Tượng hào vs tượng quẻ
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem quẻ: Lục nhâm, Thái ất, Lục hào, Mai hoa... Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức Dịch lý.
Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
Đây là chuyên mục dành cho việc xem quẻ: Lục nhâm, Thái ất, Lục hào, Mai hoa... Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức Dịch lý.
Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
LY VI HỎA
BÁT THUẦN LY
Ly Tự Quái
離 序 卦
Hãm tất hữu sở lệ.
陷 必 有 所 麗
Cố thụ chi dĩ Ly.
故 受 之 以 離
Ly giả lệ dã.
離 者 麗 也
Ly Tự Quái
Gian truân nên mới lo phần dựa nương.
Cho nên Ly mới tiếp luôn.
Ly là nương tựa, rõ ràng đâu chơi.
Ly ở nơi quẻ Đơn, có nghĩa là lửa. Nơi quẻ Kép có nghĩa là dựa nương. Ly là dựa nương. Mà điểm tựa của con người là sự trung chính.
Ly trong hư, ngoài cương; trong nhu thuận (Âm), ngoài văn minh, sáng láng. Nếu tâm hồn con người luôn luôn thuận phục luật Trời, luôn luôn dựa nương vào sự công chính, thì sẽ một ngày một trở nên sáng láng. Nếu xét về căn cơ nội tại thì:
*Ly trong có 1 hào Âm, nên chính là Chân Âm, Tượng trưng cho Hồn, cho Tâm (cho lòng người).
*Khảm trong có 1 hào Dương, nên chính là Chân Dương, tượng trưng cho Đạo Tâm, cho Thần (lòng Trời).
(Quẻ Ly đơn, hào giữa là Âm. Tu luyện là biến Ly thành Kiền = thành Trời, tức là phải lấy hào Dương của quẻ Khảm đơn, mà thay thế vào Hào Âm của quẻ Ly, vì Hào Dương của Khảm tượng trưng cho Đạo tâm. Phương pháp này gọi là Dĩ Khảm điền Ly.)
I. Thoán.
離 : 利 貞 . 亨 . 畜 牝 牛 . 吉 .
Thoán Từ.
Ly. Lợi trinh. Hanh. Súc tẫn ngưu. Cát.
Dịch. Thoán Từ.
Nương tựa chính trung, lợi lại hay,
Nhu thuận một lòng sẽ mắn may.
Ví như nuôi được con trâu cái,
Vừa khỏe, vừa ngoan, thật tốt thay.
Ly là dựa nương. Phải dựa nương vào sự công chính, mới hay, mới lợi (Ly. Lợi trinh. Hanh). Phải thuận phục lẽ Trời, mới tốt đẹp. Giữ tròn được tấm lòng nhu thuận, tuân phục lẽ công chính, cũng ví như nuôi được con trâu cái hiền lành, dễ bảo, như vậy là tốt, là hay. (Súc tẫn ngưu. Cát).
Thoán Truyện.
彖 曰 : 離 . 麗 也 . 日 月 麗 乎 天 . 百 谷草 木 麗 乎 土 . 重 明 以 麗 乎 正 . 乃 化 成 天 下. 柔 麗 乎 中 正 . 故 亨 . 是 以 畜 牝 牛. 吉 也 .
Thoán viết.
Ly. Lệ dã. Nhật nguyệt lệ hồ thiên. Bách cốc thảo mộc lệ hồ thổ. Trùng minh dĩ lệ hồ chính. Nãi hóa thành thiên hạ. Nhu lệ hồ trung chính. Cố hanh. Thị dĩ súc tẫn ngưu. Cát dã.
Dịch. Thoán rằng:
Ly là bám víu dựa nương,
Dựa nương, bám víu, lẽ thường đôi nơi.
Kim ô, ngọc thỏ, nương Trời,
Muôn loài thảo mộc, chẳng rời đất đai.
Quân thần,trung chính chẳng ngơi.
Thuần phong, mỹ tục khắp nơi thịnh hành.
Thuận theo trung chính, thời hanh,
Như nuôi trâu cái, tốt lành mấy mươi.
Ly là dựa nương. Đó là định luật của Trời đất.(Ly lệ dã). Nhật Nguyệt tinh cầu dựa vào Trời. Cỏ cây dựa vào Đất (Nhật Nguyệt lệ hồ Thiên. Bách cốc thảo mộc lệ hồ thổ). Vậy trong một xã hội, mà vua tôi, trên dưới đều dựa nương vào sự công chính, thì sẽ cải hóa được thiên hạ, sẽ đem được vạn dân tới chỗ tinh thành (Trùng minh dĩ lệ hồ chính. Nãi hóa thành thiên hạ). Nếu lòng con người, mà luôn luôn thuận phục Thiên lý, luôn luôn bám víu, luôn luôn dựa nương vào sự công chính, thì hay biết bao nhiêu (Nhu lệ hồ trung chính. Cố hanh. Thị dĩ súc tẫn ngưu cát dã).
Như vậy, Thoán đã dạy con người phải bám víu vào sự công chính mới là quý; chớ đừng nên bám vào tiền tài, chức vị, tha nhân, vì tất cả những thứ đó đều là phù du, ảo ảnh.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 : 明 兩 作 離 . 大 人 以 繼 明 照 于 四 方.
Tượng viết. Minh lưỡng tác Ly. Đại nhân dĩ kế minh chiếu vu tứ phương.
Dịch. Tượng rằng:
Ly là sáng láng liên canh,
Đại nhân cố giữ lòng mình sáng trong.
Sáng soi cùng khắp non sông,
Sáng soi rạng rỡ, khắp cùng bốn phương.
Ly, trên dưới đều là minh, trước sau đều là minh. Người quân tử thấy vậy, nên chau chuốt cho tâm hồn mình, ngày một thêm rạng sáng; để ánh sáng của mình có thể chiếu soi khắp bốn phương. Kế minh, chỉ về thời gian, ý nói trước cũng như sau, con người đừng bao giờ quên làm bừng sáng ngọn đuốc thiên chân tiềm ẩn đáy lòng.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 履 錯 然 . 敬 之 無 咎 .
象 曰 . 履 錯 之 敬 . 以 辟 咎 也 .
Sơ Cửu. Lý thác nhiên. Kính chi. Vô cữu.
Tượng viết:
Lý thác chi kính. Dĩ tỵ cữu dã.
Dịch. Sơ Cửu.
Bỡ ngỡ đưa chân bước vào đời,
Phải nên cẩn trọng, khỏi lầm sai.
Tượng rằng: Cẩn thận bước đi,
Cho nên mới tránh được nguy, được lầm.
Hào Sơ bình rằng, tuy Ly là sáng láng, nhưng lúc con người thoạt mới bước chân vào đường đời, thời thiện ác còn hỗn tạp khó phân, cho nên bước đi còn dễ lầm lỗi (Sơ Cửu. Lý thác nhiên). Vậy phải biết trang trọng, kính úy, mới tránh được những điều lầm lỗi (Kính chi vô cữu).
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 黃 離 . 元 吉 .
象 曰 . 黃 離 元 吉 . 得 中 道 也 .
Lục nhị. Hoàng Ly. Nguyên cát.
Tượng viết:
Hoàng Ly nguyên cát. Đắc trung đạo dã.
Dịch. Lục nhị.
Văn minh rực rỡ, huy hoàng,
Mà mình trung chính, đàng hoàng tốt thay.
Tượng rằng:
Huy hoàng, rực rỡ mà hay.
Là vì trung chính, thẳng ngay đạo Trời.
Hào hai tiếp tục dạy thêm: Nếu con người biết dựa nương vào sự công chính, tức là điều hay nhất, quí nhất.
Công chính là Thiên lý. Tư tà là nhân dục.
Vậy con người phải sống trong Thiên lý, mới là lý tưởng của cuộc đời. Con người chỉ đạt lý tưởng, khi đắc Trung đạo, tức là khi vào được tâm điểm vũ trụ và tâm hồn mình, thực hiện được Thiên đức, về được chính vị, về được tâm điểm bất dịch của vũ trụ, tức là hòa đồng được với Bản Thể của vũ trụ.
3. Hào Cửu tam.
九 三 : 日 昃 之 離 . 不 鼓 缶 而歌 . 則 大 耋 之 嗟 . 凶 .
象 曰 : 日 昃 之 離 . 何 可 久 也 .
Cửu tam. Nhật trắc chi Ly. Bất cổ phẫu nhi ca. Tắc đại điệt chi ta. Hung.
Tượng viết.
Nhật trắc chi Ly. Hà khả cửu dã.
Dịch.
Mặt trời đã xế ngang đầu.
Sao không gõ chậu, ca âu thanh nhàn.
Đời người còn được mấy gang,
Cái già xộc đến, phàn nàn nỗi chi.
Hào Ba chủ trương, khi đã già, khi mặt trời đã xế bóng, con người nên quẳng bớt gánh lo, thoát ly mọi tần phiền của thế sự, mà sống hồn nhiên trong cái vui Trời. Nếu lúc già cả, mà lòng chưa được an vui, còn xót xa, ta thán, thời khổ biết mấy mươi.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 : 突 如 其 來 如 . 焚 如 . 死 如 . 棄 如 .
象 曰 : 突 如 其 來 如 . 無 所 容 也 .
Cửu tứ. Đột như kỳ lai như. Phần như. Tử như. Khí như.
Tượng viết:
Đột như. Kỳ lai như. Vô sở dung dã.
Dịch. Cửu tứ.
Từ đâu vụt đến, lố lăng.
Phừng phừng như muốn đốt phăng ngôi rồng,
Hung hăng sẽ bị tử vong.
Mọi người ruồng rẫy, ai dung cho nào.
Tượng rằng:
Từ đâu vụt đến lố lăng,
Mọi người ruồng rẫy, ai dung cho nào.
Ba Hào trước, đều dạy phải bám víu vào sự công chính, không được quá bám vào cuộc đời nhất là khi đã trở về già. Ba Hào sau, ý muốn thiên về nghĩa nóng nẩy hay sáng láng của quẻ Ly.
Hào Bốn là Dương cương, nên nóng nẩy, muốn tiến lên một cách ào ạt (Đột như kỳ lai như), phừng phừng như muốn thiêu hủy cả đấng quân vương trên mình (Phần như). Làm như vậy, là trái với sự sáng suốt, cho nên sẽ đi đến sự tử vong (Tử như), vì mọi người sẽ ruồng bỏ mình (Khí như).
Như vậy có minh triết, mới bảo thân (Trung Dung XXVII). Còn những người bạo hổ bằng hà, thường bất đắc kỳ tử (LN VII , 10; LN XI, 12).
5. Hào Lục ngũ.
六 五 : 出 涕 沱 若 . 戚 嗟 若 . 吉 .
象 曰 : 六 五 之 吉 . 離 王 公 也 .
Lục ngũ. Xuất thế đà nhược. Thích ta nhược. Cát.
Tượng viết:
Lục ngũ chi cát. Ly vương công dã.
Dịch.
Đầm đìa nước mắt nhỏ sa,
U buồn than thở, rồi ra gặp lành.
Tượng rằng: Lục ngũ gặp lành,
Là vì ngôi vị của mình Vương công.
Hào Năm Âm nhu mà cư Dương vị, thế là thất vị, tuy vẫn đắc trung. Đã thất vị, mà dưới lại không ứng, không có phù ủng (Hào nhị là Hào ứng nhưng là Âm nên không ứng), nay lại ở gần kề Cửu tứ là Dương cương, như ngọn lửa phừng phừng bốc cháy lên để thiêu rụi mình, thời có khác nào một vị quân vương, tuy là hiền đức, nhưng đang bị bạo thần lăng bức đâu. Trong trường hợp ấy, nếu biết lo âu (Xuất thế đà nhược thích ta nhược), thời cũng là may, bởi vì biết lo họa hung, sẽ tiêu trừ được hung họa (cát). Lục ngũ sở dĩ cát, là vì đã được ngôi vị Vương công vậy (Lục ngũ chi cát. Ly Vương Công dã).
6. Hào Thượng Cửu.
上 九 : 王 用 出 征 . 有 嘉 折 首 . 獲 其 匪 丑 . 無 咎 .
象 曰 : 王 用 出 征 . 以 正 邦 也 .
Thượng Cửu. Vương dụng xuất chinh. Hữu gia. Triết thủ. Hoạch phỉ kỳ xú. Vô cữu.
Tượng viết:
Vương dụng xuất chinh. Dĩ chính bang dã.
Dịch.
Vua dùng chinh thảo cũng hay,
Giết người đầu đảng, tha bầy côn quăng.
Giết, tha, minh bạch đàng hoàng,
Việc mình, ai dám phàn nàn, chê bai.
Tượng rằng: Vua dụng xuất chinh.
Cốt là dẹp loạn, trị bình, giang san.
Hào Sáu nói lên sự chinh phạt để đem trị bình lại cho đất nước. Chu Hi cho rằng Hào Thượng Cửu của quẻ Ly tức là sự cương cường quang minh đã lan tới xa, quyền uy đã chấn động, nhưng hình phạt vẫn không bị lạm dụng, là vì chỉ trừng trị kẻ cầm đầu phản loạn (Triết thủ), còn thì tha cho bọn dư đảng (Hoạch phỉ kỳ xú).
ÁP DỤNG QUẺ LY VÀO THỜI ĐẠI
Xưa hay Nay, bất cứ ở thời đại nào cũng vậy, loài người khi mới bắt đầu hiểu biết, đã nhận biết được cái gì là đúng, là sai, là hay, là dở. Nhưng dần dần con người va chạm nhiều với xã hội, rồi bị ô nhiễm, bị tư dục làm mờ mắt, nên sự phán đoán, suy xét dần dần lầm lạc, nên con người cứ từ từ bị sa đọa. Nhất là, đà văn minh vùn vụt tiến, con người bị quá nhiều nhu cầu vật chất đòi hỏi, và phải cố đáp ứng nhu cầu cho đầy đủ như: xe hơi, tủ lạnh, bếp ga, máy lạnh v.v... Những thứ này lại còn biết bao thứ bên cạnh nó như: có xe hơi, phải mua bảo hiểm, mua xăng chạy xe, có tủ lạnh thì phải lo tiền điện hàng tháng v.v..., đó là chưa kể thời gian càng văn minh, thì con người làm việc càng như cái máy, do đó cũng cần phải nghỉ ngơi, tẩm bổ cho cơ thể lại sức, nên con người lại cần phải lo kiếm tiền cho nhiều, rồi từ cái này dần đến cái khác, con người bị sa đọa lúc nào không hay, có nhiều lúc bừng tỉnh lại, thấy mình cũng quá đáng, nhưng vì bản năng quá yếu hèn, hoặc nhu cầu vật chất đòi hỏi quá mạnh, nên lương tri chỉ vụt qua, mà không ở lại được.
Nên nếu ta ở vào thời buổi văn minh này, mà ta thắng được vật dục cám dỗ, không để con người ta bị sa đoạ, lỗi lầm, như vậy là ta luôn theo được đường công chính, ngay thẳng. Ngay thẳng từ suy nghĩ tới việc làm, đó là ta đã đi được quá nửa đường của Thánh nhân vậy.
Đến tuổi xế chiều, ta từ từ bỏ bớt công việc ngoài đời, lo việc tu thân, và nên luôn tự hỏi: Ta là ai? Từ đâu tới? Và cố gắng trở về nơi cội nguồn của mình một cách tự hào, thanh thản, lo việc giúp người, giúp đời một cách vô tư như mình thở khí Trời vậy, và với nụ cười luôn nở trên môi. Nếu là người có kiến thức sâu rộng, hiểu biết hơn người, nên lo viết sách dạy dân, truyền lại sự hiểu biết cho người đời sau. Đó là ta đã biết đi đúng đường Trời, đó là ta đã có vẻ sáng chung quanh như quẻ Ly đơn vậy.
Còn nếu như ta dùng cái thông minh, tài giỏi của ta, để mưu cầu tư lợi, cưỡng đoạt của người, hoặc hãm hại người để tranh quyền, đoạt vị, thì ta đã đi lầm đường, trước sau gì ta cũng bị suy vong, nếu không thì sẽ bị miệng thế cười chê. Thật không đáng vậy!
BÁT THUẦN LY
Ly Tự Quái
離 序 卦
Hãm tất hữu sở lệ.
陷 必 有 所 麗
Cố thụ chi dĩ Ly.
故 受 之 以 離
Ly giả lệ dã.
離 者 麗 也
Ly Tự Quái
Gian truân nên mới lo phần dựa nương.
Cho nên Ly mới tiếp luôn.
Ly là nương tựa, rõ ràng đâu chơi.
Ly ở nơi quẻ Đơn, có nghĩa là lửa. Nơi quẻ Kép có nghĩa là dựa nương. Ly là dựa nương. Mà điểm tựa của con người là sự trung chính.
Ly trong hư, ngoài cương; trong nhu thuận (Âm), ngoài văn minh, sáng láng. Nếu tâm hồn con người luôn luôn thuận phục luật Trời, luôn luôn dựa nương vào sự công chính, thì sẽ một ngày một trở nên sáng láng. Nếu xét về căn cơ nội tại thì:
*Ly trong có 1 hào Âm, nên chính là Chân Âm, Tượng trưng cho Hồn, cho Tâm (cho lòng người).
*Khảm trong có 1 hào Dương, nên chính là Chân Dương, tượng trưng cho Đạo Tâm, cho Thần (lòng Trời).
(Quẻ Ly đơn, hào giữa là Âm. Tu luyện là biến Ly thành Kiền = thành Trời, tức là phải lấy hào Dương của quẻ Khảm đơn, mà thay thế vào Hào Âm của quẻ Ly, vì Hào Dương của Khảm tượng trưng cho Đạo tâm. Phương pháp này gọi là Dĩ Khảm điền Ly.)
I. Thoán.
離 : 利 貞 . 亨 . 畜 牝 牛 . 吉 .
Thoán Từ.
Ly. Lợi trinh. Hanh. Súc tẫn ngưu. Cát.
Dịch. Thoán Từ.
Nương tựa chính trung, lợi lại hay,
Nhu thuận một lòng sẽ mắn may.
Ví như nuôi được con trâu cái,
Vừa khỏe, vừa ngoan, thật tốt thay.
Ly là dựa nương. Phải dựa nương vào sự công chính, mới hay, mới lợi (Ly. Lợi trinh. Hanh). Phải thuận phục lẽ Trời, mới tốt đẹp. Giữ tròn được tấm lòng nhu thuận, tuân phục lẽ công chính, cũng ví như nuôi được con trâu cái hiền lành, dễ bảo, như vậy là tốt, là hay. (Súc tẫn ngưu. Cát).
Thoán Truyện.
彖 曰 : 離 . 麗 也 . 日 月 麗 乎 天 . 百 谷草 木 麗 乎 土 . 重 明 以 麗 乎 正 . 乃 化 成 天 下. 柔 麗 乎 中 正 . 故 亨 . 是 以 畜 牝 牛. 吉 也 .
Thoán viết.
Ly. Lệ dã. Nhật nguyệt lệ hồ thiên. Bách cốc thảo mộc lệ hồ thổ. Trùng minh dĩ lệ hồ chính. Nãi hóa thành thiên hạ. Nhu lệ hồ trung chính. Cố hanh. Thị dĩ súc tẫn ngưu. Cát dã.
Dịch. Thoán rằng:
Ly là bám víu dựa nương,
Dựa nương, bám víu, lẽ thường đôi nơi.
Kim ô, ngọc thỏ, nương Trời,
Muôn loài thảo mộc, chẳng rời đất đai.
Quân thần,trung chính chẳng ngơi.
Thuần phong, mỹ tục khắp nơi thịnh hành.
Thuận theo trung chính, thời hanh,
Như nuôi trâu cái, tốt lành mấy mươi.
Ly là dựa nương. Đó là định luật của Trời đất.(Ly lệ dã). Nhật Nguyệt tinh cầu dựa vào Trời. Cỏ cây dựa vào Đất (Nhật Nguyệt lệ hồ Thiên. Bách cốc thảo mộc lệ hồ thổ). Vậy trong một xã hội, mà vua tôi, trên dưới đều dựa nương vào sự công chính, thì sẽ cải hóa được thiên hạ, sẽ đem được vạn dân tới chỗ tinh thành (Trùng minh dĩ lệ hồ chính. Nãi hóa thành thiên hạ). Nếu lòng con người, mà luôn luôn thuận phục Thiên lý, luôn luôn bám víu, luôn luôn dựa nương vào sự công chính, thì hay biết bao nhiêu (Nhu lệ hồ trung chính. Cố hanh. Thị dĩ súc tẫn ngưu cát dã).
Như vậy, Thoán đã dạy con người phải bám víu vào sự công chính mới là quý; chớ đừng nên bám vào tiền tài, chức vị, tha nhân, vì tất cả những thứ đó đều là phù du, ảo ảnh.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 : 明 兩 作 離 . 大 人 以 繼 明 照 于 四 方.
Tượng viết. Minh lưỡng tác Ly. Đại nhân dĩ kế minh chiếu vu tứ phương.
Dịch. Tượng rằng:
Ly là sáng láng liên canh,
Đại nhân cố giữ lòng mình sáng trong.
Sáng soi cùng khắp non sông,
Sáng soi rạng rỡ, khắp cùng bốn phương.
Ly, trên dưới đều là minh, trước sau đều là minh. Người quân tử thấy vậy, nên chau chuốt cho tâm hồn mình, ngày một thêm rạng sáng; để ánh sáng của mình có thể chiếu soi khắp bốn phương. Kế minh, chỉ về thời gian, ý nói trước cũng như sau, con người đừng bao giờ quên làm bừng sáng ngọn đuốc thiên chân tiềm ẩn đáy lòng.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 履 錯 然 . 敬 之 無 咎 .
象 曰 . 履 錯 之 敬 . 以 辟 咎 也 .
Sơ Cửu. Lý thác nhiên. Kính chi. Vô cữu.
Tượng viết:
Lý thác chi kính. Dĩ tỵ cữu dã.
Dịch. Sơ Cửu.
Bỡ ngỡ đưa chân bước vào đời,
Phải nên cẩn trọng, khỏi lầm sai.
Tượng rằng: Cẩn thận bước đi,
Cho nên mới tránh được nguy, được lầm.
Hào Sơ bình rằng, tuy Ly là sáng láng, nhưng lúc con người thoạt mới bước chân vào đường đời, thời thiện ác còn hỗn tạp khó phân, cho nên bước đi còn dễ lầm lỗi (Sơ Cửu. Lý thác nhiên). Vậy phải biết trang trọng, kính úy, mới tránh được những điều lầm lỗi (Kính chi vô cữu).
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 黃 離 . 元 吉 .
象 曰 . 黃 離 元 吉 . 得 中 道 也 .
Lục nhị. Hoàng Ly. Nguyên cát.
Tượng viết:
Hoàng Ly nguyên cát. Đắc trung đạo dã.
Dịch. Lục nhị.
Văn minh rực rỡ, huy hoàng,
Mà mình trung chính, đàng hoàng tốt thay.
Tượng rằng:
Huy hoàng, rực rỡ mà hay.
Là vì trung chính, thẳng ngay đạo Trời.
Hào hai tiếp tục dạy thêm: Nếu con người biết dựa nương vào sự công chính, tức là điều hay nhất, quí nhất.
Công chính là Thiên lý. Tư tà là nhân dục.
Vậy con người phải sống trong Thiên lý, mới là lý tưởng của cuộc đời. Con người chỉ đạt lý tưởng, khi đắc Trung đạo, tức là khi vào được tâm điểm vũ trụ và tâm hồn mình, thực hiện được Thiên đức, về được chính vị, về được tâm điểm bất dịch của vũ trụ, tức là hòa đồng được với Bản Thể của vũ trụ.
3. Hào Cửu tam.
九 三 : 日 昃 之 離 . 不 鼓 缶 而歌 . 則 大 耋 之 嗟 . 凶 .
象 曰 : 日 昃 之 離 . 何 可 久 也 .
Cửu tam. Nhật trắc chi Ly. Bất cổ phẫu nhi ca. Tắc đại điệt chi ta. Hung.
Tượng viết.
Nhật trắc chi Ly. Hà khả cửu dã.
Dịch.
Mặt trời đã xế ngang đầu.
Sao không gõ chậu, ca âu thanh nhàn.
Đời người còn được mấy gang,
Cái già xộc đến, phàn nàn nỗi chi.
Hào Ba chủ trương, khi đã già, khi mặt trời đã xế bóng, con người nên quẳng bớt gánh lo, thoát ly mọi tần phiền của thế sự, mà sống hồn nhiên trong cái vui Trời. Nếu lúc già cả, mà lòng chưa được an vui, còn xót xa, ta thán, thời khổ biết mấy mươi.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 : 突 如 其 來 如 . 焚 如 . 死 如 . 棄 如 .
象 曰 : 突 如 其 來 如 . 無 所 容 也 .
Cửu tứ. Đột như kỳ lai như. Phần như. Tử như. Khí như.
Tượng viết:
Đột như. Kỳ lai như. Vô sở dung dã.
Dịch. Cửu tứ.
Từ đâu vụt đến, lố lăng.
Phừng phừng như muốn đốt phăng ngôi rồng,
Hung hăng sẽ bị tử vong.
Mọi người ruồng rẫy, ai dung cho nào.
Tượng rằng:
Từ đâu vụt đến lố lăng,
Mọi người ruồng rẫy, ai dung cho nào.
Ba Hào trước, đều dạy phải bám víu vào sự công chính, không được quá bám vào cuộc đời nhất là khi đã trở về già. Ba Hào sau, ý muốn thiên về nghĩa nóng nẩy hay sáng láng của quẻ Ly.
Hào Bốn là Dương cương, nên nóng nẩy, muốn tiến lên một cách ào ạt (Đột như kỳ lai như), phừng phừng như muốn thiêu hủy cả đấng quân vương trên mình (Phần như). Làm như vậy, là trái với sự sáng suốt, cho nên sẽ đi đến sự tử vong (Tử như), vì mọi người sẽ ruồng bỏ mình (Khí như).
Như vậy có minh triết, mới bảo thân (Trung Dung XXVII). Còn những người bạo hổ bằng hà, thường bất đắc kỳ tử (LN VII , 10; LN XI, 12).
5. Hào Lục ngũ.
六 五 : 出 涕 沱 若 . 戚 嗟 若 . 吉 .
象 曰 : 六 五 之 吉 . 離 王 公 也 .
Lục ngũ. Xuất thế đà nhược. Thích ta nhược. Cát.
Tượng viết:
Lục ngũ chi cát. Ly vương công dã.
Dịch.
Đầm đìa nước mắt nhỏ sa,
U buồn than thở, rồi ra gặp lành.
Tượng rằng: Lục ngũ gặp lành,
Là vì ngôi vị của mình Vương công.
Hào Năm Âm nhu mà cư Dương vị, thế là thất vị, tuy vẫn đắc trung. Đã thất vị, mà dưới lại không ứng, không có phù ủng (Hào nhị là Hào ứng nhưng là Âm nên không ứng), nay lại ở gần kề Cửu tứ là Dương cương, như ngọn lửa phừng phừng bốc cháy lên để thiêu rụi mình, thời có khác nào một vị quân vương, tuy là hiền đức, nhưng đang bị bạo thần lăng bức đâu. Trong trường hợp ấy, nếu biết lo âu (Xuất thế đà nhược thích ta nhược), thời cũng là may, bởi vì biết lo họa hung, sẽ tiêu trừ được hung họa (cát). Lục ngũ sở dĩ cát, là vì đã được ngôi vị Vương công vậy (Lục ngũ chi cát. Ly Vương Công dã).
6. Hào Thượng Cửu.
上 九 : 王 用 出 征 . 有 嘉 折 首 . 獲 其 匪 丑 . 無 咎 .
象 曰 : 王 用 出 征 . 以 正 邦 也 .
Thượng Cửu. Vương dụng xuất chinh. Hữu gia. Triết thủ. Hoạch phỉ kỳ xú. Vô cữu.
Tượng viết:
Vương dụng xuất chinh. Dĩ chính bang dã.
Dịch.
Vua dùng chinh thảo cũng hay,
Giết người đầu đảng, tha bầy côn quăng.
Giết, tha, minh bạch đàng hoàng,
Việc mình, ai dám phàn nàn, chê bai.
Tượng rằng: Vua dụng xuất chinh.
Cốt là dẹp loạn, trị bình, giang san.
Hào Sáu nói lên sự chinh phạt để đem trị bình lại cho đất nước. Chu Hi cho rằng Hào Thượng Cửu của quẻ Ly tức là sự cương cường quang minh đã lan tới xa, quyền uy đã chấn động, nhưng hình phạt vẫn không bị lạm dụng, là vì chỉ trừng trị kẻ cầm đầu phản loạn (Triết thủ), còn thì tha cho bọn dư đảng (Hoạch phỉ kỳ xú).
ÁP DỤNG QUẺ LY VÀO THỜI ĐẠI
Xưa hay Nay, bất cứ ở thời đại nào cũng vậy, loài người khi mới bắt đầu hiểu biết, đã nhận biết được cái gì là đúng, là sai, là hay, là dở. Nhưng dần dần con người va chạm nhiều với xã hội, rồi bị ô nhiễm, bị tư dục làm mờ mắt, nên sự phán đoán, suy xét dần dần lầm lạc, nên con người cứ từ từ bị sa đọa. Nhất là, đà văn minh vùn vụt tiến, con người bị quá nhiều nhu cầu vật chất đòi hỏi, và phải cố đáp ứng nhu cầu cho đầy đủ như: xe hơi, tủ lạnh, bếp ga, máy lạnh v.v... Những thứ này lại còn biết bao thứ bên cạnh nó như: có xe hơi, phải mua bảo hiểm, mua xăng chạy xe, có tủ lạnh thì phải lo tiền điện hàng tháng v.v..., đó là chưa kể thời gian càng văn minh, thì con người làm việc càng như cái máy, do đó cũng cần phải nghỉ ngơi, tẩm bổ cho cơ thể lại sức, nên con người lại cần phải lo kiếm tiền cho nhiều, rồi từ cái này dần đến cái khác, con người bị sa đọa lúc nào không hay, có nhiều lúc bừng tỉnh lại, thấy mình cũng quá đáng, nhưng vì bản năng quá yếu hèn, hoặc nhu cầu vật chất đòi hỏi quá mạnh, nên lương tri chỉ vụt qua, mà không ở lại được.
Nên nếu ta ở vào thời buổi văn minh này, mà ta thắng được vật dục cám dỗ, không để con người ta bị sa đoạ, lỗi lầm, như vậy là ta luôn theo được đường công chính, ngay thẳng. Ngay thẳng từ suy nghĩ tới việc làm, đó là ta đã đi được quá nửa đường của Thánh nhân vậy.
Đến tuổi xế chiều, ta từ từ bỏ bớt công việc ngoài đời, lo việc tu thân, và nên luôn tự hỏi: Ta là ai? Từ đâu tới? Và cố gắng trở về nơi cội nguồn của mình một cách tự hào, thanh thản, lo việc giúp người, giúp đời một cách vô tư như mình thở khí Trời vậy, và với nụ cười luôn nở trên môi. Nếu là người có kiến thức sâu rộng, hiểu biết hơn người, nên lo viết sách dạy dân, truyền lại sự hiểu biết cho người đời sau. Đó là ta đã biết đi đúng đường Trời, đó là ta đã có vẻ sáng chung quanh như quẻ Ly đơn vậy.
Còn nếu như ta dùng cái thông minh, tài giỏi của ta, để mưu cầu tư lợi, cưỡng đoạt của người, hoặc hãm hại người để tranh quyền, đoạt vị, thì ta đã đi lầm đường, trước sau gì ta cũng bị suy vong, nếu không thì sẽ bị miệng thế cười chê. Thật không đáng vậy!
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
2 HỎA SƠN LỮ
HỎA SƠN LỮ
Lữ Tự Quái
旅 序 卦
Phong giả đại dã.
豐 者 大 也
Cùng đại giả tất thất kỳ cư.
窮 大 者 必 失 其 居
Cố thụ chi dĩ Lữ.
故 受 之 以 旅
Lữ Tự Quái
Phong là phong đại, lẽ nào chẳng to.
Quá to sẽ mất sở cư,
Cho nên Quẻ Lữ bây chừ tiếp theo.
Phong doanh, thái thịnh quá sẽ mất sự an tĩnh, cho nên sau quẻ Phong là quẻ Lữ. Lữ là lữ thứ, lữ hành.
Lữ trên là Ly, là lửa; Dưới là Cấn, là núi,là ngưng nghỉ. Lửa bay đi, không ở yên một chỗ, nên gọi là Lữ.
I. Thoán.
Thoán từ.
旅 . 小 亨 . 旅 貞. 吉 .
Lữ. Tiểu hanh. Lữ trinh. Cát.
Dịch.
Lữ là lữ thứ, lữ hành,
Trông mong chút đỉnh thông hanh được rồi.
Chiếc thân lữ thứ quê người.
Sao cho chính đáng, âu thời mắn may.
Đã lữ thứ, tha phương, dĩ nhiên là chẳng được hanh thông cho lắm, nên phải minh chính, mới hay.
Thoán Truyện.
彖 曰 . 旅 . 小 亨 . 柔 得 中 乎 外 . 而 順 乎 剛 . 止 而 麗 乎 明 . 是 以 小 亨 . 旅 貞 吉 也 . 旅 之 時 義 大 矣 哉 .
Lữ. Tiểu hanh. Nhu đắc trung hồ ngoại. Nhi thuận hồ cương. Chỉ nhi lệ hồ minh. Thị dĩ tiểu hanh. Lữ trinh cát dã. Lữ chi thời nghĩa đại hỹ tai.
Dịch. Thoán rằng:
Lữ thứ, lữ hành,
Cầu mong chút đỉnh thông hanh được rồi,
Nhu mì, trung chính với ngoài,
Và còn thuận phục những người quyền uy,
Luôn luôn cư xử hợp nghì,
Luôn luôn sáng suốt, tế vi, tinh tường.
Cho nên khỏi chuyện nhỡ nhàng,
Lữ là minh chính, mới ngoan, mới lành.
Trong khi lữ thứ, phiêu linh,
Ở ăn đúng mức, tài đành lớn lao.
Thoán Truyện bàn về lối cư xử cần phải có khi tha hương lữ thứ. Thoán cho rằng: Lữ thứ giỏi lắm là được mát mặt, an thân, chứ không thể nào thỏa chí vẫy vùng như nguyện được. Đi ra ngoài, phải biết nhu thuận, từ tốn, xử sự cho khéo léo (Nhu đắc trung hồ ngoại), lại phải biết chiều ý người có quyền thế ở nơi mình cư ngụ (Nhi thuận hồ cương). Phải xử sự cho sáng suốt (Chỉ nhi lệ hồ minh), như vậy mới được xong xả, hẳn hoi (Thị dĩ tiểu hanh).
Có xử sự cho hay, cho phải, thì mới được an lành khi lữ thứ (Lữ trinh cát dã). Biết xử sự khi lưu lạc nước người, thực là một chuyện lớn vậy (Lữ chi thời nghĩa đại hỹ tai ).
Tha hương, lữ thứ khó sống, là vì hoàn cảnh hoàn toàn mới lạ, bạn bè thân thích hầu như không có, giá trị của mình ít người biết đến; ấy là chưa kể bị chèn ép, thiếu phương tiện sinh nhai v.v...
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết.
象 曰 . 山 上 有 火 . 旅 . 君 子 以 明 慎 用 刑 . 而 不 留 獄.
Sơn thượng hữu hỏa. Lữ. Quân tử dĩ minh thận dụng hình. Nhi bất lưu ngục.
Dịch. Tượng rằng:
Lữ là lửa cháy đầu non,
Ngục hình quân tử chăm nom tận tường,
Phân minh cẩn trọng đôi đường,
Ngục tù đâu phải nơi trường cửu đâu ?
Trên núi có lửa là Lữ, người quân tử theo đấy sẽ sáng suốt, thận trọng khi ra hình phạt, và không kéo dài các vụ hình án, giam cứu.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Các Hào dạy cách cư xử khi lữ thứ. Lưu lạc ở nước ngoài, phải mềm dẻo, chứ không được cứng cỏi. Nhưng không vì thế mà có những cử chỉ hèn hạ (Hào Sơ).
Khi tha hương, cần phải có nơi trú ngụ, có tiền tiêu dùng, có khí giới phòng thân, nếu được có tôi tớ hầu hạ càng hay, lại cần phải được lòng người trên, người dưới.
Thời Xuân Thu, tha hương, lữ thứ là chuyện thường xẩy ra. Điển hình nhất là trường hợp Tấn Văn Công khi còn hàn vi, và Khổng Tử khi chu du Liệt quốc.
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 旅 瑣 瑣 . 斯 其 所 取 災 .
象 曰 . 旅 瑣 瑣 . 志 窮 災 也 .
Sơ Lục.
Lữ tỏa tỏa. Tư kỳ sở thủ tai.
Tượng viết:
Lữ tỏa tỏa. Chí cùng tai dã.
Dịch. Sơ Lục.
Lữ mà đốn mạt, hư hèn,
Thế thời tai họa chuốc liền vào thân.
Tượng rằng: Lữ thứ hư hèn,
Lo quanh, lo quẩn, mắc liền họa tai.
Sơ Lục Âm nhu, sống cuộc đời lữ thứ, mà lại ở địa vị quá thấp. Một người tha hương, mà tư cách lại hèn kém Tỏa tỏa là ti tiện, hèn kém (Lữ tỏa tỏa), thì chỉ có thể chuốc lấy tai ương (Tư kỳ sở thủ tai).
Hào Sơ tài hèn, vị kém, chí khí cũng ươn hèn, cho nên mới lo quanh, tính quẩn, và bị tai họa (Lữ tỏa tỏa. Chí cùng tai dã).
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 旅 即 次 . 懷 其 資 . 得 童 仆 貞 .
象 曰 . 得 童 仆 貞 . 終 無 尤 也 .
Lục nhị.
Lữ tức thứ. Hoài kỳ tư. Đắc đồng bộc trinh.
Tượng viết:
Đắc đồng bộc trinh. Chung vô vưu dã.
Dịch.
Lữ mà có chốn nghỉ ngơi,
Có tiền chi dụng, có người tớ trung.
Tượng rằng: Có tớ trung cang,
Rồi ra sẽ khỏi phàn nàn, kêu ca.
Lục nhị nhu thuận, đắc trung, đắc chính, nên tượng trưng cho một người lữ thứ. Người xưa lưu lạc, thường được nhờ những gia thần tốt. Loan Doanh, đại thần nước Tấn, bị hàm oan, phải trốn sang nước ngoài. Gia thần là Tân Du, liền thâu nhập gia tài mình, chở hai, ba xe ra ngoài thành để đi theo Loan Doanh. Vì có lệnh cấm không được cho ai theo Loan Doanh, nên Tân Du bị quân sĩ giải tới Tấn Vương.
Tân Du viện cớ đã ba đời làm tôi cho nhà họ Loan, nên nhất định xin đi theo Loan, để trọn tình chung thủy với chủ lúc hoạn nạn. Tấn vương thấy Tân Du là người trung nghĩa, nên muốn giữ lại làm quan với mình, nhưng Tân du một mực xin đi, Tấn Vương đành phải cho phép.
Lại như Tấn Văn Công, lưu lạc xứ người, đã được bọn Triệu Thôi, Tư Thần, Ngụy Thù, Hồ Mao, Hồ Yển, Giới Tử Thôi v.v... theo phò tá, nên sau đã lập nên nghiệp bá. (Xem Đông Chu Liệt quốc, trg, 366- 367)
Tượng Truyện không nhắc tới nhà cửa, tiền bạc, mà chỉ nhắc tới đầy tớ trung nghĩa. Mới hay, người trọng hơn của. Được đầy tớ trung kiên, cuối cùng cũng không ai trách móc mình được gì cả (Đắc đồng bộc trinh. Chung vô vưu dã).
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 旅 焚 其 次 . 喪 其 童 仆 . 貞 厲 .
象 曰 . 旅 焚 其 次 . 亦 以 傷 矣 . 以 旅 與 下 . 其 義 喪 也 .
Cửu tam.
Lữ phần kỳ thứ. Táng kỳ đồng bộc. Trinh lệ.
Tượng viết:
Lữ phần kỳ thứ. Diệc dĩ thương hĩ. Dĩ lữ dữ hạ. Kỳ nghĩa táng dã.
Dịch.
Lữ hành nhà trọ cháy tiêu,
Mà xem tôi tớ, có chiều ngãng ra.
Thế là lâm cảnh nguy cơ.
Tượng rằng: Lữ quán cháy tiêu,
Chiếc thân lữ thứ, lắm điều rủi ro.
Tôi đòi mình chẳng mặn mà,
Tình thày, nghĩa tớ, hỏi là còn chi.
