vươn lên để đạt cái gọi là “thành công” ở đời) … cũng sẽ có thể bị tắt theo. Điều này mang đến hiện tượng chới với với người vừa thực hành Đạo Đức Thế Tôn khi này.
Ví dụ: Do chúng ta thực hành Đạo Đức Thế Tôn đến đây, đã đem đến những kết quả tự thấy rõ. Trong đó rất rõ: Dù không ép tâm nhưng chúng ta lại “tự nhiên” từ bỏ một số thọ lạc ngay trước đó hiện có, một số tham cầu thọ lạc mà trước đó có và biết về khả năng chỉ cần chúng ta hành là có thể đạt quả thọ lạc. Nhưng mà nay, vì thực hành Đạo Đức Tôn, tự nhiên chúng ta lại không tham muốn hành thủ nữa, từ bỏ tham muốn, cũng từ bỏ nhiều lạc thú đang thọ quả.
Tuy nhiên, tại ngay vị trí này, chúng ta chưa ly dục. Chúng ta đã ly dục hoàn toàn được đâu. Chúng ta mới ly một số dục, một số lạc… đang thọ. Và như vậy, cái hỉ của ly dục thì chưa sinh hoàn toàn. Nhưng cái hỉ lạc của dục thọ lạc hỉ đã đang có thì đã mất. - Một cảm giác chới với xuất hiện.
Chúng ta phải vượt qua giai đoạn này. Nếu chúng ta để cảm giác chới với kia kéo trở lại: Chúng ta chẳng bao giờ tu ra kết quả rốt ráo gì trên đường thực hành Đạo Đức Thế Tôn.
Sự chới với nó sẽ kéo rất mạnh và chúng ta lại bị kéo trở về thế với một lố khách trần mới. Rất giống như đuổi khách cửa này, khách khác vào cửa kia.
Giai đoạn này là do chúng ta chưa tiến lên được chỗ ly dục để vào sơ thiền Đạo Đức Thế Tôn nhưng đã bắt đầu ly từng phần dục. Mỗi lần ly được mỗi phần dục thì thiếu đi một phần thọ (lạc, hỉ, cảm). Do huân tập khí, do thức thói quen, do tính (tánh) điên đảo về vọng tưởng bao nhiêu đời kiếp và bao nhiêu năm ở kiếp này. Khi những điều này (những dục lạc) tự nhiên thiếu đi - một cảm giác chới với tự nhiên xuất hiện là vậy.
Pháp của Đức Thế Tôn ở đây chỉ là: Duy trì sự tỉnh giác, tỉnh thức để tiếp tục tiến bước và tự khắc sẽ vượt qua hiện tượng này bởi cái hỷ của ly dục sẽ xuất hiện dần.
Khi chúng ta có được pháp “dục như ý túc” - ở đây chúng ta sẽ biết tác dụng ngay lúc này của nó: Mỗi lần tắt được bất kỳ nhóm khách trần nào - chúng ta sẽ “mỉm cười” vì chúng ta đang thực hành “dục như ý túc”, cảm giác tiến tới được gần hơn sự “giải thoát” sẽ duy trì “sự ổn định tâm lý - theo ngôn ngữ phương tây” - và với dục như ý túc: Cái hỷ lạc xuất hiện khi ly dục ly ác pháp chính là “cảm giác hỉ lạc của dục như ý túc được chúng ta thủ hữu”.
Rất nhiều người trong chúng ta đã được đọc, nghe, giảng và được giảng về sơ thiền của Đạo Đức Thế Tôn: “- Người hành giả ly dục, ly ác pháp chứng và trú sơ thiền, một cảm giác hỉ lạc xuất hiện khi ly dục ly ác pháp với tầm và tứ”.
Nhưng gần như tất cả đều “chẳng biết cái vị của nó - vị hỉ lạc có tầm, tứ của ly dục ly ác pháp” giống khác gì so với vị hỉ lạc của dục (dục lạc dục hỉ - nhóm ngũ dục lạc). Nhiều người cũng biết cái hỉ lạc này cũng là do dục, vẫn là hỉ lạc dục ở đời nhưng không rõ về đã ly dục ly ác pháp mà lại sinh ra hỉ lạc của dục ở chỗ sơ thiền này….
Còn chúng ta ở đây đã thấy rõ: Hỉ lạc của sơ thiền có là do hỉ lạc của dục - Dục như ý túc. Chúng ta đạt được (thủ được, tầm cầu được) một kết quả nhất định (Thế Tôn gọi là chứng trạng thái sơ thiền và an trú được) về việc từ bỏ dục ở đời khi chỉ cần một dục là dục như ý túc (dục Đạo, dục giải thoát). Chúng ta mới có cảm giác thọ hỉ lạc này. Cái thọ hỉ lạc này là do dục như ý túc mang lại.
Tuy nhiên, ở vị trí vừa thực hành Đạo Đức Thế Tôn tại chỗ này: Chúng ta chưa đạt được sơ thiền - chứng và trú vào đây, nên cảm giác chới với xuất hiện, kéo chúng ta về “hiện thực” - hay còn gọi là về thực tế thế giới này - thế giới điên đảo. Chúng ta phải vượt qua. Với dục như ý túc đã được tác - chúng ta vượt qua và sớm thấy cảm giác hỷ lạc của sơ thiền tràn ra khắp xung quanh người dù … dù chúng ta lại đang tắt “khách trần” - trong đó lại có cả những khách trần đang mang thọ hỉ, thọ lạc của dục cầu ở đời… nhưng chúng ta lại vẫn sẽ sớm có cảm giác hỉ lạc toàn thân tâm vì dục như ý túc sẽ mang lại.
Điều chúng ta cần là nhẫn (kiên trì) thực hành Đạo Đức Thế Tôn, duy trì tỉnh giác, tỉnh thức… sớm vượt qua cảm giác chới với này. Không cho nó kéo tâm trở lại với “những vấn đề ở thế”.
…