Khi tha hương, lữ thứ, phải nhu thuận, khéo ăn, khéo ở mới hay. Đằng này Cửu tam lại cứng cỏi, vụng xử, cao ngạo (Vì Tam ở trên cùng quẻ Cấn. Cấn là núi, mà núi thì cao ngạo), vì thế nên mất lòng người trên, có khác nào như quán xá bị đốt, làm sao mà ở yên được (Lữ phần kỳ thứ). Hơn nữa, lại cũng mất lòng kẻ dưới (Táng kỳ đồng bộc). Như vậy, dẫu mình ngay thẳng mấy cũng lâm nguy (Trinh lệ).
Lúc lữ thứ mà không có nơi ăn, chốn ở, dĩ nhiên là bị khốn khổ, bị thương tổn (Lữ phần kỳ thứ. Diệc dĩ thương hĩ).
Trong khi tha hương, lữ thứ mà còn cao ngạo, còn đối với người dưới không ra gì (Dĩ lữ dữ hạ), thì làm sao mà chẳng mất lòng họ, làm sao mà tôi tớ chẳng bỏ mình (Kỳ nghĩa táng dã).
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 旅 于 處 . 得 其 資 斧 . 我 心 不 快 .
象 曰 . 旅 于 處 . 未 得 位 也 . 得 其 資 斧 . 心 未 快 也 .
Cửu tứ.
Lữ vu xử. Đắc kỳ tư phủ. Ngã tâm bất khoái.
Tượng viết:
Lữ vu xử. Vị đắc vị dã. Đắc kỳ tư phủ. Tâm vị khoái dã.
Dịch.
Lữ mà có chốn ở ăn,
Tiền nong, khí giới phòng thân đàng hoàng.
Thế mà tâm vẫn chẳng an.
Tượng rằng:
Lữ tuy có chốn ở ăn,
Vị ngôi chưa được thập phần hẳn hoi.
Tiền nong, khí giới sẵn rồi,
Nhưng mà lòng vẫn bồi hồi chửa yên.
Cửu tứ tuy cương mà biết xử nhu (Cương Hào cư Âm vị), lại ở dưới cùng Thượng quái, như vậy là người biết khu xử (Lữ vu xử). Dưới ứng với Sơ Lục, trên thời kề cận với Lục ngũ là người quyền quí, như vậy có khác nào một người lữ thứ mà có tiền bạc tiêu xài (Đắc kỳ tư), có khí giới phòng thân (Phủ) đâu?
Tuy nhiên, Cửu tứ vì vị ngôi không chính đáng, nên chẳng bao giờ được vừa lòng; cũng như người lưu lạc quê người, dầu ăn sung, mặc sướng, nhưng vẫn cảm thương cho thân phận lạc loài, vẫn thờ ơ với hoàn cảnh, vẫn phải đóng vai bàng quan, đình đám người mẹ con ta, nên không bao giờ vui được (Ngã tâm bất khoái). Người lữ thứ buồn khổ chính là vì phải đóng vai trò bất đắc dĩ, và ở trong một hoàn cảnh giả tạo (Lữ vu xử. Vị đắc vị dã. Đắc kỳ tư phủ. Tâm vị khoái dã).
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 射 雉 一 矢 亡 . 終 以 譽 命 .
象 曰 . 終 以 譽 命 . 上 逮 也 .
Lục ngũ.
Xạ trĩ. Nhất thỉ vong. Chung dĩ dự dã.
Tượng viết:
Chung dĩ dự mệnh. thượng đãi dã.
Dịch.
Bắn chim trĩ, mất một tên,
Rồi ra danh giá, chức quyền ung dung.
Tượng rằng:
Rồi ra danh giá, chức quyền,
Thế là đã bước được lên trên rồi.
Lục ngũ văn minh, nhu thuận, mà lại đắc trung. Minh nên quán triệt nhân tình, Nhu nên xử sự hợp thời, hợp cảnh, cho nên trên, dưới đều bằng lòng. Mình khéo, mình hay nên sau sẽ được danh giá, phúc lộc (Xạ trĩ nhất thỉ vong. chung dĩ dự mệnh). Người xưa, đi đến đâu thường dùng một con chim trĩ để nạp lễ tương kiến. Mất một mũi tên, bắn được con chim trĩ, làm lễ vật tương kiến, mà được danh giá, may mắn, chẳng hay lắm sao?
Tượng cho rằng: Cửu ngũ được may mắn, là vì được cấp trên cố cập đến (Thượng đãi) (Trình tử giải).
Phan Bội Châu giải Thượng đãi là tiến lên ngôi tột bậc. Cửu ngũ đây không phải là ngôi vua, vì vua mà tha hương thì cũng mất chức vị. Trùng Nhĩ cùng tùng giả sang Tần. Tần Mục Công muốn gả Hoài Doanh là con mình cho Trùng Nhĩ. Hoài Doanh trước đã lấy Thế Tử Ngữ, nên Trùng Nhĩ ý không muốn lấy. Các gia thần bàn rằng nếu muốn trở về làm vua nước Tấn sau này, thì phải lấy Hoài Doanh; nếu cứ bo bo tiết nhỏ, ắt sẽ mất việc to, sau e ăn năn chẳng kịp. Trùng Nhĩ mới khứng chịu. Quả nhiên sau này, Tần Mục Công giúp Trùng Nhị trở về làm vua nước Tấn.
Thế thực là: Nhất thỉ vong. Chung dĩ dự mệnh. Mất một mũi tên, mà sau nên danh giá (Xem Đông Chu Liệt Quốc, Võ Minh Trí dịch, trg 457).
6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 鳥 焚 其 巢 . 旅 人 先 笑 后 號 啕 . 喪 牛 于 易 . 凶 .
象 曰 . 以 旅 在 上 . 其 義 焚 也 . 喪 牛 于 易 . 終 莫 之 聞 也 .
Thượng Cửu.
Điểu phần kỳ sào. Lữ nhân tiên tiếu hậu Hào đào. Táng ngưu vu dị. Hung.
Tượng viết:
Dĩ lữ tại thượng. Kỳ nghĩa phần dã. Táng ngưu vu dị.
Chung mạc chi văn dã.
Dịch.
Chim mà đánh cháy tổ mình,
Lữ nhân cười trước, âu đành khóc sau,
Khinh tâm, để xổng mất trâu,
Thế thời hung họa, có đâu tốt lành.
Tượng rằng:
Lữ mà ăn chốc, ngồi trên,
Thế là nhen nhúm lửa ghen tức mình.
Mất trâu, vì tội coi khinh,
Chẳng còn nghe thấy lời lành, lời hay.
Thượng Cửu ở địa vị cao quí, lại cứng cỏi (Dương cương), cao ngạo, thì làm sao mà được lòng người, làm sao mà an thân được, có khác nào con chim bị cháy tổ đâu? (Điểu phần kỳ sào). Sống nơi đất khách mà cư xử như vậy, ắt sẽ trước vui, sau buồn, trước cười sau khóc (Lữ nhân tiên tiếu hậu Hào đào). Gặp lúc thư thái dễ chịu, mà bỏ mất cách cư xử nhu thuận của mình, thời chắc không hay (Táng ngưu vu dị. Hung). Ngưu là trâu, nghĩa bóng là nhu thuận.
Ở thời Lữ, mà tự tôn, tự đại, thì dĩ nhiên gặp tai hoạ, có khác nào con chim bị đốt tổ đâu? (Dĩ lữ tại thượng. Kỳ nghĩa phần dã). Khi đã cao ngạo, khi đã mất sự mềm dẻo, uyển chuyển, sẽ khăng khăng một mực, ai mà can ngăn được? (Táng ngưu vu dị. Chung mạc chi văn dã).
ÁP DỤNG QUẺ LỮ VÀO THỜI ĐẠI
Ngày nay, cả triệu người Việt đang sống trong cảnh lữ thứ tha hương. Sống nơi xứ người, đừng nên đòi hỏi cao quá, phải hòa mình với người bản xứ mà làm ăn, miễn sao gia đình được đầy đủ, con cái được ăn học là may lắm rồi. Đừng luyến tiếc dĩ vãng, đừng mơ mộng tương lai quá cao, mà phải biết sống với thực tại. Phải luôn luôn giữ nhân cách của mình, đừng làm gì quá đáng để người bản xứ khinh mình, do đó coi thường dân tộc mình.
Nếu may mắn, ta có một chút địa vị trong xã hội, thì ta đừng nên kiêu căng phách lối, vì dù ta có giầu sang đến đâu chăng nữa, thì ta cũng chỉ mới lo được cho vợ con ta, chưa chắc gì đã lo được cho cha mẹ, anh em, đừng nói chi đến quốc gia xã hội. Thế nhưng đã có những người chưa có danh vọng gì gọi là tiếng tăm, chưa có tiền bạc gì nhiều gọi là giầu có, chưa có đức độ gì gọi là vị vọng, thì đã lên mặt, ra oai với người đồng chủng. Lại có những người, lợi dụng những người trình độ còn thấp kém, buôn thần, bán thánh, lừa bịp thiên hạ. Hơn nữa có người lại luôn muốn trèo đầu, cưỡi cổ thiên hạ, tự coi mình như là nguyên thủ quốc gia của những người dân lữ thứ, để mưu lợi công danh, tài lộc cho cá nhân mình, mà họ không bao giờ tự hỏi họ đã có tài đức gì, và tương lai họ có thể mang lại gì cho dân.
Cho nên, tốt hơn hết chúng ta đừng bao giờ ở trong các loại người học vấn nửa mùa, văn dốt, vũ dát, mà lại kiêu căng, phách lối trên. Làm bậy bạ, hậu quả không chóng thì chầy, cũng bị tai hoạ mà thôi.
Lúc buổi đầu, ta sẽ gặp khó khăn khi mới lập nghiệp, vì xứ lạ quê người, tiếng nói bản xứ còn chưa quen, nhưng dần dà mỗi ngày mỗi hơn, cái quan trọng của đời ta không phải ở nơi đâu, mà ngay trong gia đình ta. Ta phải cố gắng tạo một mái gia đình ấm cúng, giáo dục con cái cho đàng hoàng, để họ trở nên những phần tử có ích cho nhà, cho nước mai sau. Còn như, nếu gia đình ta, ta còn không lo nổi, vợ con ta còn không kính trọng ta, con cái ta còn là những phần tử bụi đời, lưu manh, du đãng, bản thân ta còn chưa có nghề nghiệp vững vàng, còn phải trông vào sự trợ giúp của nước bạn, thì sao ta có thể đòi đứng lên xây dựng một quốc gia? Ai tin? Ai theo?. Phải chăng có phải đó là tự lừa người, lừa mình không? Tóm lại, người lữ thứ, tha hương nên biết Tri túc, Tiện túc, cố gắng học hỏi, cầu tiến để không thua kém người dân bản xứ, đó là may mắn lắm rồi vậy.
HỎA SƠN LỮ
Lữ Tự Quái
旅 序 卦
Phong giả đại dã.
豐 者 大 也
Cùng đại giả tất thất kỳ cư.
窮 大 者 必 失 其 居
Cố thụ chi dĩ Lữ.
故 受 之 以 旅
Lữ Tự Quái
Phong là phong đại, lẽ nào chẳng to.
Quá to sẽ mất sở cư,
Cho nên Quẻ Lữ bây chừ tiếp theo.
Phong doanh, thái thịnh quá sẽ mất sự an tĩnh, cho nên sau quẻ Phong là quẻ Lữ. Lữ là lữ thứ, lữ hành.
Lữ trên là Ly, là lửa; Dưới là Cấn, là núi,là ngưng nghỉ. Lửa bay đi, không ở yên một chỗ, nên gọi là Lữ.
I. Thoán.
Thoán từ.
旅 . 小 亨 . 旅 貞. 吉 .
Lữ. Tiểu hanh. Lữ trinh. Cát.
Dịch.
Lữ là lữ thứ, lữ hành,
Trông mong chút đỉnh thông hanh được rồi.
Chiếc thân lữ thứ quê người.
Sao cho chính đáng, âu thời mắn may.
Đã lữ thứ, tha phương, dĩ nhiên là chẳng được hanh thông cho lắm, nên phải minh chính, mới hay.
Thoán Truyện.
彖 曰 . 旅 . 小 亨 . 柔 得 中 乎 外 . 而 順 乎 剛 . 止 而 麗 乎 明 . 是 以 小 亨 . 旅 貞 吉 也 . 旅 之 時 義 大 矣 哉 .
Lữ. Tiểu hanh. Nhu đắc trung hồ ngoại. Nhi thuận hồ cương. Chỉ nhi lệ hồ minh. Thị dĩ tiểu hanh. Lữ trinh cát dã. Lữ chi thời nghĩa đại hỹ tai.
Dịch. Thoán rằng:
Lữ thứ, lữ hành,
Cầu mong chút đỉnh thông hanh được rồi,
Nhu mì, trung chính với ngoài,
Và còn thuận phục những người quyền uy,
Luôn luôn cư xử hợp nghì,
Luôn luôn sáng suốt, tế vi, tinh tường.
Cho nên khỏi chuyện nhỡ nhàng,
Lữ là minh chính, mới ngoan, mới lành.
Trong khi lữ thứ, phiêu linh,
Ở ăn đúng mức, tài đành lớn lao.
Thoán Truyện bàn về lối cư xử cần phải có khi tha hương lữ thứ. Thoán cho rằng: Lữ thứ giỏi lắm là được mát mặt, an thân, chứ không thể nào thỏa chí vẫy vùng như nguyện được. Đi ra ngoài, phải biết nhu thuận, từ tốn, xử sự cho khéo léo (Nhu đắc trung hồ ngoại), lại phải biết chiều ý người có quyền thế ở nơi mình cư ngụ (Nhi thuận hồ cương). Phải xử sự cho sáng suốt (Chỉ nhi lệ hồ minh), như vậy mới được xong xả, hẳn hoi (Thị dĩ tiểu hanh).
Có xử sự cho hay, cho phải, thì mới được an lành khi lữ thứ (Lữ trinh cát dã). Biết xử sự khi lưu lạc nước người, thực là một chuyện lớn vậy (Lữ chi thời nghĩa đại hỹ tai ).
Tha hương, lữ thứ khó sống, là vì hoàn cảnh hoàn toàn mới lạ, bạn bè thân thích hầu như không có, giá trị của mình ít người biết đến; ấy là chưa kể bị chèn ép, thiếu phương tiện sinh nhai v.v...
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết.
象 曰 . 山 上 有 火 . 旅 . 君 子 以 明 慎 用 刑 . 而 不 留 獄.
Sơn thượng hữu hỏa. Lữ. Quân tử dĩ minh thận dụng hình. Nhi bất lưu ngục.
Dịch. Tượng rằng:
Lữ là lửa cháy đầu non,
Ngục hình quân tử chăm nom tận tường,
Phân minh cẩn trọng đôi đường,
Ngục tù đâu phải nơi trường cửu đâu ?
Trên núi có lửa là Lữ, người quân tử theo đấy sẽ sáng suốt, thận trọng khi ra hình phạt, và không kéo dài các vụ hình án, giam cứu.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
Các Hào dạy cách cư xử khi lữ thứ. Lưu lạc ở nước ngoài, phải mềm dẻo, chứ không được cứng cỏi. Nhưng không vì thế mà có những cử chỉ hèn hạ (Hào Sơ).
Khi tha hương, cần phải có nơi trú ngụ, có tiền tiêu dùng, có khí giới phòng thân, nếu được có tôi tớ hầu hạ càng hay, lại cần phải được lòng người trên, người dưới.
Thời Xuân Thu, tha hương, lữ thứ là chuyện thường xẩy ra. Điển hình nhất là trường hợp Tấn Văn Công khi còn hàn vi, và Khổng Tử khi chu du Liệt quốc.
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 旅 瑣 瑣 . 斯 其 所 取 災 .
象 曰 . 旅 瑣 瑣 . 志 窮 災 也 .
Sơ Lục.
Lữ tỏa tỏa. Tư kỳ sở thủ tai.
Tượng viết:
Lữ tỏa tỏa. Chí cùng tai dã.
Dịch. Sơ Lục.
Lữ mà đốn mạt, hư hèn,
Thế thời tai họa chuốc liền vào thân.
Tượng rằng: Lữ thứ hư hèn,
Lo quanh, lo quẩn, mắc liền họa tai.
Sơ Lục Âm nhu, sống cuộc đời lữ thứ, mà lại ở địa vị quá thấp. Một người tha hương, mà tư cách lại hèn kém Tỏa tỏa là ti tiện, hèn kém (Lữ tỏa tỏa), thì chỉ có thể chuốc lấy tai ương (Tư kỳ sở thủ tai).
Hào Sơ tài hèn, vị kém, chí khí cũng ươn hèn, cho nên mới lo quanh, tính quẩn, và bị tai họa (Lữ tỏa tỏa. Chí cùng tai dã).
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 旅 即 次 . 懷 其 資 . 得 童 仆 貞 .
象 曰 . 得 童 仆 貞 . 終 無 尤 也 .
Lục nhị.
Lữ tức thứ. Hoài kỳ tư. Đắc đồng bộc trinh.
Tượng viết:
Đắc đồng bộc trinh. Chung vô vưu dã.
Dịch.
Lữ mà có chốn nghỉ ngơi,
Có tiền chi dụng, có người tớ trung.
Tượng rằng: Có tớ trung cang,
Rồi ra sẽ khỏi phàn nàn, kêu ca.
Lục nhị nhu thuận, đắc trung, đắc chính, nên tượng trưng cho một người lữ thứ. Người xưa lưu lạc, thường được nhờ những gia thần tốt. Loan Doanh, đại thần nước Tấn, bị hàm oan, phải trốn sang nước ngoài. Gia thần là Tân Du, liền thâu nhập gia tài mình, chở hai, ba xe ra ngoài thành để đi theo Loan Doanh. Vì có lệnh cấm không được cho ai theo Loan Doanh, nên Tân Du bị quân sĩ giải tới Tấn Vương.
Tân Du viện cớ đã ba đời làm tôi cho nhà họ Loan, nên nhất định xin đi theo Loan, để trọn tình chung thủy với chủ lúc hoạn nạn. Tấn vương thấy Tân Du là người trung nghĩa, nên muốn giữ lại làm quan với mình, nhưng Tân du một mực xin đi, Tấn Vương đành phải cho phép.
Lại như Tấn Văn Công, lưu lạc xứ người, đã được bọn Triệu Thôi, Tư Thần, Ngụy Thù, Hồ Mao, Hồ Yển, Giới Tử Thôi v.v... theo phò tá, nên sau đã lập nên nghiệp bá. (Xem Đông Chu Liệt quốc, trg, 366- 367)
Tượng Truyện không nhắc tới nhà cửa, tiền bạc, mà chỉ nhắc tới đầy tớ trung nghĩa. Mới hay, người trọng hơn của. Được đầy tớ trung kiên, cuối cùng cũng không ai trách móc mình được gì cả (Đắc đồng bộc trinh. Chung vô vưu dã).
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 旅 焚 其 次 . 喪 其 童 仆 . 貞 厲 .
象 曰 . 旅 焚 其 次 . 亦 以 傷 矣 . 以 旅 與 下 . 其 義 喪 也 .
Cửu tam.
Lữ phần kỳ thứ. Táng kỳ đồng bộc. Trinh lệ.
Tượng viết:
Lữ phần kỳ thứ. Diệc dĩ thương hĩ. Dĩ lữ dữ hạ. Kỳ nghĩa táng dã.
Dịch.
Lữ hành nhà trọ cháy tiêu,
Mà xem tôi tớ, có chiều ngãng ra.
Thế là lâm cảnh nguy cơ.
Tượng rằng: Lữ quán cháy tiêu,
Chiếc thân lữ thứ, lắm điều rủi ro.
Tôi đòi mình chẳng mặn mà,
Tình thày, nghĩa tớ, hỏi là còn chi.
Khi tha hương, lữ thứ, phải nhu thuận, khéo ăn, khéo ở mới hay. Đằng này Cửu tam lại cứng cỏi, vụng xử, cao ngạo (Vì Tam ở trên cùng quẻ Cấn. Cấn là núi, mà núi thì cao ngạo), vì thế nên mất lòng người trên, có khác nào như quán xá bị đốt, làm sao mà ở yên được (Lữ phần kỳ thứ). Hơn nữa, lại cũng mất lòng kẻ dưới (Táng kỳ đồng bộc). Như vậy, dẫu mình ngay thẳng mấy cũng lâm nguy (Trinh lệ).
Lúc lữ thứ mà không có nơi ăn, chốn ở, dĩ nhiên là bị khốn khổ, bị thương tổn (Lữ phần kỳ thứ. Diệc dĩ thương hĩ).
Trong khi tha hương, lữ thứ mà còn cao ngạo, còn đối với người dưới không ra gì (Dĩ lữ dữ hạ), thì làm sao mà chẳng mất lòng họ, làm sao mà tôi tớ chẳng bỏ mình (Kỳ nghĩa táng dã).
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 旅 于 處 . 得 其 資 斧 . 我 心 不 快 .
象 曰 . 旅 于 處 . 未 得 位 也 . 得 其 資 斧 . 心 未 快 也 .
Cửu tứ.
Lữ vu xử. Đắc kỳ tư phủ. Ngã tâm bất khoái.
Tượng viết:
Lữ vu xử. Vị đắc vị dã. Đắc kỳ tư phủ. Tâm vị khoái dã.
Dịch.
Lữ mà có chốn ở ăn,
Tiền nong, khí giới phòng thân đàng hoàng.
Thế mà tâm vẫn chẳng an.
Tượng rằng:
Lữ tuy có chốn ở ăn,
Vị ngôi chưa được thập phần hẳn hoi.
Tiền nong, khí giới sẵn rồi,
Nhưng mà lòng vẫn bồi hồi chửa yên.
Cửu tứ tuy cương mà biết xử nhu (Cương Hào cư Âm vị), lại ở dưới cùng Thượng quái, như vậy là người biết khu xử (Lữ vu xử). Dưới ứng với Sơ Lục, trên thời kề cận với Lục ngũ là người quyền quí, như vậy có khác nào một người lữ thứ mà có tiền bạc tiêu xài (Đắc kỳ tư), có khí giới phòng thân (Phủ) đâu?
Tuy nhiên, Cửu tứ vì vị ngôi không chính đáng, nên chẳng bao giờ được vừa lòng; cũng như người lưu lạc quê người, dầu ăn sung, mặc sướng, nhưng vẫn cảm thương cho thân phận lạc loài, vẫn thờ ơ với hoàn cảnh, vẫn phải đóng vai bàng quan, đình đám người mẹ con ta, nên không bao giờ vui được (Ngã tâm bất khoái). Người lữ thứ buồn khổ chính là vì phải đóng vai trò bất đắc dĩ, và ở trong một hoàn cảnh giả tạo (Lữ vu xử. Vị đắc vị dã. Đắc kỳ tư phủ. Tâm vị khoái dã).
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 射 雉 一 矢 亡 . 終 以 譽 命 .
象 曰 . 終 以 譽 命 . 上 逮 也 .
Lục ngũ.
Xạ trĩ. Nhất thỉ vong. Chung dĩ dự dã.
Tượng viết:
Chung dĩ dự mệnh. thượng đãi dã.
Dịch.
Bắn chim trĩ, mất một tên,
Rồi ra danh giá, chức quyền ung dung.
Tượng rằng:
Rồi ra danh giá, chức quyền,
Thế là đã bước được lên trên rồi.
Lục ngũ văn minh, nhu thuận, mà lại đắc trung. Minh nên quán triệt nhân tình, Nhu nên xử sự hợp thời, hợp cảnh, cho nên trên, dưới đều bằng lòng. Mình khéo, mình hay nên sau sẽ được danh giá, phúc lộc (Xạ trĩ nhất thỉ vong. chung dĩ dự mệnh). Người xưa, đi đến đâu thường dùng một con chim trĩ để nạp lễ tương kiến. Mất một mũi tên, bắn được con chim trĩ, làm lễ vật tương kiến, mà được danh giá, may mắn, chẳng hay lắm sao?
Tượng cho rằng: Cửu ngũ được may mắn, là vì được cấp trên cố cập đến (Thượng đãi) (Trình tử giải).
Phan Bội Châu giải Thượng đãi là tiến lên ngôi tột bậc. Cửu ngũ đây không phải là ngôi vua, vì vua mà tha hương thì cũng mất chức vị. Trùng Nhĩ cùng tùng giả sang Tần. Tần Mục Công muốn gả Hoài Doanh là con mình cho Trùng Nhĩ. Hoài Doanh trước đã lấy Thế Tử Ngữ, nên Trùng Nhĩ ý không muốn lấy. Các gia thần bàn rằng nếu muốn trở về làm vua nước Tấn sau này, thì phải lấy Hoài Doanh; nếu cứ bo bo tiết nhỏ, ắt sẽ mất việc to, sau e ăn năn chẳng kịp. Trùng Nhĩ mới khứng chịu. Quả nhiên sau này, Tần Mục Công giúp Trùng Nhị trở về làm vua nước Tấn.
Thế thực là: Nhất thỉ vong. Chung dĩ dự mệnh. Mất một mũi tên, mà sau nên danh giá (Xem Đông Chu Liệt Quốc, Võ Minh Trí dịch, trg 457).
6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 鳥 焚 其 巢 . 旅 人 先 笑 后 號 啕 . 喪 牛 于 易 . 凶 .
象 曰 . 以 旅 在 上 . 其 義 焚 也 . 喪 牛 于 易 . 終 莫 之 聞 也 .
Thượng Cửu.
Điểu phần kỳ sào. Lữ nhân tiên tiếu hậu Hào đào. Táng ngưu vu dị. Hung.
Tượng viết:
Dĩ lữ tại thượng. Kỳ nghĩa phần dã. Táng ngưu vu dị.
Chung mạc chi văn dã.
Dịch.
Chim mà đánh cháy tổ mình,
Lữ nhân cười trước, âu đành khóc sau,
Khinh tâm, để xổng mất trâu,
Thế thời hung họa, có đâu tốt lành.
Tượng rằng:
Lữ mà ăn chốc, ngồi trên,
Thế là nhen nhúm lửa ghen tức mình.
Mất trâu, vì tội coi khinh,
Chẳng còn nghe thấy lời lành, lời hay.
Thượng Cửu ở địa vị cao quí, lại cứng cỏi (Dương cương), cao ngạo, thì làm sao mà được lòng người, làm sao mà an thân được, có khác nào con chim bị cháy tổ đâu? (Điểu phần kỳ sào). Sống nơi đất khách mà cư xử như vậy, ắt sẽ trước vui, sau buồn, trước cười sau khóc (Lữ nhân tiên tiếu hậu Hào đào). Gặp lúc thư thái dễ chịu, mà bỏ mất cách cư xử nhu thuận của mình, thời chắc không hay (Táng ngưu vu dị. Hung). Ngưu là trâu, nghĩa bóng là nhu thuận.
Ở thời Lữ, mà tự tôn, tự đại, thì dĩ nhiên gặp tai hoạ, có khác nào con chim bị đốt tổ đâu? (Dĩ lữ tại thượng. Kỳ nghĩa phần dã). Khi đã cao ngạo, khi đã mất sự mềm dẻo, uyển chuyển, sẽ khăng khăng một mực, ai mà can ngăn được? (Táng ngưu vu dị. Chung mạc chi văn dã).
ÁP DỤNG QUẺ LỮ VÀO THỜI ĐẠI
Ngày nay, cả triệu người Việt đang sống trong cảnh lữ thứ tha hương. Sống nơi xứ người, đừng nên đòi hỏi cao quá, phải hòa mình với người bản xứ mà làm ăn, miễn sao gia đình được đầy đủ, con cái được ăn học là may lắm rồi. Đừng luyến tiếc dĩ vãng, đừng mơ mộng tương lai quá cao, mà phải biết sống với thực tại. Phải luôn luôn giữ nhân cách của mình, đừng làm gì quá đáng để người bản xứ khinh mình, do đó coi thường dân tộc mình.
Nếu may mắn, ta có một chút địa vị trong xã hội, thì ta đừng nên kiêu căng phách lối, vì dù ta có giầu sang đến đâu chăng nữa, thì ta cũng chỉ mới lo được cho vợ con ta, chưa chắc gì đã lo được cho cha mẹ, anh em, đừng nói chi đến quốc gia xã hội. Thế nhưng đã có những người chưa có danh vọng gì gọi là tiếng tăm, chưa có tiền bạc gì nhiều gọi là giầu có, chưa có đức độ gì gọi là vị vọng, thì đã lên mặt, ra oai với người đồng chủng. Lại có những người, lợi dụng những người trình độ còn thấp kém, buôn thần, bán thánh, lừa bịp thiên hạ. Hơn nữa có người lại luôn muốn trèo đầu, cưỡi cổ thiên hạ, tự coi mình như là nguyên thủ quốc gia của những người dân lữ thứ, để mưu lợi công danh, tài lộc cho cá nhân mình, mà họ không bao giờ tự hỏi họ đã có tài đức gì, và tương lai họ có thể mang lại gì cho dân.
Cho nên, tốt hơn hết chúng ta đừng bao giờ ở trong các loại người học vấn nửa mùa, văn dốt, vũ dát, mà lại kiêu căng, phách lối trên. Làm bậy bạ, hậu quả không chóng thì chầy, cũng bị tai hoạ mà thôi.
Lúc buổi đầu, ta sẽ gặp khó khăn khi mới lập nghiệp, vì xứ lạ quê người, tiếng nói bản xứ còn chưa quen, nhưng dần dà mỗi ngày mỗi hơn, cái quan trọng của đời ta không phải ở nơi đâu, mà ngay trong gia đình ta. Ta phải cố gắng tạo một mái gia đình ấm cúng, giáo dục con cái cho đàng hoàng, để họ trở nên những phần tử có ích cho nhà, cho nước mai sau. Còn như, nếu gia đình ta, ta còn không lo nổi, vợ con ta còn không kính trọng ta, con cái ta còn là những phần tử bụi đời, lưu manh, du đãng, bản thân ta còn chưa có nghề nghiệp vững vàng, còn phải trông vào sự trợ giúp của nước bạn, thì sao ta có thể đòi đứng lên xây dựng một quốc gia? Ai tin? Ai theo?. Phải chăng có phải đó là tự lừa người, lừa mình không? Tóm lại, người lữ thứ, tha hương nên biết Tri túc, Tiện túc, cố gắng học hỏi, cầu tiến để không thua kém người dân bản xứ, đó là may mắn lắm rồi vậy.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
3 HỎA PHONG ĐỈNH
HỎA PHONG ĐỈNH
Đỉnh Tự Quái
鼎 序 卦
Cách vật giả mạc nhược Đỉnh.
革 物 者 莫 茹 鼎
Cố thụ chi dĩ Đỉnh.
故 受 之 以
Đỉnh Tự Quái
Đổi thay mọi vật, Đỉnh nay nhất rồi.
Cho nên, Đỉnh mới tiếp ngôi.
Sau quẻ Cách, tiếp đến quẻ Đỉnh. Cách là thay đổi cái cũ, Đỉnh là gây dựng cái mới. Từ thời Đại Võ, Đỉnh là tượng trưng cho sự bền vững của quốc gia. Vì thế Đại Võ đã đúc chín đỉnh. Đến đời Thành Vương nhà Chu, để cửu đỉnh ở Giáp Nhạc. Bói thấy nhà Chu làm vua được 30 đời, và làm 700 năm. Đến năm 23 đời Chu Liệt Vương, Cửu đỉnh tự nhiên giao động, đó là điềm nhà Chu bất an vậy. Đến sau, quả nhiên Tần Thủy Hoàng diệt nhà Chu và đoạt cửu đỉnh.
Quẻ Đỉnh gợi hình ảnh cái Đỉnh.
- Hào Sơ là chân đỉnh
- Hào 2, 3, 4, là lòng đỉnh (để đựng đồ ăn).
- Hào 5 là tai đỉnh.
- Hào 6 là khoen đỉnh
Đỉnh dùng để đựng đồ ăn, trong những dịp tế lễ, yến ẩm, vì thế đỉnh còn gợi lên ý nghĩa dưỡng hiền. Với tất cả ý nghĩa và hình ảnh trên, quẻ Đỉnh bàn về mấy vấn đề chính yếu sau đây:
1. Sau cuộc Cách mạng, cần phải kiến thiết quốc gia, xây dựng một đời sống mới cho dân.
2. Muốn xây dựng một đời sống mới cho dân, nhà vua cần phải anh minh, phải biết trọng dụng nhân tài.
I. Thoán.
Thoán từ.
鼎 . 元 吉 . 亨
Đỉnh. Nguyên cát. Hanh.
Dịch.
Đỉnh dùng nấu nướng, dưỡng nuôi,
Thành toàn tốt đẹp, êm xuôi mọi bề.
Sau cuộc cách mạng, nếu an định được quốc gia, kiến thiết được quốc gia, mới thực là tốt lành. (Đỉnh. Nguyên cát). Như vậy, đời sống quốc gia sẽ được thông suốt (Hanh).
Thoán Truyện.
Thoán viết:
彖 曰 . 鼎 . 象 也 . 以 木 巽 火 . 亨 飪 也 . 聖 人 亨 以 享 上 帝 . 而 大 亨 以 養 聖 賢 . 巽 而 耳 目 聰 明 . 柔 進 而 上 行 . 得 中 而 應 乎 剛 . 是 以 元 亨 .
Đỉnh. Tượng dã. Dĩ mộc tốn hỏa. Phanh nhậm dã. Thánh nhân phanh dĩ hưởng Thượng Đế. Nhi đại phanh dĩ dưỡng Thánh hiền. Tốn nhi nhĩ mục thông minh. Nhu tiến nhi thượng hành. Đắc trung nhi ứng hồ cương. Thị dĩ nguyên hanh.
Dịch. Thoán rằng:
Đỉnh dùng nấu nướng nuôi thân.
Củi đun, lửa nấu, đồ ăn chín mùi.
Thánh nhân dùng vạc tế trời,
Cỗ bàn, yến ẩm dưỡng nuôi Thánh hiền.
Khiêm cung, tai mắt sáng thêm,
Nhu từ phía dưới, tiến lên trên dần.
Xứng ngôi, lại được hiền thần,
Cho nên mới được mọi phần hanh thông.
Thoán Truyện cho rằng: Đỉnh chính là hình ảnh cái đỉnh, cái vạc (Đỉnh tượng dã). Quẻ Đỉnh, trên là Ly, là Hỏa; dưới là Tốn, là gỗ, là cho vào. Vì thế quẻ Đỉnh gợi lên ý nghĩa chụm củi để đốt lửa, để nấu nướng (Dĩ mộc tốn hỏa phanh nhậm dã). Thánh nhân dùng vạc nấu đồ ăn để:
1. Tế lễ Thượng Đế.
2. Khoản đãi Thánh hiền. (Thánh nhân phanh dĩ hưởng Thượng Đế. Nhi đại phanh dĩ dưỡng Thánh hiền.) Thượng Đế cần lòng, không cần của lễ, nên dùng chữ Phanh, Hiền Thánh cần được thù tiếp, nuôi dưỡng cho trịnh trọng, nên dùng chữ Đại phanh.
Muốn cho nước nhà hưng vượng, công trình kiến thiết được hanh thông, nhà vua cần phải minh mẫn, thông tuệ, từ tốn (Tốn nhi nhĩ mục thông minh), mềm dẻo mà tiến bước, ăn ở cho phải đạo, lại được hiền thần giúp đỡ (Nhu tiến nhi thượng hành. Đắc trung nhi ứng hồ cương. Thị dĩ nguyên hanh).
Xưa nay, biết bao nhiêu người có thể lật đổ một chế độ, nhưng đến lúc lên cầm vận mệnh quốc gia, thời không biết lèo lái con thuyền quốc gia ra sao, không biết phải làm gì nữa. Thế là chỉ biết Cách cố, mà không biết Đỉnh tân. Như vậy chỉ tổ làm loạn dân, loạn nước mà thôi. Cái bí quyết thành công trong chương trình kiến thiết quốc gia là nhà vua phải là vị anh quân, hơn nữa là phải biết dùng hiền tài phụ bật.
III. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 木 上 有 火 . 鼎 . 君 子 以 正 位 凝 命 .
Tượng viết:
Mộc thượng hữu hỏa. Đỉnh. Quân tử dĩ chính vị ngưng mệnh.
Dịch. Tượng rằng:
Đỉnh là gỗ có lửa trên,
Hiền nhân chính vị làm nên cuộc đời.
Vị cho cao trọng, mới thôi,
Hoàng trung chính vị, mệnh trời mới ngưng.
Các lời giải thích về Đại Tượng quẻ Đỉnh này rất khác nhau. Người thì giải Mệnh là Mệnh lệnh, người thì giải Mệnh là Mệnh Trời (Chu Hi). Ta chỉ chọn hai cách Dịch, và hai cách Bình.
A. Dịch.
1. Theo Nho: Trên gỗ có lửa là Đỉnh, quân tử phải xếp đặt vị thứ cho hẳn hoi, xác định luật lệ cho nghiêm chỉnh. (Tống Bản Thập Tam Kinh).
2. Theo Lão: Trên gỗ có lửa là Đỉnh, quân tử phải tìm ra địa vị chính đáng của mình, thực hiện cho được định mạng của mình.
B. Bình
1. Bình theo Nho: Khi cuộc Cách mạng đã xong, một cục diện mới đã sinh, thời phải lo chính vị an mệnh. Chính vị là phân tôn ti, cho xã hội có trên, có dưới, phân minh. Ngưng mệnh là xác định luật lệ cho nghiêm chỉnh, xác định đường lối cho rõ ràng, để mọi người cứ đấy mà theo (Tống Bản Thập Tam Kinh). Ví dụ như khi Nasser đã lật đổ Farouk, và lên làm Tổng Thống Ai Cập, liền vạch ra 6 mục tiêu:
1. Phản đế.
2. Đả phong.
3. Bãi bỏ các độc quyền.
4. Thành lập một quân đội mạnh mẽ.
5. Thành lập một chế độ xã hội công bằng.
6. Thành lập một thể chế dân chủ lành mạnh.
Hoặc Tôn Dật Tiên, sau khi lật đổ nhà Mãn Thanh năm 1911, đã lập nên Trung Hoa Dân Quốc với:
*Chủ nghĩa tam dân:
- Dân tộc. Dân sinh. Dân quyền.
* Ngũ Quyền:
- Lập pháp. Hành chánh. Tư pháp. Khảo thí. Giám sát vv...
2. Bình theo Lão. Hiền nhân, quân tử, phải biết lấy cái hữu hình là hoàn cảnh xác thân, tâm tình để dưỡng nuôi cái vô hình là tâm linh. Biến cái hữu thể thành vô thể, vượt tầm kích con người lên tới địa vị thần minh, đó mới là chính vị, là ngôi vị chính đáng của mình, mới là thực hiện được định mệnh cao sang của mình. (Lưu nhất Minh, Chu Dịch Xiển Chân)
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 鼎 顛 趾 . 利 出 否 . 得 妾 以 其 子 . 無 咎 .
象 曰 . 鼎 顛 趾 . 未 悖 也 . 利 出 否 . 以 從 貴 也 .
Sơ Lục.
Đỉnh điên chỉ. Lợi xuất bĩ. Đắc thiếp dĩ kỳ tử. Vô cữu.
Tượng viết:
Đỉnh điên chỉ. Vị bội dã. Lợi xuất bĩ. Dĩ tòng qui dã.
Dịch.
Đỉnh mà chân chổng lên trời,
Lợi là bụi bậm sẽ rơi ra ngoài.
Cát đằng chút phận nhỏ nhoi,
Nếu mà sinh được mụn trai, lỗi gì.
Tượng rằng:
Đỉnh tuy chân chổng lên trời,
Cũng chưa đến nỗi là sai, là lầm.
Lợi là bụi bậm sạch không,
Rồi ra có thể theo dòng thanh tao.
Hào Sơ Lục: Như ta đã thấy, quẻ Đỉnh nói về trọng dụng hiền tài, để kiến thiết quốc gia. Hào Sơ này đại ý nói: Dụng nhân như dụng mộc. Người dở mà biết dùng cũng hóa hay, chẳng khác nào Đỉnh chổng chân, giúp ta vét được bụi bậm bám trong lòng đỉnh (Đỉnh điên chỉ. Lợi xuất bĩ), hoặc như có vợ lẽ cũng có thể sinh quí tử cho chồng (Đắc thiếp dĩ kỳ tử). Tóm lại, biết dùng thời dở cũng hóa hay, cho nên không gì đáng trách (Vô cữu).
Nên, thấy người dùng kẻ dở, vị tất đã là người quấy, cũng như thấy Đỉnh chổng chân lên trời, vị tất đã là điều nghịch lý (Đỉnh điên chỉ. Vị bội dã). Điều phải xét, là người được dùng có làm nên việc hay chăng, cũng như xét xem Đỉnh chổng chân, có phải là để vét bụi ra không? Cái quí là ở chỗ hợp thời, hợp cảnh.(Lợi xuất bĩ. Dĩ tòng quí dã).
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 鼎 有 實 . 我 仇 有 疾 . 不 我 能 即 . 吉 .
象 曰 . 鼎 有 實 . 慎 所 之 也 . 我 仇 有 疾 . 終 無 尤 也 .
Cửu nhị.
Đỉnh hữu thực. Ngã cừu hữu tật. Bất ngã năng tức. Cát.
Tượng viết:
Đỉnh hữu thực. Thận sở chi dã. Ngã cừu hữu tật. Chung vô vưu dã.
Dịch.
Vạc đầy ăm ắp thức ăn,
Ta đây có kẻ để tâm giận hờn.
Giận ta, nhưng chẳng dám nhờn,
Chẳng điều gần gũi, bờm sơm tốt rồi.
Tượng rằng: Vạc có thức ăn,
Đường đi nước bước, để tâm lo lường,
Với ta có kẻ chẳng thương,
Nhưng mà họ chẳng có đường trách ta.
Hào Cửu nhị: Quân tử ra giúp đời, gánh vác trách nhiệm xây dựng đất nước, cũng như cái Đỉnh có nhiều đồ ăn (Đỉnh hữu thực). Khi Đỉnh có chức, có quyền, thường bị tiểu nhân ghen ghét, tật đố (Ngã cừu hữu tật). Ngã cừu nghĩa là thù oán với ta, Hữu tật nghĩa là có lòng ghen ghét. Trong trường hợp này, ta phải lập nghiêm, đừng cho họ bén mảng đến gần (Bất ngã năng tức), được vậy sẽ tốt lành (Cát). Tức đây nghĩa là đến gần. Mới hay, những người có tài, có đức, y như Đỉnh đầy đồ ăn (Đỉnh hữu thực), có lo chi không được đời trọng dụng. Tuy nhiên, cũng phải cẩn trọng trong đường đi, nước bước của mình (Thận sở chi dã). Như vậy, nếu thù địch mình có ghen ghét mình (Ngã cừu hữu tật), cuối cùng cũng chẳng làm gì được mình (Chung vô vưu dã).
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 鼎 耳 革 . 其 行 塞 . 雉 膏 不 食 . 方 雨 虧 悔 . 終 吉 .
象 曰 . 鼎 耳 革 . 失 其 義 也 .
Củu tam.
Đỉnh nhĩ cách. Kỳ hành tắc. Trĩ cao bất thực.
Phương vũ khuy hối. Chung cát.
Tượng viết:
Đỉnh nhĩ cách. Thất kỳ nghĩa dã.
Dịch.
Vạc mà đang đổi thay tai,
Thế là bế tắc, khó rời chân đi.
Quí như mỡ trĩ còn chê,
Mưa rơi, mới hết ủ ê, phàn nàn.
Cuối cùng, cũng sẽ chu toàn,
Rồi ra cũng sẽ được an, được lành.
Tượng rằng: Vạc đổi thay tai,
Thế là nghĩa lý, mất rồi còn đâu.
Cửu tam tượng trưng một người anh hùng hữu tài, hữu đức, mà chưa đạt thời, đạt vận, chưa được bậc quân vương biết đến, như vậy có khác nào một chiếc đỉnh đựng đầy của ngon, vật lạ như mỡ trĩ, mà vì đỉnh đang thay tai, không thể khiêng đi được, nên chẳng được ai ăn (Đỉnh nhĩ cách. Kỳ hành tắc. Trĩ cao bất thực). Nhưng chẳng lẽ Tử Nha cứ ngồi câu nơi sông Vị mãi, chẳng sớm chày âu cũng gặp Văn Vương, và chung cuộc sẽ tốt lành (Phương vũ khuy hối. Chung cát).
Tượng viết: Đỉnh nhĩ cách. Thất kỳ nghĩa dã. Cho nên, nếu ta có tài, thì phải tin rằng:
Thân hệ bang gia chung hữu dụng.
Thiên sinh hào kiệt mạc ưng hư
(Cao Bá Quát, Cuộc Phong trần)
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 鼎 折 足 . 覆 公 餗 . 其 形 渥 . 凶.
象 曰 . 覆 公 餗 . 信 如 何 也 .
Cửu tứ.
Đỉnh triết túc. Phúc công tốc. Kỳ hình ốc. Hung.
Tượng viết:
Phúc công tốc. Tín như hà dã.
Dịch.
Đỉnh mà gẫy rụi cả chân,
Lung tung, đổ hết thức ăn ông Hoàng.
Tía tai, đỏ mặt, bẽ bàng.
Rồi ra âu sẽ nhỡ nhàng, rủi ro.
Tượng rằng:
Đổ đồ ăn uống ông Hoàng,
Thế thời tin cậy được làm sao đây.
Cửu tứ tượng trưng một người không đủ tài đức, mà phải gánh một trách nhiệm quá sức mình, nên làm hỏng hết công việc đã được giao phó. Y như cái đỉnh đã bị gẫy chân (Đỉnh triết túc), làm đổ hết thức ăn của vua chúa ra ngoài (Phúc công tốc). Như vậy đáng thẹn thay (Kỳ hình ốc. Hung). Tượng viết: Phúc công tốc. Tín như hà dã. Đã đánh đổ thức ăn của vua chúa, thì làm sao còn tin được nữa.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 鼎 黃 耳 . 金 鉉 . 利 貞 .
象 曰 . 鼎 黃 耳 . 中 以 為 實 也 .
Lục ngũ.
Đỉnh hoàng nhĩ. Kim huyền . Lợi trinh.
Tượng viết:
Đỉnh hoàng nhĩ. Trung dĩ vi thực dã.
Dịch.
Quai vàng, khoen cũng bằng vàng,
Sao cho minh chính, vững vàng, thời hay.
Tượng rằng: Đỉnh có quai vàng,
Chính trung, lòng vẫn tiềm tàng, chắt chiu.
Lục ngũ tượng trưng cho quai đỉnh. Đỉnh không quai, thời không di chuyển được, thành thử có thức ăn, cũng chẳng được dùng, như ta đã thấy trong Hào Ba. Như vậy, đỉnh nhờ có quai mới trở nên linh động. (Đỉnh hoàng nhĩ. Kim huyền. Lợi trinh). Cũng một lẽ, đấng quân vương mà biết cầu hiền, sẽ làm cho đời sống chính trị trong nước trở nên linh động. Vua thời như quai đỉnh (Hoàng nhĩ), hiền thần thời như khoen đỉnh (Kim huyền), đôi đàng hợp tác với nhau, để mưu đại công, đại sự. Đỉnh có tai vàng (Đỉnh hoàng nhĩ), cũng như nước có vua tốt. Vua tốt chính vì đã biết xử theo lẽ phải (Trung dĩ vi thực dã).
6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 鼎 玉 鉉 . 大 吉 . 無 不 利 .
象 曰 . 玉 鉉 在 上 . 剛 柔 節 也 .
Thượng Cửu.
Đỉnh ngọc huyền. Đại cát. Vô bất lợi.
Tượng viết:
Ngọc huyền tại thượng. Cương nhu tiết dã.
Dịch.
Đỉnh đồng, khoen ngọc quá xinh,
Bề nào cũng tốt, cũng lành, cũng hay.
Tượng rằng: Khoen ngọc bên trên,
Cương nhu tiết tấu, ấm êm, hiệp hòa.
Thượng Cửu: Hiền tài trong nước ví như khoen đỉnh (Đỉnh ngọc huyền). Đỉnh có tai, nhưng phải có khoen nữa, mới có thể di chuyển được. Nước có minh quân, nhưng phải có hiền thần phụ bật, thời mới làm nên công chuyện, thời mới hay, mới tốt (Đại cát. Vô bất lợi). Tượng viết: Ngọc huyền tại thượng. Cương nhu tiết dã. Hiền tài như là khoen ngọc bổ túc cho đỉnh trở nên hoàn mỹ. Khoen ngọc thì vừa cương, vừa nhu, trúng tiết. Hiền tài cũng quí ở chỗ biết dung hoà cả cương lẫn nhu.
ÁP DỤNG QUẺ ĐỈNH VÀO THỜI ĐẠI
Quẻ Đỉnh tiếp sau quẻ Cách. Người xưa nói: Cách cố, đỉnh tân. Nghĩa là thay cũ, đổi mới. Ta lấy ví dụ những việc chính quyền Cộng Sản đã làm từ năm 1946 trở đi.
Trước hết là Cách cố là Thay cũ. Họ đã thay những cái gì mà họ cho là hủ bại, thối nát. Khẩu hiệu đưa ra là Bài phong, đả thực (Bài trừ phong kiến, đả đảo thực dân), mà bài trừ phong kiến là đánh phá các giai cấp Trí, Phú, Địa, Hào (Đánh trí thức, người giầu, điền chủ, cường Hào, ác bá). Còn Đỉnh Tân là xây dựng chủ nghĩa Cộng Sản. Đó là truất bỏ tư điền, tư hữu, nhân dân sẽ lao tác (lao động là vinh quang), không được sống xa xỉ, hưởng thụ, còn Đảng sẽ nắm mọi quyền hành như buôn bán, kinh doanh, nắm trọn quyền chính trị vv...
Đảng Cộng Sản được xây dựng lên từ học thuyết Mác Lê (Karl Mark và Lénine). Và Cộng Sản đã tung hoành từ 1917 cho đến 1989 mới xụp đổ. Hiện nay chỉ còn 4 nước theo Cộng Sản. Đó là Cuba, Trung Hoa, Việt nam, và Bắc Triều Tiên. Tuy nhiên ở những nước này Cộng Sản đã biến dạng, không còn cứng rắn như xưa.
Quẻ Đỉnh còn dạy người cầm quyền phải biết Dụng nhân như dụng mộc, nghĩa là phải biết dùng người. Ai ai cũng có cái hay, cái dở. Cái khéo là biết dùng họ cho đúng chỗ, đúng lúc, đúng nơi. Sinh ra đời, ta không nên cố chấp. Chế độ nào cũng có cái hay, cái dở. Cái dở là những gì hủ lậu, lỗi thời, làm cho con người khổ sở và không thể tiến lên được. Chúng ta cần phải biết gạn đục, khơi trong, giữ cái hay, bỏ cái dở, chính là vì vậy. Những người cầm quyền còn phải biết nhìn xa, trông rộng, để theo kịp đà tiến hóa của thế giới. Phải biết nhận những lỗi lầm của mình, phải biết sửa sai, chớ đừng thần thánh hóa mình và coi dân như cỏ rác, mới mong dân cộng tác với mình. Phải thương dân, lo cho dân được no ấm, và dạy dân tiến hóa về mọi mặt : Tinh thần, Vật chất, và đạo đức, như vậy mới mong sự nghiệp được vững vàng.
Nước Pháp năm 1789 đã lật chế độ Quân chủ độc tài, đã đề cao Tự Do, Bình quyền và Huynh đệ. Abraham Lincoln (1861-1864), đã hủy bỏ chế độ nô lệ tại Mỹ. Đó là những bước tiến khả quan của nhân loại. Nhờ vậy, mà nay người ta không còn đánh giá con người theo mầu da, sắc áo, mà bằng phẩm giá con người.
Càng đi sâu vào lẽ Dịch, ta càng thấy mọi sự đều biến thiên, tiến hóa để đi dần đến những gì là tốt lành, đẹp đẽ. Trong đời ta, ta đã chứng kiến máy bay, tầu hỏa, tầu thủy, điện khí, xe hơi, ta đã thấy những nhà chọc trời, những đường hầm đáy biển, tất cả đều nói lên rằng chúng ta sinh ra đời này cốt là để biến thiên, tiến hóa, để càng ngày càng đi vào chỗ hoàn mỹ, thành toàn.
HỎA PHONG ĐỈNH
Đỉnh Tự Quái
鼎 序 卦
Cách vật giả mạc nhược Đỉnh.
革 物 者 莫 茹 鼎
Cố thụ chi dĩ Đỉnh.
故 受 之 以
Đỉnh Tự Quái
Đổi thay mọi vật, Đỉnh nay nhất rồi.
Cho nên, Đỉnh mới tiếp ngôi.
Sau quẻ Cách, tiếp đến quẻ Đỉnh. Cách là thay đổi cái cũ, Đỉnh là gây dựng cái mới. Từ thời Đại Võ, Đỉnh là tượng trưng cho sự bền vững của quốc gia. Vì thế Đại Võ đã đúc chín đỉnh. Đến đời Thành Vương nhà Chu, để cửu đỉnh ở Giáp Nhạc. Bói thấy nhà Chu làm vua được 30 đời, và làm 700 năm. Đến năm 23 đời Chu Liệt Vương, Cửu đỉnh tự nhiên giao động, đó là điềm nhà Chu bất an vậy. Đến sau, quả nhiên Tần Thủy Hoàng diệt nhà Chu và đoạt cửu đỉnh.
Quẻ Đỉnh gợi hình ảnh cái Đỉnh.
- Hào Sơ là chân đỉnh
- Hào 2, 3, 4, là lòng đỉnh (để đựng đồ ăn).
- Hào 5 là tai đỉnh.
- Hào 6 là khoen đỉnh
Đỉnh dùng để đựng đồ ăn, trong những dịp tế lễ, yến ẩm, vì thế đỉnh còn gợi lên ý nghĩa dưỡng hiền. Với tất cả ý nghĩa và hình ảnh trên, quẻ Đỉnh bàn về mấy vấn đề chính yếu sau đây:
1. Sau cuộc Cách mạng, cần phải kiến thiết quốc gia, xây dựng một đời sống mới cho dân.
2. Muốn xây dựng một đời sống mới cho dân, nhà vua cần phải anh minh, phải biết trọng dụng nhân tài.
I. Thoán.
Thoán từ.
鼎 . 元 吉 . 亨
Đỉnh. Nguyên cát. Hanh.
Dịch.
Đỉnh dùng nấu nướng, dưỡng nuôi,
Thành toàn tốt đẹp, êm xuôi mọi bề.
Sau cuộc cách mạng, nếu an định được quốc gia, kiến thiết được quốc gia, mới thực là tốt lành. (Đỉnh. Nguyên cát). Như vậy, đời sống quốc gia sẽ được thông suốt (Hanh).
Thoán Truyện.
Thoán viết:
彖 曰 . 鼎 . 象 也 . 以 木 巽 火 . 亨 飪 也 . 聖 人 亨 以 享 上 帝 . 而 大 亨 以 養 聖 賢 . 巽 而 耳 目 聰 明 . 柔 進 而 上 行 . 得 中 而 應 乎 剛 . 是 以 元 亨 .
Đỉnh. Tượng dã. Dĩ mộc tốn hỏa. Phanh nhậm dã. Thánh nhân phanh dĩ hưởng Thượng Đế. Nhi đại phanh dĩ dưỡng Thánh hiền. Tốn nhi nhĩ mục thông minh. Nhu tiến nhi thượng hành. Đắc trung nhi ứng hồ cương. Thị dĩ nguyên hanh.
Dịch. Thoán rằng:
Đỉnh dùng nấu nướng nuôi thân.
Củi đun, lửa nấu, đồ ăn chín mùi.
Thánh nhân dùng vạc tế trời,
Cỗ bàn, yến ẩm dưỡng nuôi Thánh hiền.
Khiêm cung, tai mắt sáng thêm,
Nhu từ phía dưới, tiến lên trên dần.
Xứng ngôi, lại được hiền thần,
Cho nên mới được mọi phần hanh thông.
Thoán Truyện cho rằng: Đỉnh chính là hình ảnh cái đỉnh, cái vạc (Đỉnh tượng dã). Quẻ Đỉnh, trên là Ly, là Hỏa; dưới là Tốn, là gỗ, là cho vào. Vì thế quẻ Đỉnh gợi lên ý nghĩa chụm củi để đốt lửa, để nấu nướng (Dĩ mộc tốn hỏa phanh nhậm dã). Thánh nhân dùng vạc nấu đồ ăn để:
1. Tế lễ Thượng Đế.
2. Khoản đãi Thánh hiền. (Thánh nhân phanh dĩ hưởng Thượng Đế. Nhi đại phanh dĩ dưỡng Thánh hiền.) Thượng Đế cần lòng, không cần của lễ, nên dùng chữ Phanh, Hiền Thánh cần được thù tiếp, nuôi dưỡng cho trịnh trọng, nên dùng chữ Đại phanh.
Muốn cho nước nhà hưng vượng, công trình kiến thiết được hanh thông, nhà vua cần phải minh mẫn, thông tuệ, từ tốn (Tốn nhi nhĩ mục thông minh), mềm dẻo mà tiến bước, ăn ở cho phải đạo, lại được hiền thần giúp đỡ (Nhu tiến nhi thượng hành. Đắc trung nhi ứng hồ cương. Thị dĩ nguyên hanh).
Xưa nay, biết bao nhiêu người có thể lật đổ một chế độ, nhưng đến lúc lên cầm vận mệnh quốc gia, thời không biết lèo lái con thuyền quốc gia ra sao, không biết phải làm gì nữa. Thế là chỉ biết Cách cố, mà không biết Đỉnh tân. Như vậy chỉ tổ làm loạn dân, loạn nước mà thôi. Cái bí quyết thành công trong chương trình kiến thiết quốc gia là nhà vua phải là vị anh quân, hơn nữa là phải biết dùng hiền tài phụ bật.
III. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 木 上 有 火 . 鼎 . 君 子 以 正 位 凝 命 .
Tượng viết:
Mộc thượng hữu hỏa. Đỉnh. Quân tử dĩ chính vị ngưng mệnh.
Dịch. Tượng rằng:
Đỉnh là gỗ có lửa trên,
Hiền nhân chính vị làm nên cuộc đời.
Vị cho cao trọng, mới thôi,
Hoàng trung chính vị, mệnh trời mới ngưng.
Các lời giải thích về Đại Tượng quẻ Đỉnh này rất khác nhau. Người thì giải Mệnh là Mệnh lệnh, người thì giải Mệnh là Mệnh Trời (Chu Hi). Ta chỉ chọn hai cách Dịch, và hai cách Bình.
A. Dịch.
1. Theo Nho: Trên gỗ có lửa là Đỉnh, quân tử phải xếp đặt vị thứ cho hẳn hoi, xác định luật lệ cho nghiêm chỉnh. (Tống Bản Thập Tam Kinh).
2. Theo Lão: Trên gỗ có lửa là Đỉnh, quân tử phải tìm ra địa vị chính đáng của mình, thực hiện cho được định mạng của mình.
B. Bình
1. Bình theo Nho: Khi cuộc Cách mạng đã xong, một cục diện mới đã sinh, thời phải lo chính vị an mệnh. Chính vị là phân tôn ti, cho xã hội có trên, có dưới, phân minh. Ngưng mệnh là xác định luật lệ cho nghiêm chỉnh, xác định đường lối cho rõ ràng, để mọi người cứ đấy mà theo (Tống Bản Thập Tam Kinh). Ví dụ như khi Nasser đã lật đổ Farouk, và lên làm Tổng Thống Ai Cập, liền vạch ra 6 mục tiêu:
1. Phản đế.
2. Đả phong.
3. Bãi bỏ các độc quyền.
4. Thành lập một quân đội mạnh mẽ.
5. Thành lập một chế độ xã hội công bằng.
6. Thành lập một thể chế dân chủ lành mạnh.
Hoặc Tôn Dật Tiên, sau khi lật đổ nhà Mãn Thanh năm 1911, đã lập nên Trung Hoa Dân Quốc với:
*Chủ nghĩa tam dân:
- Dân tộc. Dân sinh. Dân quyền.
* Ngũ Quyền:
- Lập pháp. Hành chánh. Tư pháp. Khảo thí. Giám sát vv...
2. Bình theo Lão. Hiền nhân, quân tử, phải biết lấy cái hữu hình là hoàn cảnh xác thân, tâm tình để dưỡng nuôi cái vô hình là tâm linh. Biến cái hữu thể thành vô thể, vượt tầm kích con người lên tới địa vị thần minh, đó mới là chính vị, là ngôi vị chính đáng của mình, mới là thực hiện được định mệnh cao sang của mình. (Lưu nhất Minh, Chu Dịch Xiển Chân)
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 鼎 顛 趾 . 利 出 否 . 得 妾 以 其 子 . 無 咎 .
象 曰 . 鼎 顛 趾 . 未 悖 也 . 利 出 否 . 以 從 貴 也 .
Sơ Lục.
Đỉnh điên chỉ. Lợi xuất bĩ. Đắc thiếp dĩ kỳ tử. Vô cữu.
Tượng viết:
Đỉnh điên chỉ. Vị bội dã. Lợi xuất bĩ. Dĩ tòng qui dã.
Dịch.
Đỉnh mà chân chổng lên trời,
Lợi là bụi bậm sẽ rơi ra ngoài.
Cát đằng chút phận nhỏ nhoi,
Nếu mà sinh được mụn trai, lỗi gì.
Tượng rằng:
Đỉnh tuy chân chổng lên trời,
Cũng chưa đến nỗi là sai, là lầm.
Lợi là bụi bậm sạch không,
Rồi ra có thể theo dòng thanh tao.
Hào Sơ Lục: Như ta đã thấy, quẻ Đỉnh nói về trọng dụng hiền tài, để kiến thiết quốc gia. Hào Sơ này đại ý nói: Dụng nhân như dụng mộc. Người dở mà biết dùng cũng hóa hay, chẳng khác nào Đỉnh chổng chân, giúp ta vét được bụi bậm bám trong lòng đỉnh (Đỉnh điên chỉ. Lợi xuất bĩ), hoặc như có vợ lẽ cũng có thể sinh quí tử cho chồng (Đắc thiếp dĩ kỳ tử). Tóm lại, biết dùng thời dở cũng hóa hay, cho nên không gì đáng trách (Vô cữu).
Nên, thấy người dùng kẻ dở, vị tất đã là người quấy, cũng như thấy Đỉnh chổng chân lên trời, vị tất đã là điều nghịch lý (Đỉnh điên chỉ. Vị bội dã). Điều phải xét, là người được dùng có làm nên việc hay chăng, cũng như xét xem Đỉnh chổng chân, có phải là để vét bụi ra không? Cái quí là ở chỗ hợp thời, hợp cảnh.(Lợi xuất bĩ. Dĩ tòng quí dã).
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 鼎 有 實 . 我 仇 有 疾 . 不 我 能 即 . 吉 .
象 曰 . 鼎 有 實 . 慎 所 之 也 . 我 仇 有 疾 . 終 無 尤 也 .
Cửu nhị.
Đỉnh hữu thực. Ngã cừu hữu tật. Bất ngã năng tức. Cát.
Tượng viết:
Đỉnh hữu thực. Thận sở chi dã. Ngã cừu hữu tật. Chung vô vưu dã.
Dịch.
Vạc đầy ăm ắp thức ăn,
Ta đây có kẻ để tâm giận hờn.
Giận ta, nhưng chẳng dám nhờn,
Chẳng điều gần gũi, bờm sơm tốt rồi.
Tượng rằng: Vạc có thức ăn,
Đường đi nước bước, để tâm lo lường,
Với ta có kẻ chẳng thương,
Nhưng mà họ chẳng có đường trách ta.
Hào Cửu nhị: Quân tử ra giúp đời, gánh vác trách nhiệm xây dựng đất nước, cũng như cái Đỉnh có nhiều đồ ăn (Đỉnh hữu thực). Khi Đỉnh có chức, có quyền, thường bị tiểu nhân ghen ghét, tật đố (Ngã cừu hữu tật). Ngã cừu nghĩa là thù oán với ta, Hữu tật nghĩa là có lòng ghen ghét. Trong trường hợp này, ta phải lập nghiêm, đừng cho họ bén mảng đến gần (Bất ngã năng tức), được vậy sẽ tốt lành (Cát). Tức đây nghĩa là đến gần. Mới hay, những người có tài, có đức, y như Đỉnh đầy đồ ăn (Đỉnh hữu thực), có lo chi không được đời trọng dụng. Tuy nhiên, cũng phải cẩn trọng trong đường đi, nước bước của mình (Thận sở chi dã). Như vậy, nếu thù địch mình có ghen ghét mình (Ngã cừu hữu tật), cuối cùng cũng chẳng làm gì được mình (Chung vô vưu dã).
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 鼎 耳 革 . 其 行 塞 . 雉 膏 不 食 . 方 雨 虧 悔 . 終 吉 .
象 曰 . 鼎 耳 革 . 失 其 義 也 .
Củu tam.
Đỉnh nhĩ cách. Kỳ hành tắc. Trĩ cao bất thực.
Phương vũ khuy hối. Chung cát.
Tượng viết:
Đỉnh nhĩ cách. Thất kỳ nghĩa dã.
Dịch.
Vạc mà đang đổi thay tai,
Thế là bế tắc, khó rời chân đi.
Quí như mỡ trĩ còn chê,
Mưa rơi, mới hết ủ ê, phàn nàn.
Cuối cùng, cũng sẽ chu toàn,
Rồi ra cũng sẽ được an, được lành.
Tượng rằng: Vạc đổi thay tai,
Thế là nghĩa lý, mất rồi còn đâu.
Cửu tam tượng trưng một người anh hùng hữu tài, hữu đức, mà chưa đạt thời, đạt vận, chưa được bậc quân vương biết đến, như vậy có khác nào một chiếc đỉnh đựng đầy của ngon, vật lạ như mỡ trĩ, mà vì đỉnh đang thay tai, không thể khiêng đi được, nên chẳng được ai ăn (Đỉnh nhĩ cách. Kỳ hành tắc. Trĩ cao bất thực). Nhưng chẳng lẽ Tử Nha cứ ngồi câu nơi sông Vị mãi, chẳng sớm chày âu cũng gặp Văn Vương, và chung cuộc sẽ tốt lành (Phương vũ khuy hối. Chung cát).
Tượng viết: Đỉnh nhĩ cách. Thất kỳ nghĩa dã. Cho nên, nếu ta có tài, thì phải tin rằng:
Thân hệ bang gia chung hữu dụng.
Thiên sinh hào kiệt mạc ưng hư
(Cao Bá Quát, Cuộc Phong trần)
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 鼎 折 足 . 覆 公 餗 . 其 形 渥 . 凶.
象 曰 . 覆 公 餗 . 信 如 何 也 .
Cửu tứ.
Đỉnh triết túc. Phúc công tốc. Kỳ hình ốc. Hung.
Tượng viết:
Phúc công tốc. Tín như hà dã.
Dịch.
Đỉnh mà gẫy rụi cả chân,
Lung tung, đổ hết thức ăn ông Hoàng.
Tía tai, đỏ mặt, bẽ bàng.
Rồi ra âu sẽ nhỡ nhàng, rủi ro.
Tượng rằng:
Đổ đồ ăn uống ông Hoàng,
Thế thời tin cậy được làm sao đây.
Cửu tứ tượng trưng một người không đủ tài đức, mà phải gánh một trách nhiệm quá sức mình, nên làm hỏng hết công việc đã được giao phó. Y như cái đỉnh đã bị gẫy chân (Đỉnh triết túc), làm đổ hết thức ăn của vua chúa ra ngoài (Phúc công tốc). Như vậy đáng thẹn thay (Kỳ hình ốc. Hung). Tượng viết: Phúc công tốc. Tín như hà dã. Đã đánh đổ thức ăn của vua chúa, thì làm sao còn tin được nữa.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 鼎 黃 耳 . 金 鉉 . 利 貞 .
象 曰 . 鼎 黃 耳 . 中 以 為 實 也 .
Lục ngũ.
Đỉnh hoàng nhĩ. Kim huyền . Lợi trinh.
Tượng viết:
Đỉnh hoàng nhĩ. Trung dĩ vi thực dã.
Dịch.
Quai vàng, khoen cũng bằng vàng,
Sao cho minh chính, vững vàng, thời hay.
Tượng rằng: Đỉnh có quai vàng,
Chính trung, lòng vẫn tiềm tàng, chắt chiu.
Lục ngũ tượng trưng cho quai đỉnh. Đỉnh không quai, thời không di chuyển được, thành thử có thức ăn, cũng chẳng được dùng, như ta đã thấy trong Hào Ba. Như vậy, đỉnh nhờ có quai mới trở nên linh động. (Đỉnh hoàng nhĩ. Kim huyền. Lợi trinh). Cũng một lẽ, đấng quân vương mà biết cầu hiền, sẽ làm cho đời sống chính trị trong nước trở nên linh động. Vua thời như quai đỉnh (Hoàng nhĩ), hiền thần thời như khoen đỉnh (Kim huyền), đôi đàng hợp tác với nhau, để mưu đại công, đại sự. Đỉnh có tai vàng (Đỉnh hoàng nhĩ), cũng như nước có vua tốt. Vua tốt chính vì đã biết xử theo lẽ phải (Trung dĩ vi thực dã).
6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 鼎 玉 鉉 . 大 吉 . 無 不 利 .
象 曰 . 玉 鉉 在 上 . 剛 柔 節 也 .
Thượng Cửu.
Đỉnh ngọc huyền. Đại cát. Vô bất lợi.
Tượng viết:
Ngọc huyền tại thượng. Cương nhu tiết dã.
Dịch.
Đỉnh đồng, khoen ngọc quá xinh,
Bề nào cũng tốt, cũng lành, cũng hay.
Tượng rằng: Khoen ngọc bên trên,
Cương nhu tiết tấu, ấm êm, hiệp hòa.
Thượng Cửu: Hiền tài trong nước ví như khoen đỉnh (Đỉnh ngọc huyền). Đỉnh có tai, nhưng phải có khoen nữa, mới có thể di chuyển được. Nước có minh quân, nhưng phải có hiền thần phụ bật, thời mới làm nên công chuyện, thời mới hay, mới tốt (Đại cát. Vô bất lợi). Tượng viết: Ngọc huyền tại thượng. Cương nhu tiết dã. Hiền tài như là khoen ngọc bổ túc cho đỉnh trở nên hoàn mỹ. Khoen ngọc thì vừa cương, vừa nhu, trúng tiết. Hiền tài cũng quí ở chỗ biết dung hoà cả cương lẫn nhu.
ÁP DỤNG QUẺ ĐỈNH VÀO THỜI ĐẠI
Quẻ Đỉnh tiếp sau quẻ Cách. Người xưa nói: Cách cố, đỉnh tân. Nghĩa là thay cũ, đổi mới. Ta lấy ví dụ những việc chính quyền Cộng Sản đã làm từ năm 1946 trở đi.
Trước hết là Cách cố là Thay cũ. Họ đã thay những cái gì mà họ cho là hủ bại, thối nát. Khẩu hiệu đưa ra là Bài phong, đả thực (Bài trừ phong kiến, đả đảo thực dân), mà bài trừ phong kiến là đánh phá các giai cấp Trí, Phú, Địa, Hào (Đánh trí thức, người giầu, điền chủ, cường Hào, ác bá). Còn Đỉnh Tân là xây dựng chủ nghĩa Cộng Sản. Đó là truất bỏ tư điền, tư hữu, nhân dân sẽ lao tác (lao động là vinh quang), không được sống xa xỉ, hưởng thụ, còn Đảng sẽ nắm mọi quyền hành như buôn bán, kinh doanh, nắm trọn quyền chính trị vv...
Đảng Cộng Sản được xây dựng lên từ học thuyết Mác Lê (Karl Mark và Lénine). Và Cộng Sản đã tung hoành từ 1917 cho đến 1989 mới xụp đổ. Hiện nay chỉ còn 4 nước theo Cộng Sản. Đó là Cuba, Trung Hoa, Việt nam, và Bắc Triều Tiên. Tuy nhiên ở những nước này Cộng Sản đã biến dạng, không còn cứng rắn như xưa.
Quẻ Đỉnh còn dạy người cầm quyền phải biết Dụng nhân như dụng mộc, nghĩa là phải biết dùng người. Ai ai cũng có cái hay, cái dở. Cái khéo là biết dùng họ cho đúng chỗ, đúng lúc, đúng nơi. Sinh ra đời, ta không nên cố chấp. Chế độ nào cũng có cái hay, cái dở. Cái dở là những gì hủ lậu, lỗi thời, làm cho con người khổ sở và không thể tiến lên được. Chúng ta cần phải biết gạn đục, khơi trong, giữ cái hay, bỏ cái dở, chính là vì vậy. Những người cầm quyền còn phải biết nhìn xa, trông rộng, để theo kịp đà tiến hóa của thế giới. Phải biết nhận những lỗi lầm của mình, phải biết sửa sai, chớ đừng thần thánh hóa mình và coi dân như cỏ rác, mới mong dân cộng tác với mình. Phải thương dân, lo cho dân được no ấm, và dạy dân tiến hóa về mọi mặt : Tinh thần, Vật chất, và đạo đức, như vậy mới mong sự nghiệp được vững vàng.
Nước Pháp năm 1789 đã lật chế độ Quân chủ độc tài, đã đề cao Tự Do, Bình quyền và Huynh đệ. Abraham Lincoln (1861-1864), đã hủy bỏ chế độ nô lệ tại Mỹ. Đó là những bước tiến khả quan của nhân loại. Nhờ vậy, mà nay người ta không còn đánh giá con người theo mầu da, sắc áo, mà bằng phẩm giá con người.
Càng đi sâu vào lẽ Dịch, ta càng thấy mọi sự đều biến thiên, tiến hóa để đi dần đến những gì là tốt lành, đẹp đẽ. Trong đời ta, ta đã chứng kiến máy bay, tầu hỏa, tầu thủy, điện khí, xe hơi, ta đã thấy những nhà chọc trời, những đường hầm đáy biển, tất cả đều nói lên rằng chúng ta sinh ra đời này cốt là để biến thiên, tiến hóa, để càng ngày càng đi vào chỗ hoàn mỹ, thành toàn.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
4 HỎA THỦY VỊ TẾ
HỎA THỦY VỊ TẾ
Vị Tế Tự Quái
未 濟 序 卦
Vật bất khả cùng dã.
物 不 可 窮 也
Cố thụ chi dĩ Vị Tế
故 受 之 以 未 濟
Chung yên.
終 焉
Vị Tế Tự Quái
Sự đời hồ dễ có biên, có cùng.
Nên đem Vị Tế làm chung,
Tuy chung, mà vẫn vô cùng, mới hay.
Quẻ Vị Tế ở sau quẻ Ký Tế, và cuối cùng 64 quẻ Dịch, có một ý nghĩa sâu sa. Thánh Hiền không để quẻ Ký Tế kết thúc bộ Kinh Dịch, mà lại để quẻ Vị Tế, là cốt cho ta thấy sự đời vô cùng, vô tận, trí con người khó mà lường được, mà giới hạn được. Sự đời biến dịch chẳng cùng: Trị mà sơ hở, sẽ sinh loạn. Cho nên, cuối quẻ Dịch, Thánh nhân để quẻ Vị Tế, muốn khuyên ta đừng bao giờ ngừng cố gắng, đừng bao giờ quên lo liệu, đề phòng.
Ngự Án bình rằng: Vị Tế là công việc còn dang dở chưa thành tựu. Sự dang dở sở dĩ có là vì các Hào chẳng đúng vị ngôi. Hào Âm ở vị Dương, Hào Dương ở vị Âm, cũng y như trong xã hội, sự dang dở sẽ sinh ra là vì người hay ở địa vị dưới, người dưới ở địa vị trên, thành thử mọi người đâm ra ngỡ ngàng khó xử.
I. Thoán.
Thoán từ.
未 濟 . 亨. 小 狐 汔 濟. 濡 其 尾 . 無 攸 利 .
Vị Tế. Hanh. Tiểu hồ ngật tế. Nhu kỳ vĩ. Vô du lợi.
Dịch.
Vị Tế là việc chưa thành,
Chưa thành, vẫn thấy tiến trình hanh thông.
Cáo con hùng hổ vượt sông,
Để cho đuôi ướt, thời không lợi gì.
Vị Tế mà hanh, là vì ngày nay mọi sự còn bế tắc, dang dở, nhưng rồi đây, nhờ sự cố gắng, mọi sự lại trở nên thông suốt, xuôi xắn, hẳn hoi (Vị Tế. Hanh). Nhưng muốn ra tay gây dựng cơ đồ, không thể hăm hăm, hở hở, mà phải có mưu lược, phải biết ước lượng những gian nguy, những khó khăn, mình sẽ gặp, và phải trù liệu trước những phương cách, để lướt thắng những khó khăn đó.
Hăm hở, liều lĩnh, chỉ chuốc lấy thất bại, y thức như con hồ con, thiếu kinh nghiệm, thấy sông đã đóng băng, liền hăm hở vượt qua; nó có biết đâu nhiều chỗ sông hãy còn là nước, vì thế mà hụt chân, đến nỗi ướt cả đuôi, như vậy làm sao mà hay được (Tiểu hồ ngật tế. Nhu kỳ vĩ. Vô du lợi).
Thoán Truyện. Thoán viết.
彖 曰 . 未 濟 . 亨 . 柔 得 中 也 . 小 狐 汔 濟 . 未 出 中 也 . 濡 其 尾 . 無 攸 利 .不 續 終 也 . 雖 不 當 位 .剛 柔 應 也 .
Vị Tế. Hanh. Nhu đắc trung dã. Tiểu hồ ngật tế. Vị xuất trung dã. Nhu kỳ vĩ. Vô du lợi. Bất tục chung dã. Tuy bất đáng vị. Cương nhu ứng dã.
Dịch. Thoán rằng:
Vị Tế mà được hanh thông,
Là vì Nhu được ngôi trung đàng hoàng.
Cáo con sông vội vượt sang,
Cái vòng gian hiểm, nguy nàn chưa qua.
Ướt đuôi, mọi chuyện bê tha,
Dở dang, dang dở, khó mà nên công.
Tuy rằng ngôi vị long đong,
Cứng mềm ứng hợp, vả không quải gàng.
Thoán. Vị Tế mà hanh là vì Hào Lục ngũ là nhu đắc trung (Vị Tế hanh. Nhu đắc trung dã).
Ví dụ: Như thời Vương Mãng chiếm ngôi nhà Hán, có Lưu Tú muốn phục hưng cơ đồ. Lưu Tú là con người hết sức khéo léo, mềm mỏng, lại là dòng dõi tôn thất nhà Hán, vì thế nên Lưu Tú qui tụ được nhiều anh tài, và sau khôi phục được cơ đồ nhà Hán. Nhưng lúc mới bắt đầu thời kỳ Vị Tế, không nên hăm hở làm liều, y như con hồ con qua sông, mà vẫn chưa thoát được vòng nguy hiểm (Tiểu hồ nhật tế. Vị xuất trung dã). Nếu mới đầu mà sơ xuất như hồ ướt đuôi, thì khó mà tiếp tục công việc đến kỳ cùng vậy (Nhu kỳ vĩ. Vô du lợi. Bất tục chung dã). Vị Tế tuy dang dở, vì chẳng có Hào nào xứng ngôi, xứng vị, nhưng sẽ hanh thông, vì các Hào đều ứng hợp nhau. Trở lại trường hợp Lưu Tú, hay các vua chúa lập quốc, ta thấy buổi đầu mọi sự còn dở dang, chếch mác, nhưng nhờ có hiền tài, lương tướng phụ bật, nên cuối cùng cũng thành công, thành sự.
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết.
象 曰 . 火 在 水 上 . 未 濟 . 君 子 以 慎 辨 物 居 方 .
Hỏa tại thủy thượng. Vị Tế. Quân tử dĩ thận biện vật cư phương.
Dịch. Tượng rằng:
Vị Tế nước dưới, lửa trên,
Quân tử biện vật, phải nên rạch ròi.
Biện phân cẩn thận, hẳn hoi.
Xếp cho đâu đấy, cơ ngơi rõ ràng.
Hỏa trên, nước dưới, là Vị Tế. Quân tử nhân đó cẩn thận biện phân sự vật cho đâu ra đấy. Thủy Hỏa không liên lạc, mỗi bên hoạt động một chiều, nên không thành công. Muốn làm nên sự việc, ta phải xem xét, học hỏi tính chất mỗi vật, để dùng cho đúng lúc, đúng nơi. Muốn đảo lộn thời cuộc cho Vị Tế trở thành Ký Tế, chính là chỗ biết dùng người, chỗ biết đặt người cho đúng ngôi, đúng vị.
Khi vua Câu Tiễn đi hàng Ngô Phù Sai, đình thần nghị luận cho Phạm Lãi theo hầu, còn Văn Chủng ở nhà làm Tướng quốc trị dân; Khổ Thành chịu trách nhiệm về tư pháp; Duệ Dũng giữ việc ngoại giao; Học Tấn đảm trách việc đàn hạch; Chư Trình thống lĩnh ba quân; Cao Như lo phủ ủy dân tình, tích trữ lúa gạo vv...Vì ai đáng vào ngôi đó, cho nên nước Việt không bị diệt vong, và dần dần lại phục hồi được.
Cho nên dùng người đúng nơi, đúng chỗ, dùng vật cho phải chốn, phải thời, chính là yếu tố sẽ mang lại thành công.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 濡 其 尾 . 吝 .
象 曰 . 濡 其 尾 . 亦 不 知 極 也 .
Sơ Lục.
Nhu kỳ vĩ. Lận.
Tượng viết:
Nhu kỳ vĩ. Diệc bất tri cực dã.
Dịch.
Cái đuôi đã ướt mất rồi,
Sự tình như thế, vậy thời hổ thay.
Tượng rằng: Đuôi đã ướt rồi,
Cũng vì chẳng biết đến nơi, đến cùng.
Sơ Lục. Hồ qua sông, mà để ướt đuôi là đáng trách, người bắt tay vào việc mà để hỏng chuyện, cũng là đáng trách (Nhu kỳ vĩ. Lận). Lưu Tú, tức Quang Võ, muốn phục hưng nhà Hán, ông xuống kinh đô để dự thi võ nghệ, lập kế. Nhưng khi vào trường thi, thấy Vương Mãng, đã nổi xung lên, dương cung định bắn. Ông liền bị Vương Mãng bắt, may có Đậu Dung xin tha cho, không thì làm gì còn đời Quang Võ, và làm gì có nhà Đông Hán.
Nhu kỳ vĩ. Diệc bất tri cực dã, là mới đầu vụng xử, đến nỗi hỏng việc, như hồ qua sông để ướt đuôi thì dốt vậy.
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 曳 其 輪 . 貞 吉 .
象 曰 . 九 二 貞 吉 . 中 以 行 正 也 .
Cửu nhị.
Duệ kỳ luân. Trinh cát.
Tượng viết:
Cửu nhị trinh cát. Trung dĩ hành chính dã.
Dịch.
Hãm cho bánh chạy bớt đà,
Mới là minh chính, mới là phải hay.
Tượng rằng: Cửu nhị phải hay,
Đã hùng, lại xử cho ngay, cho lành.
Cửu nhị. Mặc dầu là thời cơ đã thuận tiện, nhưng lượng sức mình chưa đủ, phải biết kiềm chế mình, như vậy mới hay. (Duệ kỳ luân. Trinh cát).
Khi nước Ngô, đã bắt đầu suy yếu, Việt Vương Câu Tiễn muốn khởi binh đi đánh Ngô. Phạm Lãi can rằng: Thời cũng gần tới rồi, nhưng xin Chúa công dạy tập quân lính thêm, vì đánh hay phải có quân giỏi, mà muốn cho quân giỏi, phải tập đủ nghề, nào là kiếm kích, nào là cung võ. Nếu không có thầy hay dạy tập, thì không rành nghề được. Việt Chúa nghe lời, bèn cho đi rước thầy về rèn binh sĩ, và hoãn đánh nước Ngô (Đông Châu liệt quốc, Võ minh Trí dịch trang 962). Tượng Truyện cho rằng: Cửu nhị sở dĩ hay, là vì đã biết xử phải (Cửu nhị trinh cát. Trung dĩ hành chính dã).
3. Hào Lục tam.
六 三 . 未 濟 . 征 凶 . 利 涉 大 川 .
象 曰 . 未 濟 征 凶 . 位 不 當 也 .
Lục tam.
Vị tế. Chinh hung. Lợi thiệp đại xuyên.
Tượng viết:
Vị Tế chinh hung. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Trong khi mọi chuyện dở dang,
Mà còn vồ vập, lam làm thời hung.
Còn như vượt sóng, qua sông,
Tính bề thoát hiểm, thời không hại gì.
Tượng rằng:
Trong khi mọi chuyện dở dang,
Mà còn vồ vập, lam làm thời hung.
Vị ngôi lóng ngóng, lung tung.
Vị ngôi chẳng xứng, nên không ra gì.
Lục tam là Hào nhu mà cư Dương vị, nên không đúng ngôi, đúng vị; lại còn ở nội quái là Khảm,là nguy hiểm, tức là còn trong vòng nguy hiểm. Đã kém tài đức, ở trong vòng nguy nan, mà đã vội vẫy vùng, thời chẳng hay (Vị tế chinh hung). Trên nói là Chinh hung, mà tiếp theo lại nói là Lợi thiệp đại xuyên, thì ý nghĩa tương phản nhau. Có lẽ phải nói rằng Bất lợi thiệp đại xuyên mới phải.
Các nhà bình giải chia làm hai phái. Một phái như Trình tử, thì để nguyên câu Vị Tế chinh hung. Lợi thiệp đại xuyên mà giải, và cho rằng Chinh hung (dở dói chẳng hay), là vì tài chẳng đủ, còn Lợi thiệp đại xuyên (qua sông vẫn lợi), là vì lúc này là lúc có thể hoạt động được.
Một phái như Chu Hi, Bồ Dương Lưu, Hồ vân Phong thì hiểu câu này như là Vị Tế chinh hung. Bất lợi thiệp đại xuyên. Bồ dương Lưu bênh vực quan điểm này như sau: Lục tam ở vào cực điểm của hiểm nạn, nên chưa có thể thoát hiểm, lại Âm nhu thất vị, không đủ tài để đối phó với hoàn cảnh, thế mà lại cầu tiến, như vậy ắt là hung, thì làm sao mà còn có thể vượt qua gian nguy được. Đã nói rằng: không thể hoạt động; hoạt động là hung, mà lại nói có thể vượt sông lớn (Vượt gian hiểm được),như vậy là phản nghĩa nhau. Chu Hi cho rằng trước chữ Lợi phải có chữ Bất, thế mới đúng.
Đại khái ba Hào dưới quẻ Vị Tế đều chưa thể thoát hiểm, Hào tam cũng như Hào Sơ đều là Âm nhu chi tài không đủ sức thoát hiểm, chỉ có Cửu nhị là có tài, nhưng lại chưa được thời, nên biết kiềm chế mới hay. Suy ra thì chắc chắn là Lục tam không thể nào vượt gian nguy được (Phi lợi thiệp đại xuyên khả tri dĩ).
Vị Tế chinh hung. Vị bất đáng dã, là chưa đúng ngôi vị, thì sao hoạt động cho hay được.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 貞 吉 . 悔 亡 . 震 用 伐 鬼 方 . 三 年 有 賞 于 大 國 .
象 曰 . 貞 吉 悔 亡 . 志 行 也 .
Cửu tứ.
Trinh cát hối vong. Chấn dụng phạt Quỉ phương.
Tam niên hữu thưởng vu đại quốc.
Tượng viết:
Trinh cát hối vong. Chí hành dã.
Dịch.
Bền lòng, vững chí mới hay,
Chính trinh, mới khỏi đơn sai, lỗi lầm.
Quỉ phương chinh phục ba năm,
Rồi ra đại quốc thưởng công, thưởng tài.
Tượng rằng:
Bền lòng, vững chí mới hay,
Chính trinh, mới khỏi đơn sai, lỗi lầm.
Thế là công việc xứng tâm.
Thế là chí nguyện đang tầm thực thi.
Cửu tứ là một trọng thần, trên được vua tin dùng, lại gặp thời cơ thuận tiện hơn, vì bước gian nan lúc đầu đã vượt qua đươc rồi (đã ra khỏi quẻ Khảm, đã tiến đến quẻ Ly), nên dĩ nhiên là có thể dẹp loạn, cứu đời. Tuy nhiên vẫn phải minh chính, mới hay, mới tốt (Trinh cát hối vong). Lúc ấy phải hết sức gắng công, mà dẹp loạn tứ phương, dầu phải đến nước xa xôi, hiểm trở như Hung Nô cũng chẳng từ (Chấn dụng phạt quỷ phương). như vậy rồi ra sẽ được triều đình tưởng thưởng (Tam niên hữu thưởng vu đại quốc). Đó là trường hợp Quang Võ. Khi đã đủ binh hùng, tướng mạnh, liền giết Vương Mãng, rồi đánh Vương Lãng ở Hàn Đan, dẹp Xích My ở Trường An vv... Lưu Tú vất vả lắm, rồi sau mới được phong làm Tiểu vương, và cuối cùng mới lên ngôi Hoàng Đế. Trinh cát hối vong. Chí hành dã là Cửu tứ hay, chính vì toại được chí nguyện. Như ta đã thấy Vua Quang Võ chinh đông, dẹp bắc , thu gồm giang sơn về một mối. Đó là thực hiện được chí nguyện vậy.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 貞 吉 無 悔 . 君 子 之 光 . 有 孚 . 吉 .
象 曰 . 君 子 之 光 . 其 暉 吉 也 .
Lục ngũ.
Trinh cát vô hối. Quân tử chi quang. Hữu phu. Cát.
Tượng viết:
Quân tử chi quang. Kỳ huy cát dã.
Dịch.
Theo đường tốt đẹp, thẳng ngay,
Rồi ra sẽ hết đơn sai, lỗi lầm,
Quang huy, quân tử rỡ ràng,
Thực tài, thực đức, hiên ngang tốt lành.
Tượng rằng: Quân tử quang hoa,
Quang hoa chiếu rõ, thật là lành thay.
Lục ngũ mà minh chính, ngay lành, là vì người quân tử đã phát quang huy, lại có thực tài, thực đức (Trinh cát vô hối). Khi Quang Võ đã dẹp xong Vương Mãng, chư tướng đều muốn cho ông lên ngôi. Trong một bữa tiệc, Cảnh Nhĩ dâng lên một biểu chương, có những lời sau đây: Nay Chúa công sớm nối giang sơn cho chư tướng được phỉ dạ đợi trông, cứu sinh dân nơi đồ thán, giải lê thứ lúc đảo điên. Rõ ràng Quang Võ đã gây được tín nhiệm và uy thế đối với chư tướng. (Quân tử chi quang . Hữu phu. Cát).
Quân tử chi quang. Kỳ huy cát dã là tài đức mà đã như hào quang chói lọi ra ngoài, thì làm gì mà chẳng tốt.
6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 有 孚 于 飲 酒 . 無 咎 . 濡 其 首 . 有 孚 失 是 .
象 曰 . 飲 酒 濡 首 . 亦 不 知 節 也 .
Thượng Cửu.
Hữu phu vu ẩm tửu. Vô cữu. Nhu kỳ thủ. Hữu phu thất thị.
Tượng viết:
Ẩm tửu nhu thủ. Diệc bất tri tiết dã.
Dịch.
Hãy tin tài đức của mình,
Uống ăn, tiêu sái, mặc tình lỗi chi.
Vùi đầu, chìm đắm, đam mê,
Thế là tự tín. có bề quá đa.
Tượng rằng: chè chén, vùi đầu,
Thế là tiết độ, còn đâu nữa là.
Thượng Cửu. Khi đã làm cho thời Vị Tế, trở thành Ký Tế rồi, thời công trình hầu như đã hoàn thành, thì cũng có thể sống vui vẻ. Còn như phóng túng say sưa, thì là tự tín quá mức, và không còn hợp lẽ phải nữa.
Dịch kinh luôn luôn dạy con người cảnh giới, đề phòng, dầu thịnh mấy cũng không được buông lung, theo dục vọng Đại Tướng Ngô Hán lâm bệnh nặng gần chết. Vua Quang Võ đến thăm và hỏi: Tướng quân có lời chi mà nói với trẫm chăng? Ngô Hán đáp: Tôi ngu muội không có trí thức bao nhiêu, duy muốn cho bệ hạ phải dè dặt mà thôi. Nói xong liền qua đời. (Xem Đông Hán Diễn nghĩa. Thanh Phong dịch, trang 255). Thế là Ngô Hán muốn khuyên vua dẫu đã bình trị được thiên hạ, cũng vẫn phải luôn cẩn trọng.
Lại một hôm, Quang Võ cùng quần thần tổ chức đi vào núi săn hổ, đến đêm mới về. Khi về đến thành, quan giữ cửa lớn là Chất Huân, nhất định không cho vào, vua đành phải đi một cửa nhỏ khác mà vào thành. Hôm sau, Chất Huân vào triều tâu rằng: Xưa vua Văn, vua Võ chẳng dám đi săn bắn, chơi bời, là vì lấy muôn dân làm trọng. Nay Bệ hạ lại săn bắn xa xôi, nơi chốn rừng núi luông tuồng, lấy đêm mà làm ngày, vậy thì lấy chi cho vững bền xã tắc. Vua khen Chất Huân là hiền sĩ, và thưởng cho một trăm cây gấm vóc, và giáng chức vị quan đã mở cửa cho vua vào thành. .(Xem Đông Hán diễn nghĩa, Thanh Phong dịch trang 250)
Ẩm tửu nhu thủ. Diệc bất tri tiết dã, là vùi đầu vào rượu chè, thế là không biết tiết độ vậy. Xưa Nghi Địch làm rượu ngon, một hôm dâng lên vua Đại Võ. Vua nếm xong, liền đuổi Nghi Địch ra khỏi triều ca, và nói rằng sau này sẽ có vua chúa mất nước vì rượu.
Cả quẻ Vị Tế này, Thánh nhân không ngớt khuyên ta thận trọng và cố gắng. Cuối cùng lại khuyên ta đừng làm gì trái nghì, trái tiết, trái lý vậy.
ÁP DỤNG QUẺ VỊ TẾ VÀO THỜI ĐẠI
Vị Tế là 1 quẻ có những ý nghĩa sâu sa, trí con người khó mà đo lường được. Thánh nhân làm quẻ Vị Tế chỉ muốn khuyên ta: Đừng bao giờ ngừng cố gắng, đừng bao giờ quên lo liệu đề phòng.
Tôi (tác giả mục Áp dụng vào thời đại), đã suy tư nhiều, nay mang tất cả những kinh nghiệm gởi lại cho quí vị (những người bạn thân, cùng chí hướng là nghiên cứu Dịch, ở thời đại này, hoặc mai sau cùng thưởng lãm).
Thật vậy, nhiều khi ta thấy mọi sự trên đời, mới đầu diễn tiến rất đẹp, vì người chủ chốt đã suy tư nhiều trước khi tạo dựng ra nó, thế mà bỗng nhiên thấy sụp đổ, và đi đến tan vỡ, không còn cứu vãn được nữa. Tại sao?
Chỉ tại ta khi đắc chí, thì tự mãn, không còn cố gắng, hoặc đề phòng mọi sự việc sẽ có thể xẩy ra sau đó mà thôi, và tại ta không theo đà tiến hóa của nhân loại.
I. Về phương diện 1 Quốc gia. Một nước mà quá lạc hậu vì người cầm đầu kém tài, hoặc óc còn bảo thủ, cầu an, thì trước sau gì cũng đưa dân, nước vào sự suy sụp, nghèo nàn, lạc hậu, trước sau gì cũng bị nước láng giềng mạnh hơn xâm chiếm, hoặc bị các Liệt Cường xâu xé, bắt nạt (Ví dụ: Trung Hoa về cuối đời Mãn Thanh).
II. Về phương diện thương mại. Một cơ sở thương mại rất lớn, đã đứng vững cả nửa thế kỷ, thế mà tại sao đùng một cái lại tuyên bố bị phá sản. Tại sao?
Theo thiển ý của tôi, vì thiếu những lý do sau đây:
Vì những người cầm đầu, cứ theo nếp cũ làm, không chịu cải tiến cho hợp với nhu cầu, vừa với túi tiền của dân chúng ( điều này rất quan trọng).
a/. Nên hàng tháng, hoặc ít nhất 6 tháng 1 lần, phải lấy ý kiến của nhân viên trong hãng và cho giải thưởng tượng trưng, để khuyến khích những ai có ý kiến hay, và để biết trong đám nhân viên ai là người có tài năng thật sự, ai là người có thể cộng tác lâu dài với mình, để mình biết sử dụng người đúng cách. Lâu lâu, độ 3, 4 năm lại xin ý kiến cải cách của dân chúng, để xem trào lưu lúc đó dân chúng muốn gì, thích loại hàng gì, để mình cải tiến cho hợp thời, và để cho mình đừng mua vào những hàng có thể ứ đọng không bán được sau đó không xa.
b/. Phải tìm người giỏi để cộng tác . Những người này có thể thay mình mà điều khiển hãng, nên phải là người mưu trí, nhưng lương thiện. Nên lấy người từ cấp dưới trở lên, vì họ có nhiều kinh nghiệm. Đừng nên thu nạp nhân viên vào cấp cao, vì cảm tình, hoặc vì liên hệ anh em, họ hàng.
c/. Xử dụng nhân viên phải có tình, đừng vắt chanh bỏ vỏ, khiến người ta lúc nào cũng lo sợ bị sa thải, thì làm sao họ có thể tận tụy với mình được.
III. Về phương diện gia đình. Trong gia đình, khi khá giả, cũng đừng nên tiêu xài hoang phí, phải luôn đề phòng lúc thất thế, hoặc hoạn nạn có thể xẩy ra. Phải luôn học hỏi thêm, để theo kịp đà tiến hóa của nhân loại, và để bảo đảm cho đời sống trong gia đình được vững bền.
Tóm lại, sự thành bại trong đời ta là do ta, chứ không phải do Trời; nên nếu ta biết đề phòng, và luôn cố gắng thì coi như ta đã theo đúng lời dậy của quẻ Vị Tế vậy.
HỎA THỦY VỊ TẾ
Vị Tế Tự Quái
未 濟 序 卦
Vật bất khả cùng dã.
物 不 可 窮 也
Cố thụ chi dĩ Vị Tế
故 受 之 以 未 濟
Chung yên.
終 焉
Vị Tế Tự Quái
Sự đời hồ dễ có biên, có cùng.
Nên đem Vị Tế làm chung,
Tuy chung, mà vẫn vô cùng, mới hay.
Quẻ Vị Tế ở sau quẻ Ký Tế, và cuối cùng 64 quẻ Dịch, có một ý nghĩa sâu sa. Thánh Hiền không để quẻ Ký Tế kết thúc bộ Kinh Dịch, mà lại để quẻ Vị Tế, là cốt cho ta thấy sự đời vô cùng, vô tận, trí con người khó mà lường được, mà giới hạn được. Sự đời biến dịch chẳng cùng: Trị mà sơ hở, sẽ sinh loạn. Cho nên, cuối quẻ Dịch, Thánh nhân để quẻ Vị Tế, muốn khuyên ta đừng bao giờ ngừng cố gắng, đừng bao giờ quên lo liệu, đề phòng.
Ngự Án bình rằng: Vị Tế là công việc còn dang dở chưa thành tựu. Sự dang dở sở dĩ có là vì các Hào chẳng đúng vị ngôi. Hào Âm ở vị Dương, Hào Dương ở vị Âm, cũng y như trong xã hội, sự dang dở sẽ sinh ra là vì người hay ở địa vị dưới, người dưới ở địa vị trên, thành thử mọi người đâm ra ngỡ ngàng khó xử.
I. Thoán.
Thoán từ.
未 濟 . 亨. 小 狐 汔 濟. 濡 其 尾 . 無 攸 利 .
Vị Tế. Hanh. Tiểu hồ ngật tế. Nhu kỳ vĩ. Vô du lợi.
Dịch.
Vị Tế là việc chưa thành,
Chưa thành, vẫn thấy tiến trình hanh thông.
Cáo con hùng hổ vượt sông,
Để cho đuôi ướt, thời không lợi gì.
Vị Tế mà hanh, là vì ngày nay mọi sự còn bế tắc, dang dở, nhưng rồi đây, nhờ sự cố gắng, mọi sự lại trở nên thông suốt, xuôi xắn, hẳn hoi (Vị Tế. Hanh). Nhưng muốn ra tay gây dựng cơ đồ, không thể hăm hăm, hở hở, mà phải có mưu lược, phải biết ước lượng những gian nguy, những khó khăn, mình sẽ gặp, và phải trù liệu trước những phương cách, để lướt thắng những khó khăn đó.
Hăm hở, liều lĩnh, chỉ chuốc lấy thất bại, y thức như con hồ con, thiếu kinh nghiệm, thấy sông đã đóng băng, liền hăm hở vượt qua; nó có biết đâu nhiều chỗ sông hãy còn là nước, vì thế mà hụt chân, đến nỗi ướt cả đuôi, như vậy làm sao mà hay được (Tiểu hồ ngật tế. Nhu kỳ vĩ. Vô du lợi).
Thoán Truyện. Thoán viết.
彖 曰 . 未 濟 . 亨 . 柔 得 中 也 . 小 狐 汔 濟 . 未 出 中 也 . 濡 其 尾 . 無 攸 利 .不 續 終 也 . 雖 不 當 位 .剛 柔 應 也 .
Vị Tế. Hanh. Nhu đắc trung dã. Tiểu hồ ngật tế. Vị xuất trung dã. Nhu kỳ vĩ. Vô du lợi. Bất tục chung dã. Tuy bất đáng vị. Cương nhu ứng dã.
Dịch. Thoán rằng:
Vị Tế mà được hanh thông,
Là vì Nhu được ngôi trung đàng hoàng.
Cáo con sông vội vượt sang,
Cái vòng gian hiểm, nguy nàn chưa qua.
Ướt đuôi, mọi chuyện bê tha,
Dở dang, dang dở, khó mà nên công.
Tuy rằng ngôi vị long đong,
Cứng mềm ứng hợp, vả không quải gàng.
Thoán. Vị Tế mà hanh là vì Hào Lục ngũ là nhu đắc trung (Vị Tế hanh. Nhu đắc trung dã).
Ví dụ: Như thời Vương Mãng chiếm ngôi nhà Hán, có Lưu Tú muốn phục hưng cơ đồ. Lưu Tú là con người hết sức khéo léo, mềm mỏng, lại là dòng dõi tôn thất nhà Hán, vì thế nên Lưu Tú qui tụ được nhiều anh tài, và sau khôi phục được cơ đồ nhà Hán. Nhưng lúc mới bắt đầu thời kỳ Vị Tế, không nên hăm hở làm liều, y như con hồ con qua sông, mà vẫn chưa thoát được vòng nguy hiểm (Tiểu hồ nhật tế. Vị xuất trung dã). Nếu mới đầu mà sơ xuất như hồ ướt đuôi, thì khó mà tiếp tục công việc đến kỳ cùng vậy (Nhu kỳ vĩ. Vô du lợi. Bất tục chung dã). Vị Tế tuy dang dở, vì chẳng có Hào nào xứng ngôi, xứng vị, nhưng sẽ hanh thông, vì các Hào đều ứng hợp nhau. Trở lại trường hợp Lưu Tú, hay các vua chúa lập quốc, ta thấy buổi đầu mọi sự còn dở dang, chếch mác, nhưng nhờ có hiền tài, lương tướng phụ bật, nên cuối cùng cũng thành công, thành sự.
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết.
象 曰 . 火 在 水 上 . 未 濟 . 君 子 以 慎 辨 物 居 方 .
Hỏa tại thủy thượng. Vị Tế. Quân tử dĩ thận biện vật cư phương.
Dịch. Tượng rằng:
Vị Tế nước dưới, lửa trên,
Quân tử biện vật, phải nên rạch ròi.
Biện phân cẩn thận, hẳn hoi.
Xếp cho đâu đấy, cơ ngơi rõ ràng.
Hỏa trên, nước dưới, là Vị Tế. Quân tử nhân đó cẩn thận biện phân sự vật cho đâu ra đấy. Thủy Hỏa không liên lạc, mỗi bên hoạt động một chiều, nên không thành công. Muốn làm nên sự việc, ta phải xem xét, học hỏi tính chất mỗi vật, để dùng cho đúng lúc, đúng nơi. Muốn đảo lộn thời cuộc cho Vị Tế trở thành Ký Tế, chính là chỗ biết dùng người, chỗ biết đặt người cho đúng ngôi, đúng vị.
Khi vua Câu Tiễn đi hàng Ngô Phù Sai, đình thần nghị luận cho Phạm Lãi theo hầu, còn Văn Chủng ở nhà làm Tướng quốc trị dân; Khổ Thành chịu trách nhiệm về tư pháp; Duệ Dũng giữ việc ngoại giao; Học Tấn đảm trách việc đàn hạch; Chư Trình thống lĩnh ba quân; Cao Như lo phủ ủy dân tình, tích trữ lúa gạo vv...Vì ai đáng vào ngôi đó, cho nên nước Việt không bị diệt vong, và dần dần lại phục hồi được.
Cho nên dùng người đúng nơi, đúng chỗ, dùng vật cho phải chốn, phải thời, chính là yếu tố sẽ mang lại thành công.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 濡 其 尾 . 吝 .
象 曰 . 濡 其 尾 . 亦 不 知 極 也 .
Sơ Lục.
Nhu kỳ vĩ. Lận.
Tượng viết:
Nhu kỳ vĩ. Diệc bất tri cực dã.
Dịch.
Cái đuôi đã ướt mất rồi,
Sự tình như thế, vậy thời hổ thay.
Tượng rằng: Đuôi đã ướt rồi,
Cũng vì chẳng biết đến nơi, đến cùng.
Sơ Lục. Hồ qua sông, mà để ướt đuôi là đáng trách, người bắt tay vào việc mà để hỏng chuyện, cũng là đáng trách (Nhu kỳ vĩ. Lận). Lưu Tú, tức Quang Võ, muốn phục hưng nhà Hán, ông xuống kinh đô để dự thi võ nghệ, lập kế. Nhưng khi vào trường thi, thấy Vương Mãng, đã nổi xung lên, dương cung định bắn. Ông liền bị Vương Mãng bắt, may có Đậu Dung xin tha cho, không thì làm gì còn đời Quang Võ, và làm gì có nhà Đông Hán.
Nhu kỳ vĩ. Diệc bất tri cực dã, là mới đầu vụng xử, đến nỗi hỏng việc, như hồ qua sông để ướt đuôi thì dốt vậy.
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 曳 其 輪 . 貞 吉 .
象 曰 . 九 二 貞 吉 . 中 以 行 正 也 .
Cửu nhị.
Duệ kỳ luân. Trinh cát.
Tượng viết:
Cửu nhị trinh cát. Trung dĩ hành chính dã.
Dịch.
Hãm cho bánh chạy bớt đà,
Mới là minh chính, mới là phải hay.
Tượng rằng: Cửu nhị phải hay,
Đã hùng, lại xử cho ngay, cho lành.
Cửu nhị. Mặc dầu là thời cơ đã thuận tiện, nhưng lượng sức mình chưa đủ, phải biết kiềm chế mình, như vậy mới hay. (Duệ kỳ luân. Trinh cát).
Khi nước Ngô, đã bắt đầu suy yếu, Việt Vương Câu Tiễn muốn khởi binh đi đánh Ngô. Phạm Lãi can rằng: Thời cũng gần tới rồi, nhưng xin Chúa công dạy tập quân lính thêm, vì đánh hay phải có quân giỏi, mà muốn cho quân giỏi, phải tập đủ nghề, nào là kiếm kích, nào là cung võ. Nếu không có thầy hay dạy tập, thì không rành nghề được. Việt Chúa nghe lời, bèn cho đi rước thầy về rèn binh sĩ, và hoãn đánh nước Ngô (Đông Châu liệt quốc, Võ minh Trí dịch trang 962). Tượng Truyện cho rằng: Cửu nhị sở dĩ hay, là vì đã biết xử phải (Cửu nhị trinh cát. Trung dĩ hành chính dã).
3. Hào Lục tam.
六 三 . 未 濟 . 征 凶 . 利 涉 大 川 .
象 曰 . 未 濟 征 凶 . 位 不 當 也 .
Lục tam.
Vị tế. Chinh hung. Lợi thiệp đại xuyên.
Tượng viết:
Vị Tế chinh hung. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Trong khi mọi chuyện dở dang,
Mà còn vồ vập, lam làm thời hung.
Còn như vượt sóng, qua sông,
Tính bề thoát hiểm, thời không hại gì.
Tượng rằng:
Trong khi mọi chuyện dở dang,
Mà còn vồ vập, lam làm thời hung.
Vị ngôi lóng ngóng, lung tung.
Vị ngôi chẳng xứng, nên không ra gì.
Lục tam là Hào nhu mà cư Dương vị, nên không đúng ngôi, đúng vị; lại còn ở nội quái là Khảm,là nguy hiểm, tức là còn trong vòng nguy hiểm. Đã kém tài đức, ở trong vòng nguy nan, mà đã vội vẫy vùng, thời chẳng hay (Vị tế chinh hung). Trên nói là Chinh hung, mà tiếp theo lại nói là Lợi thiệp đại xuyên, thì ý nghĩa tương phản nhau. Có lẽ phải nói rằng Bất lợi thiệp đại xuyên mới phải.
Các nhà bình giải chia làm hai phái. Một phái như Trình tử, thì để nguyên câu Vị Tế chinh hung. Lợi thiệp đại xuyên mà giải, và cho rằng Chinh hung (dở dói chẳng hay), là vì tài chẳng đủ, còn Lợi thiệp đại xuyên (qua sông vẫn lợi), là vì lúc này là lúc có thể hoạt động được.
Một phái như Chu Hi, Bồ Dương Lưu, Hồ vân Phong thì hiểu câu này như là Vị Tế chinh hung. Bất lợi thiệp đại xuyên. Bồ dương Lưu bênh vực quan điểm này như sau: Lục tam ở vào cực điểm của hiểm nạn, nên chưa có thể thoát hiểm, lại Âm nhu thất vị, không đủ tài để đối phó với hoàn cảnh, thế mà lại cầu tiến, như vậy ắt là hung, thì làm sao mà còn có thể vượt qua gian nguy được. Đã nói rằng: không thể hoạt động; hoạt động là hung, mà lại nói có thể vượt sông lớn (Vượt gian hiểm được),như vậy là phản nghĩa nhau. Chu Hi cho rằng trước chữ Lợi phải có chữ Bất, thế mới đúng.
Đại khái ba Hào dưới quẻ Vị Tế đều chưa thể thoát hiểm, Hào tam cũng như Hào Sơ đều là Âm nhu chi tài không đủ sức thoát hiểm, chỉ có Cửu nhị là có tài, nhưng lại chưa được thời, nên biết kiềm chế mới hay. Suy ra thì chắc chắn là Lục tam không thể nào vượt gian nguy được (Phi lợi thiệp đại xuyên khả tri dĩ).
Vị Tế chinh hung. Vị bất đáng dã, là chưa đúng ngôi vị, thì sao hoạt động cho hay được.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 貞 吉 . 悔 亡 . 震 用 伐 鬼 方 . 三 年 有 賞 于 大 國 .
象 曰 . 貞 吉 悔 亡 . 志 行 也 .
Cửu tứ.
Trinh cát hối vong. Chấn dụng phạt Quỉ phương.
Tam niên hữu thưởng vu đại quốc.
Tượng viết:
Trinh cát hối vong. Chí hành dã.
Dịch.
Bền lòng, vững chí mới hay,
Chính trinh, mới khỏi đơn sai, lỗi lầm.
Quỉ phương chinh phục ba năm,
Rồi ra đại quốc thưởng công, thưởng tài.
Tượng rằng:
Bền lòng, vững chí mới hay,
Chính trinh, mới khỏi đơn sai, lỗi lầm.
Thế là công việc xứng tâm.
Thế là chí nguyện đang tầm thực thi.
Cửu tứ là một trọng thần, trên được vua tin dùng, lại gặp thời cơ thuận tiện hơn, vì bước gian nan lúc đầu đã vượt qua đươc rồi (đã ra khỏi quẻ Khảm, đã tiến đến quẻ Ly), nên dĩ nhiên là có thể dẹp loạn, cứu đời. Tuy nhiên vẫn phải minh chính, mới hay, mới tốt (Trinh cát hối vong). Lúc ấy phải hết sức gắng công, mà dẹp loạn tứ phương, dầu phải đến nước xa xôi, hiểm trở như Hung Nô cũng chẳng từ (Chấn dụng phạt quỷ phương). như vậy rồi ra sẽ được triều đình tưởng thưởng (Tam niên hữu thưởng vu đại quốc). Đó là trường hợp Quang Võ. Khi đã đủ binh hùng, tướng mạnh, liền giết Vương Mãng, rồi đánh Vương Lãng ở Hàn Đan, dẹp Xích My ở Trường An vv... Lưu Tú vất vả lắm, rồi sau mới được phong làm Tiểu vương, và cuối cùng mới lên ngôi Hoàng Đế. Trinh cát hối vong. Chí hành dã là Cửu tứ hay, chính vì toại được chí nguyện. Như ta đã thấy Vua Quang Võ chinh đông, dẹp bắc , thu gồm giang sơn về một mối. Đó là thực hiện được chí nguyện vậy.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 . 貞 吉 無 悔 . 君 子 之 光 . 有 孚 . 吉 .
象 曰 . 君 子 之 光 . 其 暉 吉 也 .
Lục ngũ.
Trinh cát vô hối. Quân tử chi quang. Hữu phu. Cát.
Tượng viết:
Quân tử chi quang. Kỳ huy cát dã.
Dịch.
Theo đường tốt đẹp, thẳng ngay,
Rồi ra sẽ hết đơn sai, lỗi lầm,
Quang huy, quân tử rỡ ràng,
Thực tài, thực đức, hiên ngang tốt lành.
Tượng rằng: Quân tử quang hoa,
Quang hoa chiếu rõ, thật là lành thay.
Lục ngũ mà minh chính, ngay lành, là vì người quân tử đã phát quang huy, lại có thực tài, thực đức (Trinh cát vô hối). Khi Quang Võ đã dẹp xong Vương Mãng, chư tướng đều muốn cho ông lên ngôi. Trong một bữa tiệc, Cảnh Nhĩ dâng lên một biểu chương, có những lời sau đây: Nay Chúa công sớm nối giang sơn cho chư tướng được phỉ dạ đợi trông, cứu sinh dân nơi đồ thán, giải lê thứ lúc đảo điên. Rõ ràng Quang Võ đã gây được tín nhiệm và uy thế đối với chư tướng. (Quân tử chi quang . Hữu phu. Cát).
Quân tử chi quang. Kỳ huy cát dã là tài đức mà đã như hào quang chói lọi ra ngoài, thì làm gì mà chẳng tốt.
6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 有 孚 于 飲 酒 . 無 咎 . 濡 其 首 . 有 孚 失 是 .
象 曰 . 飲 酒 濡 首 . 亦 不 知 節 也 .
Thượng Cửu.
Hữu phu vu ẩm tửu. Vô cữu. Nhu kỳ thủ. Hữu phu thất thị.
Tượng viết:
Ẩm tửu nhu thủ. Diệc bất tri tiết dã.
Dịch.
Hãy tin tài đức của mình,
Uống ăn, tiêu sái, mặc tình lỗi chi.
Vùi đầu, chìm đắm, đam mê,
Thế là tự tín. có bề quá đa.
Tượng rằng: chè chén, vùi đầu,
Thế là tiết độ, còn đâu nữa là.
Thượng Cửu. Khi đã làm cho thời Vị Tế, trở thành Ký Tế rồi, thời công trình hầu như đã hoàn thành, thì cũng có thể sống vui vẻ. Còn như phóng túng say sưa, thì là tự tín quá mức, và không còn hợp lẽ phải nữa.
Dịch kinh luôn luôn dạy con người cảnh giới, đề phòng, dầu thịnh mấy cũng không được buông lung, theo dục vọng Đại Tướng Ngô Hán lâm bệnh nặng gần chết. Vua Quang Võ đến thăm và hỏi: Tướng quân có lời chi mà nói với trẫm chăng? Ngô Hán đáp: Tôi ngu muội không có trí thức bao nhiêu, duy muốn cho bệ hạ phải dè dặt mà thôi. Nói xong liền qua đời. (Xem Đông Hán Diễn nghĩa. Thanh Phong dịch, trang 255). Thế là Ngô Hán muốn khuyên vua dẫu đã bình trị được thiên hạ, cũng vẫn phải luôn cẩn trọng.
Lại một hôm, Quang Võ cùng quần thần tổ chức đi vào núi săn hổ, đến đêm mới về. Khi về đến thành, quan giữ cửa lớn là Chất Huân, nhất định không cho vào, vua đành phải đi một cửa nhỏ khác mà vào thành. Hôm sau, Chất Huân vào triều tâu rằng: Xưa vua Văn, vua Võ chẳng dám đi săn bắn, chơi bời, là vì lấy muôn dân làm trọng. Nay Bệ hạ lại săn bắn xa xôi, nơi chốn rừng núi luông tuồng, lấy đêm mà làm ngày, vậy thì lấy chi cho vững bền xã tắc. Vua khen Chất Huân là hiền sĩ, và thưởng cho một trăm cây gấm vóc, và giáng chức vị quan đã mở cửa cho vua vào thành. .(Xem Đông Hán diễn nghĩa, Thanh Phong dịch trang 250)
Ẩm tửu nhu thủ. Diệc bất tri tiết dã, là vùi đầu vào rượu chè, thế là không biết tiết độ vậy. Xưa Nghi Địch làm rượu ngon, một hôm dâng lên vua Đại Võ. Vua nếm xong, liền đuổi Nghi Địch ra khỏi triều ca, và nói rằng sau này sẽ có vua chúa mất nước vì rượu.
Cả quẻ Vị Tế này, Thánh nhân không ngớt khuyên ta thận trọng và cố gắng. Cuối cùng lại khuyên ta đừng làm gì trái nghì, trái tiết, trái lý vậy.
ÁP DỤNG QUẺ VỊ TẾ VÀO THỜI ĐẠI
Vị Tế là 1 quẻ có những ý nghĩa sâu sa, trí con người khó mà đo lường được. Thánh nhân làm quẻ Vị Tế chỉ muốn khuyên ta: Đừng bao giờ ngừng cố gắng, đừng bao giờ quên lo liệu đề phòng.
Tôi (tác giả mục Áp dụng vào thời đại), đã suy tư nhiều, nay mang tất cả những kinh nghiệm gởi lại cho quí vị (những người bạn thân, cùng chí hướng là nghiên cứu Dịch, ở thời đại này, hoặc mai sau cùng thưởng lãm).
Thật vậy, nhiều khi ta thấy mọi sự trên đời, mới đầu diễn tiến rất đẹp, vì người chủ chốt đã suy tư nhiều trước khi tạo dựng ra nó, thế mà bỗng nhiên thấy sụp đổ, và đi đến tan vỡ, không còn cứu vãn được nữa. Tại sao?
Chỉ tại ta khi đắc chí, thì tự mãn, không còn cố gắng, hoặc đề phòng mọi sự việc sẽ có thể xẩy ra sau đó mà thôi, và tại ta không theo đà tiến hóa của nhân loại.
I. Về phương diện 1 Quốc gia. Một nước mà quá lạc hậu vì người cầm đầu kém tài, hoặc óc còn bảo thủ, cầu an, thì trước sau gì cũng đưa dân, nước vào sự suy sụp, nghèo nàn, lạc hậu, trước sau gì cũng bị nước láng giềng mạnh hơn xâm chiếm, hoặc bị các Liệt Cường xâu xé, bắt nạt (Ví dụ: Trung Hoa về cuối đời Mãn Thanh).
II. Về phương diện thương mại. Một cơ sở thương mại rất lớn, đã đứng vững cả nửa thế kỷ, thế mà tại sao đùng một cái lại tuyên bố bị phá sản. Tại sao?
Theo thiển ý của tôi, vì thiếu những lý do sau đây:
Vì những người cầm đầu, cứ theo nếp cũ làm, không chịu cải tiến cho hợp với nhu cầu, vừa với túi tiền của dân chúng ( điều này rất quan trọng).
a/. Nên hàng tháng, hoặc ít nhất 6 tháng 1 lần, phải lấy ý kiến của nhân viên trong hãng và cho giải thưởng tượng trưng, để khuyến khích những ai có ý kiến hay, và để biết trong đám nhân viên ai là người có tài năng thật sự, ai là người có thể cộng tác lâu dài với mình, để mình biết sử dụng người đúng cách. Lâu lâu, độ 3, 4 năm lại xin ý kiến cải cách của dân chúng, để xem trào lưu lúc đó dân chúng muốn gì, thích loại hàng gì, để mình cải tiến cho hợp thời, và để cho mình đừng mua vào những hàng có thể ứ đọng không bán được sau đó không xa.
b/. Phải tìm người giỏi để cộng tác . Những người này có thể thay mình mà điều khiển hãng, nên phải là người mưu trí, nhưng lương thiện. Nên lấy người từ cấp dưới trở lên, vì họ có nhiều kinh nghiệm. Đừng nên thu nạp nhân viên vào cấp cao, vì cảm tình, hoặc vì liên hệ anh em, họ hàng.
c/. Xử dụng nhân viên phải có tình, đừng vắt chanh bỏ vỏ, khiến người ta lúc nào cũng lo sợ bị sa thải, thì làm sao họ có thể tận tụy với mình được.
III. Về phương diện gia đình. Trong gia đình, khi khá giả, cũng đừng nên tiêu xài hoang phí, phải luôn đề phòng lúc thất thế, hoặc hoạn nạn có thể xẩy ra. Phải luôn học hỏi thêm, để theo kịp đà tiến hóa của nhân loại, và để bảo đảm cho đời sống trong gia đình được vững bền.
Tóm lại, sự thành bại trong đời ta là do ta, chứ không phải do Trời; nên nếu ta biết đề phòng, và luôn cố gắng thì coi như ta đã theo đúng lời dậy của quẻ Vị Tế vậy.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
5 SƠN THỦY MÔNG
SƠN THỦY MÔNG
Mông Tự Quái
蒙 序 卦
Truân giả vật chi thủy sinh dã.
屯 者 物 之 始 生 也。
Vật sinh tất Mông
物 生 必 蒙,
Cố thụ chi dĩ Mông.
故 受 之 以 蒙
Mông giả mông dã.
蒙 者 蒙 也
Vật chi trĩ dã.
物 之 稚 也。
Mông Tự Quái
Truân là vạn vật chào đời ,
Hãy còn mông muội, chơi vơi, ngỡ ngàng.
Cho nên tiếp tới quẻ Mông,
Mông là dốt nát, mịt mùng, thơ ngây.
Mông là mông muội, tối tăm, là non nớt, ấu trĩ. Có nhà bình luận cho rằng: chữ Mông gợi ra hình ảnh một căn nhà tối tăm, lụp xụp, mái rủ xuống gần sát đất, tiêu biểu cho thời kỳ man dại xa xưa, khi mà dân chúng còn ở trong những mái nhà thô sơ, còn ngu si, dốt nát . . .
I. Thoán.
Thoán Từ.
蒙:亨。 匪 我 求 童 蒙,童 蒙 求 我。初 噬 告,再 三 瀆,瀆 則 不 告。 利 貞。
Mông. Hanh. Phỉ ngã cầu đồng mông. Đồng mông cầu ngã. Sơ phệ cốc. Tái tam độc. Độc tắc bất cốc. Lợi trinh.
Dịch.
Ngây thơ Mông muội có cơ hay,
Thầy không cầu trẻ, trẻ cầu thầy.
Nhất thứ cầu ta, ta chỉ giáo,
Tái tam sàm sỡ, chẳng phô bày.
Đại phàm dạy dỗ, vẽ bày,
Phải cho trinh chính, mới hay, mới lời.
Quẻ Mông muốn đề cập đến công trình giáo hóa, để khai phóng cho con người khỏi dốt nát, mông muội; hoặc là con người lịch sử khi còn man di, mông muội; hoặc là con người lê thứ còn dốt nát, u mê; hoặc là những trẻ thơ còn khờ khạo, vừa chập chững bước vào đời. Nếu xét về thời gian và tuổi tác, con người có thể ngu muội nhất thời, nhưng nếu xét về bản tính, về tính chất, thì con người vốn thông minh. Dẫu hồng trần, dẫu ngoại cảnh, có thể nhất thời như sa mù che mất cốt cách, mất tâm linh, con người vẫn có thể nhờ giáo hóa mà trở nên sáng láng. Vì vậy Thánh nhân đề cao sự giáo hóa, giáo dục.
Thoán Truyện viết:
彖 曰. 蒙,山 下 有 險,險 而 止,蒙。蒙 亨,以 亨 行 時 中 也。匪 我 求 童 蒙,童 蒙 求 我,志 應 也。初 噬 告,以 剛 中 也。再 三 瀆,瀆 則 不 告,瀆 蒙 也。蒙 以 養 正,聖 功 也。
Mông. Sơn hạ hữu hiểm. Hiểm nhi chỉ. Mông. Mông hanh. Dĩ hanh hành thời trung dã. Phỉ ngã cầu đồng mông. Đồng mông cầu ngã. Chí ứng dã. Sơ phệ cốc. Dĩ cương trung dã. Tái tam độc. Độc tắc bất cốc. Độc mông dã. Mông dĩ dưỡng chính. Thánh công dã.
Dịch.
Thoán rằng:
Mông là dưới núi có nguy nan,
Nguy hiểm dừng chân, vẻ ngỡ ngàng.
Mông đấy, rồi ra hạnh vận đấy,
Hợp thời, hợp Đạo, sẽ thênh thang.
Ta đâu cầu trẻ, để khai quang,
Trẻ phải cầu ta, chỉ lối đàng.
Chí trẻ, chí ta cần ứng hợp,
Tương ứng rồi ra dễ bảo ban.
Nhất thứ cầu ta, ta chỉ giáo,
Mới là chính đáng, mới khôn ngoan.
Tái tam sàm sỡ, thôi dạy bảo,
Sàm sỡ âu đành tính trẻ con.
Ta đây dạy dỗ mầm non,
Cốt là nuôi dưỡng, bảo toàn tinh hoa.
Khải mông, dưỡng chính bôn ba,
Dưỡng nuôi chính khí, mới là Thánh công.
Giáo hóa, giáo dục, cốt là để phát huy phẩm cách con người, tinh hoa con người, để rốt ráo con người sẽ trở nên Thánh Hiền. Phát Mông có mục đích là Dưỡng chính.
Như vậy, đừng thấy con người còn ngu si, mà đã vội thất vọng. Đó là những viên ngọc quí, đang chờ sự dũa mài để trở nên giá trị. Vì thế, tuy Mông mà vẫn Hanh. Nhưng muốn giáo hóa cho kết quả, không phải thầy đi cầu trò, mà trò phải thành khẩn cầu thầy.
Con người có tha thiết đi tìm chân lý, con người có tha thiết muốn hoán cải mình, thì khi ấy minh sư mới dễ bề khai quang, điểm hóa. Chân lý là cái gì quý báu, cần được truyền thụ trong một bầu không khí kính cẩn, chứ không phải ngọc để ngâu vầy. Đó là đại ý Thoán Từ, Thoán Truyện.
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết:
象 曰. 山 下 出 泉,蒙﹔ 君 子 以 果 行 育 德。
Sơn hạ xuất tuyền. Mông. Quân tử dĩ quả hạnh dục đức.
Dịch.
Tượng rằng: Dưới núi suối tuôn,
Lo sao đức hạnh vuông tròn, mới nên.
Nhìn Tượng quẻ Mông, ta liên tưởng tới một dòng suối từ lòng núi tuôn ra, còn ngỡ ngàng, e ấp, chưa biết chẩy về hướng nào, ngả nào. Đại Tượng Truyện nhân đó khuyên ta nên lập chí cho cương kiên, tu đức cho sung mãn, có như vậy ta sẽ như dòng suối vô tận ào ạt tuôn ra tràn ngập bốn biển, năm hồ.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
Các Hào đều bàn về công cuộc giáo hóa.
1. Hào Sơ Lục.
初 六. 發 蒙,利 用 刑 人,用 說 桎 梏,以 往 吝。發 蒙,
利 用 刑 人,用 說 桎 梏,以 往 吝。
象 曰. 利 用 刑 人,以 正 法 也。
Sơ Lục. Phát Mông. Lợi dụng hình nhân.
Dụng thoát chất cốc. Dĩ vãng lận.
Tượng viết:
Lợi dụng hình nhân. Dĩ chính pháp dã.
Dịch.
Dạy trẻ có khi phải vọt roi.
Gông cùm cố gắng gỡ cho người.
Gông cùm mông muội khi đã gỡ,
Đập đánh làm chi nữa, hỡi ai?
Tượng rằng: Cũng lúc vọt roi,
Vọt roi là cốt dạy người phép khuôn.
Hào Sơ Lục Phát Mông đề cập đến phương pháp giáo hóa, và cho rằng khi con người còn ngu si, dốt nát, khi mà tâm hồn còn đần độn, cứng cỏi, chưa biết rung động trước Chân, Thiện, Mỹ, thì cũng cần dùng hình phạt, thị uy.
Lập ra hình phạt, thị uy để con người biết sợ hãi, biết nép mình vào khuôn phép, để dần dần hấp thụ được lời giáo huấn, và sẽ sửa đổi được tâm tính. Hình phạt chỉ là phương tiện nhất thời; khi con người đã biết phục thiện, thời phải bỏ. Dùng hình phạt mãi đâu có hay.
Lai Tri Đức khi bình Hào này, cho rằng nếu không biết dùng hình phạt, mà chỉ dùng đường lối ngọt ngào để giáo hóa, thì thường sẽ đi đến thất bại. Xét cho cùng, hình phạt cần hay không cần, cũng tùy nơi, tùy thời, tùy người.
Quân tử ư hữ thì đau,
Tiểu nhân vác đá đánh đầu như không.
Tóm lại, trong công trình giáo hóa, phải phối hợp cả nghiêm, lẫn khoan.
2. Hào Cửu nhị.
九 二. 包 蒙 吉﹔ 納 婦 吉﹔ 子 克 家。
象 曰. 子 克 家,剛 柔 接 也。
Cửu nhị. Bao mông cát. Nạp phụ cát. Tử khắc gia
Tượng viết:
Tử khắc gia. Cương nhu tiếp dã
Dịch.
Mông Cửu nhị, bao dong mới tốt.
Dung trẻ thơ, thâu nạp nữ nhi.
Rộng dong, đẹp đẽ mọi bề,
Phận con, đã biết lo bề gia cang.
Tượng rằng: Con biết lo lường,
Dưới, trên, mềm, cứng, đôi đường hòa hai.
Hào hai là Dương cương, mà lại đắc trung, sẽ đóng vai chủ chốt trong công cuộc giáo hoá mọi người.
Cửu nhị Bao mông là một minh sư, có bổn phận khải mông cho tất cả đám người mông muội. Vì thế Hào Cửu nhị là chủ Hào trong quẻ này. Vì Cửu nhị đã cương, lại đắc trung, nên cảm thông, bao dung được mọi hạng người, lại biết linh động giáo hóa, khiến mọi hạng người đều được mang ơn giáo dục, cải hoá. Cửu nhị là Dương Hào, mà lại thống trị mọi Âm Hào, nên nói rằng Nạp phụ, nên nói rằng Bao mông. Cửu nhị ở bậc dưới, mà lại làm công việc trên, có khác nào như bầy tôi lương đống, được quân vương ủy thác công việc, như con cái được cha giao phó cho trách nhiệm lo lắng gia đình. Vì thế nên nói: Tử khắc gia. Cửu nhị mà làm nên công trình, chính là nhờ ở chỗ đồng tâm, nhất trí giữa nhị và ngũ, giữa đôi bên thầy trò.
3. Hào Lục tam.
六 三 : 勿 用 娶 女﹔ 見 金 夫,不 有 躬,無 攸 利。
象曰: 勿 用 娶 女,行 不 順 也。
Lục tam. Vật dụng thủ nữ. Kiến kim phu. Bất hữu cung. Vô du lợi.
Tượng viết:
Vật dụng thủ nữ. Hành bất thuận dã.
Dịch.
Lục tam chớ dụng gái tham tài,
Tham vàng, cuống quít vội theo trai.
Ngốt của, quên mình, quên thể thống,
Hư thân, thôi thế cũng là thôi.
Tượng rằng: Hạng gái ngược đời,
Dùng chi cho uổng, thôi thôi chớ dùng.
Tuy nhiên, trong xã hội vẫn có những hạng người nan giáo. Đó là những hạng người tham vàng bỏ nghĩa, những hạng người ăn xổi, ở thì, không cần đếm xỉa gì đến lương tâm, đến Đạo lý, những hạng người giả dối, bôi bác, sống bừa phứa, gặp chăng hay chớ, chẳng cần gì đến danh dự, đến tình nghĩa. Dịch dùng Hào Lục tam bất trung, bất chính để đề cập đến hạng người ấy một cách bóng bẩy, coi họ như là những đàn bà con gái trắc nết, vong tình; chẳng kể gì đến người tình chính đáng của mình là Thượng Cửu, mà muốn hiến thân cho Cửu nhị gần kề, một người mà đời đang lên hương, vừa có tài, vừa có đức. Vì thế mà Hào Lục tam nói: Vật dụng thú nữ.
4. Hào Lục tứ.
六 四. 困 蒙,吝。
象 曰. 困 蒙 之 吝,獨 遠 實 也。
Lục tứ. Khốn mông. Lận
Tượng viết:
Khốn mông chi lận. Độc viễn thực dã.
Dịch.
Lục tứ, thẹn thay kẻ tối tăm,
Tối tăm, khốn nạn, khổ cho thân.
Tượng rằng: Khốn đốn, tối tăm,
Lìa xa chân thực, cho thân thẹn thùng.
Lại còn một hạng người nan hóa nữa, là hạng người thà chịu dốt nát, chứ chẳng thà tìm thầy, chọn bạn. Họ như bóng tối, mà muốn trốn tránh ánh sáng mặt trời, thì hỏi sao mà chẳng tối tăm, khốn nạn, hổ cho thân mới được chứ. Vì thế Lục tứ nói Khốn mông.
5. Hào Lục ngũ.
六 五. 童 蒙,吉。
象 曰. 童 蒙 之 吉,順 以 巽 也。
Lục ngũ. Đồng mông. Cát.
Tượng viết:
Đồng mông chi cát. Thuận dĩ tốn dã.
Dịch.
Lục ngũ thơ ngây, cũng vẫn hay,
Tượng rằng: Thơ dại vẫn hay,
Vừa ngoan, vừa nhũn, thơ ngây tốt lành.
Dịch đề cao những người ở ngôi cao, vị cả, mà vẫn giữ được tấm lòng thành khẩn như trẻ thơ, hạ mình cầu học. Đó là đường lối của các minh chúa xưa kia đã dùng để đi vào lịch sử như Thành Thang học Y Doãn, như Cao Tông học Phó Duyệt. Thế là học bất xỉ hạ vấn.
Lẽ đời, khi ở ngôi cao thì tự cao, tự đại không chịu khuất kỷ cầu nhân. Đây trái lại, Lục ngũ nhu trung cư tôn vị, mà vẫn vui lòng cầu ứng với minh sư là Cửu nhị. Đó là những hạng người, trong thì tri thức chưa tạp loạn, mà ngoài thì kiến văn chưa tập nhiễm, Thiên tính, Thiên chân còn y nguyên, chưa bị hao tán, Xích tử chi tâm còn toàn vẹn chưa pha phách mùi đời, vì thế không ỷ mình, vẫn để trống lòng, để thụ giáo cùng những bậc Thánh Hiền. Nuôi dưỡng mình bằng chính lý, chính Đạo, thế là thành công, thế là có cơ thành tựu. Vậy cho nên tốt, cho nên hay. Vì thế Lục ngũ nói: Đồng mông. Cát.
6. Hào Thượng Cửu.
上 九. 擊 蒙,不 利 為 寇,利 御 寇。
象 曰. 利 用 御 寇,上 下 順 也。
Thượng Cửu. Kích mông. Bất lợi vi khấu. Lợi ngự khấu.
Tượng viết:
Lợi dụng ngự khấu. Thượng hạ thuận dã.
Dịch.
Thượng Cửu những thẳng tay dạy trẻ,
Quá khắt khe, bắt bẻ ích chi.
Hay là, cố tránh vô nghì,
Hay là, ngăn chặn những gì nhố nhăng,
Tượng rằng: Chặn được nhố nhăng,
Dưới trên hoà thuận, êm dầm, mới hay.
Nơi Hào Thượng Cửu Kích mông, Dịch cho rằng dẫu sao trong công trình giáo hóa, cũng không nên quá nghiêm khắc. Khi mà người còn quá mông muội, mà chính mình lại quá nghiêm khắc, ép buộc người học hỏi, lam làm những điều quá tầm họ, thì rút cuộc làm hại họ; làm cho họ phát khùng, phát tặc, phản lại mình mà thôi. Có nghiêm minh, thì nên nghiêm minh, khi cần ngăn ngừa những chuyện phóng túng dục tình, thế là nghiêm minh để ngăn chặn bọn thảo khấu ẩn trong lòng người. Có nghiêm minh, chăng là nghiêm minh với con sói đội lốt chiên, muốn đầu độc quần chúng, muốn đưa quần chúng vào vòng sa đoạ mà thôi. Thế là Lợi ngự khấu.
Con người cũng như vũ trụ, có đầy tiềm năng, tiềm lực, và nếu biết hướng dẫn, biết khai thác, sẽ đem lại những lợi ích khôn lường, những kết quả đẹp đẽ vô cùng tận.
Hơn nữa, khi giáo hóa cũng cần phải biết rằng: nơi con người, thiên tư, phú bẩm có khác nhau:
-Người thì thiên về tinh thần (introverti)
-Người thì thiên về vật chất ( extroverti)
-Người thì có cơ phát huệ.
-Người thì tâm có thể lập chí cương kiên.
-Người thì trí có thể phát triển lý sự.
-Người thì có sức lực, tài khéo tay chân.
Manou, một Luật gia Ấn Độ cho rằng:
1). Những hạng người có chân tay khỏe mạnh, tài khéo, sẽ phục vụ xã hội bằng việc lao động tay chân.(Sudras).
2). Những hạng người trí thức sẽ phục vụ xã hội bằng các nghề tự do, thương mại (Vaisyas).
3). Những hạng người có ý chí, tâm huyết, sẽ phục vụ xã hội trong phạm vi chính trị, quân sự (Kshatriyas)
4). Những hạng người yêu chuộng suy tư, yêu chuộng đời sống tâm linh, sẽ phục vụ xã hội trong lãnh vực tu trì (Brahmanes).
Như vậy, thầy phải biết hướng dẫn trò, trò phải biết tự lượng tài sức, khả năng, và khuynh hướng, có như vậy mới đưa đến những thành quả tốt đẹp cho cá nhân, và thế quân bình cho xã hội. Dịch kinh vì muốn giáo hóa mọi người nên gồm đủ: Thiên Đạo, Nhân Đạo, Vật Đạo, để ai đọc Kinh Dịch cũng thâu được cái hay, cái lợi.
ÁP DỤNG QUẺ MÔNG VÀO THỜI ĐẠI
Thời đại ngày nay, phương pháp dạy trẻ không còn dùng roi vọt như khi xưa nữa. Ở các lớp Mẫu giáo, giáo viên không được ưu đãi một trò nào một cách đặc biệt, và không được phép để một trò nào quyến luyến mình quá độ. Các giáo viên, không những dạy các em đọc, viết, mà phải nghĩ ra những trò chơi, để vui chung với các em trong giờ nghỉ.
Nếu có em nào quá ngỗ nghịch, ưa chọc phá bạn, không nghe lời cô hoặc thầy giáo, thì không được đánh, hoặc dùng roi vọt, mà chỉ trừng phạt bằng cách bắt quỳ một lúc, hoặc quá lắm thì nói lại với phụ huynh để dạy bảo em ở nhà họ.
Nơi Trung Học, thì lại quá lắm. Học trò có người còn nhạo báng lại thầy trong lúc giảng dạy, không còn tôn sư, trọng Đạo như khi xưa. Khi xưa, thầy dạy đóng cả vai cha hay mẹ, có trách nhiệm dạy bảo học trò cũng như dạy bảo chính con cái trong nhà vậy (Quân, Sư, Phụ). Thầy dạy còn trọng hơn cha mẹ. Do đó người trò kính trọng thầy, cô như cha mẹ họ vậy, và các bậc phụ huynh cũng đỡ một phần gánh nặng trong việc dạy dỗ con cái họ.
Ngày nay, cha mẹ thì tối ngày làm việc vì sinh kế, đâu có thời gian để dạy con cái nữa. Phương pháp giáo dục hiện tại lại không cho phép nghiêm phạt học trò, do đó Đạo đức ngày một suy giảm một cách rõ rệt. Sự nền nếp của lớp thanh thiếu niên không còn như xưa, và sự lễ phép, tôn kính đối với ông bà, cha mẹ, giáo sư, cùng đối với các bậc trưởng thượng suy giảm một cách rõ rệt. Như vậy sự giáo dục đã hỏng từ gốc rồi. Nhân loại ngày nay chỉ để ý về Khoa Học, mà quên đi sự giáo dục về Đạo Đức của con người. Đạo giáo dạy con người cũng nhiều, nhưng chỉ dạy con người đối với Thượng đế, mà không dạy cách trau dồi từ gốc, hỏi sao có thể giác ngộ ngay được, nếu gốc đã bị mối mọt, hư hỏng rồi.
Vậy phương pháp giáo dục nghiêm khắc, hay phương pháp giáo dục thả lỏng như ngày nay, phương pháp nào hơn, tùy ý quý vị phán xét. Theo thiển ý, nghiêm khắc quá thì không nên, nhưng như ngày nay, thì cần phải thay đổi lại, không thì không biết mai sau loài người có còn muốn có con nữa hay không? Đó là bài toán cần đáp số.
Nhưng bất kỳ dùng phương pháp gì chăng nữa, tôi cũng xin góp với quí vị giáo viên bài thơ sau, để dạy các em thuộc lòng :
Song tiền cần khổ học,
Mã thượng cẩm y hồi.
Bạch nhật mạc nhàn quá,
Thanh xuân bất tái lai.
Dịch
Bên song kinh sử dồi mài,
Ngựa hồng, áo gấm, một mai đi về.
Thiếu thời, nhàn hạ trôi đi,
Ngày xanh, hồ dễ hẹn kỳ trùng lai.
Cách đây không lâu, các vị học trò cũ của nhà tôi (có vị đã 68, 69 tuổi, là những người đã có những địa vị khả quan trong xã hội), đến thăm chúng tôi. Nhà tôi đã không còn nhớ họ là ai, và tên gì. Và 1 người trong bọn họ, đã đọc thuộc lòng bài thơ trên, mà cách đây 53 năm, nhà tôi đã dạy họ. Thật là cảm động. Thầy trò nhắc lại chuyện xưa, với một cảm tình đằm thắm, và cuối cùng kết luận: Những điều Thày dạy chúng con thật không sai vậy.
SƠN THỦY MÔNG
Mông Tự Quái
蒙 序 卦
Truân giả vật chi thủy sinh dã.
屯 者 物 之 始 生 也。
Vật sinh tất Mông
物 生 必 蒙,
Cố thụ chi dĩ Mông.
故 受 之 以 蒙
Mông giả mông dã.
蒙 者 蒙 也
Vật chi trĩ dã.
物 之 稚 也。
Mông Tự Quái
Truân là vạn vật chào đời ,
Hãy còn mông muội, chơi vơi, ngỡ ngàng.
Cho nên tiếp tới quẻ Mông,
Mông là dốt nát, mịt mùng, thơ ngây.
Mông là mông muội, tối tăm, là non nớt, ấu trĩ. Có nhà bình luận cho rằng: chữ Mông gợi ra hình ảnh một căn nhà tối tăm, lụp xụp, mái rủ xuống gần sát đất, tiêu biểu cho thời kỳ man dại xa xưa, khi mà dân chúng còn ở trong những mái nhà thô sơ, còn ngu si, dốt nát . . .
I. Thoán.
Thoán Từ.
蒙:亨。 匪 我 求 童 蒙,童 蒙 求 我。初 噬 告,再 三 瀆,瀆 則 不 告。 利 貞。
Mông. Hanh. Phỉ ngã cầu đồng mông. Đồng mông cầu ngã. Sơ phệ cốc. Tái tam độc. Độc tắc bất cốc. Lợi trinh.
Dịch.
Ngây thơ Mông muội có cơ hay,
Thầy không cầu trẻ, trẻ cầu thầy.
Nhất thứ cầu ta, ta chỉ giáo,
Tái tam sàm sỡ, chẳng phô bày.
Đại phàm dạy dỗ, vẽ bày,
Phải cho trinh chính, mới hay, mới lời.
Quẻ Mông muốn đề cập đến công trình giáo hóa, để khai phóng cho con người khỏi dốt nát, mông muội; hoặc là con người lịch sử khi còn man di, mông muội; hoặc là con người lê thứ còn dốt nát, u mê; hoặc là những trẻ thơ còn khờ khạo, vừa chập chững bước vào đời. Nếu xét về thời gian và tuổi tác, con người có thể ngu muội nhất thời, nhưng nếu xét về bản tính, về tính chất, thì con người vốn thông minh. Dẫu hồng trần, dẫu ngoại cảnh, có thể nhất thời như sa mù che mất cốt cách, mất tâm linh, con người vẫn có thể nhờ giáo hóa mà trở nên sáng láng. Vì vậy Thánh nhân đề cao sự giáo hóa, giáo dục.
Thoán Truyện viết:
彖 曰. 蒙,山 下 有 險,險 而 止,蒙。蒙 亨,以 亨 行 時 中 也。匪 我 求 童 蒙,童 蒙 求 我,志 應 也。初 噬 告,以 剛 中 也。再 三 瀆,瀆 則 不 告,瀆 蒙 也。蒙 以 養 正,聖 功 也。
Mông. Sơn hạ hữu hiểm. Hiểm nhi chỉ. Mông. Mông hanh. Dĩ hanh hành thời trung dã. Phỉ ngã cầu đồng mông. Đồng mông cầu ngã. Chí ứng dã. Sơ phệ cốc. Dĩ cương trung dã. Tái tam độc. Độc tắc bất cốc. Độc mông dã. Mông dĩ dưỡng chính. Thánh công dã.
Dịch.
Thoán rằng:
Mông là dưới núi có nguy nan,
Nguy hiểm dừng chân, vẻ ngỡ ngàng.
Mông đấy, rồi ra hạnh vận đấy,
Hợp thời, hợp Đạo, sẽ thênh thang.
Ta đâu cầu trẻ, để khai quang,
Trẻ phải cầu ta, chỉ lối đàng.
Chí trẻ, chí ta cần ứng hợp,
Tương ứng rồi ra dễ bảo ban.
Nhất thứ cầu ta, ta chỉ giáo,
Mới là chính đáng, mới khôn ngoan.
Tái tam sàm sỡ, thôi dạy bảo,
Sàm sỡ âu đành tính trẻ con.
Ta đây dạy dỗ mầm non,
Cốt là nuôi dưỡng, bảo toàn tinh hoa.
Khải mông, dưỡng chính bôn ba,
Dưỡng nuôi chính khí, mới là Thánh công.
Giáo hóa, giáo dục, cốt là để phát huy phẩm cách con người, tinh hoa con người, để rốt ráo con người sẽ trở nên Thánh Hiền. Phát Mông có mục đích là Dưỡng chính.
Như vậy, đừng thấy con người còn ngu si, mà đã vội thất vọng. Đó là những viên ngọc quí, đang chờ sự dũa mài để trở nên giá trị. Vì thế, tuy Mông mà vẫn Hanh. Nhưng muốn giáo hóa cho kết quả, không phải thầy đi cầu trò, mà trò phải thành khẩn cầu thầy.
Con người có tha thiết đi tìm chân lý, con người có tha thiết muốn hoán cải mình, thì khi ấy minh sư mới dễ bề khai quang, điểm hóa. Chân lý là cái gì quý báu, cần được truyền thụ trong một bầu không khí kính cẩn, chứ không phải ngọc để ngâu vầy. Đó là đại ý Thoán Từ, Thoán Truyện.
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết:
象 曰. 山 下 出 泉,蒙﹔ 君 子 以 果 行 育 德。
Sơn hạ xuất tuyền. Mông. Quân tử dĩ quả hạnh dục đức.
Dịch.
Tượng rằng: Dưới núi suối tuôn,
Lo sao đức hạnh vuông tròn, mới nên.
Nhìn Tượng quẻ Mông, ta liên tưởng tới một dòng suối từ lòng núi tuôn ra, còn ngỡ ngàng, e ấp, chưa biết chẩy về hướng nào, ngả nào. Đại Tượng Truyện nhân đó khuyên ta nên lập chí cho cương kiên, tu đức cho sung mãn, có như vậy ta sẽ như dòng suối vô tận ào ạt tuôn ra tràn ngập bốn biển, năm hồ.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
Các Hào đều bàn về công cuộc giáo hóa.
1. Hào Sơ Lục.
初 六. 發 蒙,利 用 刑 人,用 說 桎 梏,以 往 吝。發 蒙,
利 用 刑 人,用 說 桎 梏,以 往 吝。
象 曰. 利 用 刑 人,以 正 法 也。
Sơ Lục. Phát Mông. Lợi dụng hình nhân.
Dụng thoát chất cốc. Dĩ vãng lận.
Tượng viết:
Lợi dụng hình nhân. Dĩ chính pháp dã.
Dịch.
Dạy trẻ có khi phải vọt roi.
Gông cùm cố gắng gỡ cho người.
Gông cùm mông muội khi đã gỡ,
Đập đánh làm chi nữa, hỡi ai?
Tượng rằng: Cũng lúc vọt roi,
Vọt roi là cốt dạy người phép khuôn.
Hào Sơ Lục Phát Mông đề cập đến phương pháp giáo hóa, và cho rằng khi con người còn ngu si, dốt nát, khi mà tâm hồn còn đần độn, cứng cỏi, chưa biết rung động trước Chân, Thiện, Mỹ, thì cũng cần dùng hình phạt, thị uy.
Lập ra hình phạt, thị uy để con người biết sợ hãi, biết nép mình vào khuôn phép, để dần dần hấp thụ được lời giáo huấn, và sẽ sửa đổi được tâm tính. Hình phạt chỉ là phương tiện nhất thời; khi con người đã biết phục thiện, thời phải bỏ. Dùng hình phạt mãi đâu có hay.
Lai Tri Đức khi bình Hào này, cho rằng nếu không biết dùng hình phạt, mà chỉ dùng đường lối ngọt ngào để giáo hóa, thì thường sẽ đi đến thất bại. Xét cho cùng, hình phạt cần hay không cần, cũng tùy nơi, tùy thời, tùy người.
Quân tử ư hữ thì đau,
Tiểu nhân vác đá đánh đầu như không.
Tóm lại, trong công trình giáo hóa, phải phối hợp cả nghiêm, lẫn khoan.
2. Hào Cửu nhị.
九 二. 包 蒙 吉﹔ 納 婦 吉﹔ 子 克 家。
象 曰. 子 克 家,剛 柔 接 也。
Cửu nhị. Bao mông cát. Nạp phụ cát. Tử khắc gia
Tượng viết:
Tử khắc gia. Cương nhu tiếp dã
Dịch.
Mông Cửu nhị, bao dong mới tốt.
Dung trẻ thơ, thâu nạp nữ nhi.
Rộng dong, đẹp đẽ mọi bề,
Phận con, đã biết lo bề gia cang.
Tượng rằng: Con biết lo lường,
Dưới, trên, mềm, cứng, đôi đường hòa hai.
Hào hai là Dương cương, mà lại đắc trung, sẽ đóng vai chủ chốt trong công cuộc giáo hoá mọi người.
Cửu nhị Bao mông là một minh sư, có bổn phận khải mông cho tất cả đám người mông muội. Vì thế Hào Cửu nhị là chủ Hào trong quẻ này. Vì Cửu nhị đã cương, lại đắc trung, nên cảm thông, bao dung được mọi hạng người, lại biết linh động giáo hóa, khiến mọi hạng người đều được mang ơn giáo dục, cải hoá. Cửu nhị là Dương Hào, mà lại thống trị mọi Âm Hào, nên nói rằng Nạp phụ, nên nói rằng Bao mông. Cửu nhị ở bậc dưới, mà lại làm công việc trên, có khác nào như bầy tôi lương đống, được quân vương ủy thác công việc, như con cái được cha giao phó cho trách nhiệm lo lắng gia đình. Vì thế nên nói: Tử khắc gia. Cửu nhị mà làm nên công trình, chính là nhờ ở chỗ đồng tâm, nhất trí giữa nhị và ngũ, giữa đôi bên thầy trò.
3. Hào Lục tam.
六 三 : 勿 用 娶 女﹔ 見 金 夫,不 有 躬,無 攸 利。
象曰: 勿 用 娶 女,行 不 順 也。
Lục tam. Vật dụng thủ nữ. Kiến kim phu. Bất hữu cung. Vô du lợi.
Tượng viết:
Vật dụng thủ nữ. Hành bất thuận dã.
Dịch.
Lục tam chớ dụng gái tham tài,
Tham vàng, cuống quít vội theo trai.
Ngốt của, quên mình, quên thể thống,
Hư thân, thôi thế cũng là thôi.
Tượng rằng: Hạng gái ngược đời,
Dùng chi cho uổng, thôi thôi chớ dùng.
Tuy nhiên, trong xã hội vẫn có những hạng người nan giáo. Đó là những hạng người tham vàng bỏ nghĩa, những hạng người ăn xổi, ở thì, không cần đếm xỉa gì đến lương tâm, đến Đạo lý, những hạng người giả dối, bôi bác, sống bừa phứa, gặp chăng hay chớ, chẳng cần gì đến danh dự, đến tình nghĩa. Dịch dùng Hào Lục tam bất trung, bất chính để đề cập đến hạng người ấy một cách bóng bẩy, coi họ như là những đàn bà con gái trắc nết, vong tình; chẳng kể gì đến người tình chính đáng của mình là Thượng Cửu, mà muốn hiến thân cho Cửu nhị gần kề, một người mà đời đang lên hương, vừa có tài, vừa có đức. Vì thế mà Hào Lục tam nói: Vật dụng thú nữ.
4. Hào Lục tứ.
六 四. 困 蒙,吝。
象 曰. 困 蒙 之 吝,獨 遠 實 也。
Lục tứ. Khốn mông. Lận
Tượng viết:
Khốn mông chi lận. Độc viễn thực dã.
Dịch.
Lục tứ, thẹn thay kẻ tối tăm,
Tối tăm, khốn nạn, khổ cho thân.
Tượng rằng: Khốn đốn, tối tăm,
Lìa xa chân thực, cho thân thẹn thùng.
Lại còn một hạng người nan hóa nữa, là hạng người thà chịu dốt nát, chứ chẳng thà tìm thầy, chọn bạn. Họ như bóng tối, mà muốn trốn tránh ánh sáng mặt trời, thì hỏi sao mà chẳng tối tăm, khốn nạn, hổ cho thân mới được chứ. Vì thế Lục tứ nói Khốn mông.
5. Hào Lục ngũ.
六 五. 童 蒙,吉。
象 曰. 童 蒙 之 吉,順 以 巽 也。
Lục ngũ. Đồng mông. Cát.
Tượng viết:
Đồng mông chi cát. Thuận dĩ tốn dã.
Dịch.
Lục ngũ thơ ngây, cũng vẫn hay,
Tượng rằng: Thơ dại vẫn hay,
Vừa ngoan, vừa nhũn, thơ ngây tốt lành.
Dịch đề cao những người ở ngôi cao, vị cả, mà vẫn giữ được tấm lòng thành khẩn như trẻ thơ, hạ mình cầu học. Đó là đường lối của các minh chúa xưa kia đã dùng để đi vào lịch sử như Thành Thang học Y Doãn, như Cao Tông học Phó Duyệt. Thế là học bất xỉ hạ vấn.
Lẽ đời, khi ở ngôi cao thì tự cao, tự đại không chịu khuất kỷ cầu nhân. Đây trái lại, Lục ngũ nhu trung cư tôn vị, mà vẫn vui lòng cầu ứng với minh sư là Cửu nhị. Đó là những hạng người, trong thì tri thức chưa tạp loạn, mà ngoài thì kiến văn chưa tập nhiễm, Thiên tính, Thiên chân còn y nguyên, chưa bị hao tán, Xích tử chi tâm còn toàn vẹn chưa pha phách mùi đời, vì thế không ỷ mình, vẫn để trống lòng, để thụ giáo cùng những bậc Thánh Hiền. Nuôi dưỡng mình bằng chính lý, chính Đạo, thế là thành công, thế là có cơ thành tựu. Vậy cho nên tốt, cho nên hay. Vì thế Lục ngũ nói: Đồng mông. Cát.
6. Hào Thượng Cửu.
上 九. 擊 蒙,不 利 為 寇,利 御 寇。
象 曰. 利 用 御 寇,上 下 順 也。
Thượng Cửu. Kích mông. Bất lợi vi khấu. Lợi ngự khấu.
Tượng viết:
Lợi dụng ngự khấu. Thượng hạ thuận dã.
Dịch.
Thượng Cửu những thẳng tay dạy trẻ,
Quá khắt khe, bắt bẻ ích chi.
Hay là, cố tránh vô nghì,
Hay là, ngăn chặn những gì nhố nhăng,
Tượng rằng: Chặn được nhố nhăng,
Dưới trên hoà thuận, êm dầm, mới hay.
Nơi Hào Thượng Cửu Kích mông, Dịch cho rằng dẫu sao trong công trình giáo hóa, cũng không nên quá nghiêm khắc. Khi mà người còn quá mông muội, mà chính mình lại quá nghiêm khắc, ép buộc người học hỏi, lam làm những điều quá tầm họ, thì rút cuộc làm hại họ; làm cho họ phát khùng, phát tặc, phản lại mình mà thôi. Có nghiêm minh, thì nên nghiêm minh, khi cần ngăn ngừa những chuyện phóng túng dục tình, thế là nghiêm minh để ngăn chặn bọn thảo khấu ẩn trong lòng người. Có nghiêm minh, chăng là nghiêm minh với con sói đội lốt chiên, muốn đầu độc quần chúng, muốn đưa quần chúng vào vòng sa đoạ mà thôi. Thế là Lợi ngự khấu.
Con người cũng như vũ trụ, có đầy tiềm năng, tiềm lực, và nếu biết hướng dẫn, biết khai thác, sẽ đem lại những lợi ích khôn lường, những kết quả đẹp đẽ vô cùng tận.
Hơn nữa, khi giáo hóa cũng cần phải biết rằng: nơi con người, thiên tư, phú bẩm có khác nhau:
-Người thì thiên về tinh thần (introverti)
-Người thì thiên về vật chất ( extroverti)
-Người thì có cơ phát huệ.
-Người thì tâm có thể lập chí cương kiên.
-Người thì trí có thể phát triển lý sự.
-Người thì có sức lực, tài khéo tay chân.
Manou, một Luật gia Ấn Độ cho rằng:
1). Những hạng người có chân tay khỏe mạnh, tài khéo, sẽ phục vụ xã hội bằng việc lao động tay chân.(Sudras).
2). Những hạng người trí thức sẽ phục vụ xã hội bằng các nghề tự do, thương mại (Vaisyas).
3). Những hạng người có ý chí, tâm huyết, sẽ phục vụ xã hội trong phạm vi chính trị, quân sự (Kshatriyas)
4). Những hạng người yêu chuộng suy tư, yêu chuộng đời sống tâm linh, sẽ phục vụ xã hội trong lãnh vực tu trì (Brahmanes).
Như vậy, thầy phải biết hướng dẫn trò, trò phải biết tự lượng tài sức, khả năng, và khuynh hướng, có như vậy mới đưa đến những thành quả tốt đẹp cho cá nhân, và thế quân bình cho xã hội. Dịch kinh vì muốn giáo hóa mọi người nên gồm đủ: Thiên Đạo, Nhân Đạo, Vật Đạo, để ai đọc Kinh Dịch cũng thâu được cái hay, cái lợi.
ÁP DỤNG QUẺ MÔNG VÀO THỜI ĐẠI
Thời đại ngày nay, phương pháp dạy trẻ không còn dùng roi vọt như khi xưa nữa. Ở các lớp Mẫu giáo, giáo viên không được ưu đãi một trò nào một cách đặc biệt, và không được phép để một trò nào quyến luyến mình quá độ. Các giáo viên, không những dạy các em đọc, viết, mà phải nghĩ ra những trò chơi, để vui chung với các em trong giờ nghỉ.
Nếu có em nào quá ngỗ nghịch, ưa chọc phá bạn, không nghe lời cô hoặc thầy giáo, thì không được đánh, hoặc dùng roi vọt, mà chỉ trừng phạt bằng cách bắt quỳ một lúc, hoặc quá lắm thì nói lại với phụ huynh để dạy bảo em ở nhà họ.
Nơi Trung Học, thì lại quá lắm. Học trò có người còn nhạo báng lại thầy trong lúc giảng dạy, không còn tôn sư, trọng Đạo như khi xưa. Khi xưa, thầy dạy đóng cả vai cha hay mẹ, có trách nhiệm dạy bảo học trò cũng như dạy bảo chính con cái trong nhà vậy (Quân, Sư, Phụ). Thầy dạy còn trọng hơn cha mẹ. Do đó người trò kính trọng thầy, cô như cha mẹ họ vậy, và các bậc phụ huynh cũng đỡ một phần gánh nặng trong việc dạy dỗ con cái họ.
Ngày nay, cha mẹ thì tối ngày làm việc vì sinh kế, đâu có thời gian để dạy con cái nữa. Phương pháp giáo dục hiện tại lại không cho phép nghiêm phạt học trò, do đó Đạo đức ngày một suy giảm một cách rõ rệt. Sự nền nếp của lớp thanh thiếu niên không còn như xưa, và sự lễ phép, tôn kính đối với ông bà, cha mẹ, giáo sư, cùng đối với các bậc trưởng thượng suy giảm một cách rõ rệt. Như vậy sự giáo dục đã hỏng từ gốc rồi. Nhân loại ngày nay chỉ để ý về Khoa Học, mà quên đi sự giáo dục về Đạo Đức của con người. Đạo giáo dạy con người cũng nhiều, nhưng chỉ dạy con người đối với Thượng đế, mà không dạy cách trau dồi từ gốc, hỏi sao có thể giác ngộ ngay được, nếu gốc đã bị mối mọt, hư hỏng rồi.
Vậy phương pháp giáo dục nghiêm khắc, hay phương pháp giáo dục thả lỏng như ngày nay, phương pháp nào hơn, tùy ý quý vị phán xét. Theo thiển ý, nghiêm khắc quá thì không nên, nhưng như ngày nay, thì cần phải thay đổi lại, không thì không biết mai sau loài người có còn muốn có con nữa hay không? Đó là bài toán cần đáp số.
Nhưng bất kỳ dùng phương pháp gì chăng nữa, tôi cũng xin góp với quí vị giáo viên bài thơ sau, để dạy các em thuộc lòng :
Song tiền cần khổ học,
Mã thượng cẩm y hồi.
Bạch nhật mạc nhàn quá,
Thanh xuân bất tái lai.
Dịch
Bên song kinh sử dồi mài,
Ngựa hồng, áo gấm, một mai đi về.
Thiếu thời, nhàn hạ trôi đi,
Ngày xanh, hồ dễ hẹn kỳ trùng lai.
Cách đây không lâu, các vị học trò cũ của nhà tôi (có vị đã 68, 69 tuổi, là những người đã có những địa vị khả quan trong xã hội), đến thăm chúng tôi. Nhà tôi đã không còn nhớ họ là ai, và tên gì. Và 1 người trong bọn họ, đã đọc thuộc lòng bài thơ trên, mà cách đây 53 năm, nhà tôi đã dạy họ. Thật là cảm động. Thầy trò nhắc lại chuyện xưa, với một cảm tình đằm thắm, và cuối cùng kết luận: Những điều Thày dạy chúng con thật không sai vậy.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
6 PHONG THỦY HOÁN
PHONG THỦY HOÁN
Hoán Tự Quái
渙 序 卦
Đoài giả duyệt dã.
兌 者 說 也
Duyệt nhi hậu tán chi.
說 而 後 散 之
Cố thụ chi dĩ Hoán.
故 受 之 以 渙
Hoán giả ly dã.
渙 者 離 也
Hoán Tự Quái
Đoài là vui sướng, vui rồi ly tan.
Cho nên lấy Hoán mà bàn.
Hoán là xẻ nghé, tan đàn, phôi pha.
Nếu ở đời mà ai cũng chỉ lo mua vui, tìm lạc thú riêng cho mình thì xã hội sẽ đi đến chỗ phân ly, chia rẽ.
Hoán cũng nghĩa là làm cho tiêu tan mọi duyên do phân ly, chia rẽ, như gió (Tốn) thổi tan những cục băng giá trên mặt nước (Khảm) buổi đầu xuân.
Thoán và Tượng bàn tới những phương cách mà đấng quân vương có thể dùng để đoàn kết, qui tụ dân chúng, trong thời kỳ ly tan, chia rẽ. Các Hào chủ trương phải trừ khử, phải gạt bỏ hết mọi duyên do gây chia rẽ.
I. Thoán.
Thoán từ.
渙 . 亨 . 王 假 有 廟 . 利 涉 大 川 . 利貞 .
Hoán. Hanh. Vương cách hữu miếu. Lợi thiệp đại xuyên. Lợi trinh.
Dịch.
Hoán là chia rẽ, ly tan,
Ly tan, mà biết hợp đoàn mới hanh.
Vua ra tế tự miếu đình,
Băng qua sông lớn, công trình sẽ hay.
Một lòng chính chính, thẳng ngay.
Thế thời mới lợi, mới hay vẹn bề.
Hoán là thời kỳ ly tan, chia rẽ, tưởng chừng như mọi sự sẽ đi đến chỗ bế tắc. Những bậc quân vương, có thể giải tỏa được bế tắc ấy, có thể đem lại sự đoàn kết cho dân, làm cho tình thế lại trở nên thông suốt (Hoán. Hanh).
Muốn được vậy, nhà vua phải có lòng thành khẩn, cần phải dùng tín ngưỡng đạo giáo, làm chiêu bài để qui dân, tụ chúng (Vương cách hữu miếu), hoặc đề xướng, hô hào làm một đại công, đại sự gì để mọi người có dịp chung lưng, góp sức, trở nên đồng hội, đồng thuyền. Đó không phải là một chuyện liều lĩnh, nhưng chính là một chuyện hữu ích (Lợi thiệp đại xuyên). Dẫu sao, trong công trình này, nhà vua cũng phải lấy chính lý, chính đạo làm phương châm, mới hay, mới lợi (Lợi trinh).
Thoán Truyện. Thoán viết.
彖 曰. 渙 亨 . 剛 來 而 不 窮 . 柔 得 位 乎 外 而 上 同 . 王 假 有 廟 . 王 乃 在 中 也 . 利 涉 大 川 . 乘 木 有 功 也 .
Hoán hanh. Cương lai nhi bất cùng. Nhu đắc vị hồ ngoại nhi thượng đồng. Vương cách hữu miếu. Vương nãi tại trung dã. Lợi thiệp đại xuyên. Thừa mộc hữu công dã.
Thoán rằng:
Hoán tán mà hay,
Bên trong cương nghị, thẳng ngay chẳng cùng.
Ngoài thời nhu thuận, khiêm cung,
Thuận ngôi, vả lại đẹp lòng với trên.
Vua ra tế tự miếu đền,
Lòng dân, vua muốn giữ bền trước sau,
Lợi là băng vượt sông sâu
Vượt sông dùng gỗ, mới hầu nên công.
Thoán Truyện. Trong thời kỳ chia ly bế tắc, vẫn có thể làm cho tình thế trở nên thông suốt được (Hoán hanh). Đó là biết cả cương, lẫn nhu, lại biết dưới trên chung lưng, góp sức làm việc. Câu Cương lai nhi bất cùng. Nhu đắc vị hồ ngoại nhi thượng đồng tương đối khó giải.
Chu Hi giải thích: Quẻ Hoán là do quẻ Tiệm sinh. Hào Cửu tam quẻ Tiệm xuống thành Hào Cửu nhị quẻ Hoán. Hào Lục nhị quẻ Tiệm lên thành Hào Lục tam quẻ Hoán, và như vậy sẽ đồng điệu với Hào Lục tứ bên trên (Nhi thượng đồng). Lối giải của Chu Hi hợp với phép biến quái, nhưng lại không giải được chữ Nhu đắc vị hồ ngoại, vì Lục tam là Âm cư Dương vị, nên không đắc vị.
Nơi đây, ta chỉ nên ghi nhận đại ý là: muốn giải quyết tình trạng chia rẽ, thời phải áp dụng cả cương lẫn nhu, vua tôi phải đồng lao, cộng tác, trên dưới phải dựa nương lẫn vào nhau. Muốn liên kết mọi người, nhà vua cần phải dùng tín ngưỡng, dùng đạo giáo làm chiêu bài để thu phục nhân tâm, vì thế nói Vương cách hữu miếu. Vương nãi tại trung dã. Vương nãi tại trung là vua thu phục được lòng dân. Muốn được dân, phải thu phục được lòng dân. Lúc nhân tâm chia rẽ, cũng nên đề xướng ra những đại công trình để mọi người có mấu chốt mà bám víu, có lý do để đồng lao, cộng tác (Lợi thiệp đại xuyên).
Ngự Án bình rằng: Dầu là người nước Tần, nước Việt, mà đi cùng chuyến đò, thì cũng sẽ hết sức hợp tác với nhau (Tần Việt nhi cộng chu, tắc tâm lực vô hữu bất đồng). Muốn làm những công việc vĩ đại, nhà vua cần phải có hiền thần phụ bật, y như người muốn vượt sông sâu, nước cả, phải có thuyền, có chèo (Thừa mộc hữu công dã).
Xưa nay, muốn đoàn kết nhân tâm, người ta thường hay dùng chiêu bài tín ngưỡng, đạo giáo, chẳng hạn như gần đây Nasser đã dùng Hồi giáo làm chiêu bài để liên kết các nước Ả Rập. Hơn nữa, sau các cuộc Cách Mạng, khi nhân tâm còn ly tán, người ta cũng thường muốn làm một chuyện gì lớn lao, để liên kết nhân tâm, như ít lâu sau cuộc Cách Mạng Pháp, các nhà lãnh đạo đã dùng Bonaparte để đi chinh phục nước Ý và Ai Cập.
Đọc Thoán Từ ta thấy Thoán tha thiết muốn cho bậc quân vương có tài đức, nhưng lại sống trong buổi nhân tâm ly tán, phải tìm hết mọi phương thế để thống nhất đất nước, đoàn kết nhân tâm, để sớm đem an bình thái thịnh về cho nhân quần xã hội.
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết:
象 曰 . 風 行 水 上 . 渙 . 先 王 以 享 于 帝 立 廟 .
Phong hành thủy thượng. Hoán. Tiên vương dĩ hưởng vu Đế lập miếu.
Dịch. Tượng rằng:
Hoán là mặt nước gió bay,
Tiên vương xây cất đền đài, miếu tông.
Trước là phụng sự hoá công.
Sau là phụng sự cha ông xưa rầy.
Gió thổi trên nước là hoán. Tiên vương tế lễ Thượng đế, xây cất đền miếu. Wilhelm bình rằng: Mùa Thu, Đông, nước đông thành đá. Mùa Xuân gió ấm thổi, làm tan hết đá cục trên mặt nước, khiến cho nước trở thành một khối duy nhất. Trong một quốc gia cũng vậy, sự ích kỷ và sự tàn ác làm cho lòng con người trở nên cứng rắn, làm cho con người ly tán nhau. Phải dùng đạo đức, tín ngưỡng mới hòa giải, phá tan được sự ích kỷ, và làm cho mọi người hợp nhất.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 用 拯 馬 壯 . 吉 .
象 曰 . 初 六 之 吉 . 順 也 .
Sơ Lục.
Dụng chửng. Mã tráng. Cát.
Tượng viết:
Sơ Lục chi cát. Thuận dã.
Dịch.
Sửa sang, giúp đỡ liền ngay,
Thêm con ngựa khỏe, mới hay mới lành,
Tượng rằng: Sơ Lục mà hay,
Là vì khéo xử, hợp ngay với thời.
Sơ Lục bắt đầu thời kỳ hoán. Sự ly tán vừa chớm nở, cần phải được ngăn chặn ngay. Ngăn chặn một cách mạnh mẽ nữa mới tốt. Hào Sơ Lục đây Âm nhu, không đủ sức cứu vớt được sự ly tan, nhưng may ở gần nhị, nên có thể dùng sức của nhị để đối phó với tình thế. Vì thế nói rằng Mã tráng. Cát (Mã tráng đây chỉ Cửu nhị).
Cái hay của Sơ Lục đây chính là biết thuận thời, thuận thế, hiệp lực với Cửu nhị (Sơ Lục chi cát. Thuận dã).
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 渙 奔 其 機 . 悔 亡 .
象 曰 . 渙 奔 其 機 . 得 愿 也 .
Cửu nhị.
Hoán bôn kỳ kỷ. Hối vong.
Tượng viết:
Hoán bôn kỳ kỷ. Đắc nguyện dã.
Dịch.
Gặp thời hoán tán ly tan,
Vội tìm đến chỗ ở an mới là.
Hết còn phiền trách, âu lo.
Tượng rằng:
Gặp thời hoán tán ly tan,
Vội tìm đến chỗ ở an mới là.
Toại lòng, đắc ý, hết lo.
Cửu nhị này có hai cách giải:
a). Sống trong thời kỳ Hoán tán, phải có một lý tưởng để bám víu, lý tưởng đó là niềm tin nơi con người (Wilhelm)
b). Sống trong thời kỳ Hoán tán, chia ly, phải biết dựa nương vào người khác. Hào Cửu nhị đây ở giữa quẻ Khảm, tức là ở giữa cơn nguy hiểm, nên phải nương tựa vào Sơ Lục, lấy Sơ Lục làm như ghế ngồi (Bôn kỳ kỷ).
Tìm được lý tưởng để dựa nương, tìm được vây cánh để dựa nương trong thời kỳ phân ly, hoán tán, thế là được như nguyện vậy (Hoán bôn kỳ kỷ. Đắc nguyện dã).
3. Hào Lục tam.
六 三 . 渙 其 躬 . 無 悔 .
象 曰 . 渙 其 躬 . 志 在 外 也 .
Lục tam.
Hoán kỳ cung. Vô hối.
Tượng viết:
Hoán kỳ cung. Chí tại ngoại dã.
Dịch.
Hoán mà hoán tán niềm tây,
Thế thời sẽ khỏi rứt rây, phàn nàn.
Tượng rằng: Hoán tán niềm tây,
Là vì tâm trí đã quay ra ngoài.
Một duyên do sinh ra chia rẽ, đó là lòng vị kỷ. Cho nên, muốn chấm dứt lòng chia ly, hoán tán, cần phải diệt trừ lòng vị kỷ. Có vậy mới khỏi hối hận, phàn nàn.
Hoán kỳ cung. Chí tại ngoại dã. Hoán kỳ cung tức là quên mình vì người, bớt nghĩ đến quyền lợi riêng tư, mà lưu ý đến những điều ích quốc lợi dân bên ngoài.
4. Hào Lục tứ.
六 四 . 渙 其 群 . 元 吉 . 渙 有 丘 . 匪 夷 所 思 .
象 曰 . 渙 其 群 . 元 吉 . 光 大 也
Lục tứ.
Hoán kỳ quần. Nguyên cát. Hoán hữu khâu. Phỉ di sở tư.
Tượng viết:
Hoán kỳ quần nguyên cát. Quang đại dã.
Dịch.
Hoán là hoán tán đảng bầy,
Thế thời mọi sự sẽ hay, sẽ lành.
Nhỏ tan, lớn tụ mới tình,
Thường nhân hồ dễ nghĩ thành được đâu.
Tượng rằng: Hoán tán đảng bầy,
Thế thời mọi sự sẽ hay, sẽ lành.
Thực là cao đại, quang minh.
Một tệ đoan xã hội, khiến cho nhân tâm ly tán, đó là nạn bè phái. Cho nên muốn đoàn kết quốc dân, trước hết phải dẹp nạn bè phái (Hoán kỳ quần). Như vậy, mới là vẹn hảo (Nguyên cát). Bè phái có dẹp đi, toàn dân mới trở thành một khối duy nhất, bao la hơn, vĩ đại hơn (Hoán hữu khâu).
Công trình này, người thường đâu có thể hiểu biết được (Phỉ di sở tư). Di là tầm thường, Tư là suy tưởng.
Dẹp được nạn bè phái, mang lại sự đoàn kết, nhất trí cho quốc dân, thực là sáng suốt và cao đại vậy (Hoán kỳ quần nguyên cát. Quang đại dã).
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 渙 汗 其 大 號 . 渙 王 居 . 無 咎 .
象 曰 . 渙 王 居 無 咎 . 正 位 也 .
Cửu ngũ.
Hoán hãn kỳ đại hiệu. Hoán vương cư. Vô cữu.
Tượng viết:
Hoán vương cư vô cữu. Chính vị dã.
Dịch.
Trong thời hoán tán ly tan,
Thế mà mệng lệnh vẫn ban xa gần.
Trong thời hoán tán phong trần,
Mà vua vững vị, lỗi lầm chi đâu.
Tượng rằng: Vua ở chẳng lầm,
Là vì ngôi vị thập phần hẳn hoi.
Cửu ngũ. Lúc nhân tâm ly tán, bậc vương giả cần phải trù liệu được một chương trình hẳn hoi, hoạch định được những đường lối rõ rệt, ban bố được những mệnh lệnh chững chạc. Những mệnh lệnh mạnh mẽ, chững chạc của nhà vua, sẽ làm tiêu tan đi cơn khủng hoảng, như sự phát hãn làm tiêu tan cơn nóng sốt (Hoán hãn kỳ đại hiệu). Trong thời kỳ hoán tán, điều cần nhất là nhà vua phải ăn ở cho ngay chính (Hoán vương cư. Vô cữu).
Chu Hi bình rằng: Trong thời kỳ hoán tán, chẳng những phải ban bố những mệnh lệnh hẳn hoi, mà còn phải biết tung tiền tài, phát của cải, lúa gạo, để thu phục nhân tâm nữa (Hoán vương cư vô cữu. Chính vị dã).
Tượng Truyện giải Hoán vương cư là nhà vua phải ăn ở cho xứng đáng. Trình tử cũng theo đó mà bình giải.
6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 渙 其 血 . 去 逖 出 . 無 咎 .
象 曰 . 渙 其 血 . 遠 害 也 .
Thượng Cửu.
Hoán kỳ huyết. Khứ dịch xuất. Vô cữu.
Tượng viết:
Hoán kỳ huyết. Viễn hại dã.
Dịch.
Đánh tan cái hại, cái đau,
Dẹp tan những cái lo âu, hãi hùng.
Tượng rằng: Hoạ hại đánh tan,
Những gì hoạ hại , lầm than chẳng gần.
Thượng Cửu. Trong thời kỳ hoán tán, chia ly, phải làm sao tránh được sự tàn sát lẫn nhau, sự lưu huyết (Hoán kỳ huyết), cũng như đánh tan được mọi sự hãi hùng (Khử dịch xuất). Như vậy, mới không lỗi (Vô cữu).
Tượng Truyện tóm tắt: Phải tránh xa những điều họa hại (Hoán kỳ huyết. Viễn hại dã).
ÁP DỤNG QUẺ HOÁN VÀO THỜI ĐẠI
Chúng ta đang ở trong thời đại nhân tâm ly tán, và mọi người có ai chịu suy nghĩ mà hàn gắn nó không?
Có ai chịu suy nghĩ để hiểu rằng: Một người tự khinh mình trước, rồi kẻ khác mới khinh khi mình. Một nhà tự hủy hoại mình trước, rồi kẻ khác mới hủy hoại nhà mình. Một nước mà phe này đảng nọ, người này kẻ khác đánh nhau, rồi nước khác mới thừa dịp đánh nước mình. Trong Thiên Thái Giáp, Kinh Thư có chép: Những tai ách mà Trời làm ra, mình còn tránh được; những tai ách tự mình gây nên, thì mình phải chết.
Con người, sinh ra đời không thể trần trần một nếp, mà phải biết tùy thời, xử thế, tùy cảnh ngộ mà xuất xử, hành tàng. Tôi mượn lời Đức Khổng mà nói: Người quân tử ở trên đời không nhất thiết phò cái gì, chống cái gì; cái gì phải thì theo (Quân tử chi ư thiên hạ dã. Vô thích dã. Vô mịch dã. Nghĩa chi dĩ tỉ. - LN, IV, 10).
Vậy, chúng ta hãy áp dụng lời Đức Khổng, trước cho gia đình, sau cho quốc gia, xã hội.
Trong gia đình, gặp lúc thời buổi kinh tế khó khăn, vợ chồng, cha con, phải gạt bỏ hết những bất đồng ý kiến, những ích kỷ, nhỏ nhen, mà phải hết lòng cộng tác với nhau, thì gia đình mới có cơ thịnh vượng được.
Trong một quốc gia, muốn cho dân mạnh, nước giầu, thì mọi người dân phải cộng tác với chính quyền, nếu chính quyền làm sai thì ta phải có bổn phận lên tiếng để sửa sai chính quyền, chớ đừng Mượn gió bẻ măng, lập bè, kết đảng để mưu cầu lợi ích riêng cho cá nhân mình, mà quên đi sự nguy hại cho quốc gia dân tộc mình, để cho ngoại bang lợi dụng nó mà làm suy yếu nước mình.
Tóm lại, là người dù chỉ có đôi chút học vấn, cũng đừng để những bọn Hoạt đầu chính trị mang những lời nịnh nọt hão mà tâng bốc mình, mang những hình ảnh huy hoàng giả tạo lừa bịp mình, để lợi dụng mình làm cái bàn đạp cho họ, để họ mưu cầu những tư lợi nhỏ nhen của họ.
Hãy tự tạo cho mình một tương lai huy hoàng, bằng cách học hành siêng năng, để tạo cho mình một chỗ đứng vững vàng trong xã hội; trau dồi hạnh kiểm để xứng đáng làm con người theo đúng nghĩa của nó, năng đọc sách Thánh hiền để có thể trở thành Thần minh. Tự xét nếu Trên không thẹn với Trời, dưới không hổ với đất, đó là mình đã thành công ở đời rồi vậy.
PHONG THỦY HOÁN
Hoán Tự Quái
渙 序 卦
Đoài giả duyệt dã.
兌 者 說 也
Duyệt nhi hậu tán chi.
說 而 後 散 之
Cố thụ chi dĩ Hoán.
故 受 之 以 渙
Hoán giả ly dã.
渙 者 離 也
Hoán Tự Quái
Đoài là vui sướng, vui rồi ly tan.
Cho nên lấy Hoán mà bàn.
Hoán là xẻ nghé, tan đàn, phôi pha.
Nếu ở đời mà ai cũng chỉ lo mua vui, tìm lạc thú riêng cho mình thì xã hội sẽ đi đến chỗ phân ly, chia rẽ.
Hoán cũng nghĩa là làm cho tiêu tan mọi duyên do phân ly, chia rẽ, như gió (Tốn) thổi tan những cục băng giá trên mặt nước (Khảm) buổi đầu xuân.
Thoán và Tượng bàn tới những phương cách mà đấng quân vương có thể dùng để đoàn kết, qui tụ dân chúng, trong thời kỳ ly tan, chia rẽ. Các Hào chủ trương phải trừ khử, phải gạt bỏ hết mọi duyên do gây chia rẽ.
I. Thoán.
Thoán từ.
渙 . 亨 . 王 假 有 廟 . 利 涉 大 川 . 利貞 .
Hoán. Hanh. Vương cách hữu miếu. Lợi thiệp đại xuyên. Lợi trinh.
Dịch.
Hoán là chia rẽ, ly tan,
Ly tan, mà biết hợp đoàn mới hanh.
Vua ra tế tự miếu đình,
Băng qua sông lớn, công trình sẽ hay.
Một lòng chính chính, thẳng ngay.
Thế thời mới lợi, mới hay vẹn bề.
Hoán là thời kỳ ly tan, chia rẽ, tưởng chừng như mọi sự sẽ đi đến chỗ bế tắc. Những bậc quân vương, có thể giải tỏa được bế tắc ấy, có thể đem lại sự đoàn kết cho dân, làm cho tình thế lại trở nên thông suốt (Hoán. Hanh).
Muốn được vậy, nhà vua phải có lòng thành khẩn, cần phải dùng tín ngưỡng đạo giáo, làm chiêu bài để qui dân, tụ chúng (Vương cách hữu miếu), hoặc đề xướng, hô hào làm một đại công, đại sự gì để mọi người có dịp chung lưng, góp sức, trở nên đồng hội, đồng thuyền. Đó không phải là một chuyện liều lĩnh, nhưng chính là một chuyện hữu ích (Lợi thiệp đại xuyên). Dẫu sao, trong công trình này, nhà vua cũng phải lấy chính lý, chính đạo làm phương châm, mới hay, mới lợi (Lợi trinh).
Thoán Truyện. Thoán viết.
彖 曰. 渙 亨 . 剛 來 而 不 窮 . 柔 得 位 乎 外 而 上 同 . 王 假 有 廟 . 王 乃 在 中 也 . 利 涉 大 川 . 乘 木 有 功 也 .
Hoán hanh. Cương lai nhi bất cùng. Nhu đắc vị hồ ngoại nhi thượng đồng. Vương cách hữu miếu. Vương nãi tại trung dã. Lợi thiệp đại xuyên. Thừa mộc hữu công dã.
Thoán rằng:
Hoán tán mà hay,
Bên trong cương nghị, thẳng ngay chẳng cùng.
Ngoài thời nhu thuận, khiêm cung,
Thuận ngôi, vả lại đẹp lòng với trên.
Vua ra tế tự miếu đền,
Lòng dân, vua muốn giữ bền trước sau,
Lợi là băng vượt sông sâu
Vượt sông dùng gỗ, mới hầu nên công.
Thoán Truyện. Trong thời kỳ chia ly bế tắc, vẫn có thể làm cho tình thế trở nên thông suốt được (Hoán hanh). Đó là biết cả cương, lẫn nhu, lại biết dưới trên chung lưng, góp sức làm việc. Câu Cương lai nhi bất cùng. Nhu đắc vị hồ ngoại nhi thượng đồng tương đối khó giải.
Chu Hi giải thích: Quẻ Hoán là do quẻ Tiệm sinh. Hào Cửu tam quẻ Tiệm xuống thành Hào Cửu nhị quẻ Hoán. Hào Lục nhị quẻ Tiệm lên thành Hào Lục tam quẻ Hoán, và như vậy sẽ đồng điệu với Hào Lục tứ bên trên (Nhi thượng đồng). Lối giải của Chu Hi hợp với phép biến quái, nhưng lại không giải được chữ Nhu đắc vị hồ ngoại, vì Lục tam là Âm cư Dương vị, nên không đắc vị.
Nơi đây, ta chỉ nên ghi nhận đại ý là: muốn giải quyết tình trạng chia rẽ, thời phải áp dụng cả cương lẫn nhu, vua tôi phải đồng lao, cộng tác, trên dưới phải dựa nương lẫn vào nhau. Muốn liên kết mọi người, nhà vua cần phải dùng tín ngưỡng, dùng đạo giáo làm chiêu bài để thu phục nhân tâm, vì thế nói Vương cách hữu miếu. Vương nãi tại trung dã. Vương nãi tại trung là vua thu phục được lòng dân. Muốn được dân, phải thu phục được lòng dân. Lúc nhân tâm chia rẽ, cũng nên đề xướng ra những đại công trình để mọi người có mấu chốt mà bám víu, có lý do để đồng lao, cộng tác (Lợi thiệp đại xuyên).
Ngự Án bình rằng: Dầu là người nước Tần, nước Việt, mà đi cùng chuyến đò, thì cũng sẽ hết sức hợp tác với nhau (Tần Việt nhi cộng chu, tắc tâm lực vô hữu bất đồng). Muốn làm những công việc vĩ đại, nhà vua cần phải có hiền thần phụ bật, y như người muốn vượt sông sâu, nước cả, phải có thuyền, có chèo (Thừa mộc hữu công dã).
Xưa nay, muốn đoàn kết nhân tâm, người ta thường hay dùng chiêu bài tín ngưỡng, đạo giáo, chẳng hạn như gần đây Nasser đã dùng Hồi giáo làm chiêu bài để liên kết các nước Ả Rập. Hơn nữa, sau các cuộc Cách Mạng, khi nhân tâm còn ly tán, người ta cũng thường muốn làm một chuyện gì lớn lao, để liên kết nhân tâm, như ít lâu sau cuộc Cách Mạng Pháp, các nhà lãnh đạo đã dùng Bonaparte để đi chinh phục nước Ý và Ai Cập.
Đọc Thoán Từ ta thấy Thoán tha thiết muốn cho bậc quân vương có tài đức, nhưng lại sống trong buổi nhân tâm ly tán, phải tìm hết mọi phương thế để thống nhất đất nước, đoàn kết nhân tâm, để sớm đem an bình thái thịnh về cho nhân quần xã hội.
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết:
象 曰 . 風 行 水 上 . 渙 . 先 王 以 享 于 帝 立 廟 .
Phong hành thủy thượng. Hoán. Tiên vương dĩ hưởng vu Đế lập miếu.
Dịch. Tượng rằng:
Hoán là mặt nước gió bay,
Tiên vương xây cất đền đài, miếu tông.
Trước là phụng sự hoá công.
Sau là phụng sự cha ông xưa rầy.
Gió thổi trên nước là hoán. Tiên vương tế lễ Thượng đế, xây cất đền miếu. Wilhelm bình rằng: Mùa Thu, Đông, nước đông thành đá. Mùa Xuân gió ấm thổi, làm tan hết đá cục trên mặt nước, khiến cho nước trở thành một khối duy nhất. Trong một quốc gia cũng vậy, sự ích kỷ và sự tàn ác làm cho lòng con người trở nên cứng rắn, làm cho con người ly tán nhau. Phải dùng đạo đức, tín ngưỡng mới hòa giải, phá tan được sự ích kỷ, và làm cho mọi người hợp nhất.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 用 拯 馬 壯 . 吉 .
象 曰 . 初 六 之 吉 . 順 也 .
Sơ Lục.
Dụng chửng. Mã tráng. Cát.
Tượng viết:
Sơ Lục chi cát. Thuận dã.
Dịch.
Sửa sang, giúp đỡ liền ngay,
Thêm con ngựa khỏe, mới hay mới lành,
Tượng rằng: Sơ Lục mà hay,
Là vì khéo xử, hợp ngay với thời.
Sơ Lục bắt đầu thời kỳ hoán. Sự ly tán vừa chớm nở, cần phải được ngăn chặn ngay. Ngăn chặn một cách mạnh mẽ nữa mới tốt. Hào Sơ Lục đây Âm nhu, không đủ sức cứu vớt được sự ly tan, nhưng may ở gần nhị, nên có thể dùng sức của nhị để đối phó với tình thế. Vì thế nói rằng Mã tráng. Cát (Mã tráng đây chỉ Cửu nhị).
Cái hay của Sơ Lục đây chính là biết thuận thời, thuận thế, hiệp lực với Cửu nhị (Sơ Lục chi cát. Thuận dã).
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 渙 奔 其 機 . 悔 亡 .
象 曰 . 渙 奔 其 機 . 得 愿 也 .
Cửu nhị.
Hoán bôn kỳ kỷ. Hối vong.
Tượng viết:
Hoán bôn kỳ kỷ. Đắc nguyện dã.
Dịch.
Gặp thời hoán tán ly tan,
Vội tìm đến chỗ ở an mới là.
Hết còn phiền trách, âu lo.
Tượng rằng:
Gặp thời hoán tán ly tan,
Vội tìm đến chỗ ở an mới là.
Toại lòng, đắc ý, hết lo.
Cửu nhị này có hai cách giải:
a). Sống trong thời kỳ Hoán tán, phải có một lý tưởng để bám víu, lý tưởng đó là niềm tin nơi con người (Wilhelm)
b). Sống trong thời kỳ Hoán tán, chia ly, phải biết dựa nương vào người khác. Hào Cửu nhị đây ở giữa quẻ Khảm, tức là ở giữa cơn nguy hiểm, nên phải nương tựa vào Sơ Lục, lấy Sơ Lục làm như ghế ngồi (Bôn kỳ kỷ).
Tìm được lý tưởng để dựa nương, tìm được vây cánh để dựa nương trong thời kỳ phân ly, hoán tán, thế là được như nguyện vậy (Hoán bôn kỳ kỷ. Đắc nguyện dã).
3. Hào Lục tam.
六 三 . 渙 其 躬 . 無 悔 .
象 曰 . 渙 其 躬 . 志 在 外 也 .
Lục tam.
Hoán kỳ cung. Vô hối.
Tượng viết:
Hoán kỳ cung. Chí tại ngoại dã.
Dịch.
Hoán mà hoán tán niềm tây,
Thế thời sẽ khỏi rứt rây, phàn nàn.
Tượng rằng: Hoán tán niềm tây,
Là vì tâm trí đã quay ra ngoài.
Một duyên do sinh ra chia rẽ, đó là lòng vị kỷ. Cho nên, muốn chấm dứt lòng chia ly, hoán tán, cần phải diệt trừ lòng vị kỷ. Có vậy mới khỏi hối hận, phàn nàn.
Hoán kỳ cung. Chí tại ngoại dã. Hoán kỳ cung tức là quên mình vì người, bớt nghĩ đến quyền lợi riêng tư, mà lưu ý đến những điều ích quốc lợi dân bên ngoài.
4. Hào Lục tứ.
六 四 . 渙 其 群 . 元 吉 . 渙 有 丘 . 匪 夷 所 思 .
象 曰 . 渙 其 群 . 元 吉 . 光 大 也
Lục tứ.
Hoán kỳ quần. Nguyên cát. Hoán hữu khâu. Phỉ di sở tư.
Tượng viết:
Hoán kỳ quần nguyên cát. Quang đại dã.
Dịch.
Hoán là hoán tán đảng bầy,
Thế thời mọi sự sẽ hay, sẽ lành.
Nhỏ tan, lớn tụ mới tình,
Thường nhân hồ dễ nghĩ thành được đâu.
Tượng rằng: Hoán tán đảng bầy,
Thế thời mọi sự sẽ hay, sẽ lành.
Thực là cao đại, quang minh.
Một tệ đoan xã hội, khiến cho nhân tâm ly tán, đó là nạn bè phái. Cho nên muốn đoàn kết quốc dân, trước hết phải dẹp nạn bè phái (Hoán kỳ quần). Như vậy, mới là vẹn hảo (Nguyên cát). Bè phái có dẹp đi, toàn dân mới trở thành một khối duy nhất, bao la hơn, vĩ đại hơn (Hoán hữu khâu).
Công trình này, người thường đâu có thể hiểu biết được (Phỉ di sở tư). Di là tầm thường, Tư là suy tưởng.
Dẹp được nạn bè phái, mang lại sự đoàn kết, nhất trí cho quốc dân, thực là sáng suốt và cao đại vậy (Hoán kỳ quần nguyên cát. Quang đại dã).
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 渙 汗 其 大 號 . 渙 王 居 . 無 咎 .
象 曰 . 渙 王 居 無 咎 . 正 位 也 .
Cửu ngũ.
Hoán hãn kỳ đại hiệu. Hoán vương cư. Vô cữu.
Tượng viết:
Hoán vương cư vô cữu. Chính vị dã.
Dịch.
Trong thời hoán tán ly tan,
Thế mà mệng lệnh vẫn ban xa gần.
Trong thời hoán tán phong trần,
Mà vua vững vị, lỗi lầm chi đâu.
Tượng rằng: Vua ở chẳng lầm,
Là vì ngôi vị thập phần hẳn hoi.
Cửu ngũ. Lúc nhân tâm ly tán, bậc vương giả cần phải trù liệu được một chương trình hẳn hoi, hoạch định được những đường lối rõ rệt, ban bố được những mệnh lệnh chững chạc. Những mệnh lệnh mạnh mẽ, chững chạc của nhà vua, sẽ làm tiêu tan đi cơn khủng hoảng, như sự phát hãn làm tiêu tan cơn nóng sốt (Hoán hãn kỳ đại hiệu). Trong thời kỳ hoán tán, điều cần nhất là nhà vua phải ăn ở cho ngay chính (Hoán vương cư. Vô cữu).
Chu Hi bình rằng: Trong thời kỳ hoán tán, chẳng những phải ban bố những mệnh lệnh hẳn hoi, mà còn phải biết tung tiền tài, phát của cải, lúa gạo, để thu phục nhân tâm nữa (Hoán vương cư vô cữu. Chính vị dã).
Tượng Truyện giải Hoán vương cư là nhà vua phải ăn ở cho xứng đáng. Trình tử cũng theo đó mà bình giải.
6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 渙 其 血 . 去 逖 出 . 無 咎 .
象 曰 . 渙 其 血 . 遠 害 也 .
Thượng Cửu.
Hoán kỳ huyết. Khứ dịch xuất. Vô cữu.
Tượng viết:
Hoán kỳ huyết. Viễn hại dã.
Dịch.
Đánh tan cái hại, cái đau,
Dẹp tan những cái lo âu, hãi hùng.
Tượng rằng: Hoạ hại đánh tan,
Những gì hoạ hại , lầm than chẳng gần.
Thượng Cửu. Trong thời kỳ hoán tán, chia ly, phải làm sao tránh được sự tàn sát lẫn nhau, sự lưu huyết (Hoán kỳ huyết), cũng như đánh tan được mọi sự hãi hùng (Khử dịch xuất). Như vậy, mới không lỗi (Vô cữu).
Tượng Truyện tóm tắt: Phải tránh xa những điều họa hại (Hoán kỳ huyết. Viễn hại dã).
ÁP DỤNG QUẺ HOÁN VÀO THỜI ĐẠI
Chúng ta đang ở trong thời đại nhân tâm ly tán, và mọi người có ai chịu suy nghĩ mà hàn gắn nó không?
Có ai chịu suy nghĩ để hiểu rằng: Một người tự khinh mình trước, rồi kẻ khác mới khinh khi mình. Một nhà tự hủy hoại mình trước, rồi kẻ khác mới hủy hoại nhà mình. Một nước mà phe này đảng nọ, người này kẻ khác đánh nhau, rồi nước khác mới thừa dịp đánh nước mình. Trong Thiên Thái Giáp, Kinh Thư có chép: Những tai ách mà Trời làm ra, mình còn tránh được; những tai ách tự mình gây nên, thì mình phải chết.
Con người, sinh ra đời không thể trần trần một nếp, mà phải biết tùy thời, xử thế, tùy cảnh ngộ mà xuất xử, hành tàng. Tôi mượn lời Đức Khổng mà nói: Người quân tử ở trên đời không nhất thiết phò cái gì, chống cái gì; cái gì phải thì theo (Quân tử chi ư thiên hạ dã. Vô thích dã. Vô mịch dã. Nghĩa chi dĩ tỉ. - LN, IV, 10).
Vậy, chúng ta hãy áp dụng lời Đức Khổng, trước cho gia đình, sau cho quốc gia, xã hội.
Trong gia đình, gặp lúc thời buổi kinh tế khó khăn, vợ chồng, cha con, phải gạt bỏ hết những bất đồng ý kiến, những ích kỷ, nhỏ nhen, mà phải hết lòng cộng tác với nhau, thì gia đình mới có cơ thịnh vượng được.
Trong một quốc gia, muốn cho dân mạnh, nước giầu, thì mọi người dân phải cộng tác với chính quyền, nếu chính quyền làm sai thì ta phải có bổn phận lên tiếng để sửa sai chính quyền, chớ đừng Mượn gió bẻ măng, lập bè, kết đảng để mưu cầu lợi ích riêng cho cá nhân mình, mà quên đi sự nguy hại cho quốc gia dân tộc mình, để cho ngoại bang lợi dụng nó mà làm suy yếu nước mình.
Tóm lại, là người dù chỉ có đôi chút học vấn, cũng đừng để những bọn Hoạt đầu chính trị mang những lời nịnh nọt hão mà tâng bốc mình, mang những hình ảnh huy hoàng giả tạo lừa bịp mình, để lợi dụng mình làm cái bàn đạp cho họ, để họ mưu cầu những tư lợi nhỏ nhen của họ.
Hãy tự tạo cho mình một tương lai huy hoàng, bằng cách học hành siêng năng, để tạo cho mình một chỗ đứng vững vàng trong xã hội; trau dồi hạnh kiểm để xứng đáng làm con người theo đúng nghĩa của nó, năng đọc sách Thánh hiền để có thể trở thành Thần minh. Tự xét nếu Trên không thẹn với Trời, dưới không hổ với đất, đó là mình đã thành công ở đời rồi vậy.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
7 THIÊN THỦY TỤNG
THIÊN THỦY TỤNG
Tụng Tự Quái
訟 序 卦
Nhu giả ẩm thực chi đạo dã.
需 者 飲 食 之 道 也。
Ẩm thực tất hữu tụng.
飲 食 必 有 訟,
Cố thụ chi dĩ tụng
故 受 之 以 訟。
Tụng Tự Quái
Nhu là ẩm thực ấm no,
Uống ăn tất sẽ đôi co, tụng đình.
Cho nên quẻ Tụng tiếp sinh. . .
Quẻ Tụng tiếp theo quẻ Mông, và quẻ Nhu. Ý nói con người vì dốt nát (Mông), thường vì tranh nhau miếng ăn (Nhu), nên mới sinh kiện tụng. Thánh Nhân xưa nay, cốt dạy người hòa thuận cùng nhau, nên nói về Tụng, cốt để ngăn ngừa kiện tụng, nghiên cứu nguyên nhân của kiện tụng chia rẽ, cốt là để mọi người trừ diệt những nguyên nhân ấy, để vui sống cùng nhau trên cõi trần hoàn; phân tách tâm lý đủ mọi hạng người muốn kiện thưa rắc rối, để mọi người thấy rằng dẫu sang, hay hèn, dẫu mạnh, hay yếu, dẫu được, hay thua; kiện tụng cũng không ích lợi gì.
Chữ Tụng theo tự dạng gồm 2 chữ: Ngôn = ngôn từ, Công = Công chính. Vậy kiện thưa cốt là để biện minh cho sự công chính còn đang bị khuất lấp, chứ không phải để dở dói mưu mô xảo quyệt, thủ đoạn đê hèn, hãm hại, vu khống. Nói về Tượng quẻ, ta thấy quẻ Tụng, trên thời có Kiền = Trời, dưới thì có Khảm = Nước. Trời thì cao, nước thì thấp. Trời như là thanh khí, bay lên chín tầng không; Nước như là vũ trạch, đổ xuống muôn sông biển. Đó là biểu hiệu sự gàng quải, chia phôi, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. . . Vì thế mới tạo nên sự đôi co, kiện tụng.
Xét về Đức quẻ, thì Kiền biểu dương cho sự cường dũng, nóng nẩy, táo bạo. Khảm biểu dương cho sự hiểm độc, mưu mô.
I. Thoán.
Thoán Từ.
訟:有 孚,窒。惕 中 吉。終 凶。利 見 大 人,不 利 涉 大 川。
Tụng. Hữu phu trất. Dịch trung cát. Chung hung. Lợi kiến đại nhân. Bất lợi thiệp đại xuyên.
Dịch.
Sự thế có khi cũng kiện thưa,
Ngay tình, oan ức, mới âu lo.
Lo lường, cẩn trọng, rồi ra tốt,
Theo mãi kiện thưa, sẽ xác sơ.
Tìm người minh chính, xử cho.
Minh quan xét xử, cơ hồ mới hay.
Kiện mà dai dẳng, dắt dây,
Như qua sông lớn, nào hay nỗi gì.
Thoán Truyện: Thoán viết:
訟,上 剛 下 險,險 而 健 訟。訟 有 孚 窒,惕 中 吉,剛 來 而 得 中 也。終 凶﹔訟 不 可 成 也。利 見 大 人﹔尚 中 正 也。不 利 涉 大 川﹔入 于 淵 也。
Tụng. Thượng cương hạ hiểm. Hiểm nhi kiện. Tụng. Tụng. Hữu phu trất. Dịch trung cát. Cương lai nhi đắc trung dã. Chung hung. Tụng bất khả thành dã. Lợi kiến đại nhân. Thượng trung chính dã. Bất lợi thiệp đại xuyên. Nhập vu uyên dã.
Dịch.
Tụng trên cứng, dưới thời nham hiểm.
Hiểm lại cương, nên kiện tụng sinh.
Mình ngay, oan ức sao đành,
Trong lo, vẫn có mối manh cát tường.
Đắc trung, vả lại Dương cương,
Đã ngay, lại mạnh, tai ương, nhẽ nào!
Kiện thưa, đeo đẳng hại sao.
Kiện thưa, chớ mãi đâm lao vào tròng.
Gặp người quân tử chí công,
Gặp người công chính, mới mong được lời.
Kiện liều, kiện lĩnh thời thôi,
Như giông sóng cả, như vùi vực sâu.
Kiện tụng là sự vạn bất đắc dĩ. Cho nên chỉ kiện khi mình có lý chính, có tình ngay (Hữu phu), mà bị oan ức, đè nén, khuất lấp (Trất). Đã lâm vào vòng kiện tụng, nên biết lo, cùng sợ (Dịch). Nếu có thể hoà giải được, thì nên hoà giải mới hay (Trung cát). Cần phải tìm được minh quan xét xử (Lợi kiến đại nhân). Nếu mà kiện thưa liều lĩnh, để cho bọn tham quan, ô lại, thầy cò, thầy kiện có cơ bóc lột, thì thật là hiểm nguy, có khác nào vượt sông cả sóng, sa xuống vực sâu đâu? (Bất lợi thiệp đại xuyên).
Không nên theo đuổi kiện tụng đến kỳ cùng, đến nỗi đôi bên đều thân tàn, ma dại (Chung hung).
Được kiện, mười bốn quan năm,
Thua kiện, mười lăm quan chẵn.
Đó là đại ý Thoán Từ, Thoán Truyện.
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết:
天 與 水 違 行,訟﹔君 子 以 作 事 謀 始。
Thiên dữ thủy vi hành. Tụng. Quân tử dĩ tác sự mưu thủy.
Dịch. Tượng rằng:
Trời với nước, đôi đường, đôi ngả.
Có quải gàng, nên có kiện thưa.
Đường đường, quân tử phải lo,
Việc gì , cũng phải đắn đo từ đầu.
Tượng Truyện dạy người quân tử phải tránh những mầm mống chia rẽ, những căn do sinh kiện tụng cho dân. Muốn tránh kiện tụng, tránh chia rẽ, ta cần phải có độ lượng bao dung, thông cảm lẫn nhau; ôn hoà trong khi giao tiếp, thận trọng trong lời ăn tiếng nói, trong khi soạn thảo khế ước, văn tự.
Tống Mẫn Công thời Chiến quốc, chỉ vì những lời nhạo báng, nói đùa, mà bị Nam Cung Trường Vạn giết.
Sở dĩ có kiện tụng, là vì có sự tranh chấp, quải gàng, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, vì mọi người không chịu thi hành bổn phận cho đứng đắn, hẳn hoi. Vì vậy, muốn tránh dân chúng kiện thưa nhau, người quân tử trước hết phải lo giáo hóa cho dân. Cha từ, con hiếu, em kính, anh nhường, bạn bè tín nghĩa, trên xử ra trên, dưới xử ra dưới; đôi đàng kính nhượng lẫn nhau; được như vậy thiên hạ mới mong an bình. Ngoài ra, phải khiến dân tuân phục mệnh vua, phép nước, và trật tự chung. Khi lập văn tự, khế ước phải làm sao cho hết sức minh bạch.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
Các Hào lại càng nêu rõ ý nghĩa không nên thưa kiện.
1. Hào Sơ Lục.
初 六. 不 永 所 事,小 有 言,終 吉。
象 曰: 不 永 所 事,訟 不 可 長 也。雖 有 小 言,其 辯 明 也。
Sơ Lục. Bất vĩnh sở sự. Tiểu hữu ngôn. Chung cát.
Tượng viết:
Bất vĩnh sở sự. Tụng bất khả trường dã. Tuy tiểu hữu ngôn.
Kỳ biện minh dã.
Dịch.
Kiện thưa cũng chẳng đến đâu,
Đôi co chút đỉnh, rồi sau cũng lành.
Tượng rằng:
Kiện thưa cũng chẳng đến đâu,
Sức mình mấy nả, mà cầu kiện dai?
Chẳng thà cãi vã đôi nhời,
Cốt là minh biện phải, sai rõ rành.
Hào Sơ Lục, Âm nhu, tức là những người tài thô, trí thiển, lại ở địa vị hèn kém, nếu có bị người trên đè nén (Hào tứ), thì bất quá nên phản đối, nên tranh biện cho vỡ lẽ trái phải, cho hả lòng, hả dạ, còn hơn là bầy ra kiện tụng lôi thôi.
2. Hào Cửu nhị.
九 二. 不 克 訟,歸 而 逋,其 邑 人 三 百 戶,無 眚。
象 曰: 不 克 訟,歸 而 逋 也。自 下 訟 上,患 至 掇 也。
Cửu nhị. Bất khắc tụng. Qui nhi bô. Kỳ ấp nhân tam bách bộ. Vô sảnh.
Tượng viết:
Bất khắc tụng qui bô thoán dã. Tự hạ tụng thượng. Hoạn chí truyết dã.
Dịch.
Cửu nhị kiện, liệu bề chẳng thắng,
Thời nên về qui ẩn là hơn.
Ấp ba trăm nóc lui chân,
Tránh điều hoạ hại, sớm hôm an lành.
Tượng rằng:
Kiện không nổi, lui về ẩn lánh,
Dưới dễ đâu ngang ngạnh với trên.
Nhỏ mà kiện lớn, thua liền,
Nạn tai rõ thật tự nhiên chiêu vời.
Hào Cửu nhị, là người có tài đức, có địa vị, nhưng lại phải đối đầu với những đối thủ uy tín, quyền thế hơn mình nhiều. Như vậy chỉ còn có cách tránh xa thù địch của mình. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Y thức như Thừa Tướng Thương Dung, đã qui ẩn để tránh vua Trụ, hoặc Bái Công đã nhẫn nhục, chịu đầy ải mình vào Hán Trung để tránh hoạ Sở Vương.
3. Hào Lục tam.
六 三. 食 舊 德,貞 厲,終 吉,或 從 王 事,無 成。
象 曰: 食 舊 德,從 上 吉 也。
Lục tam. Thực cựu đức. Trinh. Lệ chung cát.
Hoặc tòng vương sự. Vô thành.
Tượng viết:
Thực cựu đức. Tòng thượng cát dã.
Dịch.
Lục tam: phải sống nhờ phúc ấm,
Phải e dè, cẩn thận, trước sau.
Thủ thường, mới khỏi cơ cầu,
Việc vua gánh vác, chớ cầu công lênh.
Tượng rằng:
Phúc nhà dựa dẫm qua ngày,
Người trên đừng cưỡng, mới hay, mới toàn.
Hào Lục tam, là những người kém tài, và địa vị cũng chẳng ra chi, ngó lên, ngó xuống đều chỉ thấy những người có bản tính như Cửu nhị, Cửu tứ, Thượng Cửu. Như vậy, tốt hơn hết là phải biết lượng sức mình, lại cũng phải hết sức gia ý đề phòng, an phận thủ thường, đừng có dở dói chi cho thêm mệt. Hãy tỏ ra biết phục tòng, biết hòa hoãn với người trên, như vậy mới hay. Nếu có cùng người thi hành công vụ gì, thì cũng đừng nên tranh công với người, kẻo mang họa. Đó là đường lối của Bái Công đã theo để khỏi bị Hạng Vương hãm hại. Tuy Bái Công đã chiếm được Hàm Dương, đã cầm tù được vua nhà Tần là Tần Tam Thế, Tử Anh, lại cũng lấy được cả ngọc tỉ. Hơn thế nữa, theo đúng như lời giao ước lúc xuất quân, thì hễ ai vào đất Quang Trung trước, thì làm vua; thế mà lúc Hạng Võ kéo đại binh tới, Bái Công tự xét thấy mình chưa đủ sức cầm cự, nên đã mở cửa dâng thành, nộp Tần Vương, nộp ngọc tỉ cho Hạng Võ, coi mình như bầy tôi dưới trướng Hạng Võ, rồi bằng lòng để cho Hạng võ đầy ải vào Hán Trung. Nhìn vào quẻ Tụng, thì Bái Công chính là Hào Lục tam, mà Hạng Võ tức là Hào Thượng Cửu. Thế mới hay, khôn cũng chết, dại cũng chết, mà chỉ có biết là sống. Biết là biết khi đáng tiến, thời tiến; khi đáng thoái, thời thoái; khi đáng cương, thời cương; khi đáng nhu, thời nhu, Biết thời Tồn, không biết thời Vong, là như vậy.
4. Hào Cửu tứ.
九 四. 不 克 訟,復 自 命,渝 安 貞,吉。
象 曰: 復 即 命,渝 安 貞﹔不 失 也。
Cửu tứ. Bất khắc tụng. Phục tức mệnh. Du an trinh. Cát.
Tượng viết:
Phục tức mệnh. Du an trinh. Bất thất dã.
Dịch.
Cửu tứ: rồi ra kiện chẳng xong,
Quay về nghĩa lý đổi thay lòng,
Thay lòng, quyết sống theo đường chính,
Đường chính giữ bền, có tốt không?
Tượng rằng:
Đã đổi được lòng theo chính lý,
Rồi ra nào có mất chi đâu?
Hào Cửu tứ tuy là người cương táo, giỏi giang, nhưng lại bất trung, bất chính, nên chính là hạng người ưa sinh sự. Nhưng muốn sinh sự, mà không sinh sự được với ai. Ngũ ở trên, thời là người quá quyền thế. Lục tam ở cạnh, thì lại là người khéo cư xử. Sơ Lục ở dưới, ứng với mình, cũng như là những người bề dưới mình, và cũng không dám tranh tụng với mình. Nếu Tứ mà kiện Sơ, sinh sự với Sơ, thời tức là mạnh hiếp yếu, người trên cậy quyền hà hiếp kẻ dưới, có gì là hay đâu? Vì vậy Tứ bỏ ý định kiện tụng, mà vui lòng ăn ở theo đúng nghĩa lý. Như vậy mới hay.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五. 訟 元 吉。
象 曰: 訟 元 吉,以 中 正 也。
Cửu ngũ. Tụng nguyên cát.
Tượng viết:
Tụng nguyên cát. Dĩ trung chính dã.
Dịch.
Cửu ngũ: kiện thưa xuôi xắn tốt.
Tượng rằng: Thưa kiện êm xuôi.
Vì người phân xử là người chính trung.
Cửu ngũ là chủ Hào, là vị phán quan công minh, xét xử cho đời, chẳng khác gì như Bao Công, hay Thi Công thuở trước. Tụng đình thì có muôn ngàn chuyện. Nhưng nguyên tắc chi phối công việc xét xử của một vị minh quan, thì chỉ nằm vẻn vẹn trong hai chữ Trung, Chính. Trung để không thiên vị ai. Chính để lấy công lý mà phân xử để mọi người khỏi oan ức, khỏi bị hà hiếp, bóc lột, vu xử để mọi người khỏi oan ức, khỏi bị hà hiếp, bóc lột, vu khống. Được như vậy, còn gì là hay hơn.
6. Hào Thượng Cửu.
上 九. 或 錫 之 鞶 帶,終 朝 三 褫 之。
象曰: 以 訟 受 服,亦 不 足 敬 也。
Thượng Cửu. Hoặc tích chi bàn đới. Chung triêu tam trị chi.
Tượng viết:
Dĩ tụng thụ phục. Diệc bất túc kính dã
Dịch.
Thượng Cửu: Dẫu rằng được thưởng đai,
Thưởng rồi một sáng, lột ba hồi.
Tượng rằng: Nhờ kiện được đai,
Thì đâu có đủ cho người kính tôn.
Thượng Cửu, Dương cương nhưng lại bất trung, bất chính, tức là một người ngông nghênh, cậy quyền, cậy thế, thích kiện tụng. Nhưng giả sử họ có được kiện đi chăng nữa, có được lợi lộc vì những vụ kiện thưa đi chăng nữa, rút cuộc họ có giữ được cái hư danh, cái hoạnh tài ấy được mãi không? Hay được hôm nay, thì mất ngày mai. Danh lợi đến như mây, thì lại bay đi như khói.
Tóm lại, đọc quẻ Tụng, mới thấy rõ vi ý của cổ nhân là không muốn cho tham quan, ô lại, lợi dụng, đục khoét dân, là muốn cho mọi người thương yêu nhau, không đè nén nhau, lập kế hãm hại nhau, rồi đưa nhau đến cửa quan, để cho tham quan, ô lại lợi dụng, bóc lột..
Người xưa nói:
Tiền vào cửa quan, như than vào lò.
Hay:
Tới huyện nha, là nhà anh cháy.
Thật là chí lý vậy.
ÁP DỤNG QUẺ TỤNG VÀO THỜI ĐẠI
Trong xã hội loài người, phát sinh ra kiện tụng, là do nhiều nguyên nhân:
1. Người trên nóng nẩy, cậy quyền, cậy thế, hiếp đáp người dưới. Hoặc người dưới tìm mưu mô quỉ quyệt, lừa bịp, hãm hại người trên, thì sẽ đem lại bất hòa, và có ngày sẽ kiện tụng nhau.
2. Hai người ngang nhau, nhưng một người nóng nẩy, táo tợn; một người hống hách, hiểm độc, gian ngoan, hay vu khống bừa bãi, gặp nhau, ắt sẽ sinh kiện tụng.
3. Còn ở nơi những người lòng thì không hiền, tính thời nóng nẩy, táo bạo, thích gây gổ, sinh sự, sẽ hay đưa đến tụng đình.
4. Kiện tụng nẩy sinh là vì một trong hai bên tham tâm chiếm đoạt, lừa đảo bên kia, là vì lúc cộng tác nể nang, tin nhau, không làm khế ước chặt chẽ, minh bạch.
Ở thời đại ngày nay, hôn nhân không bền vững, vì vợ chồng không còn nhường nhịn, chịu đựng nhau như ngày xưa, nên họ rất dễ dàng ly dị nhau, và đưa nhau ra tụng đình về vấn đề chia nhau gia sản. Vì người đàn bà ngày nay, phần lớn là đi làm, kiếm tiền ngang với chồng, khi ly dị lại lãnh phần nuôi con, nên họ đòi chia gia sản đồng đều còn đúng, nhưng còn có những người đàn bà, chỉ sống ỷ lại vào người chồng, không chịu đi làm, họ lợi dụng được luật pháp bảo vệ, đòi phân chia tài sản đồng đều, hoặc xin toà bắt người chồng phải nuôi họ suốt đời. Những sự vô lý đó, người chồng đâu có chịu, do đó vụ kiện cứ kéo dài, và hai vợ chồng cứ è cổ ra mà trả tiền Luật sư, rốt cuộc cả 2 đều thân tàn, ma dại. Có nhiều người chồng không chịu nổi sự tham lam của vợ mình, đã xin thôi sở làm và trốn sang tiểu bang khác, vì không chịu nổi cảnh đã bị vợ bỏ, mà còn bị vợ và Luật sư bóc lột tận xương tủy. Nhưng cũng có cặp khôn ngoan hơn, vì được người vợ hiểu biết hơn, họ điều đình trong sự thuận thảo, do đó mọi sự êm đẹp hơn, khỏi hao tốn tiền bạc, và cả hai được thoải mái hơn.
Nói cho cùng, thì dẫu có được kiện. cũng chẳng có ra gì. Được kiện thì mất nhân tâm, mất nhân nghĩa, chuốc lấy oán thù, tự trói buộc mình vào trăm ngàn dây oan nghiệt.
Tóm lại, dù ở thời đại nào, cũng không nên kiện tụng. Muốn được vậy, mọi người phải bao dung, hòa mục, nhường nhịn nhau, tôn trọng quyền lợi. của nhau, tôn trọng trật tự chung. Đừng nên khinh xuất khi ăn nói, thận trọng khi thảo văn từ, để tránh cảnh Bút sa gà chết.
Ca dao, tục ngữ có những câu khuyên dân không nên bước vào vòng kiện tụng. Ví dụ:
Được kiện, mười bốn quan năm,
Thua kiện mười lăm quan chẵn.
hoặc
Nghe lời ông đề, ruộng bề bề bán hết v v . . .
Cụ Nguyễn Du cũng có câu:
Lạ gì những thói sai nha,
Làm cho khốc hại, chẳng qua vì tiền.
THIÊN THỦY TỤNG
Tụng Tự Quái
訟 序 卦
Nhu giả ẩm thực chi đạo dã.
需 者 飲 食 之 道 也。
Ẩm thực tất hữu tụng.
飲 食 必 有 訟,
Cố thụ chi dĩ tụng
故 受 之 以 訟。
Tụng Tự Quái
Nhu là ẩm thực ấm no,
Uống ăn tất sẽ đôi co, tụng đình.
Cho nên quẻ Tụng tiếp sinh. . .
Quẻ Tụng tiếp theo quẻ Mông, và quẻ Nhu. Ý nói con người vì dốt nát (Mông), thường vì tranh nhau miếng ăn (Nhu), nên mới sinh kiện tụng. Thánh Nhân xưa nay, cốt dạy người hòa thuận cùng nhau, nên nói về Tụng, cốt để ngăn ngừa kiện tụng, nghiên cứu nguyên nhân của kiện tụng chia rẽ, cốt là để mọi người trừ diệt những nguyên nhân ấy, để vui sống cùng nhau trên cõi trần hoàn; phân tách tâm lý đủ mọi hạng người muốn kiện thưa rắc rối, để mọi người thấy rằng dẫu sang, hay hèn, dẫu mạnh, hay yếu, dẫu được, hay thua; kiện tụng cũng không ích lợi gì.
Chữ Tụng theo tự dạng gồm 2 chữ: Ngôn = ngôn từ, Công = Công chính. Vậy kiện thưa cốt là để biện minh cho sự công chính còn đang bị khuất lấp, chứ không phải để dở dói mưu mô xảo quyệt, thủ đoạn đê hèn, hãm hại, vu khống. Nói về Tượng quẻ, ta thấy quẻ Tụng, trên thời có Kiền = Trời, dưới thì có Khảm = Nước. Trời thì cao, nước thì thấp. Trời như là thanh khí, bay lên chín tầng không; Nước như là vũ trạch, đổ xuống muôn sông biển. Đó là biểu hiệu sự gàng quải, chia phôi, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. . . Vì thế mới tạo nên sự đôi co, kiện tụng.
Xét về Đức quẻ, thì Kiền biểu dương cho sự cường dũng, nóng nẩy, táo bạo. Khảm biểu dương cho sự hiểm độc, mưu mô.
I. Thoán.
Thoán Từ.
訟:有 孚,窒。惕 中 吉。終 凶。利 見 大 人,不 利 涉 大 川。
Tụng. Hữu phu trất. Dịch trung cát. Chung hung. Lợi kiến đại nhân. Bất lợi thiệp đại xuyên.
Dịch.
Sự thế có khi cũng kiện thưa,
Ngay tình, oan ức, mới âu lo.
Lo lường, cẩn trọng, rồi ra tốt,
Theo mãi kiện thưa, sẽ xác sơ.
Tìm người minh chính, xử cho.
Minh quan xét xử, cơ hồ mới hay.
Kiện mà dai dẳng, dắt dây,
Như qua sông lớn, nào hay nỗi gì.
Thoán Truyện: Thoán viết:
訟,上 剛 下 險,險 而 健 訟。訟 有 孚 窒,惕 中 吉,剛 來 而 得 中 也。終 凶﹔訟 不 可 成 也。利 見 大 人﹔尚 中 正 也。不 利 涉 大 川﹔入 于 淵 也。
Tụng. Thượng cương hạ hiểm. Hiểm nhi kiện. Tụng. Tụng. Hữu phu trất. Dịch trung cát. Cương lai nhi đắc trung dã. Chung hung. Tụng bất khả thành dã. Lợi kiến đại nhân. Thượng trung chính dã. Bất lợi thiệp đại xuyên. Nhập vu uyên dã.
Dịch.
Tụng trên cứng, dưới thời nham hiểm.
Hiểm lại cương, nên kiện tụng sinh.
Mình ngay, oan ức sao đành,
Trong lo, vẫn có mối manh cát tường.
Đắc trung, vả lại Dương cương,
Đã ngay, lại mạnh, tai ương, nhẽ nào!
Kiện thưa, đeo đẳng hại sao.
Kiện thưa, chớ mãi đâm lao vào tròng.
Gặp người quân tử chí công,
Gặp người công chính, mới mong được lời.
Kiện liều, kiện lĩnh thời thôi,
Như giông sóng cả, như vùi vực sâu.
Kiện tụng là sự vạn bất đắc dĩ. Cho nên chỉ kiện khi mình có lý chính, có tình ngay (Hữu phu), mà bị oan ức, đè nén, khuất lấp (Trất). Đã lâm vào vòng kiện tụng, nên biết lo, cùng sợ (Dịch). Nếu có thể hoà giải được, thì nên hoà giải mới hay (Trung cát). Cần phải tìm được minh quan xét xử (Lợi kiến đại nhân). Nếu mà kiện thưa liều lĩnh, để cho bọn tham quan, ô lại, thầy cò, thầy kiện có cơ bóc lột, thì thật là hiểm nguy, có khác nào vượt sông cả sóng, sa xuống vực sâu đâu? (Bất lợi thiệp đại xuyên).
Không nên theo đuổi kiện tụng đến kỳ cùng, đến nỗi đôi bên đều thân tàn, ma dại (Chung hung).
Được kiện, mười bốn quan năm,
Thua kiện, mười lăm quan chẵn.
Đó là đại ý Thoán Từ, Thoán Truyện.
II. Đại Tượng Truyện.
Tượng viết:
天 與 水 違 行,訟﹔君 子 以 作 事 謀 始。
Thiên dữ thủy vi hành. Tụng. Quân tử dĩ tác sự mưu thủy.
Dịch. Tượng rằng:
Trời với nước, đôi đường, đôi ngả.
Có quải gàng, nên có kiện thưa.
Đường đường, quân tử phải lo,
Việc gì , cũng phải đắn đo từ đầu.
Tượng Truyện dạy người quân tử phải tránh những mầm mống chia rẽ, những căn do sinh kiện tụng cho dân. Muốn tránh kiện tụng, tránh chia rẽ, ta cần phải có độ lượng bao dung, thông cảm lẫn nhau; ôn hoà trong khi giao tiếp, thận trọng trong lời ăn tiếng nói, trong khi soạn thảo khế ước, văn tự.
Tống Mẫn Công thời Chiến quốc, chỉ vì những lời nhạo báng, nói đùa, mà bị Nam Cung Trường Vạn giết.
Sở dĩ có kiện tụng, là vì có sự tranh chấp, quải gàng, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, vì mọi người không chịu thi hành bổn phận cho đứng đắn, hẳn hoi. Vì vậy, muốn tránh dân chúng kiện thưa nhau, người quân tử trước hết phải lo giáo hóa cho dân. Cha từ, con hiếu, em kính, anh nhường, bạn bè tín nghĩa, trên xử ra trên, dưới xử ra dưới; đôi đàng kính nhượng lẫn nhau; được như vậy thiên hạ mới mong an bình. Ngoài ra, phải khiến dân tuân phục mệnh vua, phép nước, và trật tự chung. Khi lập văn tự, khế ước phải làm sao cho hết sức minh bạch.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
Các Hào lại càng nêu rõ ý nghĩa không nên thưa kiện.
1. Hào Sơ Lục.
初 六. 不 永 所 事,小 有 言,終 吉。
象 曰: 不 永 所 事,訟 不 可 長 也。雖 有 小 言,其 辯 明 也。
Sơ Lục. Bất vĩnh sở sự. Tiểu hữu ngôn. Chung cát.
Tượng viết:
Bất vĩnh sở sự. Tụng bất khả trường dã. Tuy tiểu hữu ngôn.
Kỳ biện minh dã.
Dịch.
Kiện thưa cũng chẳng đến đâu,
Đôi co chút đỉnh, rồi sau cũng lành.
Tượng rằng:
Kiện thưa cũng chẳng đến đâu,
Sức mình mấy nả, mà cầu kiện dai?
Chẳng thà cãi vã đôi nhời,
Cốt là minh biện phải, sai rõ rành.
Hào Sơ Lục, Âm nhu, tức là những người tài thô, trí thiển, lại ở địa vị hèn kém, nếu có bị người trên đè nén (Hào tứ), thì bất quá nên phản đối, nên tranh biện cho vỡ lẽ trái phải, cho hả lòng, hả dạ, còn hơn là bầy ra kiện tụng lôi thôi.
2. Hào Cửu nhị.
九 二. 不 克 訟,歸 而 逋,其 邑 人 三 百 戶,無 眚。
象 曰: 不 克 訟,歸 而 逋 也。自 下 訟 上,患 至 掇 也。
Cửu nhị. Bất khắc tụng. Qui nhi bô. Kỳ ấp nhân tam bách bộ. Vô sảnh.
Tượng viết:
Bất khắc tụng qui bô thoán dã. Tự hạ tụng thượng. Hoạn chí truyết dã.
Dịch.
Cửu nhị kiện, liệu bề chẳng thắng,
Thời nên về qui ẩn là hơn.
Ấp ba trăm nóc lui chân,
Tránh điều hoạ hại, sớm hôm an lành.
Tượng rằng:
Kiện không nổi, lui về ẩn lánh,
Dưới dễ đâu ngang ngạnh với trên.
Nhỏ mà kiện lớn, thua liền,
Nạn tai rõ thật tự nhiên chiêu vời.
Hào Cửu nhị, là người có tài đức, có địa vị, nhưng lại phải đối đầu với những đối thủ uy tín, quyền thế hơn mình nhiều. Như vậy chỉ còn có cách tránh xa thù địch của mình. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Y thức như Thừa Tướng Thương Dung, đã qui ẩn để tránh vua Trụ, hoặc Bái Công đã nhẫn nhục, chịu đầy ải mình vào Hán Trung để tránh hoạ Sở Vương.
3. Hào Lục tam.
六 三. 食 舊 德,貞 厲,終 吉,或 從 王 事,無 成。
象 曰: 食 舊 德,從 上 吉 也。
Lục tam. Thực cựu đức. Trinh. Lệ chung cát.
Hoặc tòng vương sự. Vô thành.
Tượng viết:
Thực cựu đức. Tòng thượng cát dã.
Dịch.
Lục tam: phải sống nhờ phúc ấm,
Phải e dè, cẩn thận, trước sau.
Thủ thường, mới khỏi cơ cầu,
Việc vua gánh vác, chớ cầu công lênh.
Tượng rằng:
Phúc nhà dựa dẫm qua ngày,
Người trên đừng cưỡng, mới hay, mới toàn.
Hào Lục tam, là những người kém tài, và địa vị cũng chẳng ra chi, ngó lên, ngó xuống đều chỉ thấy những người có bản tính như Cửu nhị, Cửu tứ, Thượng Cửu. Như vậy, tốt hơn hết là phải biết lượng sức mình, lại cũng phải hết sức gia ý đề phòng, an phận thủ thường, đừng có dở dói chi cho thêm mệt. Hãy tỏ ra biết phục tòng, biết hòa hoãn với người trên, như vậy mới hay. Nếu có cùng người thi hành công vụ gì, thì cũng đừng nên tranh công với người, kẻo mang họa. Đó là đường lối của Bái Công đã theo để khỏi bị Hạng Vương hãm hại. Tuy Bái Công đã chiếm được Hàm Dương, đã cầm tù được vua nhà Tần là Tần Tam Thế, Tử Anh, lại cũng lấy được cả ngọc tỉ. Hơn thế nữa, theo đúng như lời giao ước lúc xuất quân, thì hễ ai vào đất Quang Trung trước, thì làm vua; thế mà lúc Hạng Võ kéo đại binh tới, Bái Công tự xét thấy mình chưa đủ sức cầm cự, nên đã mở cửa dâng thành, nộp Tần Vương, nộp ngọc tỉ cho Hạng Võ, coi mình như bầy tôi dưới trướng Hạng Võ, rồi bằng lòng để cho Hạng võ đầy ải vào Hán Trung. Nhìn vào quẻ Tụng, thì Bái Công chính là Hào Lục tam, mà Hạng Võ tức là Hào Thượng Cửu. Thế mới hay, khôn cũng chết, dại cũng chết, mà chỉ có biết là sống. Biết là biết khi đáng tiến, thời tiến; khi đáng thoái, thời thoái; khi đáng cương, thời cương; khi đáng nhu, thời nhu, Biết thời Tồn, không biết thời Vong, là như vậy.
4. Hào Cửu tứ.
九 四. 不 克 訟,復 自 命,渝 安 貞,吉。
象 曰: 復 即 命,渝 安 貞﹔不 失 也。
Cửu tứ. Bất khắc tụng. Phục tức mệnh. Du an trinh. Cát.
Tượng viết:
Phục tức mệnh. Du an trinh. Bất thất dã.
Dịch.
Cửu tứ: rồi ra kiện chẳng xong,
Quay về nghĩa lý đổi thay lòng,
Thay lòng, quyết sống theo đường chính,
Đường chính giữ bền, có tốt không?
Tượng rằng:
Đã đổi được lòng theo chính lý,
Rồi ra nào có mất chi đâu?
Hào Cửu tứ tuy là người cương táo, giỏi giang, nhưng lại bất trung, bất chính, nên chính là hạng người ưa sinh sự. Nhưng muốn sinh sự, mà không sinh sự được với ai. Ngũ ở trên, thời là người quá quyền thế. Lục tam ở cạnh, thì lại là người khéo cư xử. Sơ Lục ở dưới, ứng với mình, cũng như là những người bề dưới mình, và cũng không dám tranh tụng với mình. Nếu Tứ mà kiện Sơ, sinh sự với Sơ, thời tức là mạnh hiếp yếu, người trên cậy quyền hà hiếp kẻ dưới, có gì là hay đâu? Vì vậy Tứ bỏ ý định kiện tụng, mà vui lòng ăn ở theo đúng nghĩa lý. Như vậy mới hay.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五. 訟 元 吉。
象 曰: 訟 元 吉,以 中 正 也。
Cửu ngũ. Tụng nguyên cát.
Tượng viết:
Tụng nguyên cát. Dĩ trung chính dã.
Dịch.
Cửu ngũ: kiện thưa xuôi xắn tốt.
Tượng rằng: Thưa kiện êm xuôi.
Vì người phân xử là người chính trung.
Cửu ngũ là chủ Hào, là vị phán quan công minh, xét xử cho đời, chẳng khác gì như Bao Công, hay Thi Công thuở trước. Tụng đình thì có muôn ngàn chuyện. Nhưng nguyên tắc chi phối công việc xét xử của một vị minh quan, thì chỉ nằm vẻn vẹn trong hai chữ Trung, Chính. Trung để không thiên vị ai. Chính để lấy công lý mà phân xử để mọi người khỏi oan ức, khỏi bị hà hiếp, bóc lột, vu xử để mọi người khỏi oan ức, khỏi bị hà hiếp, bóc lột, vu khống. Được như vậy, còn gì là hay hơn.
6. Hào Thượng Cửu.
上 九. 或 錫 之 鞶 帶,終 朝 三 褫 之。
象曰: 以 訟 受 服,亦 不 足 敬 也。
Thượng Cửu. Hoặc tích chi bàn đới. Chung triêu tam trị chi.
Tượng viết:
Dĩ tụng thụ phục. Diệc bất túc kính dã
Dịch.
Thượng Cửu: Dẫu rằng được thưởng đai,
Thưởng rồi một sáng, lột ba hồi.
Tượng rằng: Nhờ kiện được đai,
Thì đâu có đủ cho người kính tôn.
Thượng Cửu, Dương cương nhưng lại bất trung, bất chính, tức là một người ngông nghênh, cậy quyền, cậy thế, thích kiện tụng. Nhưng giả sử họ có được kiện đi chăng nữa, có được lợi lộc vì những vụ kiện thưa đi chăng nữa, rút cuộc họ có giữ được cái hư danh, cái hoạnh tài ấy được mãi không? Hay được hôm nay, thì mất ngày mai. Danh lợi đến như mây, thì lại bay đi như khói.
Tóm lại, đọc quẻ Tụng, mới thấy rõ vi ý của cổ nhân là không muốn cho tham quan, ô lại, lợi dụng, đục khoét dân, là muốn cho mọi người thương yêu nhau, không đè nén nhau, lập kế hãm hại nhau, rồi đưa nhau đến cửa quan, để cho tham quan, ô lại lợi dụng, bóc lột..
Người xưa nói:
Tiền vào cửa quan, như than vào lò.
Hay:
Tới huyện nha, là nhà anh cháy.
Thật là chí lý vậy.
ÁP DỤNG QUẺ TỤNG VÀO THỜI ĐẠI
Trong xã hội loài người, phát sinh ra kiện tụng, là do nhiều nguyên nhân:
1. Người trên nóng nẩy, cậy quyền, cậy thế, hiếp đáp người dưới. Hoặc người dưới tìm mưu mô quỉ quyệt, lừa bịp, hãm hại người trên, thì sẽ đem lại bất hòa, và có ngày sẽ kiện tụng nhau.
2. Hai người ngang nhau, nhưng một người nóng nẩy, táo tợn; một người hống hách, hiểm độc, gian ngoan, hay vu khống bừa bãi, gặp nhau, ắt sẽ sinh kiện tụng.
3. Còn ở nơi những người lòng thì không hiền, tính thời nóng nẩy, táo bạo, thích gây gổ, sinh sự, sẽ hay đưa đến tụng đình.
4. Kiện tụng nẩy sinh là vì một trong hai bên tham tâm chiếm đoạt, lừa đảo bên kia, là vì lúc cộng tác nể nang, tin nhau, không làm khế ước chặt chẽ, minh bạch.
Ở thời đại ngày nay, hôn nhân không bền vững, vì vợ chồng không còn nhường nhịn, chịu đựng nhau như ngày xưa, nên họ rất dễ dàng ly dị nhau, và đưa nhau ra tụng đình về vấn đề chia nhau gia sản. Vì người đàn bà ngày nay, phần lớn là đi làm, kiếm tiền ngang với chồng, khi ly dị lại lãnh phần nuôi con, nên họ đòi chia gia sản đồng đều còn đúng, nhưng còn có những người đàn bà, chỉ sống ỷ lại vào người chồng, không chịu đi làm, họ lợi dụng được luật pháp bảo vệ, đòi phân chia tài sản đồng đều, hoặc xin toà bắt người chồng phải nuôi họ suốt đời. Những sự vô lý đó, người chồng đâu có chịu, do đó vụ kiện cứ kéo dài, và hai vợ chồng cứ è cổ ra mà trả tiền Luật sư, rốt cuộc cả 2 đều thân tàn, ma dại. Có nhiều người chồng không chịu nổi sự tham lam của vợ mình, đã xin thôi sở làm và trốn sang tiểu bang khác, vì không chịu nổi cảnh đã bị vợ bỏ, mà còn bị vợ và Luật sư bóc lột tận xương tủy. Nhưng cũng có cặp khôn ngoan hơn, vì được người vợ hiểu biết hơn, họ điều đình trong sự thuận thảo, do đó mọi sự êm đẹp hơn, khỏi hao tốn tiền bạc, và cả hai được thoải mái hơn.
Nói cho cùng, thì dẫu có được kiện. cũng chẳng có ra gì. Được kiện thì mất nhân tâm, mất nhân nghĩa, chuốc lấy oán thù, tự trói buộc mình vào trăm ngàn dây oan nghiệt.
Tóm lại, dù ở thời đại nào, cũng không nên kiện tụng. Muốn được vậy, mọi người phải bao dung, hòa mục, nhường nhịn nhau, tôn trọng quyền lợi. của nhau, tôn trọng trật tự chung. Đừng nên khinh xuất khi ăn nói, thận trọng khi thảo văn từ, để tránh cảnh Bút sa gà chết.
Ca dao, tục ngữ có những câu khuyên dân không nên bước vào vòng kiện tụng. Ví dụ:
Được kiện, mười bốn quan năm,
Thua kiện mười lăm quan chẵn.
hoặc
Nghe lời ông đề, ruộng bề bề bán hết v v . . .
Cụ Nguyễn Du cũng có câu:
Lạ gì những thói sai nha,
Làm cho khốc hại, chẳng qua vì tiền.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ:
TL: Tượng hào vs tượng quẻ
8 THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN
THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN
Đồng Nhân Tự Quái 同 人 序 卦
Vật bất khả dĩ chung Bĩ. 物 不 可 以 終 否
Cố thụ chi dĩ Đồng Nhân. 故 受 之 以 同 人
Quẻ Đồng Nhân cũng như quẻ Tỉ, quẻ Thái, bàn về sự đoàn kết, sự thân ái. Nhưng Thái và Tỉ bàn về đoàn kết để dựng nhà, lập nước, đem thái thịnh lại cho một quốc gia, còn Đồng Nhân lại bàn đến tình yêu nhân loại, đến sự đồng tâm, nhất trí, để đem thái hòa, đem tình thân hữu lại cho thiên hạ, đó là Đại Đồng. Muốn thực hiện Đại Đồng, nó đòi hỏi một sự chuẩn bị lâu dài, một trình độ văn minh tiến hóa vượt mức của nhân loại. Dịch kinh cho rằng muốn Đại Đồng cần phải chấp nhận các giá trị tinh thần, các tinh hoa vĩnh cửu của con người, tượng trưng bằng quẻ Kiền và chỉ thực hiện khi mà lòng con người đã trở nên quang minh chính đại. Thời kỳ Đại Đồng là thời kỳ hoàng kim của nhân loại, nhưng rất khó thực hiện. Nó mới ló dạng, khi con người bỡ ngỡ bước chân vào bình minh của cuộc đòi nhân loại, và có lẽ chỉ được thực hiện sau này, khi con người đã quá đắng cay, sầu khổ vì chia ly, chiến tranh, căm thù, trá ngụy. Vì thế quẻ Đồng Nhân xế sau quẻ Bĩ.
Con người chỉ khi nào gặp đại nạn, vì những hành động, những quan niệm, những lý thuyết ngu xuẩn của mình gây ra, nới có thể đoạn tuyệt với đường xưa lối cũ, với tệ đoan, tệ tục, tư dục, tư tình mà thực thi sự tương thân, tương ái. Muốn hiểu quẻ Đồng Nhân cho thấu đáo, ta hãy lần lượt nghiên cứu ít nhiều vấn đề tiên quyết.
1. Đại đồng là gì?
Là một chủ trương Triết học và Chính trị cho rằng con người có thể đại đoàn kết được vơi nhau, sống trong cảnh an bình thái thịnh, bốn bể một nhà.
2. Nhân loại có thể đi đến Đại đồng được không?
Thưa: Có thể. Theo Dịch lý, nếu ta chấp nhận sự biến thiên, thì sự biến thiên ấy phải có đầu, có đuôi, có căn nguyên, mục đích, thì dĩ nhiên lúc chung cuộc sẽ được hưởng thời kỳ hoàng kim. Đó là lẽ biến dịch tuần hoàn chung nhi phục thủy của Trời đất.
Nhiều môn phái Triết học, nhiều Học thuyết đã chủ trương thời Đại đồng hoàng kim mai hậu.
1) Các tiên tri Isaie và Jérémie. (Isaie: 65, 21, 25 - Jérémie: 31, 31-34).
2) Sách Khải Huyền. (Apocalypse 23, 3).
3) Môn phái triết học Alexandrins & Hégel (Le Christianism et les philosophes).
4) Karl Marx.
5) Kant.
6) Radakhrishnan.
7) Chiêm tinh hoa.
8) Max Scheler...
3) Làm thế nào để thực hiện Đại đồng?
Muốn thực hiện Đại Đồng, thời trên phương diện tinh thần, con người phải dẹp bỏ lòng ích kỷ, phải theo công lý, chính đạo, chính nghĩa. Còn theo phương diện chính trị và tổ chức thì: Nhân sinh, nhân vị, nhân quyền phải tuyệt đối được bảo đảm và tôn trọng.
Sau khi đã bàn qua về chủ nghĩa Đại Đồng, ta trở về nghiên cứu quẻ Đồng Nhân.
I. Thoán.
Thoán Từ.
同 人 . 同 人 于 野 . 亨 . 利 涉 大 川 . 利 君 子 貞 .
Đồng Nhân: Đồng Nhân vu dã. Hanh. Lợi thiệp đại xuyên. Lợi quân tử trinh.
Dịch.
Đồng Nhân hòa với mọi người,
Thênh thang lòng dạ, như ngoài đồng không.
Hay thay khoan quảng, hòa đồng,
Một lòng, thì dẫu lội sông, quản gì.
Đồng tâm, sẽ vượt gian nguy,
Theo đường quân tử, quy về chính trung.
Thoán Từ cho rằng: muốn hòa mình với người, cần phải mở lòng mình cho rộng rãi (Đồng Nhân vu dã).
Hòa đồng, hợp nhất với người sẽ đem lại hanh thông, thái thịnh, và lướt thắng được mọi trở lực, làm nên được những đại công, đại nghiệp (Hanh. Lợi thiệp đại xuyên). Quân tử sẽ lấy sự minh chính, chính nghĩa để làm mối giây liên lạc, thắt chặt tình thân ái giữa mọi người (Lợi quân tử trinh).
Thoán Truyện.
同 人 . 柔 得 位 得 中 . 而 應 乎 乾 . 曰 同 人 . 同 人 曰 . 同 人 于 野 . 亨 . 利 涉 大 川 . 乾 行 也 . 文 明 以 健 . 中 正 而 應 . 君 子 正 也 . 唯 君 子 為 能 通 天 下 之 志 .
Thoán viết. Đồng Nhân. Nhu đắc vị đắc trung nhi ứng hồ Kiền. Viết Đồng Nhân. Đồng Nhân viết, Đồng Nhân vu dã hanh. Lợi thiệp đại xuyên. Kiền hành dã. Văn minh dĩ kiện. Trung chính nhi ứng. Quân tử chính dã. Duy quân tử vi năng thông thiên hạ chi chí.
Dịch.
Thoán rằng: Mềm được ngôi trung,
Lại còn tương ứng, tương thông với Kiền,
Hòa đồng, khoan quảng, mới nên,
Đồng không man mác, nối liền gần xa,
Dầu rằng sông lớn cũng qua,
Sức trời hùng dũng, ai mà cản ngăn,
Cương cường, vẫn vẻ, vẫn văn,
Văn minh, tế nhị, êm đềm, mới nghe.
Thấy điều trung chính, ứng về,
Duy người quân tử, muôn bề thẳng ngay.
Nhân loại chỉ có thể tiến tới Đồng Nhân khi thực hiện được nhân cách, khi ứng hợp được với lương tâm, với Trời, với Đạo. Đã thân ái với nhau, đã coi nhau như anh em ruột thịt, bốn biển một nhà, lại biết đoàn kết, biết cố gắng, thì hỏi còn có điều gì khó khăn mà con người không thể thực hiện được (Đồng Nhân vu dã. Kiền Hành dã)...
Điều kiện nội tại để xây đắp hòa đồng mai hậu, là có một tâm hồn sáng láng, vô tư, vô tà, quyết lòng cư xử với nhau theo chính đạo, chính nghĩa (Văn minh dĩ kiện. Quân tử chính dã). Hòa đồng với nhau, dắt dìu nhau trên đường tiến bộ, làm cho mọi người thỏa lòng, thỏa nguyện, đó là một công việc mà chỉ có người quân tử mới thực hiện nổi (Duy quân tử ... thiên hạ chi chí). Thoán truyện làm ta nhớ lại hoài bão của Đức Khổng, ghi chép trong Thiên Lễ Vận: Đại đạo khi được thực thi, thời thiên hạ là của chung. Người hiền tài sẽ được tuyển lựa, cất nhắc lên lãnh đạo, thiên hạ sẽ được dạy dỗ cho biết tín nghĩa, hòa mục, vì thế nên người ta không cứ người nào thân mình mới thân, không cứ là con mình mới coi là con, người già sẽ có nơi an dưỡng, người trẻ sẽ được sử dụng. Trẻ thơ sẽ được dưỡng dục, những người tàn tật, côi cút, góa bụa, cô độc sẽ được nuôi nấng, trông nom... Trai có phận, gái có chồng, người ta không phí phạm, vung vãi của cải, không ngại gắng công, gắng sức, nhưng cũng không lao tác vì mình. Vì thế, người có cơ mưu cũng không dám thi thố, trộm cướp, giặc giã không có, cửa ngõ cũng chẳng cần khóa then. Thế là Đại Đồng (Lễ vận 9). Nhu thế Đại Đồng tức là Đại Đoàn kết, bốn bể một nhà.
II. Đại Tượng Truyện.
天 與 火 . 同 人 . 君 子 以 類 族 辨 物 .
Tượng viết. Thiên dữ hỏa. Đồng Nhân. Quân tử dĩ loại tộc biện vật.
Dịch. Tượng rằng:
Trời cùng với lửa Đồng Nhân,
Đã là quân tử, phải phân hay, hèn.
Người năm, bảy đấng dĩ nhiên,
Của muôn vạn loại, phải xem cho rành.
Tượng Truyện cho rằng trong cái đồng vẫn có cái dị, như trời với lửa, tuy cùng là thanh khí, nhưng vẫn khác biệt nhau, vì thế người quân tử phải biết biện phân những nét đặc thù, dị biệt để mà phân loại người và vật.
Tìm được những lý do, khiến cho người và vật trở nên dị biệt, ta sẽ làm cho ta cảm thông được người, hiểu thấu được vật. Chẳng hạn, nếu ta phân biệt được rằng Đạo có nhiều hình thức, có nhiều thứ bậc:
a) Huyền đồng, hoàn thiện.
b) Nghệ thuật, duyên dáng, thơ mộng.
c) Luân lý, tu trì,
d) Giáo lý, suy luận
e) Hình thức, lễ nghi.
ta nhận thức ngay được mức độ cao thấp của người hành đạo. Hoặc là ta phân biệt Đạo giáo làm hai loại:
1) Tu thân = Nội giáo (chú trọng đếm sự tu luyện tâm thần)
2) Thờ phụng = Ngoại giáo (chú trọng đến sự van vái, thờ phụng và cầu phúc)
Lại nữa, nếu ta phân chiến tranh làm nhiều loại: Chiến tranh vì:
1) Tôn giáo
2) Chủ nghĩa
3) Chủng tộc
4) quốc gia
5) Giai cấp
6) Xâm lược
7) Phòng ngự
8) Phục thù
ta sẽ thấy không phải chỉ có nguyên do vật chất, kinh tế chi phối sự diễn biến của lịch sử.
Phân biệt con người có: Thần, Hồn, Xác, ta sẽ phân loại được văn hóa có ba chiều hướng chính:
- Văn hóa thiên bản (vụ thần)
- Văn hóa nhân văn (vụ nhân)
- Văn hóa vật bản (vụ vật chất)
và nhờ đó có cái nhìn trong sáng về sự vật...
Biết cái dị, tức là biết cái biến, gây nên bởi hoàn cảnh, lịch sử, huyết thống, giáo dục, sẽ giúp ta đi đến cái đồng, cái bất biến, nơi giao hội của mọi cái dị biệt. Những cái biến thiên dị biệt, không thể lấy làm căn bản cho sự hòa đồng nhân loại được.
Hòa đồng nhân loại, chỉ có thể xẩy ra trên một nền tảng duy nhất bất biến, ấy là bản tính con người, lương tâm, lương tri con người, trên những định luật tự nhiên của Trời đất.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 同 人 于 門 . 無 咎 .
象 曰 . 出 門 同 人 . 又 誰 咎也。
Sơ Cửu. Đồng Nhân vu môn. Vô cữu.
Tượng viết.
Xuất môn Đồng Nhân. Hựu thùy cữu dã.
Dịch.
(Quang minh chính đại rạng ngời).
Cùng người hòa hợp cửa ngoài mới hay,
Tượng rằng:
Bước ra cửa, hợp với người.
Mình, người một dạ, ai cười, ai chê.
Khi đã đặt ra những tôn chỉ để đi đến Đại đồng rồi. Hào Sơ cho rằng muốn Đại đồng phải ra khỏi cửa nhà, tức là phải thoát ra khỏi những quyền lợi, những tư tình của cá nhân, của gia đình.
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 同 人 于 宗 . 吝 .
象 曰 . 同 人 于 宗 . 吝 道 也 .
Lục nhị. Đồng Nhân vu tông. Lận.
Tượng viết.
Đồng Nhân vu tông. Lận đạo dã.
Dịch.
Hòa đồng vì họ, vì phe.
Hòa đồng như thế, đáng chê, đáng cười,
Tượng rằng:
Hòa đồng vì họ, vì phe.
Thế là đường lối đáng chê, đáng cười.
Hòa đồng với người không phải là với người thân mình, bạn bè mình, họ mình, đảng mình, nước mình, mà phải mở tầm kích tâm hồn mình cho tới muôn nước, muốn phương.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 伏 戎 于 莽 . 升 其 高 陵 . 三 歲 不 興 .
象 曰 . 伏 戎 于 莽 . 敵 剛 也 . 三 歲 不 興 . 安 行 也 .
Cửu tam. Phục nhung vu mãng. Thăng kỳ cao lăng. Tam tuế bất hưng.
Tượng viết:
Phục nhung vu mãng. Địch cương dã. tam tuế bất hưng, An hành dã.
Dịch.
Cửu tam: rừng rậm phục quân.
Gò cao ngấp nghé, ba năm chẳng vùng.
Tượng rằng: Rừng rậm phục quân,
Muốn cùng (Cửu ngũ) qua phân tranh hùng.
Ba năm chẳng dám vẫy vùng.
Vì rằng chẳng thể tấn công được nào.
Hào ba cho rằng: không nên lấy vũ lực để bắt người hòa đồng với mình. Cho nên phải tổ chức quốc tế hùng mạnh thế nào, để cho mỗi mọi nước dẫu có muốn hưng binh làm loạn cũng không đủ sức.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 乘 其 墉 . 弗 克 攻 . 吉 .
象 曰 . 乘 其 墉 . 義 弗 克 也 . 其 吉 . 則 困 而 反 則 也 .
Cửu tứ. Thừa kỳ dung. Phất khắc công. Cát.
Tượng viết:
Thừa kỳ dung. Nghĩa phất khắc dã. Kỳ cát. Tắc khốn nhi phản tắc dã.
Dịch.
Trèo tường mà chẳng tấn công,
Biết không nên đánh, mới mong tốt lành.
Tượng rằng:
Trèo tường không đánh, mới hay,
Biết điều phi nghì, nên đây chẳng làm.
Hay vì trong lúc khốn nàn,
Biết đàng hồi hướng, biết đàng trở trăn.
Hào tư cho rằng dẫu mình có uy thế, cũng đừng nên vì thế mà bắt người phụ họa theo mình. Nếu thấy không có chính nghĩa, chính đạo, thì chớ nên múa may, gây rối làm gì. Nếu dở dói lắm, chỉ tổ đâm vào họa hoạn, rồi ra sẽ sáng mắt, mà trở lại với chính nghĩa.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 同人,先 號 啕 而 後 笑 . 大 師 克 相 遇 .
象 曰 . 同 人 之 先 . 以 中 直 也 . 大 師 相 遇 . 言 相 克 也 .
Cửu ngũ. Đồng Nhân tiên hào đào nhu hậu tiếu. Đại sư khắc tương ngộ.
Tượng viết.
Đồng Nhân chi tiên. Dĩ trung trực dã. Đại sư tương ngộ.
Ngôn tương khắc dã.
Dịch.
Đồng Nhân, trước khóc, sau cười,
Vi rằng trung trực, nên rồi ra hay.
Cử binh đánh bọn bài bây,
Sau cùng sẽ gặp được người đồng tâm.
Hào năm cho rằng con người sinh ra cốt để hòa đồng với nhau, nhưng trong thực tế, muốn đi tới cuộc vui đoàn tụ, con người phải trải qua nhiều đoạn khóc vì chia ly.
Người đứng chủ chốt cuộc hòa đồng, cần phải có chính nghĩa, chính đạo, nhưng cũng cần phải có võ lực, nếu không có binh bị trong tay, vạn quốc sẽ không sợ.
Có nhà đạo đức bình giải chữ Đại su+ trong Hào Cửu ngũ này là bằng sức mạnh tinh thần, bằng sức mạnh đạo đức, và cho rằng con người Đại đồng phải hết sức sáng suốt, hết sức bền chí, dẻo dai, nói thành công trong những việc lớn lao, cao cả. Đó là lối giải thích của những bậc cao minh, nhìn đời bằng cặp mắt lý tưởng.
6. Hào Thượng cửu.
上 九 . 同 人 于 郊 . 無 悔 .
象 曰 . 同 人 于 郊 . 志 未 得 也 .
Thượng Cửu. Đồng Nhân vu giao. Vô hối.
Tượng viết:
Đồng Nhân vu giao. Chí vị đắc dã.
Dịch.
Đồng Nhân mới tới đến giao
Đồng Nhân (chưa khắp), phải nào lỗi ta.
Tượng rằng:
Đồng Nhân mới tới đến giao,
Bình sinh chí nguyện, đã nào thỏa thuê.
ÁP DỤNG QUẺ ĐỒNG NHÂN VÀO THỜI ĐẠI
Ngày nay, ta tự hỏi: Muốn xây dựng Đại đồng, lấy gì làm nền tảng? Mầu da, sắc áo, học thuyết, hay các giá trị ngoại tại như các điều kiện kinh tế hay sự chuyển dịch giao thông? Và đây là ít nhiều đường lối đưa đến Đại đồng, của ít nhiều đạo giáo và triết học, triết gia.
1) Phật giáo, Ấn giáo cho rằng phải từ bi, hỉ xả, tuyệt đối không hại người, không dùng võ lực, không sát sinh. Đó cũng là chủ trương Kiêm Ái của Mặc Tử, bất bạo động của Gandhi, chủ trương phản chiến, phản binh của các giáo phái Quakers, Mennomites, của Tolstoi... (Le Pacifisme héroique).
2) Công giáo cho rằng muốn có Đại đồng, nhân loại cần phải thấm nhuần tôn chỉ Phúc Âm, cần có một tôn giáo duy nhất (Le Pacifisme Chrétien).
3) Nhiều nhà Kinh tế học thuộc học phái Manchester, và nhiều triết gia Anh như Bentham, Stuart Mill, herbert Spencer cho rằng: nhân loại cần phải được tự do giao dịch, doanh thương mới có thể đi đến Đại đồng (Le Pacifisme du Libéralisme Économique).
4) Nhiều triết gia Tây phương cho rằng cần phải minh định tôn trọng nhân quyền, công pháp, công quyền, quốc tế công quyền, và cần phải có những tổ chức quốc tế có nhiệm vụ thực thi công quyền và bảo vệ công pháp (Le pacifisme Juridique ou pacifisme de droit). Đó là chủ trương của: Hugo Frotius, Suarez Victoria, Pufendorf, Emmanuel Kant, và những cố gắng của Tòa án Hòa Giải La Haye, Hội Quốc Liên (Société des Nations, 1920-1946), Liên Hiệp Quốc (O.N.U. 1946), Hội Đồng bảo an ở Liên Hiệp Quốc hiện nay v.v...
5) Cộng Sản chủ trương con người chỉ tiến tới Đại đồng được bằng xã hội chủ nghĩa, khi mà trong thiên hạ không còn ai bóc lột ai (Le Pacifisme Maxiste Socialiste et Communiste).
6) Jean Jacques Rousseau cho rằng phải dùng võ lực mới đem lại Đại Đồng được.
7) Chủ trương rằng muốn được Đại Đồng, phải đặt muôn nước dưới quyền cai trị của một nước. Đó là chủ trương của Alexandre, của đế quốc la Mã (Pax Romana), của Napoléon, vv... (Le Pacifisme d'Hégémonie Impérialiste).
8) Chủ trương dùng văn hóa đi tới Đại Đồng, cho rằng những học giả, vác học, thức gỉả trong nhân quần phải liên kết với nhau (Le Pacifisme Culturel).
9) Nho gia cho rằng muốn đi tới Đại Đồng, thì điều kiện tiên quyết là mọi người phải cải thiện tâm hồn mình trước đã.
Nhưng theo nhận định chúng tôi, thì dân tộc Hoa Kỳ hiện nay đang trên đà tiến tới Đại Đồng. thực vậy dân tộc này là gồm người của mọi chủng tộc khác nhau hợp lại, họ không cùng màu da, sắc áo, nhưng nay họ đã liên hợp với nhau thành một nước giàu có, hùng mạnh, đứng hàng bá chủ trên thế giới. Họ đã mở vòng tay thân ái, mà đón nhận hàng triệu người từ tứ phương kéo đến, đã săn sóc, nuôi nấng, giúp đỡ họ. Chính phủ đã giúp những người dân tỵ nạn y như giúp dân nước mình, khi những người này cần đến sự giúp đỡ của chính phủ, mà không để họ phải chịu một sự hổ thẹn nào. Hơn nữa là dù trong tình trạng kinh tế nước nhà đang gặp khó khăn, nhưng khi nước bạn cầu xin giúp đỡ, chính phủ vẫn sẵn sàng giúp họ.
Ra đường, trông ai cũng bằng ai; khi phạm tội thì dù là ông lớn, hay dân thưòng nào cũng bị đền tội như nhau, không phân biệt.
Tôi ở xứ này đã lâu năm, nhưng chưa hề trông thấy người lính Hoa Kỳ nào, nên trên khắp lãnh thổ, thấy vắng bóng chiến tranh, mà chỉ thấy cảnh thanh bình vui tươi trên mặt đất. Cảnh thanh bình này còn lan xuống vạn vật. Chim chóc, cỏ cây không ai có quyền tự ý hủy hoại, nên chim tự do bay, đậu, không còn lo sợ loài người bủa lưới, bắn tên. Ngoài công viên, trong đồng nội, trăm hoa đua nở, khoe sắc thắm, nhưng con người chỉ đứng ngắm, chứ không ai dám, hoặc nỡ ngắt hoa, vì hủy hoại nó sẽ bị phạt, hoặc bị người khác bắt gặp sẽ khinh khi mình.
Đi ra đường, nhiều khi gặp người không quen biết, họ cũng chào mình. Mua bán đồ vật, nếu về không ưng thì có quyền trả lại. Thử hỏi, trong chúng ta, nếu ai có một chút kiến thức, thì dù vô tình đến đâu cũng nhận thấy xứ này có những đặc điểm hơn quê hương mình, và hơn nhiều nơi mình đã đi qua.
Ngày nay, các nước Bắc Âu (Na Uy, Thụy Điển, Phần lan) và các nước khác như Thụy Sĩ vv... đều có một đời sống rất cao và một nền an sinh xã hội rất chu đáo. Các nước này cũng như Hoa Kỳ đang tiến tới Thế Giới Đại Đồng vậy.
THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN
Đồng Nhân Tự Quái 同 人 序 卦
Vật bất khả dĩ chung Bĩ. 物 不 可 以 終 否
Cố thụ chi dĩ Đồng Nhân. 故 受 之 以 同 人
Quẻ Đồng Nhân cũng như quẻ Tỉ, quẻ Thái, bàn về sự đoàn kết, sự thân ái. Nhưng Thái và Tỉ bàn về đoàn kết để dựng nhà, lập nước, đem thái thịnh lại cho một quốc gia, còn Đồng Nhân lại bàn đến tình yêu nhân loại, đến sự đồng tâm, nhất trí, để đem thái hòa, đem tình thân hữu lại cho thiên hạ, đó là Đại Đồng. Muốn thực hiện Đại Đồng, nó đòi hỏi một sự chuẩn bị lâu dài, một trình độ văn minh tiến hóa vượt mức của nhân loại. Dịch kinh cho rằng muốn Đại Đồng cần phải chấp nhận các giá trị tinh thần, các tinh hoa vĩnh cửu của con người, tượng trưng bằng quẻ Kiền và chỉ thực hiện khi mà lòng con người đã trở nên quang minh chính đại. Thời kỳ Đại Đồng là thời kỳ hoàng kim của nhân loại, nhưng rất khó thực hiện. Nó mới ló dạng, khi con người bỡ ngỡ bước chân vào bình minh của cuộc đòi nhân loại, và có lẽ chỉ được thực hiện sau này, khi con người đã quá đắng cay, sầu khổ vì chia ly, chiến tranh, căm thù, trá ngụy. Vì thế quẻ Đồng Nhân xế sau quẻ Bĩ.
Con người chỉ khi nào gặp đại nạn, vì những hành động, những quan niệm, những lý thuyết ngu xuẩn của mình gây ra, nới có thể đoạn tuyệt với đường xưa lối cũ, với tệ đoan, tệ tục, tư dục, tư tình mà thực thi sự tương thân, tương ái. Muốn hiểu quẻ Đồng Nhân cho thấu đáo, ta hãy lần lượt nghiên cứu ít nhiều vấn đề tiên quyết.
1. Đại đồng là gì?
Là một chủ trương Triết học và Chính trị cho rằng con người có thể đại đoàn kết được vơi nhau, sống trong cảnh an bình thái thịnh, bốn bể một nhà.
2. Nhân loại có thể đi đến Đại đồng được không?
Thưa: Có thể. Theo Dịch lý, nếu ta chấp nhận sự biến thiên, thì sự biến thiên ấy phải có đầu, có đuôi, có căn nguyên, mục đích, thì dĩ nhiên lúc chung cuộc sẽ được hưởng thời kỳ hoàng kim. Đó là lẽ biến dịch tuần hoàn chung nhi phục thủy của Trời đất.
Nhiều môn phái Triết học, nhiều Học thuyết đã chủ trương thời Đại đồng hoàng kim mai hậu.
1) Các tiên tri Isaie và Jérémie. (Isaie: 65, 21, 25 - Jérémie: 31, 31-34).
2) Sách Khải Huyền. (Apocalypse 23, 3).
3) Môn phái triết học Alexandrins & Hégel (Le Christianism et les philosophes).
4) Karl Marx.
5) Kant.
6) Radakhrishnan.
7) Chiêm tinh hoa.
8) Max Scheler...
3) Làm thế nào để thực hiện Đại đồng?
Muốn thực hiện Đại Đồng, thời trên phương diện tinh thần, con người phải dẹp bỏ lòng ích kỷ, phải theo công lý, chính đạo, chính nghĩa. Còn theo phương diện chính trị và tổ chức thì: Nhân sinh, nhân vị, nhân quyền phải tuyệt đối được bảo đảm và tôn trọng.
Sau khi đã bàn qua về chủ nghĩa Đại Đồng, ta trở về nghiên cứu quẻ Đồng Nhân.
I. Thoán.
Thoán Từ.
同 人 . 同 人 于 野 . 亨 . 利 涉 大 川 . 利 君 子 貞 .
Đồng Nhân: Đồng Nhân vu dã. Hanh. Lợi thiệp đại xuyên. Lợi quân tử trinh.
Dịch.
Đồng Nhân hòa với mọi người,
Thênh thang lòng dạ, như ngoài đồng không.
Hay thay khoan quảng, hòa đồng,
Một lòng, thì dẫu lội sông, quản gì.
Đồng tâm, sẽ vượt gian nguy,
Theo đường quân tử, quy về chính trung.
Thoán Từ cho rằng: muốn hòa mình với người, cần phải mở lòng mình cho rộng rãi (Đồng Nhân vu dã).
Hòa đồng, hợp nhất với người sẽ đem lại hanh thông, thái thịnh, và lướt thắng được mọi trở lực, làm nên được những đại công, đại nghiệp (Hanh. Lợi thiệp đại xuyên). Quân tử sẽ lấy sự minh chính, chính nghĩa để làm mối giây liên lạc, thắt chặt tình thân ái giữa mọi người (Lợi quân tử trinh).
Thoán Truyện.
同 人 . 柔 得 位 得 中 . 而 應 乎 乾 . 曰 同 人 . 同 人 曰 . 同 人 于 野 . 亨 . 利 涉 大 川 . 乾 行 也 . 文 明 以 健 . 中 正 而 應 . 君 子 正 也 . 唯 君 子 為 能 通 天 下 之 志 .
Thoán viết. Đồng Nhân. Nhu đắc vị đắc trung nhi ứng hồ Kiền. Viết Đồng Nhân. Đồng Nhân viết, Đồng Nhân vu dã hanh. Lợi thiệp đại xuyên. Kiền hành dã. Văn minh dĩ kiện. Trung chính nhi ứng. Quân tử chính dã. Duy quân tử vi năng thông thiên hạ chi chí.
Dịch.
Thoán rằng: Mềm được ngôi trung,
Lại còn tương ứng, tương thông với Kiền,
Hòa đồng, khoan quảng, mới nên,
Đồng không man mác, nối liền gần xa,
Dầu rằng sông lớn cũng qua,
Sức trời hùng dũng, ai mà cản ngăn,
Cương cường, vẫn vẻ, vẫn văn,
Văn minh, tế nhị, êm đềm, mới nghe.
Thấy điều trung chính, ứng về,
Duy người quân tử, muôn bề thẳng ngay.
Nhân loại chỉ có thể tiến tới Đồng Nhân khi thực hiện được nhân cách, khi ứng hợp được với lương tâm, với Trời, với Đạo. Đã thân ái với nhau, đã coi nhau như anh em ruột thịt, bốn biển một nhà, lại biết đoàn kết, biết cố gắng, thì hỏi còn có điều gì khó khăn mà con người không thể thực hiện được (Đồng Nhân vu dã. Kiền Hành dã)...
Điều kiện nội tại để xây đắp hòa đồng mai hậu, là có một tâm hồn sáng láng, vô tư, vô tà, quyết lòng cư xử với nhau theo chính đạo, chính nghĩa (Văn minh dĩ kiện. Quân tử chính dã). Hòa đồng với nhau, dắt dìu nhau trên đường tiến bộ, làm cho mọi người thỏa lòng, thỏa nguyện, đó là một công việc mà chỉ có người quân tử mới thực hiện nổi (Duy quân tử ... thiên hạ chi chí). Thoán truyện làm ta nhớ lại hoài bão của Đức Khổng, ghi chép trong Thiên Lễ Vận: Đại đạo khi được thực thi, thời thiên hạ là của chung. Người hiền tài sẽ được tuyển lựa, cất nhắc lên lãnh đạo, thiên hạ sẽ được dạy dỗ cho biết tín nghĩa, hòa mục, vì thế nên người ta không cứ người nào thân mình mới thân, không cứ là con mình mới coi là con, người già sẽ có nơi an dưỡng, người trẻ sẽ được sử dụng. Trẻ thơ sẽ được dưỡng dục, những người tàn tật, côi cút, góa bụa, cô độc sẽ được nuôi nấng, trông nom... Trai có phận, gái có chồng, người ta không phí phạm, vung vãi của cải, không ngại gắng công, gắng sức, nhưng cũng không lao tác vì mình. Vì thế, người có cơ mưu cũng không dám thi thố, trộm cướp, giặc giã không có, cửa ngõ cũng chẳng cần khóa then. Thế là Đại Đồng (Lễ vận 9). Nhu thế Đại Đồng tức là Đại Đoàn kết, bốn bể một nhà.
II. Đại Tượng Truyện.
天 與 火 . 同 人 . 君 子 以 類 族 辨 物 .
Tượng viết. Thiên dữ hỏa. Đồng Nhân. Quân tử dĩ loại tộc biện vật.
Dịch. Tượng rằng:
Trời cùng với lửa Đồng Nhân,
Đã là quân tử, phải phân hay, hèn.
Người năm, bảy đấng dĩ nhiên,
Của muôn vạn loại, phải xem cho rành.
Tượng Truyện cho rằng trong cái đồng vẫn có cái dị, như trời với lửa, tuy cùng là thanh khí, nhưng vẫn khác biệt nhau, vì thế người quân tử phải biết biện phân những nét đặc thù, dị biệt để mà phân loại người và vật.
Tìm được những lý do, khiến cho người và vật trở nên dị biệt, ta sẽ làm cho ta cảm thông được người, hiểu thấu được vật. Chẳng hạn, nếu ta phân biệt được rằng Đạo có nhiều hình thức, có nhiều thứ bậc:
a) Huyền đồng, hoàn thiện.
b) Nghệ thuật, duyên dáng, thơ mộng.
c) Luân lý, tu trì,
d) Giáo lý, suy luận
e) Hình thức, lễ nghi.
ta nhận thức ngay được mức độ cao thấp của người hành đạo. Hoặc là ta phân biệt Đạo giáo làm hai loại:
1) Tu thân = Nội giáo (chú trọng đếm sự tu luyện tâm thần)
2) Thờ phụng = Ngoại giáo (chú trọng đến sự van vái, thờ phụng và cầu phúc)
Lại nữa, nếu ta phân chiến tranh làm nhiều loại: Chiến tranh vì:
1) Tôn giáo
2) Chủ nghĩa
3) Chủng tộc
4) quốc gia
5) Giai cấp
6) Xâm lược
7) Phòng ngự
8) Phục thù
ta sẽ thấy không phải chỉ có nguyên do vật chất, kinh tế chi phối sự diễn biến của lịch sử.
Phân biệt con người có: Thần, Hồn, Xác, ta sẽ phân loại được văn hóa có ba chiều hướng chính:
- Văn hóa thiên bản (vụ thần)
- Văn hóa nhân văn (vụ nhân)
- Văn hóa vật bản (vụ vật chất)
và nhờ đó có cái nhìn trong sáng về sự vật...
Biết cái dị, tức là biết cái biến, gây nên bởi hoàn cảnh, lịch sử, huyết thống, giáo dục, sẽ giúp ta đi đến cái đồng, cái bất biến, nơi giao hội của mọi cái dị biệt. Những cái biến thiên dị biệt, không thể lấy làm căn bản cho sự hòa đồng nhân loại được.
Hòa đồng nhân loại, chỉ có thể xẩy ra trên một nền tảng duy nhất bất biến, ấy là bản tính con người, lương tâm, lương tri con người, trên những định luật tự nhiên của Trời đất.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 同 人 于 門 . 無 咎 .
象 曰 . 出 門 同 人 . 又 誰 咎也。
Sơ Cửu. Đồng Nhân vu môn. Vô cữu.
Tượng viết.
Xuất môn Đồng Nhân. Hựu thùy cữu dã.
Dịch.
(Quang minh chính đại rạng ngời).
Cùng người hòa hợp cửa ngoài mới hay,
Tượng rằng:
Bước ra cửa, hợp với người.
Mình, người một dạ, ai cười, ai chê.
Khi đã đặt ra những tôn chỉ để đi đến Đại đồng rồi. Hào Sơ cho rằng muốn Đại đồng phải ra khỏi cửa nhà, tức là phải thoát ra khỏi những quyền lợi, những tư tình của cá nhân, của gia đình.
2. Hào Lục nhị.
六 二 . 同 人 于 宗 . 吝 .
象 曰 . 同 人 于 宗 . 吝 道 也 .
Lục nhị. Đồng Nhân vu tông. Lận.
Tượng viết.
Đồng Nhân vu tông. Lận đạo dã.
Dịch.
Hòa đồng vì họ, vì phe.
Hòa đồng như thế, đáng chê, đáng cười,
Tượng rằng:
Hòa đồng vì họ, vì phe.
Thế là đường lối đáng chê, đáng cười.
Hòa đồng với người không phải là với người thân mình, bạn bè mình, họ mình, đảng mình, nước mình, mà phải mở tầm kích tâm hồn mình cho tới muôn nước, muốn phương.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 伏 戎 于 莽 . 升 其 高 陵 . 三 歲 不 興 .
象 曰 . 伏 戎 于 莽 . 敵 剛 也 . 三 歲 不 興 . 安 行 也 .
Cửu tam. Phục nhung vu mãng. Thăng kỳ cao lăng. Tam tuế bất hưng.
Tượng viết:
Phục nhung vu mãng. Địch cương dã. tam tuế bất hưng, An hành dã.
Dịch.
Cửu tam: rừng rậm phục quân.
Gò cao ngấp nghé, ba năm chẳng vùng.
Tượng rằng: Rừng rậm phục quân,
Muốn cùng (Cửu ngũ) qua phân tranh hùng.
Ba năm chẳng dám vẫy vùng.
Vì rằng chẳng thể tấn công được nào.
Hào ba cho rằng: không nên lấy vũ lực để bắt người hòa đồng với mình. Cho nên phải tổ chức quốc tế hùng mạnh thế nào, để cho mỗi mọi nước dẫu có muốn hưng binh làm loạn cũng không đủ sức.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 乘 其 墉 . 弗 克 攻 . 吉 .
象 曰 . 乘 其 墉 . 義 弗 克 也 . 其 吉 . 則 困 而 反 則 也 .
Cửu tứ. Thừa kỳ dung. Phất khắc công. Cát.
Tượng viết:
Thừa kỳ dung. Nghĩa phất khắc dã. Kỳ cát. Tắc khốn nhi phản tắc dã.
Dịch.
Trèo tường mà chẳng tấn công,
Biết không nên đánh, mới mong tốt lành.
Tượng rằng:
Trèo tường không đánh, mới hay,
Biết điều phi nghì, nên đây chẳng làm.
Hay vì trong lúc khốn nàn,
Biết đàng hồi hướng, biết đàng trở trăn.
Hào tư cho rằng dẫu mình có uy thế, cũng đừng nên vì thế mà bắt người phụ họa theo mình. Nếu thấy không có chính nghĩa, chính đạo, thì chớ nên múa may, gây rối làm gì. Nếu dở dói lắm, chỉ tổ đâm vào họa hoạn, rồi ra sẽ sáng mắt, mà trở lại với chính nghĩa.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 同人,先 號 啕 而 後 笑 . 大 師 克 相 遇 .
象 曰 . 同 人 之 先 . 以 中 直 也 . 大 師 相 遇 . 言 相 克 也 .
Cửu ngũ. Đồng Nhân tiên hào đào nhu hậu tiếu. Đại sư khắc tương ngộ.
Tượng viết.
Đồng Nhân chi tiên. Dĩ trung trực dã. Đại sư tương ngộ.
Ngôn tương khắc dã.
Dịch.
Đồng Nhân, trước khóc, sau cười,
Vi rằng trung trực, nên rồi ra hay.
Cử binh đánh bọn bài bây,
Sau cùng sẽ gặp được người đồng tâm.
Hào năm cho rằng con người sinh ra cốt để hòa đồng với nhau, nhưng trong thực tế, muốn đi tới cuộc vui đoàn tụ, con người phải trải qua nhiều đoạn khóc vì chia ly.
Người đứng chủ chốt cuộc hòa đồng, cần phải có chính nghĩa, chính đạo, nhưng cũng cần phải có võ lực, nếu không có binh bị trong tay, vạn quốc sẽ không sợ.
Có nhà đạo đức bình giải chữ Đại su+ trong Hào Cửu ngũ này là bằng sức mạnh tinh thần, bằng sức mạnh đạo đức, và cho rằng con người Đại đồng phải hết sức sáng suốt, hết sức bền chí, dẻo dai, nói thành công trong những việc lớn lao, cao cả. Đó là lối giải thích của những bậc cao minh, nhìn đời bằng cặp mắt lý tưởng.
6. Hào Thượng cửu.
上 九 . 同 人 于 郊 . 無 悔 .
象 曰 . 同 人 于 郊 . 志 未 得 也 .
Thượng Cửu. Đồng Nhân vu giao. Vô hối.
Tượng viết:
Đồng Nhân vu giao. Chí vị đắc dã.
Dịch.
Đồng Nhân mới tới đến giao
Đồng Nhân (chưa khắp), phải nào lỗi ta.
Tượng rằng:
Đồng Nhân mới tới đến giao,
Bình sinh chí nguyện, đã nào thỏa thuê.
ÁP DỤNG QUẺ ĐỒNG NHÂN VÀO THỜI ĐẠI
Ngày nay, ta tự hỏi: Muốn xây dựng Đại đồng, lấy gì làm nền tảng? Mầu da, sắc áo, học thuyết, hay các giá trị ngoại tại như các điều kiện kinh tế hay sự chuyển dịch giao thông? Và đây là ít nhiều đường lối đưa đến Đại đồng, của ít nhiều đạo giáo và triết học, triết gia.
1) Phật giáo, Ấn giáo cho rằng phải từ bi, hỉ xả, tuyệt đối không hại người, không dùng võ lực, không sát sinh. Đó cũng là chủ trương Kiêm Ái của Mặc Tử, bất bạo động của Gandhi, chủ trương phản chiến, phản binh của các giáo phái Quakers, Mennomites, của Tolstoi... (Le Pacifisme héroique).
2) Công giáo cho rằng muốn có Đại đồng, nhân loại cần phải thấm nhuần tôn chỉ Phúc Âm, cần có một tôn giáo duy nhất (Le Pacifisme Chrétien).
3) Nhiều nhà Kinh tế học thuộc học phái Manchester, và nhiều triết gia Anh như Bentham, Stuart Mill, herbert Spencer cho rằng: nhân loại cần phải được tự do giao dịch, doanh thương mới có thể đi đến Đại đồng (Le Pacifisme du Libéralisme Économique).
4) Nhiều triết gia Tây phương cho rằng cần phải minh định tôn trọng nhân quyền, công pháp, công quyền, quốc tế công quyền, và cần phải có những tổ chức quốc tế có nhiệm vụ thực thi công quyền và bảo vệ công pháp (Le pacifisme Juridique ou pacifisme de droit). Đó là chủ trương của: Hugo Frotius, Suarez Victoria, Pufendorf, Emmanuel Kant, và những cố gắng của Tòa án Hòa Giải La Haye, Hội Quốc Liên (Société des Nations, 1920-1946), Liên Hiệp Quốc (O.N.U. 1946), Hội Đồng bảo an ở Liên Hiệp Quốc hiện nay v.v...
5) Cộng Sản chủ trương con người chỉ tiến tới Đại đồng được bằng xã hội chủ nghĩa, khi mà trong thiên hạ không còn ai bóc lột ai (Le Pacifisme Maxiste Socialiste et Communiste).
6) Jean Jacques Rousseau cho rằng phải dùng võ lực mới đem lại Đại Đồng được.
7) Chủ trương rằng muốn được Đại Đồng, phải đặt muôn nước dưới quyền cai trị của một nước. Đó là chủ trương của Alexandre, của đế quốc la Mã (Pax Romana), của Napoléon, vv... (Le Pacifisme d'Hégémonie Impérialiste).
8) Chủ trương dùng văn hóa đi tới Đại Đồng, cho rằng những học giả, vác học, thức gỉả trong nhân quần phải liên kết với nhau (Le Pacifisme Culturel).
9) Nho gia cho rằng muốn đi tới Đại Đồng, thì điều kiện tiên quyết là mọi người phải cải thiện tâm hồn mình trước đã.
Nhưng theo nhận định chúng tôi, thì dân tộc Hoa Kỳ hiện nay đang trên đà tiến tới Đại Đồng. thực vậy dân tộc này là gồm người của mọi chủng tộc khác nhau hợp lại, họ không cùng màu da, sắc áo, nhưng nay họ đã liên hợp với nhau thành một nước giàu có, hùng mạnh, đứng hàng bá chủ trên thế giới. Họ đã mở vòng tay thân ái, mà đón nhận hàng triệu người từ tứ phương kéo đến, đã săn sóc, nuôi nấng, giúp đỡ họ. Chính phủ đã giúp những người dân tỵ nạn y như giúp dân nước mình, khi những người này cần đến sự giúp đỡ của chính phủ, mà không để họ phải chịu một sự hổ thẹn nào. Hơn nữa là dù trong tình trạng kinh tế nước nhà đang gặp khó khăn, nhưng khi nước bạn cầu xin giúp đỡ, chính phủ vẫn sẵn sàng giúp họ.
Ra đường, trông ai cũng bằng ai; khi phạm tội thì dù là ông lớn, hay dân thưòng nào cũng bị đền tội như nhau, không phân biệt.
Tôi ở xứ này đã lâu năm, nhưng chưa hề trông thấy người lính Hoa Kỳ nào, nên trên khắp lãnh thổ, thấy vắng bóng chiến tranh, mà chỉ thấy cảnh thanh bình vui tươi trên mặt đất. Cảnh thanh bình này còn lan xuống vạn vật. Chim chóc, cỏ cây không ai có quyền tự ý hủy hoại, nên chim tự do bay, đậu, không còn lo sợ loài người bủa lưới, bắn tên. Ngoài công viên, trong đồng nội, trăm hoa đua nở, khoe sắc thắm, nhưng con người chỉ đứng ngắm, chứ không ai dám, hoặc nỡ ngắt hoa, vì hủy hoại nó sẽ bị phạt, hoặc bị người khác bắt gặp sẽ khinh khi mình.
Đi ra đường, nhiều khi gặp người không quen biết, họ cũng chào mình. Mua bán đồ vật, nếu về không ưng thì có quyền trả lại. Thử hỏi, trong chúng ta, nếu ai có một chút kiến thức, thì dù vô tình đến đâu cũng nhận thấy xứ này có những đặc điểm hơn quê hương mình, và hơn nhiều nơi mình đã đi qua.
Ngày nay, các nước Bắc Âu (Na Uy, Thụy Điển, Phần lan) và các nước khác như Thụy Sĩ vv... đều có một đời sống rất cao và một nền an sinh xã hội rất chu đáo. Các nước này cũng như Hoa Kỳ đang tiến tới Thế Giới Đại Đồng vậy.
- anhlinhmotminh
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2215
- Tham gia: 15:43, 09/09/12
- Liên hệ: